Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Rèn luyện một số kỹ năng giúp học sinh làm tốt phần đọc hiểu đề thi THPT quốc gia môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN LUYỆN MỘT SỐ KỸ NĂNG GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT
PHẦN ĐỌC HIỂU ĐỀ THI THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THPT Lê Hồng Phong
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2016


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Thi cử, kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy – học là một vấn đề mấu chốt,
được chương trình giáo dục phổ thông tổng thể do Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố
ngày 5/8/2015 định hướng: “Đánh giá kết quả học tập phải căn cứ vào yêu cầu cần
đạt của môn học đối với từng lớp học, cấp học; tập trung đánh giá năng lực đọc,
viết, nói, nghe, qua đó đánh giá năng lực tư duy; khuyến khích những suy nghĩ độc
lập, sáng tạo, hạn chế kiểm tra khả năng ghi nhớ máy móc”. Bắt đầu từ năm học
2014-2015, theo quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, kì thi THPT Quốc gia đã
được tổ chức trong toàn quốc. Đề thi môn Ngữ văn theo yêu cầu của kì thi Quốc
gia có nhiều điểm khác biệt.
Với mục tiêu đánh giá theo yêu cầu phát triển năng lực trên cả hai phương
diện tiếp nhận và tạo lập văn bản, đề thi môn Ngữ văn hiện nay cấu trúc gồm 2
phần: phần đọc hiểu và phần làm văn. Trong đó, phần đọc hiểu là một hướng tiếp


cận mới, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và chiếm 3/10 tổng số
điểm bài thi. Điều này xuất phát từ quan niệm không hoàn toàn giống trước về mục
tiêu, nội dung dạy học môn Ngữ văn. Không có trình độ, năng lực đọc thì không
thể hiểu đúng, đánh giá đúng văn bản. Không nắm vững, đánh giá được văn bản thì
không thể tiếp thu, bồi đắp được tri thức và cũng không có cơ sở để sáng tạo.
Bởi đây là phần mới trong đề thi nên vẫn còn những giáo viên chưa hệ thống
được tương đối đầy đủ kiến thức cần thiết quan trọng liên quan đến đọc hiểu văn
bản, chưa có phương pháp ôn tập phù hợp; không ít học sinh lớp 12 THPT lúng
túng khi làm bài. Bản thân tôi nhận thấy hướng dẫn cách làm tốt phần đọc hiểu cho
học sinh lớp 12 THPT là điều hết sức cấp thiết để các em đạt kết quả tốt nhất cho kì
thi quan trọng trong cuộc đời của mình.
Chính từ thực tế trên, chúng tôi mạnh dạn đem những hiểu biết và kinh
nghiệm tích lũy được trong quá trình dạy học xin được trình bày đề tài sáng kiến
kinh nghiệm: Rèn luyện một số kỹ năng giúp học sinh làm tốt phần đọc hiểu đề
thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn.
II. Mục đích nghiên cứu
Thứ nhất: trên cơ sở những kiến thức lý thuyết đọc hiểu cần phải nắm vững,
hệ thống các kỹ năng cần thiết để học sinh làm tốt phần đọc hiểu trong môn Ngữ
văn nói chung và đề thi THPT Quốc gia nói riêng.
Thứ hai: giúp học sinh chủ động, tự tin làm bài phần đọc hiểu trong đề thi
THPT Quốc gia đạt kết quả cao.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

2


Thứ ba: đề tài này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các giáo viên Ngữ
văn trong quá trình hướng dẫn học sinh luyện đề phần đọc hiểu môn Ngữ văn
III. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là những ngữ liệu được trích từ tác
phẩm trong SGK, Sách bài tập nhưng chủ yếu là ngữ liệu không nằm trong chương
trình; rèn luyện kĩ năng nhận biết các dạng câu hỏi đọc hiểu; rèn luyện kĩ năng trình
bày câu trả lời phần đọc hiểu; rèn luyện kĩ năng trình bày bài viết khoa học, phân
bố thời gian hợp lí.
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết: Đọc, tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu viết về
những kiến thức lý thuyết liên quan đến đọc – hiểu văn bản và rèn luyện kĩ năng
làm bài phần đọc – hiểu trong đề thi Ngữ văn.
- Nghiên cứu thực nghiệm: Tiến hành kiểm tra, đánh giá tại hai lớp 12C5, 12
C7.
- Thống kê toán học: Qua bài kiểm tra, đánh giá giáo viên thống kê kết quả
để đánh giá năng lực của học sinh.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

3


B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và chữ
viết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và sử dụng
bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe. Hiểu là phát
hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ý nghĩa
của mối quan hệ đó. Hiểu còn là sự bao quát hết nội dung và có thể vận dụng vào
đời sống. Hiểu là phải trả lời được các câu hỏi Cái gì? Như thế nào? Làm thế nào?
Đọc hiểu là đọc kết hợp với sự hình thành năng lực giải thích, phân tích, khái quát,
biện luận đúng - sai về lôgíc, nghĩa là kết hợp với năng lực, tư duy và biểu đạt.
Trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn hiện nay, phần đọc hiểu thường có

hình thức cho một văn bản và yêu cầu thí sinh dựa vào văn bản đó để trả lời các câu
hỏi đọc hiểu. Mục đích của các câu hỏi nhằm đánh giá xem người đọc có hiểu văn
bản không. Hiểu ở đây trước hết là phải nắm đúng, nắm đủ thông tin của văn bản;
hiểu nghĩa đen, nghĩa bóng của văn bản; cao hơn là phải hiểu sâu văn bản (nhất là
văn bản văn học) tức là hiểu những gì không nói trên câu chữ văn bản; hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau, phát hiện được những nội dung, ý nghĩa mà người khác
chưa/không thấy; thậm chí có khi nằm ngoài ý đồ của tác giả… Câu hỏi có thể là
dạng trắc nghiệm khách quan, có thể là tự luận, nhiều khi kết hợp cả hai. Văn bản
có thể là văn bản văn học, có thể là văn bản thông tin; có thể có trong chương trình
hoặc không có trong chương trình. Văn bản có thể chỉ là kênh chữ cũng có thể kết
hợp kênh chữ với kênh hình (bảng biểu, đồ thị, biểu đồ, tranh ảnh).
Hiện nay đã có nhiều tài liệu viết về vấn đề hướng dẫn học sinh cách làm bài
phần đọc hiểu trong đề thi Ngữ văn THPT nói chung và đề thi Ngữ văn THPT
Quốc gia nói riêng. Nhưng hầu hết các tài liệu chưa hệ thống một cách đầy đủ
những giải pháp cần thiết giúp học sinh làm bài thi phần đọc hiểu đạt kết quả tốt
nhất có thể.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Bắt đầu từ năm học 2013 – 2014, trong cả kì thi tốt nghiệp THPT và kì thi Đại
học, Cao đẳng đã xuất hiện phần đọc hiểu trong đề thi môn Ngữ văn. Năm học
2014 – 2015, Bộ GD & ĐT chính thức công bố phương án tổ chức một kì thi chung
- THPT Quốc gia. Đây là một bước tiến mới mang tính chất đột phá trong đổi mới
giáo dục. Xuất phát từ xu hướng đổi mới: từ kiểm tra đánh giá sự ghi nhớ những

Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

4


kiến thức (kiến thức do giáo viên đọc hộ, hiểu hộ, cảm hộ) chuyển sang kiển tra
đánh giá năng lực đọc – hiểu của học sinh (tự mình cảm thụ, tìm hiểu, khám phá

văn bản). Đây cũng là hướng tiếp cận với xu thế chung của thế giới. Nội dung kiến
thức để làm dạng đề này lại nằm rải rác ở chương trình và phụ thuộc rất lớn vào
khả năng đọc hiểu của học sinh, chưa có một tài liệu chính thống nào cung cấp
phương pháp, kĩ năng và xâu chuỗi vấn đề lại để hướng dẫn học sinh làm dạng bài
này một cách có hệ thống. Nhiều thầy cô giáo và học sinh còn chưa tự tin khi làm
phần Đọc hiểu.
Cùng với thực tế chung của các trường THPT trong cả nước, trường THPT Lê
Hồng Phong cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất định.Về phía giáo viên: các
giáo viên luôn yêu thích, say mê, tâm huyết với nghề. Song trong quá trình hướng
dẫn học sinh làm phần đọc hiểu vẫn, nhiều giáo viên chưa trang bị cho học sinh
một cách hệ thống những kĩ năng cần thiết phải có từ việc nhận diện các dạng câu
hỏi, cách trình bày câu hỏi, bài viết hay phân bố thời gian hợp lí. Về phía học sinh:
chưa phân biệt được các dạng câu hỏi đọc hiểu, kĩ năng làm bài còn yếu.
Năm học 2014 – 2015, tôi được nhà trường phân công dạy 2 lớp: 12C5, 12C7.
Sau khi làm bài số 1 theo cấu trúc đề thi THPT Quốc gia, tôi nhận thấy học sinh
chưa có kĩ năng làm bài phần đọc hiểu. Số lượng bài đạt mức điểm yếu và trung
bình chiếm đa số, điểm khá ít, còn điểm giỏi không có.
Khảo sát kết quả cụ thể ở 2 lớp 12C5, 12C7 với tổng số học sinh 68 em như
sau:
Điểm
0.0 – 1.25
1.5 - 2.0
2.25 - 2.5
2.75 - 3.0
Số HS
28
41.1%
36
52.9%
4

6.0%
0
0.0%
Từ thực trạng trên, để giảng dạy đạt hiệu quả hơn, tôi đã tìm tòi nghiên cứu,
mạnh dạn đổi mới phương pháp hướng dẫn học sinh làm tốt bài thi phần Đọc hiểu
đề thi Ngữ văn THPT Quốc gia.
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
1. Hệ thống các mức độ câu hỏi đọc hiểu
Đề bài đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh có cấu trúc gồm 2 phần:
- Phần 1: Đề đưa ra một văn bản: văn bản văn học hoặc văn bản nhật dụng,
văn xuôi hoặc thơ, có thể là một văn bản hoàn chỉnh hoặc một đoạn trích. Xu
hướng sẽ là một văn bản mới nằm ngoài sách giáo khoa.
- Phần 2: Đề đưa ra các câu hỏi ở 4 mức độ nhận thức từ thấp đến cao: nhận
biết (Biết) – thông hiểu (Hiểu) – vận dụng (thấp) – vận dụng cao.
1.1. Các câu hỏi ở mức độ nhận biết
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

5


Nhận biết, nghĩa là nhận ra được sự vật, hiện tượng, trả lời câu hỏi: Nó là gì?
Câu trả lời cũng không cần nêu chính xác định nghĩa, khái niệm mà chỉ cần miêu
tả, nêu, giới thiệu đúng đặc điểm của sự vật, hiện tượng ấy và quan trọng hơn là cần
nhận ra được sự vật, hiện tượng ấy trong thực tế.
Câu hỏi nhận biết thường có các dạng chủ yếu sau:
DẠNG 1: Yêu cầu nhận diện một số loại từ quan trọng
Loại từ
Đặc điểm
Từ đơn
Từ đơn là từ do một tiếng cấu tạo nên. Ví dụ: hoa, lá, hát, đi, đẹp,


Từ ghép
Từ ghép là từ được tạo thành bằng cách ghép hai hay nhiều tiếng
có quan hệ với nhau về nghĩa. Từ ghép có hai loại:
- Từ ghép đẳng lập: là từ ghép có các tiếng bình đẳng với nhau về
mặt ngữ pháp. Ví dụ: sách vở, nhà cửa, đi đứng,…
- Từ ghép chính phụ: là từ ghép có tiếng chính và tiếng phụ bổ
sung cho tiếng chính về mặt ý nghĩa. Tiếng chính đứng trước,
tiếng phụ đứng sau. Ví dụ: hoa hồng, xe đạp sách giáo khoa,…
Từ láy
Từ láy là những từ phức có quan hệ láy âm giữa các tiếng. Từ láy
được chia làm hai loại:
- Từ láy toàn bộ: là loại từ láy có các tiếng lặp lại nhau hoàn toàn.
Ví dụ: xanh xanh, xinh xinh,…; nhưng cũng có trường hợp tiếng
đứng trước biến đổi về thanh điệu hoặc phụ âm cuối để tạo ra sự
hài hòa về mặt âm thanh, ví dụ: tim tím, nhè nhẹ, ra rả, thăm
thẳm,…
- Từ láy bộ phận: từ láy có các tiếng giống nhau về phụ âm đầu
hoặc vần, ví dụ: rõ ràng, lí nhí, long lanh, lô nhô,…
Từ Hán Việt Từ Hán Việt là bộ phận quan trọng nhất trong từ mượn. Đơn vị
cấu tạo nên từ Hán Việt gọi là yếu tố Hán Việt. Ví dụ: sơn hà,
thiên đô, viễn khách,…
Từ tượng
- Từ tượng thanh: là những từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên,
thanh, từ
con người. Ví dụ: tí tách, lộp bộp, khúc khích,…
tượng hình
- Từ tượng hình: là những từ gợi tả hình dáng, dáng vẻ, trạng thái
của sự vật. Ví dụ: lênh khênh, mếu máo, lăn tăn,…
DẠNG 2: Yêu cầu nhận diện các phép liên kết hình thức

Các phép liên kết
Đặc điểm
Phép lặp từ ngữ
Lặp lại ở câu đứng sau những từ ngữ đã có ở câu trước.
Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ đồng nghĩa, trái
Phép đồng nghĩa, trái
nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở câu
nghĩa và liên tưởng
trước.
Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ có tác dụng thay thế
Phép thế
từ ngữ đã có ở câu trước.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

6


Phép nối

Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với
câu trước.

DẠNG 3: Yêu cầu về nhận diện phương thức biểu đạt
Phương thức biểu đạt
Mục đích giao tiếp
Trình bày diễn biến sự việc (kể lại, tường thuật lại một hệ
Tự sự
thống các sự kiện nối tiếp nhau)
Miêu tả
Tái hiện trạng thái sự vật, con người

Biểu cảm
Bày tỏ tình cảm, cảm xúc
Nghị luận
Nêu ý kiến đánh giá, bàn luận
Thuyết minh
Giới thiệu đặc điểm, tính chất, phương pháp
Trình bày ý muốn, quyết định nào đó, thể hiện quyền
Hành chính – công vụ
hạn, trách nhiệm giữa người và người
DẠNG 4: Yêu cầu nhận diện phong cách chức năng ngôn ngữ
Phong cách ngôn ngữ
Khái niệm
- Dùng trong giao tiếp hàng ngày, mang tính tự nhiên,
thoải mái và sinh động, giàu cảm xúc, ít trau chuốt.
PCNN sinh hoạt
- Dùng để thông tin, trao đổi ý nghĩ, tình cảm, đáp ứng
nhu cầu trong cuộc sống.
- Kiểu diễn đạt dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực
PCNN báo chí
truyền thông đại chúng.
- Chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương không
chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu
thẩm mĩ của con người.
PCNN nghệ thuật
- Nó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, trau
chuốt, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được
giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ.
- Dùng trong những văn bản trực tiếp bày tỏ tư tưởng,
lập trường, thái độ với những vấn đề thiết thực, nóng
PCNN chính luận

bỏng trong đời sống, đặc biệt trong các lĩnh vực chính
trị, xã hội.
- Dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực khoa học –
PCNN khoa học
công nghệ, phần lớn được sử dụng ở dạng viết nhưng
cũng có thể sử dụng ở dạng nói.
- Sử dụng trong các văn bản thuộc lĩnh vực giao tiếp
PCNN hành chính
điều hành và quản lí xã hội.
DẠNG 5: Yêu cầu nhận diện các kiểu văn bản
Phân loại
Các kiểu văn bản
Văn bản tự sự
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

7


Văn bản miêu tả
Phân loại văn bản theo Văn bản biểu cảm
phương thức biểu đạt
Văn bản nghị luận
Văn bản thuyết minh
Văn bản hành chính
Văn bản nghệ thuật
Văn bản sinh hoạt
Phân loại văn bản theo phong Văn bản báo chí
cách chức năng ngôn ngữ
Văn bản chính luận
Văn bản khoa học

Văn bản hành chính
DẠNG 6: Yêu cầu nhận diện các biện pháp nghệ thuật
* Một số phép tu từ ngữ âm:
- Phối hợp nhịp ngắn và nhịp dài: một số câu văn có lúc nhịp ngắn và nhịp dài.
Nhịp ngắn diễn tả cái náo nức hay dữ dội; nhịp dài thường diễn tả cảm xúc hay nối
tiếp của nhịp ngắn một cách cụ thể hơn.
- Hài thanh: phối hợp thanh bằng và thanh trắc.
- Tính chất đóng, mở của âm tiết.
- Phép điệp: thuộc vào phép tu từ ngữ âm gồm: điệp âm, điệp vần, điệp thanh.
* Một số phép tu từ từ vựng:
Các phép tu từ từ vựng
Khái niệm
Đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc
khác có nét tương đồng nhằm tăng sức gợi hình
So sánh
(giúp cho việc miêu tả sự vật, sự việc được cụ thể,
sinh động), gợi cảm (có tác dụng biểu hiện tư tưởng,
tình cảm sâu sắc) cho sự diễn đạt.
Gọi hoặc tả con vật, đồ vật, cây cối,... bằng những
từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người làm
Nhân hóa
cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật,... trở nên gần
gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ,
tình cảm của con người.
Là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật,
Ẩn dụ
hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm
tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên
của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan

Hoán dụ
hệ gần gũi (có nét tương cận) với nó nhằm tăng sức
gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Điệp từ (ngữ)
- Khi nói hoặc viết người ta có thể dùng biện pháp
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

8


lặp lại từ (ngữ) để làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh.
- Cách lặp lại như vậy gọi là phép điệp từ (ngữ). Từ
ngữ được lặp lại gọi là điệp từ (ngữ).
Là lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để
Chơi chữ
tạo sắc thái dí dỏm, hài hước,... làm câu văn hấp dẫn
và thú vị.
Là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính
Nói quá (thậm xưng)
chất của sự vật hiện tượng được miêu tả để nhấn
mạnh, gây ấn tượng tăng tính biểu cảm.
Là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị,
Nói giảm nói tránh
uyển chuyển, tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê
sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
* Một số phép tu từ cú pháp:
- Phép liệt kê: là thủ pháp sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hoặc cụm từ cùng loại
để diễn đạt trọn vẹn sâu sắc những khía cạnh khác nhau của thực tế hay tư tưởng,
tình cảm.
- Phép lặp cú pháp: là cách lặp đi lặp lại một kiểu câu nhằm nhấn mạnh và tạo

sắc thái biểu cảm cho ý cần diễn đạt.
- Câu hỏi tu từ: là thủ pháp nghệ thuật nhằm diễn tả cảm xúc và biểu đạt niềm
tin, sự xác nhận chắc chắn trước một đối tượng, một sự việc.
- Phép chêm xen: là bộ phận xen vào trong câu để ghi chú thêm một thông tin
nào đó. Nó có thể nằm ở vị trí giữa câu hoặc cuối câu. Khi nói, khi đọc, nó được
tách ra bằng ngữ điệu; khi viết, nó được tách ra bằng dấu phẩy, dấu ngoặc đơn hoặc
dấu gạch ngang.
* Một số biện pháp nghệ thuật khác:
- Phép đảo: đảo trật tự cú pháp, đảo ngữ để nhấn mạnh nội dung được đảo lên
trước.
- Phép đối: là biện pháp tạo nên những câu văn, câu thơ có hai vế đối xứng
giữa những từ ngữ tương ứng về số lượng tiếng, về từ loại và về ý nghĩa của các
tiếng, các từ và cả về kết cấu ngữ pháp và nhịp điệu của mỗi vế.
DẠNG 7: Yêu cầu nhận diện các thành phần ngữ pháp của câu
* Các thành phần chính của câu:
Các thành phần chính
Chức năng
- Là thành phần chính của câu nêu lên sự vật, hiện tượng,
Chủ ngữ
… là chủ thể của hành động, trạng thái, đặc điểm,… được
miêu tả ở vị ngữ.
Vị ngữ
- Là thành phần chính của câu nêu lên hành động, trạng
thái, tính chất,… của chủ thể được nói đến ở chủ ngữ.
* Các thành phần phụ của câu:
Các thành phần phụ
Chức năng
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

9



- Dùng để bổ sung ý nghĩa cho cả câu trên các phương
Trạng ngữ
diện thời gian, nơi chốn, phương tiện, mục đích, cách
thức, nguyên nhân.
- Có thể đứng ở đầu câu, giữa câu, cuối câu.
Bổ ngữ
Là thành phần cú pháp bổ sung ý nghĩa cho động từ, tính
từ.
Định ngữ
- Định ngữ là thành phần bổ sung ý nghĩa cho danh từ.
- Định ngữ có thể đứng ở giữa câu hoặc cuối câu.
- Là thành phần đứng trước chủ ngữ, dùng để nêu lên đề
tài của câu chứa nó.
Khởi ngữ
- Trước khởi ngữ có thể thêm vào các từ "về, đối với,
còn", sau khởi ngữ có thể thêm vào từ "thì". Khởi ngữ
ngăn cách với nòng cốt câu bằng từ "thì" hoặc bằng dấu
phẩy.
* Các thành phần biệt lập của câu:
- Thành phần tình thái được dùng để thể hiện cách nhìn của người nói đối với
sự việc được nói đến trong câu.
- Thành phần cảm thán dùng để bộc lộ tâm lí của người nói (vui, buồn, mừng,
giận,...).
- Thành phần gọi đáp dùng để tạo lập hoặc duy trì quan hệ giao tiếp.
- Thành phần phụ chú được dùng để bổ sung ý nghĩa cho một bộ phận của câu
hoặc cho cả câu.
DẠNG 8: Yêu cầu nhận diện các kiểu câu
* Các kiểu câu chia theo mục đích nói:

Kiểu câu
Ví dụ
Câu tường thuật
Mẹ đã về.
Câu cảm thán
A! Mẹ đã về.
Câu nghi vấn
Mẹ có về không?
Câu cầu khiến
Mẹ về đi!
* Các kiểu câu chia theo cấu tạo, chức năng ngữ pháp
Kiểu câu
Ví dụ
Nhiều độc giả rất yêu thích những trang văn của nhà văn Tô
Câu chủ động
Hoài.
Những trang văn của nhà văn Tô Hoài được nhiều độc giả
Câu bị động
yêu thích.
Câu khẳng định Tôi đã học hành rất chăm chỉ.
Nhiều bạn học sinh THPT hiện nay không nỗ lực trong học
Câu phủ định
tập.
Câu đặc biệt
Mưa. Gió. Não nùng. (đặt trong tình huống cụ thể).

Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

10



Câu đơn
Tôi đi học.
Câu ghép
Vì trời mưa nên tôi đi học muộn.
Lưu ý: Học sinh cần đọc kĩ câu hỏi: yêu cầu xác định kiểu câu theo mục đích
nói hay theo cấu tạo ngữ pháp để có câu trả lời đúng nhất.
DẠNG 9: Yêu cầu nhận diện các hình thức ngôn ngữ
- Ngôn ngữ trực tiếp:
+ Ngôn ngữ của nhân vật: trực tiếp, gián tiếp
+ Ngôn ngữ của người kể chuyện: trần thuật
- Ngôn ngữ nửa trực tiếp (đan xen giữa lời nhân vật và lời của người kể
chuyện): trần thuật nửa trực tiếp.
Ví dụ: Chỉ ra hình thức ngôn ngữ trong đoạn văn bản:
“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu
hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng
chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ
Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng
cả. Tức thật ! Ờ ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất ! Đã thế, hắn phải chửi
cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế
có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ
ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn
cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng
vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo ?
Có mà trời biết ! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết…”
(Chí Phèo - Nam Cao, Văn học 11 - Tập 1, NXB Giáo dục, 2000, tr.215-216)
Gợi ý: Hình thức ngôn ngữ trong đoạn văn là ngôn ngữ nửa trực tiếp. Đoạn
văn gồm lời của nhân vật, lời của người kể chuyện, lời của làng Vũ Đại.
DẠNG 10: Yêu cầu nhận diện các phương thức trần thuật
- Trần thuật từ ngôi thứ nhất do nhân vật tự kể chuyện (lời trực tiếp).

- Trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình.
- Trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình, nhưng điểm
nhìn và lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật trong tác phẩm (lời nửa trực tiếp).
Ví dụ:
“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái
ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay
sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng
cúi mặt, mặt buồn rười rượi…”
(Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
Gợi ý: phương thức trần thuật trong đoạn trích là từ ngôi thứ ba của người kể
chuyện tự giấu mình.
DẠNG 11: Yêu cầu nhận diện các lỗi
- Lỗi chính tả (lỗi âm, âm tiết: m - n, ch - tr, gi - r -d, x - s,...
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

11


- Lỗi dùng từ: cần biết được chuẩn mực về dùng từ trên các phương diện: về
nghĩa.
- Lỗi ngữ pháp: câu không đúng cấu trúc ngữ pháp.
- Lỗi lôgíc: ý nghĩa của các từ trong câu, các câu trong đoạn không đúng lôgíc.
- Lỗi phong cách: câu trong văn bản không đúng phong cách ngôn ngữ của
văn bản.
VD: Xác định các lỗi sai trong đoạn văn sau:
“... cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên là một sinh thể có linh hồn
với những tính cách đối địch: vừa hung bạo, vừa dữ rằn. Đây là lối nhân cách hóa
những đặc điểm vốn có của giòng sông thiên nhiên mà chực quan có thể nhìn
thấy”.
Gợi ý:

Lỗi chính tả: dữ rằng, giòng sông, chực quan; Lỗi dùng từ: đối địch; Lỗi ngữ
pháp: câu 1; Lỗi lôgíc: vừa hung bạo, vừa dữ rằn
DẠNG 12: Yêu cầu xác định câu nêu chủ đề của đoạn văn
- Câu chủ đề là câu nêu khái quát về đối tượng và vấn đề chính mà văn bản
biểu đạt.
- Vị trí: Căn cứ vào hình thức lập luận của đoạn văn để xác định vị trí câu nêu
chủ đề. Chẳng hạn: Đoạn văn diễn dịch thì câu chủ đề nằm ở đầu đoạn văn; đoạn
văn quy nạp, câu chủ đề sẽ nằm ở cuối đoạn văn đó,...
DẠNG 13: Yêu cầu nhận diện các thao tác lập luận
Thao tác lập luận
Đặc điểm
Thao tác lập luận giải thích
- Là cắt nghĩa một sự vật, hiện tượng, khái niệm
để người khác hiểu rõ, hiểu đúng vấn đề.
Thao tác lập luận phân tích
- Là cách chia nhỏ đối tượng thành nhiều yếu tố
bộ phận để đi sâu xem xét một cách toàn diện về
nội dung, hình thức của đối tượng.
Thao tác lập luận chứng minh - Dùng những bằng chứng chân thực, đã được
thừa nhận để chứng tỏ đối tượng.
Thao tác lập luận so sánh
- Làm sáng tỏ đối tượng đang nghiên cứu trong
mối tương quan với đối tượng khác.
Thao tác lập luận bình luận
- Bình luận là bàn bạc, nhận xét, đánh giá về một
vấn đề.
Thao tác lập luận bác bỏ
- Là cách trao đổi, tranh luận để bác bỏ ý kiến
được cho là sai.
DẠNG 14: Yêu cầu nhận diện một số thể thơ chủ yếu

- Thơ tự do (năm chữ, bảy chữ, tám chữ,...)
- Thơ lục bát
- Thơ song thất lục bát
1.2. Các câu hỏi ở mức độ thông hiểu
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

12


Thông hiểu, nghĩa là nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng, thường nhằm
trả lời câu hỏi tại sao.
- Dạng biểu hiện của đề:
+ Yêu cầu nêu nội dung chính của văn bản, hoặc của một câu, một đoạn nào
đó trong văn bản.
+ Cảm nhận được những đặc sắc nổi bật của văn bản.
+ Hiểu được ý nghĩa hàm ẩn của văn bản, đánh giá nội dung ý nghĩa và hình
thức của văn bản bằng kiến thức, kinh nghiệm của mình (mức độ tán thành hay
phản đối).
+ Đặt nhan đề cho văn bản.
1.3. Các câu hỏi ở mức độ vận dụng thấp
Vận dụng, trong môn Ngữ văn, chính là biết thực hành tạo lập sản phẩm diễn
ngôn trong giao tiếp (đọc, nghe, nói, viết). Vận dụng mức độ thấp là biết làm theo,
“bắt chước” những “mẫu mã” hay, đẹp, để tạo ra sản phẩm của mình.
- Dạng biểu hiện của đề: yêu cầu phân tích, nêu tác dụng những đặc sắc nổi
bật của văn bản (về bố cục, từ ngữ, hình ảnh, về cách viết câu, các biện pháp tu từ
được sử dụng,...).
1.4. Các câu hỏi ở mức độ vận dụng cao
Vận dụng ở mức cao muốn chỉ độ khó của sự vận dụng, thực hành; đòi hỏi
phải có sáng tạo; phải vận dụng được khả năng phân tích, tổng hợp; rút ra những
kết luận, nhận xét, đánh giá theo quan điểm của mình.

- Dạng biểu hiện của đề:
+ Yêu cầu bày tỏ quan điểm, thái độ của bản thân hoặc nhận xét, đánh giá
quan điểm, thái độ của người viết.
+ Liên hệ mở rộng một vấn đề nào đó từ văn bản bằng suy nghĩ, ý kiến của
mình.
+ Vận dụng văn bản để trình bày phương hướng, biện pháp giải quyết một vấn
đề cụ thể của cuộc sống, xã hội.
Lưu ý:
+ Trường hợp đề yêu cầu nêu quan điểm của bản thân về vấn đề liên quan đến
văn bản, thì học sinh phải nêu quan điểm riêng của bản thân, không nhắc lại quan
điểm của tác giả đã nêu trong văn bản.
+ Nếu đề yêu cầu rút ra bài học cho bản thân, học sinh cần bám sát vào nội
dung văn bản để đưa ra bài học phù hợp nhất.
2. Rèn luyện kỹ năng phân tích đề
- Bước 1: Đọc kĩ văn bản (nội dung và xuất xứ của văn bản).
- Bước 2: Đọc thật kĩ các câu hỏi, xác định đúng nội dung câu hỏi, gạch chân
những từ ngữ quan trọng.
- Bước 3: Xác định nội dung câu trả lời.
3. Rèn luyện kỹ năng trình bày câu trả lời
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

13


Phần đọc hiểu văn bản thường xuất hiện nhiều dạng câu hỏi. Mỗi dạng câu
hỏi, học sinh nên chọn cách trình bày phần trả lời cho phù hợp:
- Nếu câu hỏi yêu cầu ở mức độ nhận biết (thường là 13 dạng như ở phần trên)
hoặc chỉ ra một số thông tin trong văn bản ngữ liệu thì phần trả lời có thể viết dưới
dạng lùi đầu dòng (hay gạch đầu dòng), trả lời đủ ý là được.
- Nếu câu hỏi yêu cầu chỉ ra rồi làm rõ tác dụng của một từ ngữ, hình ảnh, các

biện pháp nghệ thuật,... hoặc nêu nhận xét, đánh giá, tình cảm, thái độ của bản
thân... về một vấn đề, một chi tiết nào đó... trong văn bản ngữ liệu thì phần trả lời
nên viết thành đoạn văn ngắn.
- Có trường hợp, ngay ở câu hỏi đã đưa ra yêu cầu về hình thức trả lời (Ví dụ:
trả lời bằng một đoạn văn khoảng 5 câu. Hoặc: viết khoảng 3 câu về tình cảm chủ
đạo của tác giả trong đoạn thơ, đoạn văn,...). Khi đó, học sinh phải đáp ứng đúng
yêu cầu về hình thức trả lời.
Dù trả lời theo hình thức lùi đầu dòng (hay gạch đầu dòng), viết thành đoạn
văn, bài văn hoàn chỉnh thì học sinh cần phải diễn đạt mạch lạc, trôi chảy; rõ ý;
càng có nhiều chất văn càng tốt. Rất hiếm khi học sinh phải trả lời câu hỏi bằng
một văn bản hoàn chỉnh ở phần đọc hiểu. Học sinh chỉ trả lời câu hỏi bằng một bài
văn hoàn chỉnh khi đề bài yêu cầu.
4. Rèn luyện kỹ năng phân bố thời gian hợp lí và trình bày bài viết khoa
học
- Phần đọc hiểu chiếm số điểm là 3/10 của bài văn. Vì vậy thời gian tối đa cho
phần này là 54 phút gồm: đọc đề, làm bài và kiểm tra, sửa chữa. Các em nên tận
dụng hiệu quả thời gian cho phần này. Trong trường hợp có chỗ nào sai, nên dùng
thước kẻ gạch đè lên để bỏ đi, rồi viết tiếp, mà không nên thay giấy thi, vì việc điền
lại các thông tin cá nhân trên phách và chép lại phần bài thi đã làm sẽ mất nhiều
thời gian.
- Học sinh cần trình bày bài viết khoa học, mang tính thẩm mỹ trong phần đọc
hiểu. Sau đây là một ví dụ về cách trình bày bài viết:
Đề bài:
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Học trò con trai ma quỷ
học trò con gái thần tiên
thầy xếp thần tiên ngồi kèm ma quỷ
Bén hơi ma quỷ ghẹo thần tiên
lập lòe đom đóm vĩnh cửu

ô mai đổi kẹo bạc hà
Lấm láp trang đời mỗi dày mỗi kịch
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

14


tuổi học trò đồng nghĩa với trang thơ
thời gian không mất trắng bao giờ
Câu chuyện học trò không đầu không cuối
tình ý học trò quả me chua loét
lưu bút mùa hoa phượng cháy không nguôi
Lá thư học trò vu vơ dấm dúi
nỗi nhớ học trò chấp chới suốt đời nhau
đẹp như là không đâu vào đâu.
(Kính gửi tuổi học trò - Nguyễn Duy,
36 bài thơ, Nxb Lao động, 2007, tr. 71-72)
Câu 1. Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2. Anh (chị) hiểu như thế nào về hai câu thơ: Học trò con trai ma quỷ/học trò
con gái thần tiên?
Câu 3. Tình cảm của nhà thơ trong bài thơ là gì?
Câu 4. Từ gợi ý của bài thơ trên, hãy viết một đoạn văn (không quá 10 câu) về chủ
đề: Tuổi học trò đồng nghĩa với trang thơ.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 5 đến câu 8:
…Nguy hơn, thực phẩm bẩn chính là kẻ sát nhân thầm lặng, ảnh hưởng và di
hại đến nhiều thế hệ làm kiệt quệ giống nòi, người tiêu dùng có còn đủ tỉnh táo để
phân biệt trong ma trận thực phẩm đang giăng như mạng nhện ấy đâu là sạch, đâu
là bẩn hay lực bất tòng tâm để rồi “nhắm mắt đưa chân”.
Nếu không có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn kịp thời, rồi đây 10, 20 năm
sau tỷ lệ mắc ung thư và tâm thần của người Việt sẽ còn cao hơn rất nhiều. Mọi nỗ

lực để nâng cao chất lượng sống, cải tạo nòi giống chẳng lẽ bó tay trước những
người đang đầu độc dân tộc mình!
Phát triển sẽ là gì nếu không phải giúp người dân nâng cao đời sống, tạo
môi trường lành mạnh, an toàn để mỗi chúng ta sống và đóng góp cho xã hội,
nhưng thực phẩm bẩn tràn lan hiện nay như là cái u ác tính cho cả dân tộc, nếu
không cắt bỏ sẽ di căn thành ung thư, hãy hành động ngay hôm nay đừng để đến
lúc vô phương cứu chữa .
(Vấn nạn thực phẩm bẩn, chẳng lẽ bó tay? - Th.s
Trương Khắc Trà - Báo Dân trí ngày 3/1/2016)
Câu 5. Nêu nội dung của đoạn trích?
Câu 6. Đoạn trích sử dụng thao tác lập luận gì?
Câu 7. Chỉ ra một biện pháp tu từ trong đoạn trích ? Qua biện pháp tu từ ấy, tác giả
muốn thể hiện thái độ gì khi bàn về thực phẩm bẩn?
Câu 8. Anh/Chị có suy nghĩ gì trước vấn nạn “ thực phẩm bẩn tràn lan hiện nay
như là cái u ác tính cho cả dân tộc”? (Trình bày khoảng 5 đến 7 dòng).
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

15


Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

16


Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

17



IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
1. Bằng phiếu điều tra
Lớp
HS có kỹ năng
HS chưa có kỹ năng
làm tốt phần đọc hiểu
làm tốt phần đọc hiểu
12C5
80%
20%
12C7
75%
25%
2. Bằng quan sát trực tiếp
Học sinh hào hứng, say sưa trong giờ học, đặc biệt những tiết luyện tập làm
bài phần đọc hiểu.
Khi kiểm tra hay thi thử, ầu hết các em luôn nỗ lực cố gắng trả lời câu hỏi
thật tốt và trình bày bài viết sạch đẹp vì nó góp phần không nhỏ vào tổng điểm bài
văn.
3. Kết quả kiểm tra
Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm ở hai lớp 12C5 và 12C7, kết quả kiểm tra
các đợt và thi thử đại học lần 2 (tháng 2.2015), lần 3 (tháng 6.2015) tính trung bình
đạt được như sau:
Điểm
0.0 – 1.25
1.5 - 2.0
2.25 - 2.5
2.75 - 3.0
Số HS

8
11.7%
33
48.5%
23
33.8%
4
6.0%
4. Áp dụng trong tổ bộ môn
100% giáo viên Ngữ văn trường THPT Lê Hồng Phong đã áp dụng các giải
pháp này trong các tiết dạy luyện đề đọc hiểu trên tất cả các lớp 12 và áp dụng
những đơn vị kiến thức phù hợp cho lớp 10, lớp 11 và nhận thấy hiệu quả rõ ràng.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

18


C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Phương pháp dạy học của giáo viên có ý nghĩa to lớn đến kết quả bài thi Ngữ
văn nói chung và phần đọc hiểu nói riêng. Do vậy, việc đổi mới phương pháp dạy
học đối với việc rèn luyện phần đọc hiểu ở bậc THPT là một yêu cầu cần thiết, đòi
hỏi nhiều công sức của cả giáo viên và học sinh.
Trên tinh thần đổi mới “lấy học sinh là trung tâm”, giáo viên tổ chức rèn
luyện kỹ năng phần đọc hiểu bằng các giải pháp phù hợp, học sinh hoàn toàn chủ
động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức và nâng cao kết quả bài làm. Bên cạnh đó, mỗi
học sinh cần phải phát huy tinh thần tự học, phải biết biến kiến thức của nhân loại
thành của riêng mình.
Việc rèn luyện kỹ năng phần đọc hiểu cho học sinh THPT, nhất là học sinh

khối 12 phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên với những mức độ tăng dần
sao cho trước khi bước vào kỳ thi THPT Quốc gia, các em được trang bị một cách
đầy đủ nhất, thuần thục nhất. Điều đó khiến các em không chỉ chủ động mà còn tự
tin làm bài đạt kết quả cao.
Trên đây là những kinh nghiệm được đúc rút trong quá trình rèn luyện kỹ
năng giúp học sinh làm tốt phần đọc hiểu trong đề thi Ngữ văn THPT Quốc gia.
Chúng tôi hi vọng ít nhiều giúp ích học sinh trong quá trình ôn tập và làm bài, đồng
nghiệp có thêm tư liệu tham khảo.
2. Kiến nghị
Căn cứ vào nội dung SGK và thực tế giảng dạy ở nhà trường phổ thông hiện
nay, tôi xin đề xuất một số vấn đề sau:
- Nhà trường cần cập nhật tài liệu về dạy học phần đọc hiểu để giáo viên và
học sinh tham khảo.
- Rèn luyện kỹ năng làm tốt phần đọc hiểu cho học sinh THPT cần tiến hành
ngay từ lớp 10 với những kĩ năng quan trọng, thiết yếu và bổ sung kiến thức cho
những năm tiếp theo.
- Mở các chuyên đề bộ về dạy học phần đọc hiểu để giáo viên đi dự nâng cao
chuyên môn, trao đổi các phương pháp dạy học phần đọc hiểu giữa các giáo viên.
Từ thực tế áp dụng tại trường THPT Lê Hồng Phong, tôi mạnh dạn nêu kinh
nghiệm nhỏ này để trao đổi cùng đồng nghiệp, rất mong được sự góp ý của các bạn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Nguyễn Thị Quế
Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Một số tư liệu lấy từ mạng Internet.
2/ Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học phổ thông (Bộ Giáo dục và
Đào tạo, NXBGD, 2007).
3/ SGK Ngữ văn 9 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXBGD, 2006).
4/ Ôn luyện thi vào lớp 10 môn Ngữ văn (NXBGD, 2015)
5/ SGK Ngữ văn 10 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXBGD, 2008).
6/ SGK Ngữ văn 11 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXBGD, 2008).
7/ SGK Ngữ văn 12 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXBGD, 2008).
8/ Ôn tập Ngữ văn chuẩn bị cho kì thi THPT Quốc gia (NXBGD, 2015)

Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

20


BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4

Kí hiệu viết tăt
GV
HS
THPT
SGK


Diễn giải
Giáo viên
Học sinh
Trung học phổ thông
Sách giáo khoa

Người thực hiện: Nguyễn Thị Quế – THPT Lê Hồng Phong

21



×