Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Phương pháp đọc hiểu văn bản người lái đò sông đà” theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.89 KB, 22 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng
A. MỞ ĐẦU:

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Xuất phát từ thực tiễn đổi mới chương trình sách giáo khoa, phân phối
chương trình dạy học và phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng và các bộ
môn trong nhà trường THPT nói chung. Cùng với mục tiêu là phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong mỗi tiết học. Bản thân tôi
tuy tuổi nghề chưa nhiều, nhưng luôn cố gắng học hỏi, trau dồi kinh nghiệm để
nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp.
Và cũng từ thực tiễn dạy học tại trường THPT Sầm Sơn, bản thân tôi luôn
trăn trở với việc học tập môn Ngữ văn của học sinh. Bởi đại đa số các em học
sinh khi thi vào lớp 10 đều chọn cho mình khối A hoặc B, chứ ít em chọn khối
học là C và D. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc các em không muốn học hoặc
ngại học môn Ngữ văn, ngại khám phá những chân trời văn học với nhiều tác
phẩm có giá trị. Cũng từ đó mà mỗi tiết học Ngữ văn sẽ trôi đi trong nhàm chán
nếu giáo viên không hoặc ít biết khơi dậy ở các em sự tò mò và say mê đối với
các tri thức Ngữ văn thì sẽ đẩy các em vào tình trạng thụ động trong việc tiếp
thu tri thức. Như vậy, yêu cầu đặt ra ở đây là làm sao đánh thức được lòng ham
thích học văn của mỗi em học sinh trong từng tiết học hay ít ra cũng giúp các em
chú tâm, không thờ ơ và sao nhãng đối với các tiết học Ngữ văn nói chung và
phân môn đọc - hiểu văn bản nói riêng, trong đó có tiết đọc - hiểu văn bản ký sự
theo đặc trưng thể loại.
Hơn nữa, môn Ngữ văn có thể xem là môn học bắt buộc theo đúng nghĩa
của nó đối với từng học sinh. Vì tuy không theo học khối C hoặc D, nhưng mỗi
em đều cần phải bước qua một cánh cửa quan trọng đó chính là kỳ thi THPT
Quốc gia. Và Ngữ văn là một trong ba môn thi bắt buộc bên cạnh Toán và Ngoại
ngữ trong kì thi THPT Quốc gia hàng năm.
Từ đó để có thể thấy được tầm quan trọng của mỗi tiết học Ngữ văn.


Nhưng đối với các em học ban KHTN thì học môn Ngữ văn không phải là dễ,
nếu không muốn nói là khó. Khó vì các em chưa thật nổ lực cố gắng, chưa chủ
động, tích cực để khám phá những kiến thức đầy lý thú trong mỗi bài học Ngữ
văn. Đây cũng chính là vấn đề cụ thể được đặt ra đối với mỗi giáo viên dạy học
môn Ngữ văn trong nhà trường THPT nói chung và trường THPT Sầm Sơn nói
riêng. Chúng ta thường nói đến việc đổi mới phương pháp dạy học, phải chăng
là việc phương pháp dạy học theo kiểu từ truyền thụ một chiều mà học sinh tiếp
thu một cách thụ động (theo kiểu cô đọc, trò chép), sang dạy theo phương pháp
dạy học tích cực nhằm phát huy được tính chủ động, sáng tạo, khả nămg tự học
và tự vận dụng kiến thức vào giải quyết những tình huống học tập cụ thể. Qua
đó, dần tạo được hứng thú học tập môn Ngữ văn nói chung, trong đó có tiết đọchiểu văn bản "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân theo đặc trưng thể loại.

1


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nhận thức được vấn đề cấp thiết trên và cũng để góp phần đổi mới dạy học,
tạo hứng thú cho học sinh đối với môn Ngữ văn trong nhà trường THPT nói
chung và với phân môn đọc - hiểu văn bản nói riêng, bản thân tôi mạnh dạn
trình bày đề tài: Phương pháp đọc- hiểu văn bản "Người lái đò sông Đà” theo
đặc trưng thể loại.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Với SKKN này, bản thân tôi đã sử dụng tác phẩm tùy bút có trong chương
trình Ngữ văn 12- Tập I để kiểm chứng cho phương pháp dạy học của mình, đó
là văn bản: "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

1. Phương pháp phân tích.
2. Phương pháp tổng hợp.
3. Phương pháp chứng minh.

2


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
1. Khái niệm về thể ký nói chung và tùy bút nói riêng.
a. Ký: Tên gọi chung của một nhóm thể tài nằm ở phần giao giữa văn học và
ngoài văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại…) chủ yếu là văn
xuôi tự sự gồm các thể như bút ký, hồi ký, du ký, ký sự, nhật ký…
b. Tùy bút: Một thể loại thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí sự. Nét nổi bật
của tùy bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ thể có thực, tác
giả đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của
mình về con người và cuộc sống hiện tại (Từ điển thuật ngữ văn học).
Cũng có cách hiểu khác đơn giản theo cảm tính: tùy bút là những trang văn xuôi
ở đó nhà văn tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy - lâu nay đã được nhiều người yên
tâm thừa nhận. Ngay cả Nguyễn Tuân - nhà văn sáng tác tùy bút hàng đầu của
Việt Nam - cũng có lần thừa nhận: “Nguyên tắc quan trọng nhất của tùy bút là
không có nguyên tắc gì cả”. Cách hiểu này đặt cơ sở trên một nét đặc trưng
nghệ thuật của thể tùy bút là luôn coi trọng và phát huy tối đa cảm xúc, quan
điểm chủ quan ở người nghệ sĩ.
Bất kỳ sáng tác văn chương có giá trị nào cũng đều bắt đầu từ những cung bậc
cảm xúc đậm màu sắc chủ quan, chứ không riêng gì tùy bút. Để cho ngọn bút có

thần thì cảm xúc ở người nghệ sĩ phải chân thành, phải thăng hoa đến độ mãnh
liệt. Mặt khác, một cách hiểu không thỏa đáng về khái niệm tùy bút sẽ rất dễ dẫn
đến lẫn lộn giữa lối viết phóng khoáng, tự do với lối viết tản mạn, bịa đặt tùy
tiện; đồng thời cũng không chỉ ra được bản chất và vai trò của yếu tố chủ quan
trong tùy bút. Bởi vì:“Những sự việc, những con người trong tùy bút tuy có thể
không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay theo một tư duy luận lý
chặt chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc, cái lôgic bên
trong của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn
của chủ thể thẩm mỹ vẫn phải chân thực” .
2. Đặc điểm cơ bản của thể ký ( trong đó có tùy bút)):
Thứ nhất: Tác phẩm ký đòi hỏi tính chân thật của sự việc và sự kiện, hay nói
cách khác đó chính là tính khách quan thể hiện trong mỗi tác phẩm ký. Bởi vì,
ký nói chung đều là sự phản ánh những sự việc có thật, những con người có thật.
Tuy nhiên, sự việc ấy được hồi tưởng và tái hiện thông qua lăng kính chủ quan
của tác giả, nên nhiều khi sự thật bị “méo mó”, “sai lệch”. Nhưng so với các thể
loại văn học khác như tiểu thuyết, truyện ngắn thì ký vẫn là một thể loại văn học
đặc biệt vì có thể xem tác phẩm ký là nguồn “tư liệu” đáng tin cậy.
Thứ hai: Ở tác phẩm ký, tuy dấu ấn của tác giả không nhiều như trong thơ,
truyện ngắn…nhưng ký lại đòi hỏi tác giả phải là người trong cuộc, tức là người
được tham dự hay chứng kiến những sự việc đã xảy ra trong quá khứ. Vì vậy,
3


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

khi tái hiện lại những hiện thực đã được chứng kiến vào tác phẩm thì chủ yếu là
thông qua hồi ức của tác giả nên không tránh khỏi tính chủ quan, phiến diện.
Nhưng chính nhờ vào sự diễn đạt sinh động mang tính chủ quan của cá nhân tác

giả- người trong cuộc, mà đã góp phần tạo nên tính xác thực và độ tin cậy cao
cho sự việc được tái hiện, cũng như tạo được hiệu ứng nghệ thuật cho tác phẩm
ký.
Thứ ba: Tác phẩm ký đòi hỏi tính chân thật của từng sự việc, sự kiện, nhưng
không có nghĩa là tác phẩm ký “khước từ” hoàn toàn các thủ pháp nghệ thuật mà
chỉ là sự trần thuật thông qua dòng hồi ức đơn thuần của tác giả. Bởi xét đến
cùng ký vẫn là một thể loại văn học, mà đã là tác phẩm văn học thì ngoài hiện
thực được đề cập đến nó vẫn cần phải được “chế tác” thêm nhờ vào tài năng vận
dụng các biện pháp nghệ thuật đẻ làm sao tác phẩm vừa giữ được cái hồn của
“sự thật” mà vẫn thu hút được người đọc bởi sự sinh động, hấp dẫn mà các thủ
pháp nghệ thuật tạo ra. Ở tác phẩm ký đó là khả năng quan sát và tái hiện sinh
động, ngôn ngữ giàu hình ảnh…
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM:
Qua thực tế mỗi tiết dạy trên lớp, bản thân tôi nhiều khi phải băn khoăn, lo
lắng trước thái độ thờ ơ, nhiều khi dẫn đến sự hiểu biết sai lệch trước một vấn
đề nào đó có liên quan đến các tiết học Ngữ văn nói chung, trong đó có tiết đọchiểu văn bản ký sự. Điều đáng bàn là việc thờ ơ của học sinh đối với môn Ngữ
văn không chỉ diễn ra ở một trường THPT đơn lẻ nào, mà nó là tình trạng chung
ở hầu hết các trường THPT hiện nay. Vậy tình trạng này là do đâu? Phải chăng
là do học sinh không còn hứng thú với môn Ngữ văn- môn học mà lâu nay được
xem là bồi dưỡng tâm hồn cho các em, giúp các em sống tốt hơn, sống đẹp hơn;
hay tại các em sợ học văn, ngại học văn…? Có một thực tế ở các nhà trường
THPT nói chung và trường THPT Sầm Sơn nói riêng, điều mà chúng ta không
thể phủ nhận đó là có khoảng 90% học sinh theo học ban KHTN, chỉ có khoảng
10% các em lựa chọn ban KHXH và NV. Điều đó đồng nghĩa với việc các em
không lựa chọn môn Ngữ văn là môn học chính cho mình và xem nó là một môn
học phụ như các môn: GDCD, Thể dục, Sử, Địa…Do đó, các em sẽ không giành
nhiều thời gian, công sức cho môn học, thậm chí nhiều em còn không thèm để ý
đến những kiến thức mà thầy cô truyền đạt trên lớp. Nên thậm chí khi giáo viên
kiểm tra có em còn nhớ sai tên nhân vật trong tác phẩm văn học này với một tác

phẩm văn học khác.
Hơn thế nữa, mục tiêu của các em học sinh THPT là làm sao để có thể thi đậu
vào các trường ĐH,CĐ. Và với mục tiêu ấy, các em sẽ lựa chọn học ban KHTN
để có nhiều cơ hội trong việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp cho tương lai. Đặc
biệt, trong điều kiện hội nhập kinh tế thị trường như hiện nay, hầu hết các em
đều rất thực tế khi lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân. Vì vậy, môn Ngữ văn nói

4


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

riêng và ban KHXH và NV nói chung không còn là sự lựa chọn hàng đầu của
đại đa số các em học sinh.
Điều này cũng xuất phát từ thực tiễn của việc học Ngữ văn. Là một giáo
viên dạy môn Ngữ văn, tôi không nói học văn là khó nhưng quả thực cũng
không phải dễ, đặc biệt là với những học sinh không hề có năng khiếu trong việc
cảm thụ văn chương thì một tiết học Ngữ văn đối với các em sẽ trôi đi trong
nhàm chán và vô vị. Và nếu giáo viên không có phương pháp truyền đạt sinh
động, thu hút được sự chú ý của học sinh thì nhiều khi giờ dạy - học văn sẽ biến
thành những giờ “độc thoại” của giáo viên. Hơn thế nữa, để đạt được điểm 9, 10
đối với các môn ban KHTN không phải là khó, nhưng để đạt được mức điểm ấy
với các môn ban KHXH nói chung và đặc biệt với môn Ngữ văn nói riêng thì
không hề dễ dàng, thậm chí là rất hiếm. Cùng với đó số trường đại học thi đầu
vào khối C, D thì lại ít, không thoả mãn được yêu cầu lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh. Từ đó sẽ dẫn đến thực trạng học sinh không học và không thi vào khối
C, D. Chỉ có một số học sinh không thể học ban KHTN thì các em mới lựa chọn
ban KHXH &NV. Phần lớn các học sinh này khả năng cảm thụ tác phẩm là

không nhiều vì đầu vào của các em thấp; chỉ có một số ít học sinh lựa chọn khối
C, D là có khả năng cảm thụ văn chương tốt và các em có lòng yêu thích văn
chương thực sự. Các em muốn tự mình khám phá kho tàng văn học của nhân
loại. Còn lại phần lớn các em học sinh, kể cả học sinh đang ngồi ở các lớp học
được xem là chọn văn đều mang tâm lý là ngại học văn, thậm chí là sợ học văn.
Và cũng từ thực tế dạy dạy học ở chương trình Ngữ văn THPT chỉ có duy
nhất hai tiết dành cho thể loại tùy bút ở sách ngữ văn 12 (Tập 1) với văn bản:
"Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. Điều này sẽ tạo ra sự khó khăn cho
học sinh khi yêu cầu các em phải nắm được đặc trưng của một thể loại văn học
mà chỉ thông qua một tác phẩm duy nhất. Mà tác phẩm văn học này lại ra đời
cách các em khoảng thời gian khá xa, đây cũng là một yếu tố gây khó khăn cho
việc tiếp thu và cảm nhận tác phẩm của học sinh.
Còn đối với giáo viên, cũng có những khó khăn nhất định. Bởi chỉ trong 2
tiết học ngắn ngủi phải lựa chọn và tìm ra được phương pháp dạy học tối ưu để
vừa giúp các em nắm được những kiến thức cơ bản về thể loại ký sự thông qua
tác phẩm: "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân; lại vừa phát huy được ở
các em tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Những khó khăn nói trên là có thực, nhưng trong quá trình dạy học môn
Ngữ văn nói chung và dạy tác phẩm ký sự nói riêng cũng có những thuận lợi
nhất định. Đó chính là nguồn tư liệu tham khảo cho bài học phong phú và dễ
tìm, các thiết bị hỗ trợ học tập đều có sẵn và đáp ứng đủ yêu cầu cho việc dạy
học, giáo viên có điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học để phát
huy khả nămg trực quan cũng như góp phần tạo hứng thú cho các em trong mỗi
tiết học.

5


Sáng kiến kinh nghiệm


Đỗ Thị Hằng

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn đã trình bày ở trên, bản thân tôi đã hệ thống
hoá những vấn đề có liên quan đến việc dạy học thể ký sự theo đặc trưng thể
loại; đồng thời cũng chỉ ra được những khó khăn và thuận lợi của thầy và trò
trong quá trình dạy học một tác phẩm văn chương nói chung và một tác phẩm ký
sự trung đại nói riêng. Để từ đó, tôi đưa ra một số biện pháp giúp cho tiết: Đọchiểu văn bản Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân theo đặc trưng thể loại đạt
hiệu quả cao nhất.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ BIỆN PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN:
1. Giải pháp thực hiện:
Qua quá trình dạy học thực tiễn đối với tiết học: Đọc- hiểu văn bản Người lái
đò sông Đà của Nguyễn Tuân theo đặc trưng thể loại, bản thân xin đưa ra một số
giải pháp sau:
1.1. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản tùy bút qua việc tìm hiểu thể loại
và nhan đề của tác phẩm:
a. Thể loại: Để học sinh nắm được khái niệm và đặc điểm cơ bản của thể loại
tùy bút, tôi đã đưa ra vấn đề yêu cầu các em suy nghĩ và trình bày: Các em đã
được học tác phẩm ký ở chương trình THCS, hãy nhắc lại tên của tác phẩm đó
và nêu được những nét khái quát về ký ?
Học sinh có thể nhớ và nêu được chính xác tên tác phẩm ký đã học ở chương
trình Ngữ văn lớp 9: Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ. Nhưng chưa nêu được
những nét khái quát về tác phẩm ký. Giáo viên cần căn cứ vào câu trả lời của
học sinh để từ đó hướng các em tìm hiểu khái niệm và đặc điểm cơ bản của thể
loại tùy bút thể hiện trong văn bản Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
- Khái niệm: Tùy bút: Một thể loại thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí sự.
Nét nổi bật của tùy bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ thể
có thực, tác giả đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức
đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại (Từ điển thuật ngữ văn
học).
- Đặc điểm: Những sự việc, những con người trong tùy bút tuy có thể không

kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay theo một tư duy luận lý chặt
chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc, cái lôgic bên trong
của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn của chủ
thể thẩm mỹ vẫn phải chân thực”
b. Nhan đề:
Nhan đề chính là cơ sở đầu tiên giúp chúng ta tìm hiểu văn bản. Qua nhan đề
giáo viên cần hướng học sinh để các em bước đầu phát hiện ra một cách sơ lược
chủ đề tư tưởng của văn bản.
Đối với văn bản Tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân , GV cần
giúp HS thấy được mối quan hệ giữa tác phẩm với văn bản mà các em sẽ tìm
6


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

hiểu để học sinh thấy được tầm quan trọng của việc đọc – hiểu một văn bản văn
học gắn với đặc trung thể loại. Muốn làm được điều đó trước tiên giáo viên cần
cho học sinh nắm được nhan đề của tác phẩm, bằng cách nêu vấn đề: Anh (chị)
có suy nghĩ gì về nhan đề của văn bản Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân ?
Giáo viên chốt lại vấn đề: Cũng như các tác phẩm kí đã học, tùy bút Người
lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là sự ghi chép của tác giả về những gì mình
được chứng kiến về sông Đà qua những cung bậc cảm xúc khác nhau của chính
nhà văn.
1.2. Hướng dẫn học sinh đọc- hiểu văn bản tùy bút qua việc tìm hiểu hoàn
cảnh ra đời của tùy bút sông Đà và vị trí, bố cục của văn bản Người lái đò
sông Đà:
a. Xuất xứ: Sau khi đã giúp học sinh thấy được ý nghĩa của việc tìm hiểu
nhan đề tác phẩm gắn với thể loại, giáo viên tiếp tục hướng dẫn học sinh khám

phá tác phẩm thông việc tìm hiểu xuất xứ của văn bản Người lái đò sông Đà, để
từ đó HS có cái nhìn khái quát về tập Tùy bút sông Đà và mối quan hệ của văn
bản với toàn bộ tác phẩm. thông qua việc tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tập tùy
bút.
GV đưa ra câu hỏi: Em hãy nêu xuất xứ của tác phẩm “ Người lái đò sông Đà
”?
=> Trích trong tập tuỳ bút “ Sông Đà ”.
b.Hoàn cảnh ra đời:
Khi học sinh đã nắm được xuất xứ của văn bản, giáo viên cần hướng các em
đến việc tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời của văn bản nói riêng và toàn bộ tập tùy
bút Sông Đà nói chung. Bởi hoàn cảnh cũng chi phối rất lớn đến nội dung tư
tưởng của tác phẩm đặc biệt là các tác phẩm kí nói chung và tùy bút nói riêng.
Để làm được điều đó giáo viên cần đưa ra câu hỏi: Trình bày những hiểu biết
của mình hoàn cảnh sáng tác của tập tuỳ bút “ Sông Đà ” trong đó có Người
lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân?
=> Hoàn cảnh sáng tác: Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ
bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.
c.Bố cục:
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh đọc- hiểu văn bản tùy bút thông qua việc
tìm hiểu các yếu tố như: thể loại, xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, thì
giáo viên cần hướng học sinh đến việc tìm hiểu bố cục văn bản. Bởi đó là căn cứ
để học sinh khám phá nội dung cũng như nghệ thuật viết tùy bút của Nguyễn
Tuân. Muốn phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh trong việc cảm thụ
tác phẩm văn chương để từ đó khơi dạy ở các em sự ham mê, hăng say đối với

7


Sáng kiến kinh nghiệm


Đỗ Thị Hằng

mỗi giờ học Ngữ văn, giáo viên cần có hệ thống câu hỏi phù hợp và mang tính
gợi mở.
Ở tình huống nay tôi đã đưa ra câu hỏi: Theo em văn bản Người lái đò sông Đà
có những hình tượng nghệ thuật nào?
Sau khi học sinh phát biểu, thảo luận, giáo viên cần chốt lại vấn đề: Bố cục
gồm 2 hình tượng: - Hình tượng sông Đà.
- Hình tượng ông lái đò.
Sau đó cho học sinh nhận xét về bố cục của văn bản với câu hỏi: Em hãy nêu
nhận xét của mình về bố cục của văn bản ?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên cần rút ra nhận xét chung: văn bản có bố
cục rất rõ ràng, mạch lạc, các hình tượng được kể tả theo trình tự hợp lí.
1.3. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản tùy bút: Qua việc tìm hình
tượng sông Đà trong văn bản:
Ở văn bản tùy bút, sự việc được tái hiện chính là cái mà tác giả đã được tham
gia hoặc chứng kiến ở quá khứ. Do đó, để nắm được các sự việc của văn bản,
giáo viên cần từng bước hướng dẫn học sinh khám phá từng sự việc được phản
ánh.
GV: Cho HS xem đoạn phim về ký sự sông Đà và nêu câu hỏi: Nêu cảm nhận
của em về hình tượng Sông Đà?
HS: Làm việc theo nhóm, thảo luận và trả lời bằng phiếu học tập.
Tuy nhiên, để học sinh nắm được các chi tiết cụ thể của vấn đề, giáo viên cần
khéo léo khi đưa ra các câu hỏi và tôn trọng câu trả lời của các em, cần tránh
tình trạng áp đặt.
Đối với câu hỏi này, học sinh có thể đưa ra rất nhiều cảm nhận riêng của bản
thân mình về sông Đà như:hung bạo, trữ tình…. Lúc này giáo viên phải làm
công việc tổng hợp và khái quát lại những kiến thức mà học sinh phát biểu để
tạo nên tính hệ thống, giúp học sinh dễ nhớ. Với các ý chính: sông Đà hung bạo

dữ dội và trữ tình , thơ mộng.
Để học sinh tiếp tục khám phá tác phẩm, giáo viên đưa ra vấn đề: GV: Sự dữ
dội của dòng sông Đà đựơc hiện lên qua những chi tiết nào?Ở đây, giáo viên
cần chú ý lắng nghe và lựa chọn ý kiến hợp lý của học sinh, bởi có em đồng tình
và cũng có em không đồng tình. Nhưng quan trọng là qua đây phát huy được
tính chủ động sáng tạo của học sinh ở phần lý giải để bảo vệ cho câu trả lời của
các em. Giáo viên chốt lại vấn đề dựa trên cơ sở câu trả lời đúng của học sinh:
Hình tượng sông Đà hung bạo, dữ dội được hiện lên qua:Cảnh bờ sông,những
ghềnh thác,tiếng thác nước: thở và kêu như cửa cống cái bị sặc; nghe như là
oán trách gì, rồi lại như là van xin....Đá Sông Đà: Bày ra các thạch trận: vòng
vây thứ nhất, vòng vây thứ hai, vòng vây thứ ba...;Có chiến thuật, miêu mô: mai
8


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

phục, một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền; Hình dáng: hòn nào hòn
nấy trông ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó…
Giáo viên tiếp tục cho học sinh xem kí sự sông Đà và nêu vấn đề: Bên cạnh nét
hung baọ, dữ dội; sông Đà còn hiện lên với nét thơ mộng, trữ tình. Hãy tìm
những chi tiết thể hiện sông Đà thơ mộng, trữ tình?
-Sông Đà thơ mộng:
+ “ Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình , đầu tóc chân tóc ẩn
hiện dưới mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo...”
+ Nước Sông Đà : Mùa xuân - dòng xanh ngọc bích; mùa thu - lừ lừ chín đỏ
như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.
-> Sông Đà như một mĩ nhân hiền dịu và xuân sắc.
- Sông Đà trữ tình:

+ Con sông Đà gợi cảm. Sông Đà như một cố nhân. -> nhớ thương, lưu luyến,
gắn bó đầy ân tình.
+ Gợi đến áng Đường thi.
+ Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng.
- Bờ Sông hoang dại như một bờ tiền sử; hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa
GV cần hướng HS tìm hiểu về đặc sắc tùy bút của Nguyễn Tuân qua câu
hỏi:Nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Tuân khi miêu tả sông Đà?
=> Kết hợp giữa nghệ thuật điện ảnh với nghệ thuật ngôn từ để làm toát lên vẻ
đẹp của sông Đà với những nét tính cách dường như đối lập.
Sau khi tổng kết lại hình tượng sông Đà, GV hướng dẫn HS tìm hiểu Hình tượng
ông đò ,qua câu hỏi: Nhận xét của em về ông Đò?
=>Hình dáng: Tay lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò
lại, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh, nhỡn giới ông vòi vọi...->
hình dáng của người lao động nơi sông nước, hun đúc, tôi luyện trong lao động.
1.4. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản tùy bút: Qua việc tìm hiểu hình
tượng ông đò trong văn bản:
Sau khi tổng kết lại hình tượng sông Đà, GV hướng dẫn HS tìm hiểu Hình
tượng ông đò ,qua câu hỏi: Nhận xét của em về hình tượng ông Đò?
GV sẽ đưa ra những vấn đề cơ bản dựa trên câu trả lời của HS:
-Hình dáng: Tay lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò
lại, giọng ông ào ào như tiếng nước...-> hình dáng của người lao động nơi sông
nước, hun đúc, tôi luyện trong lao động.
9


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng


- Tính cách của ông đò: Sau khi vượt thác, đêm hôm ấy ông đò đốt lửa trong
hang đá, nướng cơm lam và toàn bàn về chuyện cá; sóng thác xèo xèo tan trong
trí nhớ -> toát lên vẻ khiêm nhường, bình dị
=> Ông đò hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau: vẻ đẹp của người lao động
nơi sông nước trong cuộc sống mưu sinh những đồng thời ở ông cũng hiện lên
vẻ đẹp của một người anh hùng chiến trận - nơi thác nước, đá sông Đà và vẻ
đẹp tài hoa của người nghệ sĩ: tay lái của ông thực sự trở thành tay lái nở hoa.
1.5. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản ký sự qua việc tìm hiểu nghệ
thuật viết tùy bút của tác giả và khái quát ý nghĩa của văn bản:
Nghệ thuật chính là yếu tố góp phần không nhỏ bên cạnh nội dung để tạo nên
thành công của một tác phẩm văn học. Ở văn bản tùy bút này, giáo viên cần lần
lượt giúp học sinh nhận ra các giá trị nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm, để từ
đó giúp học sinh tìm hiểu các văn bản khác ở cùng thể loại văn học.
Giáo viên cũng cần định hướng để học sinh nhận thấy được những đặc sắc
trong nghệ thuật viết tùy bút của tác giả bằng câu hỏi: Những giá trị nghệ thuật
và ý nghĩa của tác phẩm là gì?
Học sinh sẽ nêu ra được một số yếu tố nghệ thuật đặc sắc của tác giả nghệ
thuật:thể hiện rõ những đặc điểm phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn
Tuân.Giáo viên cần chốt lại vấn đề:
=> Về nghệ thuật: thể hiện rõ những đặc điểm phong cách nghệ thuật tùy bút
của nhà văn Nguyễn Tuân.
- Trí tuệ uyên bác, hiểu biết cặn kẽ những đặc điểm của thác nước sông đà, vận
dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Tâm hồn phong phú nhạy cảm, khát khao khám phá những vẻ đẹp của thiên
nhiên và con người.
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh, phong phú có sức gợi cảm cao,...
- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, nhiều nhịp điệu, lúc hối hả, gân guốc, khi chậm
rãi, trữ tình…
=> Ý nghĩa văn bản:

- Giới thiệu, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao
động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó tha của
Nguyễn Tuân Đối với đất nước và con người Việt Nam.
Trên đây là toàn bộ những giải pháp mà bản thân tôi đã tiến hành để nâng cao
hiệu quả trong những tiết dạy đọc- hiểu văn bản tùy bút mà cụ thể là Người lái
đò sông Đà theo đặc trưng thể loại.
2. Biện pháp thực hiện:

10


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

Để đạt hiệu quả cao trong quá trình dạy tiết đọc- hiểu văn bản nói chung và
tiết đọc- hiểu văn bản tùy bút theo đặc trưng thể loại nói riêng, bản thân tôi bên
cạnh việc tiến hành những giải pháp cụ thể như đã trình bày ở trên, thì cũng đã
áp dụng các biện pháp cụ thể như sau:

2.1. Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về thể loại tùy bút:
- Khái niệm: Tùy bút: Một thể loại thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí sự.
Nét nổi bật của tùy bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ thể
có thực, tác giả đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức
đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại (Từ điển thuật ngữ văn
học).
- Đặc điểm: tùy bút viết về những sự việc, con người có thật mà tác giả trực tiếp
chứng kiến, sử dụng nhiều biện pháp và phương tiên biểu đạt nghệ thuật…So
với bút ký, tuỳ bút, phần bộc lộ cảm nghĩ của tác giả thường ít hơn. Tuy nhiên ở
tùy bút, cùng với những ghi chép khách quan tác giả vẫn có thể bộc lộ cảm nghĩ,

thái độ của chính mình.
2.2. Yêu cầu học sinh đọc bài và chuẩn bị bài ở nhà.
Đây là yêu cầu thường xuyên và bắt bược đối với mỗi học sinh trong các tiết
học Ngữ văn, đặc biệt là phân môn đọc - hiểu văn bản. Có như vậy, học sinh
mới phần nào nắm được những vấn đề cơ bản của tác phẩm trước mỗi giờ học,
tránh cho các em cách tiếp thu thụ động. Điều này là vô cùng cần thiết đối với
mỗi tiết học vì thời lượng dành cho mỗi tiết học chỉ có 45 phút. Bản thân tôi
thường kiểm tra xác xuất từ hai đến ba em về việc chuẩn bị bài ở nhà bên cạnh
việc kiểm tra bài cũ. Việc này sẽ tạo cho các em thói quen trước khi đến lớp và
cũng từ đó phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các em trong mỗi giờ học.
Vì văn bản Người lái đò sông Đà, GV nên khi kiểm tra việc chuẩn bị bài của
các em cũng có thể xem là việc kiểm tra bài cũ và giáo viên có thể cho điểm để
khuyến khích học sinh tích cực trong học tập.
2.3. Trong các tiết đọc - hiểu văn bản nói chung và đọc - hiểu văn bản tùy
bút nói riêng, bản thân tôi luôn có ý thức sử dụng các phương tiện hỗ trợ cho
bài dạy như: sưu tầm các tranh ảnh có liên quan, sử dụng công nghệ thông tin để
học sinh nhanh nắm bắt được vấn đề chính, đồng thời cũng tạo ra được không
khí sôi nổi cho tiết học; tránh được sự nhàm chán và thiếu tập trung của học
sinh.
Với văn bản Người lái đò sông Đà, giáo viên có thể sưu tầm: chân dung
Nguyễn Tuân, Tập tùy bút sông Đà, phim tài liệu về sông Đà…
2.4. Tuỳ vào bài dạy mà phần lớn là các tiết đọc - hiểu văn bản, tôi luôn
dành khoảng 5 – 7 phút cuối giờ để đưa ra vấn đề tổng kết: bằng một câu hỏi
11


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng


mang tính khái quát nhưng lại phát huy được tính chủ động và sáng tạo của học
sinh. Qua đó tôi có thể thu nhận được một cách kịp thời mức độ hiểu bài của các
em đến đâu (tôi thường dùng các phiếu học tập với các câu hỏi đã chuẩn bị sẵn
và yêu cầu các em điền tên cũng như câu trả lời riêng của mình vào), từ đó tôi sẽ
có hướng điều chỉnh phương pháp dạy học của mình ở những tiết học tiếp theo.
Với văn bản Người lái đò sông Đà, tôi sẽ nêu câu hỏi vào phiếu học tập và
phát cho các em sau bài học với nội dung: Qua văn bản Người lái đò sông Đà,
bản thân em ấn tượng với vấn đề nào nhất ? Vì sao ?
3. Giáo án thực nghiệm:
Từ những giải pháp và biện pháp trên, tôi đã xây dựng được một giáo án cụ
thể cho tiết dạy văn bản: Người lái đò sông Đà theo đặc trưng thể loại.
TIẾT 45 - 46: ĐỌC VĂN:NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
( Trích "Tùy bút sông Đà"-Nguyễn Tuân )
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
- Cảm nhận được vẻ đẹp của con sông Đà và hình tượng người lái đò. Từ đó,
hiểu được tình yêu, sự đắm say của Nguyễn Tuân đối với thiên nhiên và con
người lao động miền Tây Bắc Tổ quốc;
- Thấy được sự tài hoa, uyên bác của nhà văn và hiểu được những nét đặc sắc
nghệ thuật của thiên tuỳ bút.
B. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG:
1. KIẾN THỨC:
- Vẻ đẹp đa dạng của sông Đà (hung bạo, trữ tình) và người lái đò (trí dũng, tài
hoa) trên trang văn của Nguyễn Tuân.
- Vốn ngôn ngữ dồi dào, biến hoá; câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu hình ảnh
và nhịp điệu; những ví von so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ.
2. KĨ NĂNG:
- Đọc - hiểu tuỳ bút theo đặc trưng thể loại.
3. THÁI ĐỘ:
- Học sinh cần có năng lực vận dụng những kiến thức liên môn để giải quyết
các vấn đề bài học đặt ra

- Nghiêm túc, hợp tác tốt, linh hoạt trong các hoạt động vận dụng kiến thức
liên môn trong việc lĩnh hội kiến thức
C. PHƯƠNG PHÁP, PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC:
1. PHƯƠNG PHÁP:

12


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

- Đọc sáng tạo.
- Đàm thoại gợi mở.
- Nêu vấn đề.
- Thuyết trình.
- Làm việc theo nhóm.
2. PHƯƠNG TIỆN:
- Sử dụng phiếu học tập.
- Sử dụng sách giáo khoa.
D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC.
Bước 1: Ổn định lớp,kiểm tra bài cũ.
Câu hỏi:Trình bày các giai đoạn và đề tài chính trong sự nghiệp sáng tác văn
chương của Nguyễn Tuân?
Bước 2: Giới thiệu bài. Ngược dòng chảy của thời gian trở về những năm
1960 của thế kỉ XX, theo bước chân của nhà văn Nguyễn Tuân; hôm nay cô và
các em sẽ cùng tìm hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà để tìm lời giải cho câu
hỏi: vì sao sông Đà được mệnh danh là dòng sông của thi ca, của huyền
thoại ...và người lá đò trên dòng sông ấy được xem là "chất vàng mười của Tây
Bắc".

Bước 3: Dạy bài mới.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS

YÊU CẦU CẦN ĐẠT

HĐ 1: GV hướng dẫn HS tìm I. TÌM HIỂU CHUNG:
hiểu tập Tùy bút sông Đà.
1. TẬP TUỲ BÚT “ Sông Đà ”: ( 1960 )
GV:
- Thể loại: Tập tùy bút sông Đà của Nguyễn
?Tập tùy bút sông Đà của
Nguyễn Tuân được viết theo thể
loại nào? Hãy nêu những hiểu
biết của em về thể loại đó?

Tuân được viết theo thể tùy bút.

+ Khái niệm: Tùy bút: Một thể loại thuộc loại
hình kí, rất gần với bút kí, kí sự. Nét nổi bật của
tùy bút là qua việc ghi chép những con người và
?Trình bày những hiểu biết của sự kiện cụ thể có thực, tác giả đặc biệt chú trọng
mình (hoàn cảnh sáng tác, nội đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức
dung, nghệ thuật) về tập tuỳ bút đánh giá của mình về con người và cuộc sống
“ Sông Đà ” của Nguyễn Tuân? hiện tại.
HS: Làm việc theo nhóm, thảo - Hoàn cảnh sáng tác: Tuỳ bút “Người lái đò
luận và trả lời bằng phiếu học sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà”
tập.( Có hình ảnh kèm theo).
(1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng
GV: Sau khi học sinh nêu những phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây
13



Sáng kiến kinh nghiệm
nét chính về tập tùy bút sông Đà,
GV: cho HS xem qua chân dung
Nguyễn Tuân cũng như một
đoạn phim về cuôn sách của
Nguyễn Tuận vừa xuất bản để
học sinh có sự đánh giá đúng
đắn về vị trí của Nguyễn Tuân
trong nền văn họcViệt Nam hiện
đại

Đỗ Thị Hằng
dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của
chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong
kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi
thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều
vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân
và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng
cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà
văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Nội dung:
+ Sông Đà đã miêu tả, phát hiện những điểm
quý báu trong tâm hồn con người chiến sĩ, người
công nhân hay người cán bộ địa chất, những
chiến sĩ biên phòng, người lao động.... “ Vàng
mười của tâm hồn vùng Tây Bắc ”.
+ Khám phá những vẻ đẹp thơ mộng, kì vĩ của
thiên nhiên Tây Bắc.

- Nghệ thuật: Thể hiện rõ phong cách nghệ
thuật độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng
tháng Tám.
+ Vừa ghi chép sự thật và thông tin thời sự
chính xác vừa liên tưởng phóng túng, táo bạo, bất
ngờ.
+ Nhìn sự vật ở chiều lịch sử, gắn hiện tại với
quá khứ và tương lai.
+ Ngôn ngữ nghệ thuật tinh tế, hiện đại, trí tuệ
giàu cảm xúc thẩm mĩ; đậm chất thơ, giàu chất
tạo hình.

HĐ 2: Hướng dẫn HS tìm hiểu
xuất xứ của tác phẩm Người lái
đò sông Đà.

2. XUẤT XỨ :
- Trích trong tập tuỳ bút “ Sông Đà ”.

GV: Hãy cho biết xuất xứ của
tác phẩm “ Người lái đò sông Đà
”?
HS: Trả lời

II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN:

HĐ 3: Hướng dẫn HS tìm hiểu
hình tượng sông Đà.

1. HÌNH TƯỢNG SÔNG ĐÀ:


GV: Tác phẩm có mấy hình
tượng nghệ thuật? Đó là những

1.1.LAI LỊCH SÔNG ĐÀ:
- Sông Đà, còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang là
phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông Đà bắt
14


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

hình tượng nào?

nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chảy theo
HS: Hình tượng Sông Đà và hướng tây bắc - đông nam để rồi nhập với sông
Hồng ở Phú Thọ.
hình tượng Ông lái đò.
GV: cho HS xem bản đồ về sông
Đà để các em vận dụng kiến
thức Địa lí vào việc khám phá
những đặc tính của sông Đà
bằng việc trả lời câu hỏi: Hãy
nêu những nét chính về sông
Đà?
HS: Làm việc theo nhóm, thảo
1.2. SÔNG ĐÀ HUNG BẠO, DỮ DỘI.
luận và trả lời bằng phiếu học

- Cảnh bờ sông: dựng thành vách, mặt sông chỗ
tập.
ấy lúc đúng ngọ mới có mặt trời; có chỗ vách đá
GV: Cho HS xem đoạn phim về
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu.
ký sự sông Đà và nêu câu hỏi:
Nêu cảm nhận của em về hình - Những ghềnh thác: ghềnh Hát loóng dài hàng
cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn
tượng Sông Đà?
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào
HS: Trình bày
cũng đòi nợ xuýt...
GV: Sự dữ dội của dòng sông Đà
- Tiếng thác nước: thở và kêu như cửa cống cái
đựơc hiện lên qua những chi tiết
bị sặc; nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van
nào?
xin....
HS: Trả lời
- Đá Sông Đà: Bày ra các thạch trận: vòng vây
thứ nhất, vòng vây thứ hai, vòng vây thứ ba...;Có
chiến thuật, miêu mô: mai phục, một số hòn bèn
nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền; Hình dáng: hòn
nào hòn nấy trông ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo
mó.
* Sông Đà hiện lên như một loài thuỷ quái
khổng lồ, nham hiểm và hung ác. Sẫn sàng nhấn
chìm những con thuyền và quật ngã những người
lái đò. Nó là kẻ thù số một của con người.
* Nhà văn Nguyễn Tuân đã sử dụng kiến thức

GV: Qua những chí tiết đó gợi của nhiều lĩnh vực khác nhau như điện ảnh, quân
cho em điều gì? Đánh giá những sự, thể thao. Bên cạnh đó là ngôn ngữ giàu tính
hình tượng cùng các thủ pháp so sánh ví
biện pháp nghệ thuật?
von...Tạo nên ghe gớm của thiên nhiên đối với
HS: Trả lời
con người - những người lái đò, thể hiện tài năng
GV: Cho HS xem hình ảnh khác và sức mạnh của con người.
về sông Đà và giới thiệu: Sông
15


Sáng kiến kinh nghiệm
Đà không chỉ hung bạo, dữ dội
mà còn là dòng sông thơ mộng,
trữ tình. Em hiểu thế nào là thơ
mộng và trữ tình?
HS: Trả lời

Đỗ Thị Hằng
1.3. SÔNG ĐÀ THƠ MỘNG, TRỮ TÌNH:
- Sông Đà thơ mộng:
+ “ Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình , đầu tóc chân tóc ẩn hiện dưới mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo...”

GV: Sự thơ mộng của sông Đà
+ nước Sông Đà : Mùa xuân - dòng xanh ngọc
được tái hiện như thế nào?
bích; mùa thu - lừ lừ chín đỏ như da mặt người

HS: Trả lời.
bầm đi vì rượu bữa.
-> Sông Đà như một mĩ nhân hiền dịu và xuân
sắc.
- Sông Đà trữ tình:
+ Con sông Đà gợi cảm. Sông Đà như một cố
nhân. -> nhớ thương, lưu luyến, gắn bó đầy ân
tình.
+ Gợi đến áng Đường thi.
+ Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm,
vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.
GV: Đánh giá những thủ pháp - Bờ Sông hoang dại như một bờ tiền sử; hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa -> Hiền
nghệ thuật của đoạn văn?
hoà, hồn nhiên.
HS: Trả lời
* Sông Đà hiện lên thật gần gũi quen thuộc,
chất chứa bao nỗi niềm cảm xúc; Sông Đà được
hiện lên trong cả không gian, thời gian và tình
HĐ 4: Hướng dẫn HS tìm hiểu cảm của con người. Đây là nét đối lập với Sông
Đà ở thượng nguồn nhưng nó đã tạo nên sự
hình tượng ông lái đò.
thống nhất về những vẻ đẹp của dòng Sông Đà.
GV: Để HS hiểu được cuộc vật
lộn mưu sinh của người lái đò
trên sông Đà, GV cho HS xem 2. HÌNH TƯỢNG ÔNG LÁI ĐÒ:
một số hình ảnh về người lái đò
- Cuộc sống của ông đò: “ cuộc chiến đấu với
và nêu câu hỏi: Cuộc sống của
thiên nhiên - một thứ thiên nhiên Tây Bắc, để

ông đò diễn ra như thế nào?
giành sự sống từ tay nó về tay mình: Cuộc chiến
HS: Trả lời
giữa người lái đò với thác nước và đá trên sông
GV: Cụôc sống đó tạo cho Ông Đà.
đò có hình dáng ra sao?
- Hình dáng: Tay lêu nghêu như cái sào, chân lúc
nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại, giọng ông ào ào
HS: Trả lời
như tiếng nước trước mặt ghềnh, nhỡn giới ông
vòi vọi...-> hình dáng của người lao động nơi
16


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

GV: Cuộc chiến giữa Ông đò và sông nước, hun đúc, tôi luyện trong lao động.
thác nước sông Đà diễn ra như - Cuộc chiến với thác nước và đá sông Đà:
thế nào?
Trùng vi thạch trận
Hành động ông đò
HS: Tìm hiểu theo bảng bên.
- Đá chia thành ba hàng - Hai tay gĩư chặt
trên sông đòi ăn chết cái mái chèo.
thuyền.
- Cố nén vết thương,
+ Hàng tiền vệ: hai hòn hai chân vẫn kẹp lấy
canh một cửa trông như là cuống lái.

sơ hở, dụ đối phương;
- Tiếng chỉ huy ngắn
+ Hàng tuyến hai: nước gọn, tỉnh táo.
sóng đánh khuýp vu hồi.
+ Hàng tuyến ba: boong
ke chìm và pháo đài nổi
phải đánh tan cái thuyền.
- Phối hợp là nước thác
làm thanh viện.
=> đông đặc, ranh ma, => Vượt qua vòng
mưu mô, liều mạng, đưa vây thứ nhất: Gan dạ,
ra các đoàn đánh hiểm dũng cảm , bình tĩnh
độc: hồi lùng, hồi tỉa, đoàn
âm...
- Thác nước mở ra nhiều - Nắm chắc binh
cửa tử đánh lừa cái pháp, thuộc quy luật
thuyền, của sinh lệch qua phục kích của lũ đá,
phía bờ hữu ngạn.
nhớ mặt bọn này..
- Bốn năm bọn thuỷ quân - Thay đổi chiến
cửa ải, thằng đá tướng thuật, cưỡi lên thác
đứng chiến ở cửa.
đá, đứa thì ông tránh
mặt, đứa thì ông đè
sán lên..
=> nham hiểm, xảo quyệt.

=> Sức mạnh vượt
thác của ông đò một vị tướng có tài
quan sát, thông minh

và khéo léo vâm
dụng linh hoạt chiến
thuật .
17


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Sau khi vượt thác ông đò
làm những gì? Qua đó em biết gì
về tính cách của ông đò?

Đỗ Thị Hằng

- Bên phải bên trái đều là - Đưa thuyền vun
cửa tử.
vút qua cổng đá cánh
mở cánh khép.
- Hàng đá hậu vệ.
=> Hiên ngang, tài
hoa.

HS: Trả lời

- Tính cách của ông đò: Sau khi vượt thác, đêm
GV: Nhận xét của em về ông hôm ấy ông đò đốt lửa trong hang đá, nướng
cơm lam và toàn bàn về chuyện cá; sóng thác xèo
Đò?
xèo tan trong trí nhớ -> toát lên vẻ khiêm
HS: Trả lời

nhường, bình dị
GV: Vận dụng kiến thức Môn * Ông đò hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau:
GDCD: Em học đươc tính cách vẻ đẹp của người lao động nơi sông nước trong
gì của ông lái đò sông Đà?
cuộc sống mưu sinh những đồng thời ở ông cũng
HS: Trả lời: Ngoan cường, dũng hiện lên vẻ đẹp của một người anh hùng chiến
trận - nơi thác nước, đá sông Đà và vẻ đẹp tài
cảm...
GV: Cho HS xem một số hình hoa của người nghệ sĩ: tay lái của ông thực sự trở
ảnh về sông Đà, người lái đò thành tay lái nở hoa.
hiện nay.
HĐ 5: Hướng dẫn HS tìm hiểu III. TỔNG KẾT:
phần tổng kết qua việc trả lời các 1. NGHỆ THUẬT: thể hiện rõ những đặc điểm
câu hỏi:
phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn
GV: Những giá trị nghệ thuật và Tuân.
ý nghĩa của tác phẩm là gì?
- Trí tuệ uyên bác, hiểu biết cặn kẽ những đặc
HS: Trả lời
* Bài tập cũng cố:

điểm của thác nước sông đà, vận dụng kiến thức
của nhiều lĩnh vực khác nhau.

GV:Qua văn bản Người lái đò - Tâm hồn phong phú nhạy cảm, khát khao
sông Đà, bản thân em ấn tượng khám phá những vẻ đẹp của thiên nhiên và con
người.
với vấn đề nào nhất ? Vì sao?
- Ngôn ngữ giàu hình ảnh, phong phú có sức gợi
HS suy nghĩ và trả lời.

cảm cao,...
- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, nhiều nhịp điệu,
lúc hối hả, gân guốc, khi chậm rãi, trữ tình...
2. Ý NGHĨA VĂN BẢN:
- Giới thiệu, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của
thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây
Bắc của Tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn
bó tha của Nguyễn Tuân Đối với đất nước và con

18


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng
người Việt Nam.

Bước 4: Hướng dẫn tự học.
- Tìm đọc trọn vẹn tác phẩm Người lái đò sông Đà.
- Liệt kê dẫn chứng và phân tích hiệu quả của một vài biện pháp nghệ thuật mà
nhà văn đã sử dụng để khắc họa hình tượng sông Đà.
- Phân tích hình ảnh người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác.

IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Bản thân tôi qua thực tế áp dụng đề tài này trong dạy học cho học sinh khối
12 trong các năm học: 2010 – 2011 và 2011 – 2012, 2012-2013 đã thu được
những kết quả cụ thể như sau:
Kết quả

Lớp


Tỷ lệ học sinh Tỷ lệ học sinh Tỷ lệ học sinh
nắm được nội nắm được nội nắm được nội
dung bài học
dung bài học
dung bài học Ghi chú
ở mức độ cao
ở mức độ
ở mức độ thấp
(%)
trung bình (%)
(%)

12A3 (20132014)

22

38

40

12A7 (20142015)

43

40

17

12A1(20152016)


50

40

10

Như vậy, từ bảng thống kê trên đây, bản thân tôi khi áp dụng đề tài này vào
dạy văn bản: Người lái đò sông Đà, đã giúp cho tỷ lệ học sinh hiểu bài ở mức độ
cao tăng lên đáng kể qua từng năm học: nếu năm học 2013 – 2014 số học sinh
này chỉ chiếm 22%, thì đến năm học tiếp theo đã tăng lên 43% và ở năm học
vừa qua tỷ lệ này là 50%. Đồng thời, số học sinh hiểu bài ở mức độ thấp đã
giảm: từ 40% năm học 2014 – 2015, xuống còn 17% ở năm học 2015– 2016 và
ở năm học vừa qua tỷ lệ này chỉ còn 10%. Từ kết quả thu được như trên, tôi
mạnh dạn trình bày đề tài Phương pháp đọc- hiểu văn bản Người lái đò sông
Đà theo đặc trưng thể loại, để đồng nghiệp có thể tham khảo và góp ý. Từ
đó, giúp tôi có điều kiện hoàn thiện hơn cho đề tài của mình cũng như góp phần
nâng cao hiệu quả của tiết dạy: Đọc - hiểu văn bản tùy bút mà cụ thể là văn bản
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
19


Sáng kiến kinh nghiệm

Đỗ Thị Hằng

20


Sáng kiến kinh nghiệm


Đỗ Thị Hằng
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Mục đích của bản thân tôi khi viết đề tài này là nhằm góp phần tạo hứng thú
cho học sinh trong các tiết đọc - hiểu văn bản ký sự nói chung và tiết đọc - hiểu
là văn bản Người lái đò sông Đà nói riêng. Đồng thời hình thành ở các em thói
quen trong việc chuẩn bị bài, cách lĩnh hội tri thức trên lớp, cũng như phát huy
được sự sáng tạo của học sinh trong mỗi tiết học.
Từ thực tiễn dạy học cùng với quá trình tự nghiên cứu, tôi đã mạnh dạn trình
bày ý kiến của mình đối với vấn đề Phương pháp đọc- hiểu văn bản “Người
lái đò sông Đà” theo đặc trưng thể loại. Bên cạnh những việc đã làm được bản
thân tôi tự nhận thấy còn nhiều hạn chế và thiếu xót trong đề tài nghiên cứu. Vậy
rất mong được các đồng nghiệp và hội đồng khoa học các cấp góp ý để tôi có thể
hoàn thiện hơn đề tài của mình.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 20 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người

khác

Đỗ Thị Hằng

21


Sáng kiến kinh nghiệm


Đỗ Thị Hằng
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đ ại học Quốc Gia Hà
Nội.
2. Trần Hưng Đạo, Hoàng Như Mai, Huỳnh Lý (1970), Vấn đề giảng dạy văn
học theo thể loại, tập 2, Nxb Giáo dục.
3. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 1999), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.
4. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ
biên, 2004), Từ điển văn học, Nxb Thế giới.

22



×