Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Rèn luyện năng lực tư duy và kỹ năng làm bài văn nghị luận cho học sinh THPT từ dạy tích hợp tác phẩm nghị luận trong nhà trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.07 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Đề mục

Trang 1

Phần 1. Mở đầu ….…………….………………………………………….. 2
I - Lí do chọn đề tài ………………………………………………………….2
II- Mục đích nghiên cứu ………………………………………………….. ..2
III- Đối tượng nghiên cứu …………………………………………………...3
IV- Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………….3
Phần 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm ………………………………..4
I. Cơ sở lí luận ………………………………………………………………4
1.Vài nét về tích hợp trong dạy học…………………………………………4
2.Vấn đề tích hợp trong giờ dạy văn bản nghị luận…………………………4
II.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ……………5
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề………………………….5
1. Sử dụng phương pháp tích hợp trong việc dạy văn bản nghị luận ở trường
THPT………………………………… …………………………………..5
2. Vận dụng phương pháp dạy học tích hợp cho bài dạy cụ thể…………….7
3. Rèn luyện kĩ năng thực hành làm văn nghị luận ……………………….10
3.1. Vận dụng kiến thức ………………………………………………… 10
3.2. Rèn luyện kĩ năng thực hành …………………………………………14
IV. Kết quả cúa SKKN……………………………………………………..16
1. Kết quả giờ dạy……………………………………………………… 17
2. Kết quả bài kiểm tra…………………………………………………… 17
Phần 3. Kết luận, kiến nghị …………………………………………….19
1. Kết luận…………………………………………………………………19
2. Kiến nghị……………………………………………………………… 19
Tài liệu tham khảo………………………………………………………..20

1




PHẦN 1. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dạy học tích hợp và khai thác văn bản dựa vào đặc trưng thể loại là phương
pháp đồng thời là yêu cầu mang tính ngun tắc của bộ mơn Ngữ Văn trong nhà
trường phổ thơng. Trong q trình giảng dạy, bản thân tơi nhận thức rất rõ tính
ưu việt của phương pháp này trong hệ thống phương pháp dạy học nói chung.
Người học không chỉ được chiếm lĩnh những kiến thức trong bài, mà còn mở
mang hiểu biết thêm nhiều loại tri thức khác có liên quan và có kĩ năng đọc- hiểu
các thể loại văn học các em được tiếp nhận từ đời sống, có khả năng ứng dụng
thực hành chủ động và tích cực, góp phần đáp ứng được u cầu chung của mục
đích giáo dục trong thời đại hiện nay.
Văn nghị luận một thể loại có vị trí quan trọng trong đời sống của nhân
loại. Văn nghị luận với những đặc trưng có tính phổ qt của thể loại như: tính
lập luận chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, giọng văn hùng hồn; kết hợp hài hồ giữa
vẻ đẹp trí tuệ và vẻ đẹp tình cảm. Làm văn nghị luận trong nhà trường chiếm
thời lượng khá lớn, trong đó nhiều thầy cơ vẫn phải loay hoay trong hướng đi
cịn rất mờ mịt này. Hầu hết giáo viên dạy văn đều nhận ra rằng, dạy làm vănmà bộ phận chủ yếu là dạy làm văn nghị luận, là một trong số những vấn đề nan
giải nhất. Một bài tốn khó đang đặt ra với giáo viên dạy văn: trong xu thế đổi
mới của thời đại, học sinh làm văn nghị luận có xu hướng được địi hỏi cao hơn.
Đây là con đường phát triển đúng đắn. Học sinh làm văn nghị luận sẽ thể hiện và
phát huy được năng lực tư duy và nhận thức toàn diện, khắc phục dần điểm yếu
lâu nay của giáo dục là học gạo, học để thi, nặng lí thuyết sng, sách vở sáo
mịn.
Là một giáo viên có tuổi nghề đã cao, u thích văn nghị luận và thời học
sinh cũng đã rất tâm huyết khi làm văn nghị luận. Tôi đã nhận thức sâu sắc từ
thực tế: Học sinh trung học phổ thông, trên địa bàn tôi trực tiếp đứng lớp, hầu hết
khi vào lớp 10 đều chưa biết làm văn nghị luận, sợ làm văn nghị luận. Học văn
nghị luận hay làm văn nghị luận đều là vấn đề nhức nhối của cả người dạy và

người học. Tôi đã trăn trở nhiều năm và đang tìm ra chìa khố khi làm cầu nối
giữa tác phẩm nghị luận và kĩ năng làm bài nghị luận cho học sinh về tư tưởng
đạo lí hay những vấn đề đời sống xã hội.
Vì những lí do trên, đúc rút từ trải nghiệm sau nhiều năm giảng dạy, tôi
mạnh dạn nghiên cứu đề tài : Rèn luyện năng lực tư duy và kĩ năng làm văn
nghị luận cho học sinh THPT từ dạy tích hợp tác phẩm nghị luận trong nhà
trường.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Đối với giáo viên:

2


Có thể vận dụng một trong những phương pháp hữu hiệu, giúp giảng dạy
phần văn nghị luận, chủ động vận dụng các kĩ năng thực hành làm văn nghị luận
có kết quả tốt.
- Đối với học sinh:
Tăng cường thêm kiến thức và rèn luyện các kĩ năng cơ bản để đọc- hiểu
văn bản nghị luận trong nhà trường, củng cố ở các em khả năng đào sâu suy
nghĩ, nâng cao mở rộng kiến thức. Đồng thời, rèn luyện kĩ năng làm văn nghị
luận về tư tưởng đạo lí và nghị luận đời sống xã hội theo hướng tích cực và sáng
tạo.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Học sinh THPT Thọ Xuân 4.
- Chọn lớp 11A2, 11A3 trường THPT Thọ Xuân 4 làm đối chứng.
- Các tác phẩm nghị luận tiêu biểu trong chương trình Ngữ Văn ở trường
THPT.
- Các bài làm văn nghị luận của học sinh THPT Thọ Xuân 4, đặc biệt lớp
11A2, 11A3 năm học 2015- 2016.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Về lí thuyết: Nghiên cứu tài liệu
- Thiết kế bài học ngữ văn THPT - do Phan Trọng Luận chủ biên.
- Phân tích và bình giảng Ngữ văn lớp 11, 12- do Nguyễn Đăng Mạnh chủ
biên.
- Các bài nghiên cứu cho các lớp bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình
và sách giáo khoa mơn Ngữ Văn – do Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử chủ biên.
2. Về thực tiễn:
- Dự giờ đồng nghiệp.
- Thực nghiệm đề tài vào giảng dạy cụ thể tác phẩm Chiếu cầu hiền – Ngữ
văn lớp 11.
- Chọn hai lớp có năng lực tiếp thu bài tương đương nhau: một lớp có vận
dụng triệt để phương pháp tích hợp trong giờ dạy, một lớp chỉ sử dụng chung
chung trong hệ thống phương pháp dạy học.

3


PHẦN 2. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
I.1. Vài nét về vấn đề tích hợp trong dạy học
Trong tác phẩm Khoa học sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển
các năng lực trong nhà trường, giáo sư Xaver Rogiers đã khẳng định: Do nhu
cầu xã hội, chúng ta cần phải hướng tới tích hợp trong dạy học.
* Quan điểm dạy học tích hợp:
Có nhiều quan điểm dạy học tích hợp, nhưng cơ bản vẫn theo các hướng sau:
- Quan điểm liên mơn, trong đó chúng ta phối hợp đóng góp của nhiều mơn
học để nghiên cứu và giải quyết một tình huống.
- Quan điểm xun mơn, trong đó chúng ta tìm cách phát triển ở học sinh
những kĩ năng xun mơn. Nghĩa là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng
mới, với những kiến thức và kĩ năng trước đó; những kiến thức và kĩ năng của

các lớp trên, bậc học trên bao hàm kiến thức và kĩ năng lớp dưới, bậc học dưới;
có thể áp dụng ở mọi lúc mọi nơi.
* Những quan điểm trên được các nhà giáo dục Việt Nam gọi là tích hợp
theo chiều ngang và theo chiều dọc.
- Tích hợp theo chiều dọc(quan điểm xuyên môn) phối hợp nhiều kiến thức,
của nhiều lĩnh vực: khoa học, đời sống,...theo nguyên tắc đồng tâm.
- Tích hợp theo chiều ngang(quan điểm liên mơn):thực chất là phối hợp sự
đóng góp của nhiều mơn với nguyên tắc đồng quy.
Ở đề tài này, khi vận dụng tích hợp trong dạy tác phẩm nghị luận, tơi chú ý vào
cả hai hình thức tích hợp theo chiều ngang và dọc.
I.2. Vấn đề tích hợp trong giờ dạy văn bản nghị luận trong nhà trường.
- Là hướng khai thác dựa vào những thơng tin ngồi văn bản, liên văn bản.
Như: tiểu sử tác giả, ngữ cảnh sản sinh ra văn bản,...để soi chiếu vào nội dung
góp phần giải mã các lớp ý nghĩa tiềm ẩn của tác phẩm.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp cận vấn đề trong tính liên thơng, sẽ tạo
được phản xạ tâm lí tích cực đến người học, giúp các em có lối tư duy ánh chiếu
vấn đề đặt ra trong tác phẩm với hơi thở, nhịp sống đương đại. Học sinh tự tìm
thấy ý nghĩa hiện đại mn thuở của những vấn đề mà nhà văn hướng tới.
- Dạy học tích hợp và khai thác văn bản dựa vào đặc trưng thể loại là phương
pháp đồng thời là yêu cầu mang tính nguyên tắc của bộ môn Ngữ văn trong nhà
trường phổ thông. Thể hiện rõ ở thái độ, niềm say mê học tập của học sinh trong
từng bài học. Từ đó người học không chỉ được chiếm lĩnh những kiến thức trong
bài, mà còn mở mang hiểu biết thêm nhiều loại tri thức khác có liên quan và có
kĩ năng đọc- hiểu các thể loại văn học các em được tiếp nhận từ đời sống.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Thực trạng của việc dạy học văn bản nghị luận và chất lượng làm bài
nghị luận của học sinh ở trường THPT hiện nay
4



Giảng dạy tác phẩm nghị luận nói chung được giáo viên nhận định chung là
khó. Trên thực tế, nhiều đồng nghiệp coi nhẹ những tác phẩm này, dạy với hình
thức chiếu lệ, qua loa. Cái khó ở đây là vận dụng phương pháp dạy học nào cho
phù hợp với từng văn bản; khơ là bởi nó khơng mượt mà như các tác phẩm thơ
hay những áng văn xuôi giàu chất trữ tình; khổ vì tìm ra những độc đáo, đặc sắc
trong bút pháp và nghệ thuật lập luận của tác phẩm chính luận đó mới có thể làm
tổ trong lịng người tiếp nhận.
Thực trạng kết quả làm văn nghị luận nhìn chung cũng khơng mấy khả
quan.
Qua điều tra, khảo sát về phía học sinh, qua dự giờ, trao đổi trực tiếp với
đồng nghiệp ở trường THPT Thọ Xuân 4, tôi rút ra một số nhận xét về thực trạng
của vấn đề nghiên cứu cụ thể như sau:
II.1. Về phía người thầy
Chủ yếu có hai hướng chính:
Một là: dạy truyền thụ theo phương pháp truyền thống và dạy sơ sài qua loa vì
học sinh khơng thích học nên cũng chẳng cần phải đầu tư.
Hai là: có ý thức đào sâu, hiểu sâu và cảm sâu, nhưng hoàn toàn tách rời giữa
việc tiếp nhận, cảm thụ tác phẩm phần đọc – hiểu với kĩ năng thực hành làm văn,
thậm chí coi đó là hai công việc không liên quan.
Rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh trong nhà trường là nhiệm vụ kết
tinh đầy đủ học với hành, điều kiện để bộc lộ rõ nhất nhân cách học sinh nhưng
chưa được người thầy quan tâm đầu tư đúng mức.
Nhiều giáo viên dạy văn chưa thực sự ý thứcđược mối quan hệ giữa văn
nghị luận với đời sống, chưa thực sự coi đời sống chính là cái gốc rễ duy nhất
sinh ra mọi thứ cho văn nghị luận. Và do đó, văn nghị luận trong nhà trường hiện
nay chưa thoát khỏi cái lốt khn sáo, cơng thức lối mịn, cử nghiệp.
II.2. Về phía người học
- Học sinh chưa hiểu bản chất, mục đích và đặc trưng của văn nghị luận, vai
trị chủ thể của người làm văn nghị luận.

- Học sinh làm văn nghị luận hầu như là bắt chước, chưa xác định đối tượng
nghị luận, bài làm chưa có luận điểm, khơng biết sử dụng dẫn chứng và đưa lí lẽ,
chưa tự tin để thể hiện quan điểm, lập trường của bản thân.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
III.1. Vận dụng phương pháp tích hợp trong dạy học văn và ý nghĩa của nó
trong việc dạy những văn bản nghị luận THPT
Để nâng cao ý thức dạy tích hợp một tác phẩm nghị luận trong nhà trường,
tôi hướng tới hai nhiệm vụ trọng tâm: Hiểu tác phẩm nghị luận ở giá trị thời đại
và giá trị bền vững trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật nghị luận.
Tôi luôn ý thức: học sinh phải được tiếp nhận tác phẩm với vai trò của một
bạn đọc vừa chủ động, vừa tự nhiên, vừa sâu sắc lâu bền với ý nghĩa lôi cuốn
5


mạnh mẽ của tác phẩm được soi từ nhiều chiều. Khi làm được điều này tôi đã tạo
được ảnh hưởng tích cực về việc rèn luyện học sinh làm văn nghị luận từ những
gì mà người học tiếp nhận được cách triển khai vấn đề của các tác giả qua mỗi
tác phẩm nghị luận. Từ đó, tơi đã dần dần hình thành một thái độ tích cực, chủ
động và hồn toàn tự tin cho khi làm một bài văn nghị luận theo yêu cầu đề ra.
Theo kinh nghiệm của bản thân đã nhiều năm giảng dạy, đặc biệt là dạy ở
vùng khó, tơi nhận ra một thực tế: Nếu giảng dạy tác phẩm văn chương, muốn có
sự cộng hưởng rung cảm của người học, cần phải có năng lực đặc biệt. Nhưng
dạy tác phẩm nghị luận lại có khả năng tác động trực tiếp tích cực đến nhiều đối
tượng, kể cả học sinh trung bình và dưới trung bình. Như vậy, người thầy nâng
cao năng lực làm văn nghị luận trong nhà trường nếu biết đầu tư sẽ có kết quả tốt
hơn làm văn cảm thụ tác phẩm văn chương. Đây cũng là con đường để để phát
triển tư duy tổng hợp, tích hợp từ nhiều kiến thức từ đời sống xã hội, cần thiết
cho mọi ngành nghề, cho mọi thời đại.
Ở nhiệm vụ này, tôi phải xác định đây là cơng việc liên tục, thường xun.
Khơng những xố nhồ ranh giới của việc học tác phẩm nghị luận và kĩ năng

làm văn của học sinh lâu nay đã cố hữu, mà còn tận dụng một cách dạy thực
hành hiệu quả từ những minh chứng cụ thể nhất, sống động nhất, hùng hồn nhất
ở mọi kĩ năng làm văn từ tác phẩm nghị luận tiêu biểu.
Tôi đã nắm vững yêu cầu của phương pháp dạy học hiện đại, kĩ năng làm
văn nói chung và làm văn nghị luận nói riêng, để xác định bài làm văn của học
sinh khơng cịn đơn thuần là một sự trả bài mang tính chất ép buộc, miễn
cưỡng những gì đã được học. Qua cơng việc làm văn, tôi đã tạo cho học sinh
được tập dượt một công việc hết sức cần cho đời sống, là tập nói năng cho người
khác, vì người khác, chứ khơng phải vì mình và chỉ cho mình.
Trong q trình lên lớp về phần văn nghị luận, tôi đã chỉ ra cho học sinh
một thức tế khi làm văn nghị luận đời sống, tư tưởng đạo lí: sức lơi cuốn đầu tiên
mà người thầy phải định hướng phải làm sao dẫn dắt người nghe, người đọc tìm
ra chân lí khi cùng tìm hiểu, cùng suy nghĩ, cân nhắc phải trái, đúng sai, chứ
không phải ép đối tượng phải công nhận một cách đơn giản, xuôi chiều, không
qua sự sàng lọc nghiêm khắc của tư duy và tình yêu lẽ phải. Đây là cơ sở quan
trọng để tôi phải định hướng, xác định rõ đối tượng, mục đích cũng như lựa
chọn cho mình một giọng điệu nghị luận vừa dân chủ, vừa trách nhiệm, tránh lối
viết gị bó, sáo mịn.
Như vậy, đối với bài làm văn của học sinh theo yêu cầu của dạy học hiện
đại, tôi đã cố gắng phát huy tối đa tính ưu việt của phương pháp làm văn truyền
thống, như tìm hiểu đề, tìm ý, xây dựng hệ thống luận điểm; mạch ý nên đi từ
mức độ thấp đến mức độ cao hơn, từ cái dễ nhận thấy đến cái khó nhận thấy
hơn… để các ý khơng chỉ được tổ chức khoa học, rõ ràng, mạch lạc, mà cịn có
khả năng duy trì được hứng thú theo dõi của đối tượng. Khơng những xố nhồ
6


ranh giới của việc học tác phẩm nghị luận và kĩ năng làm văn của học sinh lâu
nay đã cố hữu, mà còn tận dụng một cách dạy thực hành hiệu quả từ những minh
chứng cụ thể nhất, sống động nhất, hùng hồn nhất ở mọi kĩ năng làm văn từ tác

phẩm nghị luận tiêu biểu.
III.2. Vận dụng phương pháp cụ thể: Rèn luyện năng lực tư duy cho hoc
sinh từ việc dạy tích hợp tác phẩm nghị luận.
Dạy tích hợp văn bản “ Chiếu cầu hiền ” ( Ngô Thì Nhậm )- Ngữ văn 11
Trước khi đi vào đọc- hiểu văn bản này, tôi đã tiến hành xây dựng hệ thống
câu hỏi cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà:
Qua sách báo, em hãy tìm hiểu những nội dung có liên quan đến cuộc đời
vua Quang Trung; tác giả Ngơ Thì Nhậm. Danh phận, vị thế của mỗi người. Bối
cảnh lịch sử, xã hội có tác động như thế nào tới nội dung và cách thức lập luận
của các văn bản trên?
a. Tiểu dẫn
- Giáo viên nêu câu hỏi tìm hiểu: Phần tiểu dẫn đã cung cấp những nội dung
thơng tin gì về tác giả Ngơ Thì Nhậm?
Những nội dung đó giúp em được điều gì khi tìm hiểu văn bản?
- Qua sự chuẩn bị ở nhà, kết hợp với phần tiểu dẫn, học sinh có thể dễ dàng
có được những kiến giải ban đầu:
+ Ngơ Thì Nhậm xuất thân trong một gia đình có nhiều đời đỗ đạt và làm
quan to ở triều đình Lê - Trịnh. Bản thân ông là một cựu thần của nhà Lê, nhưng
nay đã ra cộng tác đắc lực cho triều Tây Sơn. Trong khi một số trí thức Bắc Hà
quay lưng hoặc chống lại tân triều, bất hợp tác với vua Quang Trung chỉ vì cố
chấp và tư tưởng trung quân lỗi thời, thì việc Ngơ Thì Nhậm bước qua lời
nguyền lịch sử “ trung thần bất sự nhị quân ” của Nho giáo đã thể hiện một tầm
nhìn quảng đại, một thái độ linh hoạt, mềm dẻo trong ứng xử của nhà văn.
+ Từ một văn thần của triều đình nhà Lê, nay được hoàng đế Quang Trung hết
mực tin dùng và giao trọng trách lớn, điều đó có sức thuyết phục rất lớn đối với
những ai cịn hồi nghi tấm lòng thành của vị vua Tây Sơn. Những ai còn mang
tư tưởng bảo thủ, cố chấp sẽ dễ tìm thấy lối thốt cho tâm lí mặc cảm vốn có
trong con người nhà Nho. Lựa chọn Ngơ Thì Nhậm chắp bút soạn Chiếu cầu
hiền, Nguyễn Huệ quả có tầm nhìn xa trơng rộng!
b. Phương pháp tích hợp vận dụng trong q trình giáo viên hướng dần học

sinh đọc-hiểu văn bản
Hỏi: Xác định đối tượng nghị luận?
- Do đối tượng hướng tới của văn bản chủ yếu là giới trí thức Bắc Hà, nên trong
q trình lập luận, ơng phải trổ hết tài năng của một nhà chính luận trong cuộc
hùng biện.
Hỏi: Lựa chọn giọng điệu nghị luận như thế nào? Chỉ ra cơ sở của việc lựa
chọn này?
7


Ngơ Thì Nhậm đang nói bằng tư tưởng của hồng đế Quang Trung- người
đang đứng trên bục cao của chiến thắng, song trong mắt khơng ít trí thức Bắc Hà
lại là kẻ thù của cựu triều! Do đó trong văn bản, giọng văn một mặt vừa phải thể
hiện quyền uy của một vị hoàng đế, mặt khác phải thật mềm mỏng, chân thành
mới hầu mong mục đích cầu hiền mang lại kết quả như mong muốn.
Hỏi: Nêu dẫn chứng cụ thể? Hiệu quả của cách đưa dẫn chứng?
+ Gọi tên đúng những đối tượng bất hợp tác hoặc hợp tác một cách giữ kẽ,
cầm chừng; hoặc phí đời bằng cách tìm đến cái chết để thể hiện thứ đạo lí ngu
trung, bằng những hình ảnh “ gõ mõ canh cửa”, “ ra biển vào sông”, “chết đuối
trên cạn”,.. là một lối diễn đạt hết sức tinh tế.
-> Giọng văn vừa có cảm thơng, vừa có khiển trách; vừa khun bảo, vừa
ngăn ngừa hết sức hợp lí.
- Cùng với hệ thống tri thức ngoài văn bản, như: bối cảnh thời đại, vị thế của
mỗi bên đối thoại và đặc điểm tâm lí cũng như lối giao tiếp có tính lễ nghi đặc
biệt của thời đại, đã chi phối cách viết của bài chiếu. Vấn đề viết cho ai? Viết để
làm gì? đã chi phối một cách sâu sắc đến nội dung (viết cái gì?) và hình thức
biểu hiện (viết như thế nào?) ở hệ thống luận điểm là rất rõ.
Hỏi: Xác định hệ thống luận điểm của bài chiếu và mối quan hệ chặt chẽ giữa
các luận điểm?
+ Ở phần mở đầu: tập trung luận về người tài và chức năng của họ

-> Người hiền tài được tác giả ví như “ngôi sao sáng trên trời cao”, chức
năng được xác định là “làm sứ giả cho thiên tử”. Đó là do đã được tác giả ý thức
rõ về sự tôn vinh và trân trọng rất mực đối với hiền tài.
Hỏi: Tác giả đã dùng hình ảnh nào để xây dựng mạch lập luận và lí lẽ của
mình?
Ngơ Thì Nhậm nói đến nhiều ngôi sao, là để dẫn chúng ta đến với một ngơi
sao chính: Bắc Thần (Bắc Đẩu). Bắc Thần trước hết là ngơi sao có vị trí đặc biệt
trên bầu trời- không ai là không biết. Quan trọng hơn, Bắc Thần cịn là hình ảnh
tượng trưng cho hồng đế trong hình dung của đức Khổng Tử. Mọi ngơi sao trên
bầu trời đều hướng về Bắc Đẩu, vậy thì sao-hiền tài khơng chầu về sao Bắc
Thần-thiên tử thì cịn chầu về đâu nữa? Từ một sự so sánh tưởng như ngẫu hứng,
mang nặng tình cảm, tác giả đi đến một kết luận nghiêm túc và hết sức lơ gích.
-> Chính lời của Khổng Tử được dẫn ra ngay từ đầu đã tạo nên tính chính
danh cho Chiếu cầu hiền. Đối với các nhà nho xưa lời Khổng Tử là chân lí, nào
ai dám không nghe theo!
+ Trọng điểm của phần thứ hai trong Chiếu cầu hiền là làm rõ tâm
nguyện của vua Quang Trung; mong có hiền tài ra giúp vua trị nước
Hỏi: Giọng điệu ở luận điểm này có gì đáng lưu ý?
Tác giả nói đến sự trốn tránh việc đời của kẻ sĩ thời rối ren. Đoạn văn chứa
đựng nhiều tầng ý. Một mặt là sự cảm thông, nhưng bề sâu là sự trách cứ. Lời lẽ
8


trình bày trong đoạn văn khá tế nhị: vì nó đụng chạm tới chuyện nhạy cảm: thái
độ bất hợp tác của các sĩ phu Bắc Hà. Chuyện đó khơng thể không nhắc lại, song
nhắc với thái độ như thế nào? Những gì biểu lộ trong đoạn văn cho thấy nhà vua
áo vải cờ đào này rất đại lượng, có tác dụng làm mờ đi bớt đi tính “khó chịu” của
các sự việc đã xảy ra.
Hỏi : Chỉ ra tính thuyết phục, chạm vào tâm tư của đói tượng nghị luận là sĩ
phu Bắc Hà?

Ngơ Thì Nhậm đã thực hiện được một sự “hồ giải” khéo léo, trên cơ sở hiểu
lịng ông vua tri kỉ. Và cũng từ đó mà tác gỉả khơi được mạch văn chảy tới
những lời bộc lộ thiết tha “ Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe ngày đêm mong
mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy ai tìm đến. Hay trẫm ít đức
khơng đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương
hầu chăng?”
-> Đi sâu vào tình thế lịch sử trước mắt và sự cấp thiết của việc cầu hiền, lời
văn từ mềm mỏng, tế nhị chuyển sang bộc trực, thẳng thắn. Toát lên từ đây là nỗi
lo lắng của quân vương, đối với vận nước khi thấy bộn bề những việc cấp bách
cần phải xử lí, sắp đặt: “kỉ cương nơi triều chính cịn nhiều khiếm khuyết, cơng
việc ngồi biên cương cịn phải lo toan. Dân còn mệt nhọc chưa lại sức”. Chúng
ta dường như cảm nhận một con người cụ thể đang hành động, kiên quyết hành
động vì một hồi bão lớn, đang hết sức cần một lực lượng phò tá; qua nhịp điệu
của lời văn “một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người
không thể dựng nghiệp trị bình.(...) trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này
há trong đó lại khơng có lấy một con người tài danh nào ra phị giúp cho chính
quyền buổi đầu của trẫm hay sao?. Sự cao giọng trong câu hỏi vừa trích, cịn
phản ánh cái gì khác ngồi niềm tin tưởng nhiệt thành vào “trữ lượng” hiền tài
của đất nước? Đúng là giọng của một con người đầy cá tính không chịu lùi bước
trước những trở ngại trên con đường gây dựng nghiệp lớn. Ngơ Thì Nhậm nói
dùm ước nguyện của qn vương hay chính nỗi lịng mình? Có thể nói ở đây có
sự cộng hưởng khát vọng giữa hai con người và giữa hai con người ấy với cả dân
tộc trong thời đại bấy giờ!
+ Phần thứ ba: chính sách cầu hiền của vua Quang Trung
Hỏi: Nêu chính sách cầu hiền của vua Quang Trung?Nhận xét và đánh
giá?
- Nội dung của chính sách đó có mấy điểm nổi bật: Cho phép những người
có tài năng thuộc mọi tầng lớp trong xã hội được dâng sớ tâu bày kế sách; cho
phép các quan văn võ tiến cử người; sẵn sàng cất nhắc người xứng đáng, không
kể thứ bậc “tuỳ tài lục dụng” những kẻ được tiến cử. Không trị tội người có lời

sơ xuất…
- Đúng là chính sách rộng mở, có nhiều điều khoản chi tiết và giàu tính “khả
thi”, rất phù hợp với buổi đầu dựng “nền đại định” của vua Quang Trung.
9


-> Rõ ràng khi ra chiếu cầu hiền, mọi việc đã được đấng quân vương trù liệu
khá kĩ. Ông đã tự chứng tỏ được tầm nhìn xa trơng rộng, cũng như khả năng tổ
chức sắp đặt chính sự của mình. Nhà vua đã biết giải quyết những băn khoăn có
thể có nảy sinh trong thời đại của mình cho mọi thần dân, để họ yên tâm khi
tham gia bàn việc nước. Trong một giọng điệu khoan hoà, điềm tĩnh rất dễ lọt tai,
giàu sức thuyết phục.
Như vậy, đối với tác phẩm Chiếu cầu hiền- một áng văn chính luận nổi
tiếng của văn học trung đại Việt Nam nói riêng và các tác phẩm nghị luận trong
chương trình phổ thơng nói chung, tơi đã khai thác trên tinh thần tích hợp. Về
kiến thức, tập trung chủ yếu theo hai hướng: khai thác giá trị thời sự và giá trị
bền vững về nội dung và nghệ thuật. Ln ln có ý thức tổ chức, hướng dẫn
học sinh tiếp nhận tác phẩm theo ý đồ của giáo viên. Sau khi học xong tác phẩm.
học sinh phải thu hoạch được những đơn vị kiến thức quan trọng sau:
- Sức thuyết phục của hệ thống luận điểm, học được cách xây dựng luận điểm
và cách sắp xếp luận điểm, học được cách sử dụng dẫn chứng và lí lẽ để làm
sáng tỏ luận điểm.
- Nhận ra được giọng điệu nghị luận, thấy được nhiệt huyết, nhiệt tình nghị
luận, có sự đồng cảm với tác giả từ sự chân thành, từ thái độ và quan điểm tích
cực của người viết.
Đây là cơ sở và cũng là yêu cầu vừa để tạo sự hoà nhập. đồng cảm, sự hứng
thú, thích thú với những kĩ năng làm văn nghị luận tạo được màu sắc cá nhân của
người viết. Khắc phục dần được cách viết biến văn nghị luận thành những bài
Giáo dục công dân nặng giáo huấn, hô hào lí thuyết sng.
III.3. Rèn luyện kĩ năng thực hành làm văn nghị luận cho học sinh bằng

phương pháp vận dụng lồng ghép sau khi dạy xong tác phẩm nghị luận
III.3.1.Vận dụng kiến thức
Trong thực tiễn sống, khi người ta dùng lời nói đúng, lời lẽ phải để luận bàn
và thuyết phục người khác nghe theo những quan điểm, ý kiến của mình về một
điều, một vấn đề nào đó, là chúng ta đã thực hiện một quá trình nghị luận. So với
nghị luận thông thường ở cuộc đời, làm văn nghị, viết văn nghị luận phải đòi
hỏi cao hơn vè nghệ thuật thuyết phục lịng người.
Chính vì vậy, trong q trình dạy làm văn cho học sinh, tơi ln chỉ ra sự
gần gũi, chứ không phải sự xa lạ giữa văn và thực tế đời sống. Do đó, về nội
dung, người thầy cần xác định rõ ràng hơn và nhấn mạnh hơn vấn đề đời sống
thời sự được đặt ra cho người nghị luận. Về phương pháp, nên bắt đầu từ chỗ học
sinh cảm nhận, trải nghiệm từ thực tế, cụ thể là từ những ví dụ rút từ hoạt động
nghị luận trong đời sống, trong những tác phẩm nghị luận tiêu biểu đề hình thành
và tạo thành những kĩ năng không hề khô khan, cứng nhắc như lâu nay học sinh
vẫn ngại, vẫn sợ.

10


Để thực hiện kĩ năng này có hiệu quả, tơi đã tinh giản lí thuyết, cố gắng
làm sao cho lí thuyết ấy dẫn đến thao tác, tới việc làm cụ thể mà học sinh thực
hiện được.
Đồng thời, khi áp dụng các phương pháp từ việc dạy tích hợp tác phẩm, tôi
rất chú ý đến sự vừa sức của học sinh, hướng tới những gì học sinh có thể đạt tới,
có thể làm theo một cách hứng thú, tích cực. Ngồi thời lượng ít ỏi trên lớp, tơi
đã chú trọng dành cho khâu rèn luyện bằng nhiều hoạt động: trả lời nhanh, thảo
luận nhóm, tìm hệ thống luận điểm, viết đoạn văn, viết bài văn nghị luận hoàn
chỉnh trong yêu cầu giao bài tập về nhà.
Rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận là một qui trình, quá trình từ cấp trung
học cơ sở, được chú trọng hơn trong bậc học THPT. Thực tế giảng dạy của cá

nhân, bản thân tôi đã ý thức nâng cao năng lực tư duy và kĩ năng làm văn nghị
luận từ học kì II của lớp 10, đặc biệt coi trọng nhiệm vụ này ở lớp 11. Để lên lớp
12, học sinh đã có thể vững vàng về nhận thức, quan điểm, thái độ với trách
nhiệm của người trong cuộc về một vấn đề nghị luận. Và hồn tồn chủ động về
kĩ năng, có thể viết một vấn đề nghị luận thuyết phục người nghe, người đọc
theo tinh thần của một công dân chứ không phải là một bài viết theo lối mịn,
khn mẫu khiến cả người dạy và người học đều mệt mỏi. Tôi ln coi trọng
hướng học sinh có một cái nhìn nhất quán, mối quan hệ chặt chẽ về học tác phẩm
văn nghị luận và rèn kĩ năng tập làm văn nghị luận. Khuyến khích và động viên
học sinh thực hành, làm cho những bài văn nghị luận của học sinh là năng lực, là
tư duy, là nhận thức, là trách nhiệm đối với cuộc sống mn màu. Các em được
nói và viết những điều các em đang nghĩ,đang quan tâm, được là chính mình.
Việc tổ chức và hướng dẫn học sinh xác định mục đích nghị luận, tìm ý,
xây dựng được hệ thống luận điểm trong bài làm văn nghị luận rất cần được vận
dụng các kiến thức đời sống xã hội một cách linh hoạt. Đặc biệt là tính lập luận
có hệ thống và vận dụng các thao tác lập luận một cách thuyết phục. Có nhiều
vấn đề đặt ra trong thực tiễn đời sống gần gũi với học sinh, thanh niên; có nhiều
hiện tượng xã hội đã và đang cần sự nhận thức đúng đắn và hành động tích cực
của mỗi cá nhân.Vì vậy, cần suy nghĩ độc lập và trung thực của người viết. Đây
là loại bài viết đòi hỏi rất cao đến sự sáng tạo chủ quan của người viết cũng như
nhiều giải pháp đặt ra trong từng trường hợp cụ thể. Rất cần tạo cho các em niềm
tin vào bản thân khi xử lí các vấn đề nghị luận.
- Xác định mục đích nghị luận:
Phải hướng dẫn học sinh xác định trúng vấn đề, khơng trình bày mơ hồ,
chung chung. Vì đặc điểm của bài văn nghị luận là ngắn gọn, súc tích, chặt chẽ.
- Hướng dẫn học sinh xây dựng luận điểm:
Tôi thường cho học sinh từ việc tìm hệ thống luận điểm của tác phẩm nghị
luận và mối quan hệ chặt chẽ của của các luận điểm trong hệ thống lập luận của

11



các tác giả, yêu cầu phải cho học sinh thấy vai trò tư duy sáng rõ, mạch lạc của
văn nghị luận từ hệ thống luận điểm.
Từ việc tìm hệ thống luận điểm trong bài Chiếu cầu hiền: Vai trò của người
hiền tài đối với đất nước -> Đương triều rất cần người hiền tài như thế nào?->
Vua Quang Trung xuống chiếu cầu hiền.
Trên thực tế, nhiều học sinh làm văn rất lúng túng, bài viết khồng có luận
điểm, khơng rõ luận điểm, hoặc vẫn quan niệm luận điểm là những ý chính trong
bài.
Tơi đã tổ chức hướng dẫn học sinh xây dựng hệ thống luận điểm theo sườn
chính sau:
+ Vai trò( ảnh hưởng) của vấn nghị luận đối với đời sống( hoặc tư tưởng đạo
lí) con người như thế nào?
+ Thực trạng ( Vấn đề nghị luận đã và đang có tác động tốt hay xấu, tích cực
hay tiêu cực?) Nguyên nhân? Hậu quả?
+ Có những giải pháp, đề xuất, nguyện vong của cá nhân cụ thể ra sao để
phát huy theo chiều hướng tích cực vấn đề nghị luận?
Trong đó, cho học sinh xác định luận điểm trọng tâm để làm cơ sở lựa chọn
hướng chủ động và phân phối thời gian hợp lí.
Hỏi: Phân biệt ý chính và hệ thống luận điểm trong bài làm văn nghị luận?
Điểm giống và khác?
- Đều là ý cơ bản, ý quan trọng nhưng ý chính có thể tồn tại độc lập nhưng hệ
thống luận điểm thể hiện mối quan hệ chặt chẽ gữa các ý, chuyển tải rất rõ ý đồ
và mục đích nghị luận.
Trước khi làm bài, bắt buộc học sinh phải xây dựng hệ được hệ thống luận
điểm, và tạo thành thói quen cho bài làm văn từ lớp 10 để tạo cho bài viết sự cân
đối, hợp lí về thời gian, dung lượng. Bài viết đủ ý, hướng viết mạch lạc, rõ ràng.
Mỗi đề văn, có thể dành thời gian tư 5 đến 7 phút ban đầu để tìm ý, xây dựng hệ
thống luận điểm.

- Có thể tìm luận điểm bằng cách đặt câu hỏi tạo mối liên hệ của các phần.
- Tạo phần chuyển ý để làm rõ cách lập luận: chọn và đưa dẫn chứng như
thế nào?
Học sinh chỉ có thể hồn tồn thuyết phục được đối tượng nghị luận của
mình chỉ khi quan điểm, ý kiến của mình phù hợp với lẽ phải và sự thật hiển
nhiên, có nghĩa là phải lựa chọn được dẫn chứng và đưa ra lí lẽ để xây dựng
luận cứ phải thực sự thuyết phục. Bởi chỉ thuyết phục được một người đang hồi
nghi bắt đầu từ những gì mà chính người ấy cũng đang tin tưởng. Con đường
nghị luận phải đi từ lẽ phải và sự thật thích hợp và đã được công nhận, vươn ra
những kết luận trung gian, để đạt đến mục đích cuối cùng.
- Tạo giọng văn truyền cảm, lôi cuốn từ việc học tập cách thể hiện giọng
điệu nghị luận của các tác giả.
12


Kể cả người dạy và người học, dường như từ xưa đến nay đều quan niệm:
Học và làm văn nghị luận vừa khơ vừa khó. Khơ vì khơng được thể hiện cảm
xúc. Khó vì nói và viết làm sao để có độ tin cậy, có sức thuyết phục. Trong khi
làm văn cảm thụ văn học học sinh được thể hiện tình cảm, cảm xúc dạt dào qua
hình tượng văn học…Đây là cái nhìn thiên lệch và thiếu thực tế. Bởi vì những
tác phẩm nghị luận tiêu biểu đặc sắc từ xưa đến nay đều được viết bằng cảm
xúc, tình cảm trực tiếp, giãi bày khơng giấu giếm. Có chăng, cảm xúc đó phải
được viết ra khơng được mang tính cụ thể, cá nhân, mà bao giờ cũng là tiếng nói
đại diện tiêu biểu, có nghĩa là cảm xúc đã được lí trí, tư duy dẫn đường.
Để rèn luyện cho học sinh viết văn nghị luận có giọng điệu nghị luận thuyết
phục, tơi đã địi hỏi học sinh phải nhập cuộc, khơng đứng ngồi cuộc, phải chịu
trách nhiệm trước vấn đề mình giải quyết.
Học sinh phải ý thức sâu sắc về vai trị của mình dù ở mức độ nào cũng cần
thái độ thẳng thắn, chân thành. Phải tự tin và tạo được một cách viết dân chủ để
tạo nên sự sẻ chia, đồng tình, thơng cảm, đồng cảm với đối tượng nghị luận và

đối tượng hướng tới.
Trong quá trình rèn luyện thực hành làm văn nghị luận cho học sinh, tôi luôn
ý thức cho học sinh nhận rõ: mỗi tác phẩm nghị luận là sự tổng hợp kiến thức
văn hoá, là sản phẩm kết tinh từ một sự hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực: văn
hố, chính trị, kinh tế, lịch sử, địa lí, triết học…Từ đó, tơi đã tổ chức hướng dẫn
học sinh có ý thức vận dụng một cách hứng thú. Tập cho học sinh trình bày
chính kiến, quan điểm trên tinh thần đối thoại dân chủ.
Đây là chìa khố giúp cho học sinh tự giải toả mặc cảm, định kiến là bài
văn nghị luận viết khó và viết khô khan. Thực tế là khi vận dụng vào bài làm
văn của học sinh, tơi đã khuyến khích học sinh viết thoải mái, được thể hiện vai
trò chủ động tự quyết khi trình bày và chia sẻ. Đa số các em đã viết hào hứng,
sơi nổi. Thậm chí nhiều bài văn của học trò thể hiện rõ được tính cách, thái độ cá
nhân với quan điểm rất thẳng thắn, rõ ràng, bản lĩnh. Tơi đã từng đã khóc vì xúc
động khi đọc những bài văn của học trị lên tiếng về những vấn đề nhạy cảm rất
nhiệt huyết, rất dũng cảm. Học trị đã chia sẻ với cơ như chia sẻ với một người
bạn chân thành, phá vỡ mọi ranh giới. Cảm nhận của hạnh phúc khi con đường
mình lựa chọn đã được học trị đón nhận tích cực.
III.3.2. Rèn luyện kĩ năng thực hành
Vận dụng các dạng đề mở gắn với nghị luận đời sống, tư tưởng đạo lí để yêu
cầu học sinh thực hành.
a. Trên lớp: tiến hành nhiều phương pháp lồng ghép, có thể theo qui trình:
- Vẽ sơ đồ tư duy về hệ thống luận điểm của tác phẩm ( Sau khi học xong
tác phẩm nghị luận)
- Thảo luận ( theo bàn học, theo nhóm nhỏ).

13


Sử dụng phương pháp này cho những vấn đề nghị luận mở, có thể có nhiều ý
kiến và thái độ khác nhau, thậm chí trái chiều. Giáo viên để cho các em được

tranh luận, được hùng biền, được đưa ra chính kiến, dám phủ nhận quan điểm
của người khác bằng lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục. Là người quan sát, lắng
nghe các em nói, giáo viên suy ngẫm, để chọn giải pháp tích cực hiện đại, tránh
áp đặt, đổ khuôn.
- Viết đoạn văn ngắn: Tập cho học sinh khả năng diễn đạt hành văn,ví dụ
viết đoạn văn cảm nhận về sức lôi cuốn và thuyết phục của tác phẩm từ giọng
điệu của tác giả, hoặc về giải pháp cụ thể của em về một đề nghị luận bất kì…
b. Về nhà: Giáo viên cho học sinh một hệ thống đề mở, yêu cầu học sinh
thực hành tạo lập văn bản ở các mức độ vận dụng thấp đến vần dụng cao.
Chú trọng kĩ năng hành văn, khả năng huy động kiến thức tích hợp, biết
cách tạo cho mình một bản lĩnh, một tâm thế để bàn bạc. đánh giá một vấn đề
nghị luận, biết lựa chọn một giọng điệu phù hợp hướng tới thuyết phục nhiều
người để có một sản phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân.
Vận dụng các dạng đề mở gắn với nghị luận tư tưởng đạo lí và đời sống xã hội.
Chú trọng các kĩ năng:
- Viết đoạn văn.
- Viết bài văn hoàn chỉnh.
Giáo viên : Ra đề, thu bài, chấm và chữa bài.
Ngoài các bài kiểm tra viết định kì theo yêu cầu bắt buộc của phân phối
chương trình chính khố, tơi đã đã thực hiện công việc này mất rất nhiều thời
gian bằng việc giao bài tập nhiều cho các em về nhà.
Phải lựa chọn đề vừa sức, lồng ghép tích hợp về kiến thức và vận dụng kĩ
năng. Phải chấm và phê kĩ, tránh phê chung chung( như bài làm khá, hướng viết
được..) . Tôi thường nhận xét và chỉ ra cụ thể những yêu cầu đạt và chưa đạt,
đặc biệt khuyến khích, trân trọng, cổ vũ những bài làm của học sinh có sự cố
gắng, nỗ lực theo yêu cầu của thầy. Tôi đã tận dụng lề đề khen, chê cụ thể giúp
học sinh nhận ra được mặt mạnh, mặt chưa làm được. Để từ đó, biết phát huy và
khắc phục ở bài làm sau. Đặc biệt, đối với địa bàn học sinh vùng sâu vùng khó
như trường tơi đang trực tiếp giảng dạy, chất lượng đầu vào các mơn văn hố rất
thấp, trong đó có mơn văn. Kĩ năng diễn đạt, hành văn hạn chế, mắc nhiều lỗi

chính tả, thậm chí viết chưa đúng câu. Giáo viên thiếu tâm huyết sẽ rất dễ chán
nản, buông xuôi. Tôi đã thực sự cố gắng truyền lửa trong mỗi giờ lên lớp, đặc
biệt là khâu chấm và chữa bài. Giờ trả bài luôn được học sinh rất trơng chờ,
phấn chấn. Khơng phải vì con điểm, mà là trông chờ sự tiến bộ trong mắt của
học trị và lời khích lệ từ cơ giáo.
Tơi thường chọn những vấn đề nghị luận gây tranh cãi, thậm chí trái chiều,
để học sinh học cách ứng xử, đưa vào tình huống phải tự lựa chọn, được thể
hiện quan điểm, chủ động cách trình bày. Sau đó, liên hệ đến những vấn đề thực
14


tế, liên quan thiết thực trong đời sống hàng ngày, tập cho học sinh đưa ra quan
điểm, chính kiến rõ ràng, tập đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho bản thân và
liên đới đến người xung quanh.
Tôi đã rất chú trọng khuyến khích học sinh thể hiện quan điểm, chính kiến.
Có thể cùng chiều hoặc trái chiều, quan trọng là phải hướng dẫn học sinh đưa ra
được lí lẽ và trình bày lí lẽ như thế nào để thuyết phục, lơi cuốn được người
khác đồng tình và ủng hộ theo cách mà các em lựa chọn.
Tôi đã tiến hành cho học sinh thực hành rèn luyện kĩ năng ngoài giờ học
chính khố trên lớp: theo các mức độ: tìm ý, xây dựng hệ thống luận điểm, viết
đoạn văn, viết bài văn hoàn chỉnh.
Một số dạng đề cơ bản:
Đề 1:
Từ lời tuyên ngôn thiêng liêng về chủ quyền đất nước của chủ tịch Hồ Chí
Minh vang lên ngày quốc khánh 2- 9, anh ( chị ) hãy lên tiếng về lịng u nước
của tuổi trẻ Việt Nam hơm nay.
Đề 2:
Suy nghĩ của anh chị về vai trò của người tài đức trong xã hội sau khi học
xong tác phẩm “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” và “Chiếu cầu hiền”? Theo
anh ( chị ), sức sông vượt thời gian của những tác phẩm này đã cho anh ( chị )

bài học nhận thức và hành động cụ thể nào?
Đề 3:
Trình bày quan điểm của anh ( chị ) về ý kiến sau:
“ Chỉ có tinh thần độc lập và tự trọng mới có thể nâng chúng ta lên trên những
nhỏ nhen của cuộc sống và bão táp của số phận”.
( A. Pu- skin) :
Đề 4:
Đọc bài thơ “Quán hàng phù thuỷ” của K.Baddjaddro người Ấn độ và bày
tỏ suy nghĩ của mình về triết lí của bài thơ :
Một phù thuỷ
Mở quán hàng nho nhỏ
- Mời vào đây
Ai mua gì cũng có.
Tơi là khách đầu tiên
Từ bên trong
Phù thuỷ ló ra nhìn
-Anh muốn gì?
-Tơi muốn mua tình u
Mua hạnh phúc,sự bình n,tình bạn,..
- Hàng chúng tơi chỉ bán cây non
15


Cũn qu chớn, anh phi trng,
Khụng bỏn!
(Thái Bá Tân dÞch)
Đề 5:
Có ý kiến cho rằng:
“ Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh của con người cũng quan trọng và cần thiết
như ca ngợi lịng vị tha, tình đồn kết ”.

Anh ( chị có đồng ý với ý kiến trên khơng? Hãy trình bày quan điểm của
mình.
Đề 6:
Người Nga có câu:
“ Nếu có hai cái bánh mì, tơi sẽ bán một cái để mua hoa hồng. Cả tâm hồn
cũng cần phải được ăn uống ”.
Suy nghĩ của anh ( chị ) về quan niệm sống trên đây.
Đề 7:
Trình bày suy nghĩ của anh ( chị ) về phong trào “ Mùa hè xanh tình
nguyện”.
Đề 8:
Từ lời kêu gọi của tổng thư kí liên hiệp quốc vì sức khoẻ tồn cầu: “ Trong
thế giới khốc liệt của AIDS khơng có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giới
đó im lặng đồng nghĩa với cái chết…Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến
chống lại HIV/ AIDS bắt đầu từ chính các bạn”. ( Cơ- phi An nan- Thơng điệp
nhân ngày thể giới phòng chống AIDS, 1 – 12 – 2003)
Anh ( chị ) làm gì để hưởng ứng lời kêu gọi ấy?
Đề 9:
Vào phòng triển lãm ở rừng quốc gia Cúc Phương ( Nho Quan – Ninh Bình),
bạn sẽ thấy trên tường một ơ cửa bằng gỗ có gắn tấm biển ghi dòng chữ: “ Kẻ
thù của rừng xanh”, mở cánh cửa ra là một tấm gương soi chính hình ảnh của
mình.
Anh ( chị ) đọc được điều gì qua thơng điệp trên?
Đề 10:
Anh chị hãy trình bày quan điểm của mình về ý kiến sau:
“ Bước vào thế kỉ mới,…nếp nghĩ sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức đều sẽ
cản trở sự phát triển của đất nước”.
Đề 11 :
Nhà thơ Mĩ Robetrt Frost viết:
“ Trong rừng có nhiều lối đi

Và tơi chọn lối đi khơng có dấu chân người ”.
Anh ( chị ) suy nghĩ như thế nào về ý tưởng gợi lên từ hai câu thơ trên?

16


IV. Kết quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường.
Thực tiễn giảng dạy của bản thân tôi đã áp dụng nội dung này từ rất lâu.
Các lớp do tôi trực tiếp giảng dạy từ lớp 10 đến lớp 12, nhìn chung đều có kĩ
năng vững vàng khi làm văn nghị luận tư tưởng đạo lí và đời sống xã hội. Cụ thể,
trong năm học này, để có nguồn minh chứng thuyết phục cho đề tài, tôi đã tiến
hành thực nghiệm ở lớp 11A2, và đối chứng với lớp 11A3, đều là hai lớp học
chương trình cơ bản mơn Ngữ văn ở trường THPT 4 Thọ Xuân, năm học 20152016.
Kết quả thu được:
IV.1. Trong giờ học
Tôi đã áp dụng đề tài để dạy tích hợp thao giảng lớp 11A3 bài dạy “ Chiếu cầu
hiền” cho Ban chuyên môn nhà trường và tổ bộ môn dự giờ, rút kinh nghiệm.
Kết quả giờ dạy được đánh giá xếp loại giờ giỏi ( đạt 19/ 20 điểm), có tác động
rất tích cực cho đồng nghiệp, được tổ- nhóm chun mơn đánh giá cao về việc
vận dụng cho các bài dạy nghị luận theo hướng mới rất hiệu quả. So sánh và đói
chứng, tơi nhận xét và kết luận:
* Lớp 11A2: Khơng chú ý vận dụng tích hợp và tách phần kĩ năng làm văn
với phần học tác phẩm nghị luận:
- Giờ học khô khan, học sinh khơng hứng thú tìm hiểu tác phẩm.
- Người học khơng nắm vững và lí giải xác đáng tầm tư tưởng lớn của người
viết, cũng như vẻ đẹp sức thuyết phục của từng văn bản, chưa có ý thức xác định
hệ thống luận điểm và mạch lập luận, giọng điệu nghị luận.
- Kĩ năng làm văn nghị luận nặng về công thức, thiếu màu sắc cá nhân.
* Lớp 11A3: Tập trung vận dụng đề tài:

- Học sinh chủ động xây dựng bài học, tự tin tìm tịi, khám phá, thảo luận để
đi đến những kiến thức cơ bản nhất. Biết hệ thống và khái quát những tri thức về
thể loại văn nghị luận.
- Chủ động, sáng tạo và hứng thú vận dụng thực hành tích cực về kĩ năng viết
văn nghị luận.
IV.2. Qua bài kiểm tra
Sau khi dạy thực nghiệm, đối chứng ở hai lớp 11A2, 11A3, tôi tiến hành cho
hai lớp làm bài kiểm tra 15 phút, 1 tiết để so sánh.
Kết quả kiểm tra:
Lớp

Số bài

11A2
50
(Thực nghiệm)

Điểm 0-4
SL
TL
2

4%

Điểm 5-6
SL
TL
15

Điểm 7-8

SL
TL

30% 25

Điểm 9-10
SL
TL

50% 3

6%

17


11A3
(Đối chứng)

48

8

17% 25

52% 15

31% 0

0%


Căn cứ vào sự đối chứng trên, có thể thấy rằng: Rèn luyện cho học sinh
nâng cao năng lực làm nghị luận là công việc hề khơng đơn giản nhưng khơng
phải q khó nếu người thầy thực sự trăn trở và tâm huyết với nghề của mình.
Như vậy, rõ ràng việc áp dụng đề tài nghiên cứu vào dạy học đã góp phần đổi
mới phương pháp dạy học và tạo hứng thú học văn cho học sinh, nậng cao hiệu
quả rõ rệt về chất lượng bài làm văn nghị luận.

18


PHẦN 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KÊT LUẬN
Vận dụng tích hợp linh hoạt trong hệ thống phương pháp dạy học nói
chung, đã giúp cho giáo viên khai thác sâu hơn vào bài học, học sinh được học
nhiều hơn, phát huy vận dụng sáng tạo các kĩ năng thực hành. Dạy học Ngữ văn
theo hưíng phát huy năng lực chđ ®éng của học sinh là con đờng
đúng đắn nhất nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo cho học sinh. Qua q trình thực hiện những kinh nghiệm, tơi tự rút ra
cho mình và đồng nghiệp một số bài học bổ ích sau:
- Cần căn cứ vào đối tượng cụ thể học sinh để lựa chọn cho mình một hướng
xây dựng và tiếp cận tác phẩm cho phù hợp và hiệu quả
- Trên thực tế còn khá nhiều HS chưa làm quen với cách tiếp cận bài giảng
một cách chủ động, thực hành cịn thấp, chưa có ý thức tự giác trong việc chuẩn
bị bài mới. Vấn đề này cần được vận dụng triệt để và quyết liệt, liên tục và cần
có thời gian.
Tạo điều kiện về tổ chức, về thời gian và động viên khuyến khích những giờ
dạy của giáo viên có đầu tư nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy.
II. KIẾN NGHỊ
1. Đối với nhà trường:

Nhà trường tạo điều kiện về tổ chức, về thời gian và động viên khuyến
khích những giờ dạy của giáo viên có đầu tư nghiên cứu đổi mới phương pháp
giảng dạy.
2. Đối với sở giáo dục:
Những sáng kiến kinh nghiệm có tính thực tiễn cao, nên tập trung giáo viên
giáo viên để phổ biến, học tập, tiếp thu, trong các chương trình bồi dưỡng giáo
viên. Để tất cả giáo viên được học, được bồi dưỡng, nhằm nâng cao năng lực
nghiệp vụ. Đó là một trong những yêu cầu của dạy học, vì việc học để cập nhật
thông tin tri thức, là việc làm suốt đời của người giáo viên.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày tháng 6 năm 2016
Tơi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.

19


Lê Thị Lương

Tài liệu tham khảo
1. Thiết kế bài học ngữ văn THPT - do Phan Trọng Luận chủ biên. ( NXB Giáo
dục)
2. Phân tích và bình giảng Ngữ văn lớp 11, 12- do Nguyễn Đăng Mạnh chủ
biên. ( NXB Giáo dục)
3. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình và sách giáo khoa mơn
Ngữ Văn lớp 10, 11, 12 – do Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử chủ biên. ( NXB
Giáo dục)

4. Hướng dẫn thực hiện chương trình SGK lớp 10, 11, 12 – do Phan Trọng
Luận, Trần Đình Sử chủ biên. ( NXB giáo dục)
5. Tác phẩm văn học trong nhà trường, một góc nhìn, một cách đọc. ( Phan Huy
Dũng- NXB Giáo dục)
6. Tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triern
năng lực học sinh- Môn Ngữ văn THPT ( Bộ giáo dục và đào tạo )
7. Tài liệu tập huấn: Đổi mới tổ chức và tổ chức hoạt động giáo dục ở trường
THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh.

20


21



×