Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Một số biện pháp nhằm hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm tại nhà máy sản xuất ống gang cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.79 KB, 103 trang )

lời nói đầu
Trong điều kiện hiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng CNXH. Bối cảnh nền
kinh tế thị trường với các quy luật kinh tế khách quan tác động đặc
biệt là quy luật cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp tự bản thân phải
vươn lên giành chỗ đứng trên thị trường. Để làm được điều này các
doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả kinh tế, đảm bảo lấy thu để
bù đắp chi và mang lại một khoản lợi nhuận đáng kể.
Để đạt được mục tiêu hoạt động có hiệu quả kinh tế, mục tiêu có
lợi nhuận thì một trong những biện pháp tối ưu là các doanh nghiệp
phải biết hạ thấp chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm để đẩy
mạnh tiêu thụ và tăng sức cạnh tranh trên thị trường, tăng hiệu quả
kinh tế, từ đó mới đẩy mạnh doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận mới tăng
một cách đáng kể.
Nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của việc hạ thấp chi phí kinh
doanh và giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp nên trong thời
gian thực tập tại Công ty Mai Động- Nhà máy sản xuất ống gang cầu,
em đã mạnh dạn đi nghiên cứu về chi phí kinh doanh và giá thành sản
phẩm để hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Một số biện pháp
nhằm hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm tại
Công ty Mai Động- Nhà máy sản xuất ống gang cầu”
Bố cục bài luận văn ngoài lời nói đầu và kết luận gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về chi phí kinh doanh, giá thành sản phẩm
và một số biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
sản xuất.


Phần II: Thực trạng công tác quản lý chi phí kinh doanh và giá
thành sản phẩm tại công ty Mai Động- nhà máy sản xuất ống gang
cầu.
Phần III: Một số biện pháp nhằm hạ thấp chi phí kinh doanh và


giá thành sản phẩm tại công ty Mai Động- nhà máy sản xuất ống gang
cầu
Với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình đưa ra một số
biện pháp hữu hiệu nhằm hạ thấp chi phí kinh doanh và giá thành sản
phẩm cho Công ty Mai Động- Nhà máy sản xuất ống gang cầu. Qua
đó trau dồi nhiều hơn những kiến thức bổ ích cho bản thân và hoàn
thành luận văn tốt nghiệp tốt nhất.
Luận văn này của em được hoàn thành với sự hướng dẫn và giúp
đỡ tận của cô giáo Nguyễn Thị Minh Hạnh cùng các cán bộ nhân viên
phòng kế toán tài chính và ban lãnh đạo Công ty Mai Động, Nhà máy
sản xuất ống gang cầu. Em xin chân thành cảm ơn!


PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÂT SẢN XUẤT KINH
DOANH, GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP
NHẰM HẠ THẤP CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC

DOANH NGHIỆP SẢN

XUẤT.
A. Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp sản xuất.
I. khái niệm, nội dung, phạm vi chi phí sản xuất kinh doanh.
1. Khái niệm chi phí sản xuất kinh doanh.
Một trong những mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối
đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Bởi vậy, doanh nghiệp phải
bỏ ra những khoản chi phí nhất định trong quá trình thực hiện hoạt



động kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, hoạt động của
họ là tổ chức sản xuất sản phẩm hàng hoá và tiêu thụ những hàng hoá
đó trên thị trường nhằm thu được lợi nhuận.
Để sản xuất được sản phẩm, doanh nghiệp phải huy động, sử dụng
các nguồn tài lực, vật lực (lao động, vật tư, tiền vốn...) để thực hiện
việc sản xuất, chế tạo sản phẩm. Trong quá trình sản xuất đó doanh
nghiệp phải tiêu hao vật tư như nguyên vật liệu, nhiên liệu, hao mòn
tài sản cố định, thiết bị, công cụ dụng cụ và tiền lương trả cho người
lao động, và các chi phí này đều được biểu hiện bằng tiền. Như vậy:
Chi phí sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí về vật chất và lao động mà doanh nghiệp phải bỏ
ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định.
Sau khi sản xuất được hàng hoá, việc tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường là hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự tồn tại của
doanh nghiệp. Khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng
quyết định đến quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để
thực hiện tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những chi
phí nhất định gọi là chi phí lưu thông sản phẩm. Chi phí lưu thông sản
phẩm bao gồm chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm; chi phí hỗ trợ
Marketing và phát triển bao gồm: chi phí điều tra nghiên cứu thị
trường, chi phí quảng cáo giới thiệu sản phẩm, chi phí bảo hành sản
phẩm; chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm bao gồm: chi phí chọn lọc,
chia nhỏ, bao gói, chi phí bao bì vận chuyển, bảo quản, chi phí thuê
kho, bến bãi...; Tỷ trọng các chi phí này có xu hướng tăng lên trong
điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển.


Bên cạnh các chi phí sản xuất sản xuất sản phẩm và tiêu thụ sản
phẩm các doanh nghiệp muốn kinh doanh đạt hiệu quả cao thì phải kết
hợp nhịp nhàng mọi hoạt động trong doanh nghiệp. Đây chính là công

tác quản lý doanh nghiệp, công tác này đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ
ra các khoản chi phí gọi là chi phí quản lý doanh nghiệp. Đó là các chi
phí phục vụ bộ phận quản lý như tiền lương của ban giám đốc, chi phí
về hành chính, đồ dùng văn phòng...các chi phí có tính chất chung cho
toàn doanh nghiệp mà không thể bóc tách riêng cho từng bộ phận như
các khoản thuế, chi phí trả lãi vay, lãi thuê tài sản...
Trong nền kinh tế thị trường, tất cả các chi phí nêu trên được biểu
hiện bằng tiền và nguyên tắc hoạt động đầu tiên của các doanh nghiệp
là phải đảm bảo bù đắp các chi phí đã chi ra bằng doanh thu trong kỳ.
Do vậy, có thể hiểu “ Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp là sự biểu
hiện bằng tiền của những hao phí về vật chất, sức lao động và các chi
phí bằng tiền khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định và được bù
đắp bằng doanh thu trong một thời kỳ nhất định.
Tuy nhiên, một thời kỳ nhất định có nhiều loại chi phí phát sinh
không phục vụ kinh doanh trong kỳ hoặc không được bù đắp bằng
doanh thu trong kỳ, nên chúng ta cần đi nghiên cứu giữa khái niệm chi
phí và chi tiêu.
*Phân biệt chi phí và chi tiêu:
Chi phí kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về
lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh trong một kỳ kinh doanh và


được bù đắp bằng doanh thu trong kỳ của doanh nghiệp. Vậy chỉ được
tính là chi phí kinh doanh những hao phí về tài sản và lao động có liên
quan đến hoạt động kinh doanh trong kỳ chứ không phải là mọi khoản
đã chi ra trong kỳ.
Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần của các loại vật tư, tài sản, tiền
vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích gì.

Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng chúng có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí,
không có chi tiêu thì không có chi phí. Phân biệt chi phí và chi tiêu để
làm rõ chi phí kinh doanh và thấy được ý nghĩa của việc tính đúng,
tính đủ chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm, từ đó việc tính giá
thành mới có tác dụng trong công tác quản lý, kiểm tra và giám sát
quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Nội dung của chi phí sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp phải bỏ ra rất nhiều
khoản chi phí khác nhau. Đối với chi phí sản xuất kinh doanh ( tính
cho một kỳ hoặc một năm nhất định) nó bao gồm các khoản chi ra để
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ
kinh doanh đó, bao gồm các yếu tố chi phí sau:
Chi phí nguyên liệu, vật liệu: gồm toàn bộ các chi phí chi ra cho
nguyên liệu chính, vật liệu phụ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Nguyên vật liệu chính: là đối tượng lao động chủ yếu cấu thành
nên thực thể chính của sản phẩm.


Vật liệu phụ: là đối tượng lao động chỉ có tác dụng phụ, bổ trợ cho
vật liệu chính.
Chi phí nhiên liệu, động lực: là giá trị toàn bộ nhiên liệu, động lực
doanh nghiệp đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương: Chi
phí tiền lương của doanh nghiệp bao gồm các khoản tiền lương, tiền
công và các khoản phụ cấp có tính chất lương phải trả cho người lao
động tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo quy
định, chế độ hiện hành.
Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ: Chi phí này được tính trên cơ sở

quỹ tiền lương của doanh nghiệp theo các chế độ hiện hành của Nhà
nước: BHXH 15%, BHYT 2%, KPCĐ 2% được tính vào chi phí sản
xuất kinh doanh trong kỳ.
Chi phí khấu hao TSCĐ: Đó là số trích khấu hao của toàn bộ
TSCĐ của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh và được tính vào chi phí
sản xuất kinh doanh trong kỳ đó.Số khấu hao TSCĐ được tính trích
theo các phương pháp tính khấu hao mà Nhà nước đã ban hành.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là các khoản chi phí trả cho các tổ
chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ được thực hiện theo
yêu cầu của doanh nghiệp như vận chuyển, điện nước, điện thoại, sửa
chữa TSCĐ, tư vấn, kiểm toán, quảng cáo, bảo hiểm tài sản, đại lý,
môi giới, uỷ thác xuất nhập khẩu và các dịch vụ khác.
Chi phí bằng tiền khác: bao gồm thuế môn bài; thuế sử dụng đất;
thuế tài nguyên; thuế nhà đất; chi tiếp khách, khánh thành, hội nghị;
giao dịch đối ngoại; chi bảo hộ lao động; chi lãi tiền vay vốn kinh


doanh; khoản trích nộp hình thành quỹ quản lý của cấp trên và các chi
phí bằng tiền khác.
3. Phạm vi chi phí sản xuất kinh doanh.
Chi phí sản xuất kinh doanh là bộ phận chi phí có vị trí quan
trọng trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nó có ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi nhuận, đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Mà mục đích cuối cùng của doanh nghiệp mong muốn đạt được là tối
đa hoá lợi nhuận. Vì vậy xác định đúng đắn phạm vi của chi phí sản
xuất kinh doanh có ý nghĩa lớn đối với công tác quản lý chi phí kinh
doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế và đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Phạm vi chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xác
định như sau:
3.1. Chỉ được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh những khoản

chi phí phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt động
sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất đinh và phải được bù đắp
bằng doanh thu tiêu thụ hàng hoá trong kỳ. Các chi phí này bao
gồm:
Chi phí nguyên liệu, vật liệu
Chi phí nhiên liệu, động lực
Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương
Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ
Chi phí khấu hao TSCĐ:
Chi phí dịch vụ mua ngoài.
Chi phí bằng tiền khác:
Các khoản chi khác được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh:


Trích lập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho: Là khoản
giảm giá vật tư hàng hoá tồn kho dự kiến xảy ra trong kỳ kinh doanh
tiếp theo.
Dự phòng phải thu khó đòi: Là những khoản nợ quá hạn 2 năm
trở lên kể từ ngày đến hạn thu nợ đối với các con nợ không có khả
năng thanh toán.
Trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định của luật hiện
hành.
Chi phí nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đổi mới công nghệ, chi
sáng kiến cải tiến, chi đào tạo lao động, nâng cao tay nghề, năng lực
quản lý, hỗ trợ giáo dục…
3.2. Việc xác định chi phí sản xuất kinh doanh phải phù hợp với chế
độ quy định.
Việc xác định chi phí sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
phải phù hợp với chế độ, quy định của Nhà nước. Cụ thể là việc xác
định chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải theo các

văn bản quy định về chi phí sản xuất kinh doanh của Nhà nước như
thông tư số 63/199/TT- BTC ngày 07/06/1999 ban hành hướng dẫn
việc quản lý doanh thu, chi phí và giá thành sản phẩm, dịch vụ tại các
doanh nghiệp Nhà nước.
3.3. Những khoản chi được bù đắp từ nguồn vốn khác mà không
được bù đắp bằng doanh thu trong kỳ không được tính vào chi phí
sản xuất kinh doanh. Các chi phí này bao gồm:
Chi phí đầu tư dài hạn: Liên quan đến khoản chi phí này gồm có
chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm TSCĐ, chi đào tạo dài hạn


các cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiên cứu khoa học. Nhóm chi phí này
được bù đắp bằng chi phí đầu tư dài hạn của doanh nghiệp nên không
thuộc chi phí kinh doanh.
Các khoản chi phí phúc lợi, xã hội: Đó là các chi phí về văn hoá,
thể thao, y tế, vệ sinh, tiền thưởng, trợ cấp khó khăn, ủng hộ, nhân
đạo… lấy từ nguồn vốn chuyên dùng cũng không thuộc chi phí kinh
doanh.
Các khoản tiền vi phạm pháp luật như: vi phạm luật giao thông,
thuế, môi trường, lao động, chế độ báo cáo thống kê, tài chính kế toán
và các luật khác.
Chi phí đi công tác vượt mức quy định.
*.ý nghĩa của việc xác định đúng đắn phạm vi chi phí kinh doanh.
Chi phí kinh doanh là bộ phận chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng chi phí của một kỳ hạch toán trong doanh nghiệp sản xuất, phục
vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ đó.
Vì vậy, xác định đúng đắn phạm vi chi phí kinh doanh có ý nghĩa
kinh tế to lớn đối với công tác quản lý chi phí kinh doanh và nâng cao
hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp biểu hiện như sau:
Làm cơ sở để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ và chi phí kinh

doanh trong kỳ đó, để giúp doanh nghiệp xác định chính xác lợi nhuận
và hiệu quả kinh tế của mình.
Làm cơ sở để định giá bán cạnh tranh của doanh nghiệp để mở
rộng doanh thu, tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường.
Làm căn cứ để các doanh nghiệp lập kế hoạch kiểm tra, phân
tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi phí kinh doanh, phấn


đấu giảm chi phí kinh doanh trên cơ sở thực hiện tốt nhất kế hoạch
doanh thu kinh doanh cho kế hoạch lợi nhuận của doanh nghiệp trong
kỳ đó.
Xác định đúng đắn phạm vi chi phí kinh doanh sẽ giúp cơ quan
thuế kiểm soát được quá trình chi phí của doanh nghiệp, xác định đúng
đắn thu nhập chịu thuế để tính thuế thu nhập chính xác tránh thất thu
thuế cho nhà nước.
II. Phân loại chi phí kinh doanh.
1.Vai trò, tác dụng của việc phân loại
Trong quá trình hoạt động sản xuất, các doanh nghiệp luôn luôn
quan tâm đến các thông tin về chi phí vì chi phí có ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi nhuận.Để đáp ứng nhu cầu quản lý chi phí, xác định đúng đắn
phương hướng phấn đấu tiết kiệm chi phí kinh doanh nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguòn vật tư tiền vốn và lao động Doanh nghiệp cần
phải nghiên cứu kết cấu chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Để quản lý được chi phí, các doanh nghiệp cần phải làm rõ các
cách phân loại chi phí khác nhau, vì mỗi cách phân loại chi phí đều
cung cấp những thông tin dưới nhiều góc độ để các nhà quản trị ra
quyết định phù hợp nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh và hạ giá thành
sản phẩm.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm tính chất ngành nghề kinh doanh và các
mục tiêu quản lý chi phí mà có thể phân loại chi phí kinh doanh theo

các tiêu thức khác nhau.
Đối với doanh nghiệp sản xuất có thể phân loại chi phí kinh doanh
theo các tiêu thức khác nhau.


2 Các tiêu thức phân loại chi phí kinh doanh:
2.1 Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất của chi phí.
Theo tiêu thức phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành
các loại như sau:
Chi phí vật tư: bao gồm toàn bộ chi phí về các đối tượng lao
động như nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ , phụ tùng thay thế.
Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ tiền lương, phụ cấp và các
khoẩn trích trên tiền lương theo qui định của toàn bộ công nhân viên
trong doanh nghiệp.
Chi phí khấu hao TSCĐ: số trích khấu hao trong kỳ của toàn bộ
TSCĐ trong doanh nghiệp.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: gồm các khoản chi trả về dịch vụ mua
ngoài , thuế ngoài phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp như điện
nước, vận chuyển, sửa chữa TSCĐ ...
Chi phí bằng tiền khác: là toàn bộ chi phí bằng tiền chi cho hoạt
động của doanh nghiệp ngoài các khoản chi phí kể trên.
Tác dụng của phương pháp phân loại này: Phân loại chi phí theo
các yếu tố chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra và cũng là căn cứ để lập
thuyết minh báo cáo tài chính, cung cấp thông tin cho quản trị doanh
nghiệp và phân tích tình hình dự toán chi phí .Là cơ sở để phân tích ,
đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất làm cơ sở cho
việc dự trù hay xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư tiền vốn, huy động
sử dụng lao động...
2.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo các khâu của quá
trính sản xuất.



Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành
các loại như sau:
Chi phí sản xuất sản phẩm: Là toàn bộ chi phí để sản xuất ra sản
phẩm hàng hoá. Chi phí này bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
Chi phí bán hàng: Là toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ liên quan
đến quá trình tiêu thụ sản phẩm bao gồm: tiền lương và các khoản
trích theo lương cho bộ phận bán hàng, khấu hao TSCĐ, công cụ đồ
dùng phục vụ bộ phận bán hàng…
Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm toàn bộ chi phí phát sinh
phục vụ quản lý và các chi phí có tính chất chung cho toàn doanh
nghiệp.
2.3. Phân loại chi phí sản xuất theo tính chất biến đổi của chi phí
với mức độ hoạt động.
Theo cách phân loại này chi phí được phân thành biến phí , định phí
và chi phí hỗn hợp.
Biến phí ( chi phí biến đổi ): Là những khoản mục chi phí có quan
hệ tỷ lệ thuận với biến động về mức độ hoạt động. Biến phí tính cho
một đơn vị thì ổn định, không thay đổi, biến phí khi không có hoạt
động bằng không. Biến phí có hai đặc điểm:Tổng các biến phí thay đổi
khi sản lượng thay đổi. Biến phí đơn vị giữ nguyên không thay đổi khi
sản lượng thay đổi. Chi phí là biến phí sẽ biến đổi theo căn cứ được
xem là nguyên nhân phát sinh ra chi phí đó- thường được gọi là hoạt
động căn cứ. Các hoạt động căn cứ thường được dùng gồm: sản lượng
sản xuất, số giờ máy hoạt động, số giờ lao động trực tiếp, số km vận


chuyển, mức tiêu thụ sản phẩm....Xét về tính chất tác động, biến phí

được chia là hai loại: biến phí tỷ lệ và biến phí cấp bậc.
Biến phí tỷ lệ: Là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận trực
tiếp với biến động của mức độ hoạt động căn cứ, như chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp....
Biến phí cấp bậc: Là những khoản chi phí thay đổi khi mức độ
hoạt động thay đổi nhiều và rõ ràng. Biến phí loại này không thay đổi
khi mức độ hoạt động căn cứ thay đổi ít. Nói cách khác, biến phí loại
này có quan hệ tỷ lệ nhưng không tuyến tính với mức độ hoạt động
thay đổi cho phép chi phí thay đổi để tương ứng với mức độ hoạt động
mới. Biến phí cấp bậc gồm những khoản chi phí như chi phí lao động
gián tiếp, chi phí bảo trì..
Trong công tác quản lý chi phí kinh doanh, các nhà quản trị cần
phải phân biệt rõ chi phí biến đổi tỷ lệ và chi phí biến đổi cấp bậc để
tránh khuynh hướng huy động quá nhiều so với nhu cầu, sẽ gây khó
khăn khi nhu cầu bị giảm sau đó.
Định phí (chi phí cố định ): Định phí là những khoản chi phí
không biến đổi khi mức độ hoạt động thay đổi. Định phí chỉ giữ
nguyên trong phạm vi phù hợp của doanh nghiệp. Phạm vi phù hợp là
phạm vi giữa khối lượng sản phẩm tối thiểu và khối lượng sản phẩm
tối đa mà doanh nghiệp dự định sản xuất. Định phí có hai đặc điểm:
Tổng định phí giữ nguyên khi sản lượng thay đổi trong phạm vi phù
hợp và định phí trên một đơn vị sản phẩm thay đổi khi sản lượng thay
đổi. Một số yếu tố của chi phí sản phẩm được xếp vào loại định phí
như: chi phí thuê nhã xưởng, chi phí khấu hao nhà xưởng, chi phí khấu


hao máy móc thiết bị, lương nhân viên phân xưởng, thuế bất động sản
của phân xưởng, chi phí bảo hiểm chống trộm và chống cháy của phân
xưởng. Định phí được chia thành các loại sau:
Định phí tuyệt đối: Là các chi phí mà tổng số không thay đổi khi

có sự thay đổi của khối lượng hoạt động được thực hiện.
Định phí tương đối: Trường hợp trữ lượng của các yếu tố sản
xuất tiền tàng đã khai thác hết, muốn tăng được khối lượng hoạt động
cần phải bổ xung, đầu tư các khả năng sản xuất tiềm tàng mới, trường
hợp này sẽ xuất hiện định phí tương đối.
Định phí bắt buộc: Là định phí không thể thay đổi một cách
nhanh chóng vì chúng thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc tổ chức
cơ bản của một doanh nghiệp. Định phí bắt buộc có hai đặc điềm: có
bản chất sử dụng lâu dài; không thể giảm bớt đến số 0 trong thời gian
ngắn.
Định phí tuỳ ý: Là định phí có thể thay đổi một cách nhanh
chóng bằng các quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp. Các chi phí
này có thể được cắt giảm trong những trường hợp đặc biệt cần thiết.
Chi phí hỗn hợp: Là loại chi phí mà bản thân của nó bao gồm các
yếu tố của định phí và biến phí như chi phí điện thoại, điện, chi phí
sửa chữa bảo trì...
Nói tóm lại, khi mức độ hoạt động thay đổi sẽ làm cho tổng chi
phí thay đổi. Tuy nhiên, sự tác động của các mức độ hoạt động đến
các bộ phận chi phí không giống nhau.Do đó, ta có đồ thị biểu diễn
mối quan hệ giữa chi phí với mức độ hoạt động như sau:
Đồ thị:


Chi phí

Tổng chi
phí
Biến phí
Định phí
Mức độ hoạt động


Tác dụng của phương pháp phân loại này:Việc phân loại định
phí , biến phí và chi phí hỗn hợp có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết
kế, xây dựng mô hình chi phí trong mối quan hệ giữa chi phí, khối
lượng và lợi nhuận, xác định điểm hoà vốn và các quyết định quan
trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, việc phân biệt
định phí và biến phí còn giúp nhà quản trị xác định đúng đắn phương
hướng hoạt động để nâng cao hiệu quả của chi phí.
Đối với biến phí: phương hướng chính là tiết kiệm tổng chi phí và
chi phí cho một đơn vị khối lượng hoạt động.
Đối với định phí: Cần phải nâng cao hiệu lực của chi phí trong sản
xuất kinh doanh.
III. Một số chỉ tiêu cơ bản về chi phí sản xuất kinh doanh.
Để quản lý tốt chi phí kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải lên
kế hoạch sử dụng chi phí kinh doanh. Lập kế hoạch chi phí kinh doanh
thực chất là việc tiền tệ hoá các chỉ tiêu chi phí kinh doanh trong kỳ
kế hoạch, xác định các mục tiêu phấn đấu của đơn vị, thực hiện tiết
kiệm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm tăng sức cạnh tranh
trên thị trường, tăng doanh thu, lợi nhuận. Để lập được kế hoạch chi
phí kinh doanh phải sử dụng các phương pháp và các chỉ tiêu thích


hợp. Một số chỉ tiêu dùng để lập kế hoạch và quản lý chi phí kinh
doanh bao gồm:
1. Tổng chi phí sản xuất kinh doanh: Là toàn bộ số tiền doanh
nghiệp chi ra để thực hiện quá trình kinh doanh trong một thời kỳ nhất
định. Tổng chi phí kinh doanh được xác định bằng công thức sau:
F = Fđk + F ps - F ck
Trong đó: F: Tổng chi phí kinh doanh
Fđk: số dư chi phí đầu kỳ

Fps: Tổng chi phí phát sinh trong kỳ
Fck: Số chi phí phân bổ cho hàng hoá dự trữ cuối kỳ
Chỉ tiêu tổng mức chi phí kinh doanh phản ánh quy mô tiêu dùng
vật chất, tiền vốn và mức kinh doanh để phục vụ quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp và xác định số phải bù đắp từ thu nhập trong kỳ của
doanh nghiệp.
2. Tỷ suất chi phí sản xuất kinh doanh: Là chỉ tiêu được xác định
bằng tỷ lệ phần trăm giữa chi phí kinh doanh với doanh thu kinh
doanh hoặc thu nhập trong kỳ của doanh nghiệp.
F
F’ =
M
Trong đó: F’: Tỷ suất chi phí kinh doanh
F: Tổng mức chi phí kinh doanh
M: Tổng doanh thu hoặc thu nhập của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu tỷ suất chi phí kinh doanh là một chỉ tiêu tương đối phản
ánh một đồng doanh thu hay thu nhập trong kỳ thì mất bao nhiêu


đồng chi phí. Tỷ suất chi phí kinh doanh nói lên trình độ, chất lượng
của công tác quản lý chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong đó
chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả quản lý và sử dụng chi phí này
càng được nâng cao.
3. Mức độ tăng hoặc giảm tỷ suất chi phí kinh doanh: Do chỉ tiêu
tỷ suất chi phí kinh doanh phản ánh hiệu quả quản lý và sử dụng chi
phí kinh doanh của doanh nghiệp. Nên để biết được hiệu quả quản lý
và sử dụng chi phí kinh doanh tăng hay giảm giữa kỳ thực hiện với kỳ
kế hoạch ta có công thức:
∆F’ = F’1 - F’0
Trong đó:

∆F’: Mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh.
F’1: Tỷ suất chi phí sản xuất kinh doanh kỳ so sánh.
F’0: Tỷ suất chi phí sản xuất kinh doanh kỳ gốc.
4. Tốc độ tăng giảm tỷ suất chi phí sản xuất kinh doanh: Để so
sánh tốc độ tăng hay giảm tỷ suất chi phí giữa hai doanh nghiệp với
nhau trong cùng một kỳ, hoặc giữa hai thời kỳ của một doanh nghiệp,
ta sử dụng chỉ tiêu tốc độ tăng hoặc giảm tỷ suất chi phí kinh doanh.
Công thức:
∆F’
T =
F0
Trong đó:
T: Tốc độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh
∆F’: Mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh.


F0: Chi phí kinh doanh kỳ gốc.
5. Mức tiết kiệm hay lãng phí chi phí kinh doanh: Mức độ tiết kiệm
hay lãng phí chi phí sản xuất kinh doanh là kết quả của việc phấn đấu
hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh hoặc làm tăng tỷ suất chi phí sản
xuất kinh doanh. Công thức:
STK = M1 x ∆F’
Trong đó:
STK: Số tiền tiết kiệm được do hạ thấp chi phí SXKD.
M1: Doanh thu kỳ so sánh.
∆F’: Mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí SXKD.
Đây là một chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh chi phí kinh doanh tăng
hoặc giảm bao nhiêu kỳ này so với kỳ kia. Chi phí kinh doanh được hạ
thấp sẽ góp phần làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp và ngược lại.
6. Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí kinh doanh.

Công thức:
L
T=
F
Trong đó:
T: Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí kinh doanh.
L: Lợi nhuận đạt được trong kỳ
F: Tổng chi phí được quyết toán trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí kinh doanh là một chỉ tiêu tương đối
phản ánh bình quân trong một kỳ một đồng chi phí đem lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận.


Qua chỉ tiêu này có thể thấy được hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, trình độ, chất lượng quản lý, sử dụng các nguồn
nhân tài, vật lực của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh.
Các chỉ tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để phân tích
đánh giá chi phí kinh doanh cần phải đi sâu phân tích các chỉ tiêu đó
và từng khoản mục chi phí cụ thể của chi phí kinh doanh, đồng thời
phải kết hợp chặt chẽ với đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh thực
tế của doanh nghiệp để đánh giá chính xác tình hình quản lý chi phí
kinh doanh của doanh nghiệp đó.
B. Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
I. Khái niệm, nội dung và chức năng của giá thành sản phẩm.
1. Khái niệm giá thành sản phẩm.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chi phí sản xuất kinh
doanh chỉ là một mặt của quá trình sản xuất. Để thấy được chất lượng
của quá trình đó thì chi phí kinh doanh phải được xem xét trong mối
quan hệ với mặt thứ hai của nó là kết quả thu được từ hoạt động sản
xuất kinh doanh. Xem xét mặt thứ hai ở đây chính là xem xét, khảo sát

và tính toán giá thành sản phẩm. Vì giá thành sản phẩm là chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp nhất để đánh giá quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tính chất lượng của chỉ tiêu này thể hiện ở chỗ: thông qua nó
người ta đánh giá được hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh.
Chứng minh được khả năng phát triển hay sử dụng các yếu tố vật chất
đã thực sự được tiết kiệm và hợp lý chưa.


Tính tổng hợp của chỉ tiêu này được thể hiện ở chỗ: thông qua nó
người ta có thể đánh giá được toàn bộ các biện pháp kinh tế, tổ chức
kỹ thuật mà doanh nghiệp đã đầu tư trong quá trình kinh doanh, bởi
mọi biện pháp đầu tư đều tác động đến việc sử dụng các yếu tố vật
chất để thực hiện quá trình kinh doanh và xét cho cùng thì đều được
biểu hiện tổng hợp trong nội dung của chỉ tiêu giá thành.
Vậy giá thành được định nghĩa là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
hao phí sản xuất tính cho một khối lượng sản phẩm nhất định hoàn
thành.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh
hiệu quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản
xuất cũng như tính đúng đắn của các giải pháp tổ chức, kinh tế, kỹ
thuật, công nghệ mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản xuất, hạ thấp chi phí và tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp. Giá thành còn là căn cứ quan trọng để xác định giá
bán và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất.
Định nghĩa trên cho thấy giữa chi phí sản xuất và giá thành có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình kinh doanh. Chi phí sản
xuất hợp thành giá thành sản phẩm, nhưng không phải toàn bộ chi phí
sản xuất phát sinh trong kỳ đều được tính vào giá thành sản phẩm
trong kỳ. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt thống nhất

của một quá trình nên chúng có bản chất giống nhau. Cả chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm đều bao gồm những hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản


xuất sản phẩm. Tuy vậy giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
có sự khác nhau trên phương diện sau:
Nói đến chi phí sản xuất là xét các hao phí trong một thời kỳ, còn
nói đến giá thành sản phẩm là đề cập đến quan hệ của chi phí với quá
trình công nghệ sản xuất chế tạo sản phẩm ( đã hoàn thành ). Đó là hai
mặt của một quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Về mặt lượng, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể khác
khi có sản phẩm dở dang đầu kỳ hoặc cuối kỳ. Sự khác nhau về mặt
lượng và mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thể
hiện ở công thức tổng quát sau:
Giá thành

Trị giá sản
=

sản phẩm

Tổng chi phí

Giá trị sản

phẩm dở dang + sản xuất phát - phẩm dở
đầu kỳ

sinh trong kỳ


dang cuối
kỳ

2. Nội dung của giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản
ánh lượng giá trị hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự
chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm
chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá
trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Nội dung cơ bản của giá thành sản
phẩm chứa đựng hai nội dung cơ bản là giá thành sản xuất sản phẩm
và giá thành toàn bộ (giá thành tiêu thụ sản phẩm).
2.1. Giá thành sản xuất sản phẩm
Giá thành sản xuất sản phẩm bao gồm các khoản mục chi phí:


Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm các chi phí về
nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu sử dụng trực tiếp cho quá trình sản
xuất sản phẩm.
Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí tiền lương, tiền
công, các khoản trích của công nhân viên trực tiếp tạo ra sản phẩm,
các khoản trích nộp theo quy định như BHXH, BHYT, KPCĐ.
Chi phí sản xuất chung: Là các khoản chi phí sử dụng cho
hoạt động sản xuất, chế biến của phân xưởng trực tiếp tạo ra hàng
hoá.
2.2. Giá thành toàn bộ sản phẩm đã tiêu thụ:
Giá thành toàn bộ sản phẩm đã tiêu thụ bao gồm:
Giá thành sản xuất sản phẩm hàng hoá đã tiêu thụ.
Chi phí bán hàng: là toàn bộ các chi phí có liên quan đến việc
tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.

Chi phí quản lý doanh nghiệp: bao gồm các chi phí cho bộ
máy quản lý và điều hành doanh nghiệp.
3. Chức năng của giá thành sản phẩm
Để có căn cứ xem xét tính quan trọng của chỉ tiêu giá thành
trong công tác quản lý kinh tế nói chung và công tác quản lý chi phí
kinh doanh nói riêng, chúng ta sẽ nghiên cứu những chức năng vốn
có của giá thành sản phẩm.
3.1. Chức năng thước đo bù đắp chi phí:
Giá thành sản phẩm biểu hiện những hao phí vật chất mà các
doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Những hao
phí vật chất này được bù đắp một cách đầy đủ, kịp thời để đảm bảo


yêu cầu tái sản xuất. Như vậy, việc đi tìm căn cứ để xác định bù
đắp những gì mình đã bỏ ra để tạo nên sản phẩmvà thực hiện được
giá trị của sản phẩm là yêu cầu khách quan trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Thông qua chỉ tiêu giá thành được xác
định một cách chính xác, các doanh nghiệp sẽ đảm bảo được khả
năng bù đắp theo yêu cầu kinh doanh. Bù đắp được chi phí kinh
doanh là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp bởi hiệu
quả kinh tế được biểu hiện trước hết ở chỗ doanh nghiệp có khả
năng bù đắp lại những gì mình đã bỏ ra hay không. Đủ bù đắp là
khởi điểm của hiệu quả và được xem là yếu tố đầu tiên để đánh giá
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2. Chức năng lập giá:
Sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra là sản phẩm, hàng
hoá được thực hiện giá trị trên thị trường thông qua giá cả.
Giá cả sản phẩm được xây dựng trên cơ sở hao phí lao động xã
hội cần thiết. Khi xây dựng giá cả thì yêu cầu đầu tiên là giá cả phải
có khả năng bù đắp hao phí vật chất để sản xuất và tiêu thụ sản

phẩm để thực hiện tái sản xuất. Xây dựng giá phải căn cứ và giá
thành sản phẩm. Tuy nhiên, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
không phải là cơ sở để xây dựng giá. Để xây dựng giá người ta phải
căn cứ vào giá thành bình quân của nghành, của địa phương được
sản xuất trong điều kiện trung bình.
Giá cả là biểu hiện mặt giá trị của sản phẩm, chứa đựng trong
nó nội dung bù đắp hao phí vật chất dùng để sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm. Nếu việc lấy giá thành làm căn cứ lập giá là một yêu cầu


khách quan vốn có trong nền sản xuất hàng hoá và được biểu hiện
đầy đủ trong nền kinh tế thị trường.
Dù có dựa vào loại giá thành nào để làm căn cứ lập giá thì việc
xác định giá thành cá biệt ở từng doanh nghiệp đều có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Bởi không có chính sách và biện pháp vĩ mô nào có
thể điều tiết các hoạt động vi mô mà lại không bắt nguồn từ những
hoạt động và kết quả cụ thể của các doanh nghiệp.
3.3. Chức năng đòn bẩy kinh tế:
Doanh lợi của các doanh nghiệp cao hay thấp phụ thuộc trực
tiếp vào giá thành sản phẩm. Hạ thấp giá thành sản phẩm là biện
pháp cơ bản để tăng cường doanh lợi, tạo nên tích luỹ nhằm tái sản
xuất mở rộng.
Cùng với các phạm trù kinh tế khác như giá cả, lãi suất, chất
lượng, thuế… giá thành sản phẩm thực tế đã trở thành đòn bẩy kinh
tế quan trọng thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường hiệu quả kinh
tế quan trọng thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường hiệu quả kinh
doanh phù hợp với các nguyên tắc hạch toán kinh doanh trong điều
kiện cơ chế thị trường.
Phấn đấu hạ thấp giá thành bằng các phương pháp cải tiến tổ
chức và quản lý, hoàn thiện công nghệ sản xuất, tổ chức lao động

khoa học, tiết kiệm chi phí sản xuất là hướng cơ bản để các doanh
nghiệp đứng vững và phát triển trong điều kiện kinh tế có cạnh
tranh. Chức năng đòn bẩy kinh tế của giá thành khi được vận dụng
cần thấy rõ từng yếu tố chi phí, từng loại giá thành chỉ phát sinh và
xuất hiện dưới dạng riêng biệt của một yếu tố giá thành toàn bộ. Do


×