Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hướng dẫn học sinh tìm hiểu truyện ngắn “rừng xà nu” của nguyễn trung thành dưới góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.91 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.1.1. Mối quan hệ văn học - văn hóa là vấn đề lý luận, đồng thời là vấn đề có
ý nghĩa thực tiễn trong nghiên cứu văn hoá, văn học, cũng như lý luận văn học. Văn
hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực của sự phát triển. Nghệ thuật là
dạng hoạt động đặc biệt của văn hoá, vì nó có khả năng phản ánh mọi phương thức
hoạt động của bất cứ lĩnh vực nào, thông qua hệ thống hình tượng. Trong lĩnh vực
nghệ thuật, văn học được xem là nhân tố quan trọng kết tinh văn hoá. Nhà nghiên
cứu Trường Lưu cho rằng: “Sáng tạo của lĩnh vực nghệ thuật nào cũng là một khâu
trong toàn bộ đời sống văn hoá, nhưng nghệ thuật văn chương bao giờ cũng được
xem như một lĩnh vực đặc biệt trong cái đặc biệt của nghệ thuật nói chung”
1.1.2. Văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, nên việc
tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần thiết và có triển vọng.
Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp học…cách
tiếp cận văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ
thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn hoá
liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có thể
được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm.
Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát
triển nói chung của văn học.
1.1.3. Quan hệ giữa văn hoá và văn học lâu nay đã được nhiều nhà nghiên cứu
đề cập đến và gặt hái được những thành công đáng kể. Trong đó nổi bật là các nhà
nghiên cứu Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Trần Đình Hượu, Trần Nho Thìn, Trần Ngọc
Vương, Đỗ Lai Thúy. Tuy nhiên, để soi chiếu góc nhìn văn hóa vào các tác phẩm cụ
thể, sự nghiệp sáng tác của một nhà văn cụ thể thì có rất ít. Tìm hiểu đặc trưng văn
hóa vùng miền qua văn học là một hướng tiếp cận tích cực, hữu ích. Từ cách nhìn
này, chúng tôi đi vào tìm hiểu, nghiên cứu vẻ đẹp của văn hóa Tây Nguyên qua tác
phẩm Rừng xà nu của tác giả Nguyễn Trung Thành. Đề tài này này là một trong
những thành quả của vấn đề mà chúng tôi đã và đang thực hiện.
1



1.1.4. Ít có nhà văn nào trong cuộc đời cầm bút của mình lại gắn bó máu thịt
với vùng đất Tây Nguyên như Nguyễn Trung Thành. Tác giả luôn có những tìm tòi,
trải nghiệm để sống sâu với văn hoá Tây Nguyên, để rồi, sản sinh ra những đứa con
tinh thần mang hơi thở của con người và hơi núi, hơi sông Tây Nguyên. Nhà văn
Nguyễn Trung Thành cũng đã nhiều lần khẳng định vị trí của văn hoá Tây Nguyên
trong các sáng tác về đề tài này của mình. Lý giải về sự thành công của những sáng
tác về đề tài Tây Nguyên, nhà văn tâm sự “Nói đến Tây Nguyên người ta thường hay
nghĩ, nói ngay đến thiên nhiên, núi non, rừng rú, cảnh quan lạ lùng của nó. Tất
nhiên cái đó là đúng và cũng tác động đến người mới bước chân đến đây. Nhưng
còn quan trọng hơn nhiều, theo tôi, là nền văn hoá của nó (...). Các dân tộc Tây
Nguyên đã “cấy trồng” trên đất đai núi rừng của mình một nền văn hoá lớn, cực kì
độc đáo và đặc sắc, lâu đời và bền vững”.
Qua sáng tác của Nguyễn Trung Thành, Đất và Người Tây Nguyên được hiện
lên khá phong phú, sinh động và hấp dẫn. Từ vị trí địa lí, sông hồ, sinh vật, thổ
nhưỡng đến dụng cụ lao động, cồng chiêng, nhà Rông, tính cách sống, phong tục, lễ
hội…Truyện ngắn “Rừng xà nu” tiêu biểu cho màu sắc Tây Nguyên trong sáng tác
của nhà văn. Hướng dẫn học sinh tiếp cận truyện “Rừng xà nu” dưới góc nhìn văn
hóa sẽ đem lại cái nhìn vừa cụ thể, gần gũi lại vừa mới mẻ, đa chiều, tạo hứng thú
cho các em tiếp nhận tác phẩm một cách sâu sắc, trọn vẹn hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này đi sâu vào hướng tiếp cận văn bản từ một góc nhìn khác – góc nhìn
văn hóa. Xuất phát từ thực tế dạy văn bản văn học hiện nay, người dạy chỉ định
hướng học sinh tiếp nhận theo phương pháp truyền thống: tìm hiểu tác giả, chủ đề tư
tưởng của tác phẩm, phân tích tình huống truyện, nhân vật, những biểu hiện nghệ
thuật…. Điều đó dẫn đến cách dạy – học nặng tính công thức, đơn điệu, nhàm chán.
Giờ học văn nặng tính thao tác, thiếu chiều sâu cho những tìm tòi, trải nghiệm, rung
cảm nghệ thuật. Văn bản văn học có tính mở, đa ngôn, đa nghĩa. Người dạy có thể
định hướng học sinh cách tiếp cận nhiều chiều, trong đó tiếp cận từ góc nhìn văn hóa
ở những tác phẩm khai thác đề tài lịch sử như truyện “Rừng xà nu” sẽ giúp học sinh

2


có cái nhìn gần gũi, thiết thực và sinh động hơn, từ đó khơi dậy tình yêu, lòng tự hào
về văn hóa, lịch sử của dân tộc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này hướng đến nghiên cứu những vấn đề cụ thể sau đây:
- Đề tài sáng tác mang đậm màu sắc văn hóa Tây Nguyên của tác giả Nguyễn Trung
Thành (bút danh khác là Nguyên Ngọc).
- Những ý kiến, chia sẻ sâu sắc của nhà văn về quá trình sáng tác những tác phẩm về
đề tài Tây Nguyên.
- Tập trung phân tích truyện ngắn “Rừng xà nu” dưới góc nhìn văn hóa qua cách tiếp
cận hình tượng nhân vật, tiếp cận những hình ảnh mang biểu tượng văn hóa Tây
Nguyên, qua ngôn ngữ mang đậm sắc thái Tây Nguyên.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.

3


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1.1. Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức,
phong tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá
thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt

động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất.
2.1.2. Tác phẩm văn học là nơi các nhà văn, nhà thơ kí gửi vào đó những trầm
tích văn hóa, thể hiện tư tưởng, tình cảm, lối sống của con người, dân tộc Việt Nam
qua các thời kì lịch sử khác nhau. Hình ảnh ông Huấn Cao cho chữ trong truyện
“Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân gợi lại một nét đẹp trong văn hóa
truyền thống: xin chữ và cho chữ, khi con người biết trân quý cái tài, cái thiện và các
đẹp. Nguyễn Khoa Điềm gửi vào trường ca “Mặt đường khát vọng” hai vỉa trầm tích
văn hóa dân gian và văn học dân gian để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của nhân
dân. Dẫn dụ như thế để thấy rằng văn học là nơi hội tụ những nét đẹp văn hóa, và
nhờ có những thành tố văn hóa mà văn học biểu đạt được tư tưởng và nghệ thuật
sâu sắc và độc đáo hơn.
2.1.3. Truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là tác phẩm có giá
trị. Giá trị của tác phẩm không chỉ thể hiện cảm hứng sử thi, lãng mạn, ở vẻ đẹp của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng mà còn được thể hiện rất sâu sắc qua yếu tố văn hóa,
từ đề tài, hình tượng nhân vật, biểu tượng, ngôn ngữ…Hướng dẫn học sinh tiếp cận
truyện Rừng xà nu dưới góc nhìn văn hóa là cách tiếp cận mềm hóa, linh hoạt, bởi từ
những yếu tố văn hóa, người thầy sẽ dẫn dắt các em đến với những vẻ đẹp mang
đậm sắc thái Tây Nguyên từ thiên nhiên, con người, phong tục tập quán, lối sống. Từ
đó các em sẽ thấy được văn hóa đã hun đúc những vẻ đẹp rất riêng của con người,
mảnh đất nơi đây, đặc biệt trong hoàn cảnh khắc nghiệt của công cuộc đấu tranh
chống đế quốc Mĩ.

4


2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Như một thói quen đã mặc đinh sẵn, người giáo viên dạy văn luôn đứng
dưới góc nhìn xã hội học để lí giải tác phẩm nên bỏ qua một khía cạnh vô cùng quan
trọng: góc nhìn văn hoá. Tác phẩm văn học là một thực thể văn hoá. Tác phẩm
không chỉ là tư tưởng, nó còn là văn hoá. Bởi vậy chỉ có thể hiểu đúng và đầy đủ tác

phẩm khi biết đặt vào cái nôi văn hoá, nơi nó sinh thành.
2.2.2. Có một thực trạng, khi dạy tác phẩm “Rừng xà nu “ của Nguyễn Trung
Thành, người dạy thường mặc nó cái áo may sẵn: "cảm hứng sử thi, cách mạng" và
xem tác phẩm như là một biểu trưng tinh thần bất khuất của các dân tộc Tây Nguyên
nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung. Điều này là đúng và cần thiết. Thế
nhưng, nếu chỉ thế thôi thì chẳng khác gì đem "chặt to kho mặn" (như lời nhà văn
nói về thực trạng dạy Rừng xà nu hiện nay) tác phẩm vốn chứa đựng rất nhiều những
giá trị văn hoá độc đáo và kỳ lạ của người Tây Nguyên. Không chỉ là văn hoá, Rừng
xà nu còn thấm đẫm thâm tình thuỷ chung vốn là đặc trưng làm nên tính cách cũng
như sức mạnh của con người Tây Nguyên.
2.2.3. Từ thực trạng còn nhiều bất cập ấy, việc tìm tòi một hướng tiếp cận mới
khi dạy tác phẩm “Rừng xà nu” là điều trăn trở của không ít thầy cô dạy văn. Qua
thực tiễn giảng dạy, chúng tôi nhận thấy tiếp cận tác phẩm này dưới gọc nhìn văn
hóa là hướng đi cần thiết, sẽ khơi nguồn cảm hứng mới cho cả người dạy và người
học tiếp nhận tác phẩm thêm sâu sắc, trọn vẹn hơn.
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề
2.3.1. Cây xà nu – biểu tượng văn hóa của người dân Tây Nguyên
Hình ảnh thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ kết tụ trong hình tượng rừng xà nu.
Cây xà nu là loài cây với vẻ đẹp và sức sống tiêu biểu cho mảnh đất và con người
nơi đây. Chọn rừng xà nu làm bối cảnh cho câu chuyện, nhà văn đã tạo được không
khí mang đậm sắc thái văn hóa Tây Nguyên bởi giữa cây và người có những nét
tương đồng kì lạ. Nguyễn Trung Thành tâm sự: “Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ
ngày đó. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, mỗi cây cao
vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông, tưởng như đã
5


sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng vạn, hàng triệu cây vô
tận. Không khí ở đây thơm lừng. Nệm lá dưới mặt đất ngả lưng êm ru...”
Đúng như vậy. Cây xà nu gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và tinh thần của

dân làng Xô Man. Khi đi vào tác phẩm, cây xà nu không những trở thành biểu tượng
cuộc đời của họ mà còn là hình ảnh tượng trưng cho những phẩm chất tốt đẹp của
đồng bào Tây Nguyên, văn hóa Tây Nguyên.
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu hình tượng cây xà nu, tôi lưu ý học sinh
hướng tiếp cận như sau:
- Cây xà nu – hình ảnh thiên nhiên mang phẩm chất văn hóa của mảnh
đất Tây Nguyên.
+ Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét: “Nguyên Ngọc (bút danh khác
của nhà văn Nguyễn Trung Thành) đích thực là tri thức của núi rừng, là nhà văn
hóa của Tây Nguyễn”. Trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc ông dã
gắn bó máu thịt với mảnh đất Tây Nguyên và có những sáng tác thành công về mảnh
đất và con người nơi đây. Tiếp nối tiểu thuyết “Đất Nước đứng lên” là truyện ngắn
“Rừng xà nu. Một trong những thành công công của tác phẩm là đã xây dựng được
hình tượng nghệ thuật độc đáo giàu giá trị biểu tượng như “Rừng xà nu”.
+ Trước hết rừng xà nu là hình tượng nghệ thuật lớn bao trùm toàn bộ tác
phẩm, đã xuất hiện ngay nhan đề của truyện, trong phần mở đầu và kết thúc, đặc biệt
còn rải rác khắp truyện với những hình ảnh khác nhau: đồi xà nu, rừng xà nu, khói
xà nu… đã đem đên sức sống mãnh liệt cho tác phẩm và trở thành điểm tựa cho nhà
văn suy ngẫm về mảnh đất và con người Tây Nguyên.
+ Trên mảnh đất Tây Nguyên có biết bao là loại cây sinh sôi nảy nở nhưng
Nguyễn Trung Thành đã lựa chọn cây xà nu làm hình tượng nghệ thuật lớn cho tác
phẩm của mình. Xà nu là loại cây họ thông, gỗ túy, nhựa thơm sức sống mãnh liệt,
mọc rất nhiều thành những cánh rừng lớn. Trong tác phẩm hình ảnh cây xà nu xuất
hiện tràn ngập tạo nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoang dã đậm đà bản sắc văn
hóa Tây Nguyên.
6


+ Bên cạnh việc lấy gỗ làm nhà, củi xà nu lại cháy sáng trong bếp lửa mỗi
nhà, phủ lên bảng cho Tnú học…thì xà nu cũng là nhân chứng cho mọi biến cố đau

thương và hào hùng của người dân Xô man. Dưới ngọn lửa xà nu Tnú đọc thư của
anh Quyết gửi dân làng trước lúc hi sinh, lửa xà nu cháy trên 10 đầu ngón tay của
Tnú trước điệu cười man dợ của kẻ thù và đáng nhớ nhất là nhựa, đuốc xà nu cháy
sáng trong tay cụ Mết trong đêm đồng khởi và xác 10 tên giặc nằm ngổn ngang bên
đống lửa xà nu.
Như vậy rừng xà nu không chỉ làm phông nền cho câu chuyện mà còn là linh
hồn của Tây Nguyên, của dân làng Xô man, là nhân chứng lịch sử thầm lặng của
cộng đồng người nơi đây.
- Cây xà nu – biểu tượng văn hóa của người dân Tây Nguyên.
+ Trong chiến ranh cây xà nu được nhà và khắc họa đại diện cho con người
Tây Nguyên đau thương. Thương tích chiến tranh mà rừng xà nu chịu được thể hiện
ngay ở đầu tác phẩm: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc…” câu văn đã khắc
họa một tư thế, một sức sống trong cuộc đấu tranh , đặt xà nu vào thế hiểm của hoàn
cảnh báo hiệu mọt cuộc quyết đấu căng thẳng trong bão táp chiến tranh. Xà nu ngày
ngày phải gánh chịu bao bom đạn của kẻ thù: “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào
ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn” cho nên “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có
cây nào không bị thương”. Nhìn vào góc rừng nào ta cũng bắt gặp dấu vết của sự tàn
phá hủy diệt. Và cũng chưa bao giờ ta được chứng kiến nét vẽ đau đớn về thiên
nhiên của Nguyễn Trung Thành:” có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ
ào à như một trận bão ở những vết thương nhựa ứa ra, ngọt ngào tràn trề, thơm ngào,
long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu
lớn”. Những hình ảnh ấy đều gợi ta đến nỗi đau thương của dân làng Xô Man
giống như rừng xà nu bị bom dạn hủy diệt.
+ Không chỉ vậy rừng xà nu còn biểu tượng cho sự kiên cường bất khuất,
sức sống mãnh liệt của người dân Xô Man. Từ rừng xà nu còn toát lên một sức
sóng mãnh liệt không một loài nào sống được: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục,
đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên
7



bầu trời”. Đặc biệt có những cây đã trưởng thành: “đạn đại bác không giết nổi
chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”.
Đóa là những hình ảnh tuyệt đẹp gợi lên sức sống mãnh liệt của rừng xà nu, nó là
bằng chứng cho thấy sự sống luôn mạnh hơn cái chết và nó tồn tại hơn ngay trong cả
sự hủy diệt. Già làng Mết cũng khẳng định sức sống mãnh liệt của cây xà nu:
“Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã cây con mọc lên đố nó giết
hết rừng xà nu này”. Bằng sức sóng mãnh liệt ấy những cây xà nu nối tiếp nhau tạo
thành những rừng xà nu bạt ngàn bất tận: “Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình
ra, che chở cho làng”.
+ Những cây xà nu nối tiếp nhau chính là biểu tượng cho người dân Xô
man nối tiếp nhau trên con đường đấu tranh giữ đất nước. Cụ Mết là cây xà nu
cổ thụ , là linh hồn, cội nguồn của dân làng. Tnu là lứa cây xà nu trưởng thành vững
chãi trong giông bão. Mai ngã xuống đã có Dít thay cho chị cứng cỏi và mạnh mẽ
hơn. Và sau Tnu đã có cậu bé Heng hứa hẹn một lớn cây xà nu trưởng thành trong
tương lai.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết
“Lớp cha trước lớp con sau,
Đã thành đồng chí chung câu quân hành”
Hay như Hoàng Trung Thông đã viết:
“Tôi lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua”
+ Cây xà nu ham ánh sáng nhựa thơm mỡ màng biểu tượng cho dân làng
xô man ham cuộc sống tự do và tâm hồn đẹp. Nhà văn Ngyễn Trung Thành đã
khẳng định trong tác phẩm của mình: “Đây là loại cây ham ánh sáng mặt trời đến
thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng. Từ trên cao rọi xuống từng luồng
thẳng tắp”, những hình ảnh đẹp ấy gợi lên niềm khao khát cuộc sống tự do và tình
yêu cách mạng của con người Tây Nguyên. Cây xà nu với nhựa thơm mỡ màng,
8



lóng lánh vô số hạt bụi vàng cũng như con người Tây Nguyên gian khổ lại càng tỏa
sáng.
Bằng ngòi bút tinh tế và cái nhìn nhạy cảm, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng
cây xà nu là hình tượng nhân vật mang biểu tượng văn hóa, tư tưởng, tiêu biểu cho
mảnh đất và con người Tây Nguyên. Nó vừa là không gian thực, khung cảnh thiên
nhiên thực ở làng Xô Man, vừa có ý nghĩa khái quát và tượng trưng rất cao. Cả hai
khía cạnh này đều được tác giả thể hiện một cách rất nghệ thuật, làm nên vẻ đẹp độc
đáo của hình tượng rừng xà nu. Cây xà nu, rừng xà nu đã thực sự trở thành linh hồn
của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo của nhà văn và giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật
của tác phẩm được tạo nên từ chính hình ảnh đó.
2.3.2. Các biểu tượng thể hiện văn hóa làng của người dân Tây Nguyên
Trong hệ thống tổ chức xã hội Tây Nguyên cổ truyền, làng có vị trí quan trọng
đặc biệt. Nói đến văn hoá làng người ta thường lưu ý đến các tập quán của làng. Có
những tập quán tích cực nhưng cũng có những tập quán tiêu cực. Dưới thời phong
kiến, thuộc địa, những hủ tục thường rất nặng nề ở các làng miền núi. Nhà văn Tô
Hoài đã xây dựng rất chân thực và sinh động những hủ tục ở các làng miền núi Tây
Bắc. Đọc Vợ chồng A Phủ, người đọc dễ dàng nhận ra một Hồng Ngài với hủ tục cho
vay nặng lãi, hủ tục trói buộc tự do của con người bằng lễ trình ma, và nặng nề nhất
là những kẻ thống trị làng xem chân lý trong một cuộc xử kiện chỉ là: “Khói thuốc
phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp...”. Đọc các sáng tác viết về
Tây Nguyên của Nguyên Ngọc, chúng ta ít thấy những nỗi ám ảnh nặng nề về các hủ
tục của làng như thế. Làng của Tây Nguyên được hình thành từ nền văn minh trồng
cây lúa khô nương rẫy. Đó là một hình thức xã hội gần như duy nhất và cũng là cội
nguồn của nền văn hoá bản địa. Vẻ đẹp của văn hoá cộng đồng làng trong lao động
sản xuất đã trở thành vẻ đẹp đoàn kết của bản anh hùng ca chống kẻ thù xâm lược
trong thời đại mới của các buôn làng Tây Nguyên. Sự cưu mang đùm bọc trong lao
động, trong quan hệ láng giềng đã trở thành chuẩn mực của giá trị đạo đức, đạo lý
và nhân cách, như một nguyên tắc lớn nhất của quan hệ cộng đồng làng. Trong cơn

đói gạo, đói muối quay quắt của cả làng, Núp đã nhường số lương thực của gia đình
9


mình cho Ghíp, cho lũ làng, cho con nít... Núp thiết tha nói với vợ: “Phải cho Ghíp
ăn. Bây giỡ đang đánh Pháp, để người chết đói không được... mai mốt tôi đi vô
rừng đào củ mài, bẻ rau ăn cũng được”. Tiểu đội trưởng Y Kơ - Bin trong Kỷ niệm
Tây Nguyên, “lớn lên không có mẹ. Một ông cụ đem anh về nuôi ở nhà rẫy”. Anh
Giải phóng quân Tnú trong Rừng xà nu “Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này
nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”....
Khi hướng đẫn học sinh tìm hiểu về các nhân vật (nhất là nhân vật Tnú)
tôi lưu ý các em về mối quan hệ gắn bó của nhân vật với làng Xô - man, lưu ý
các em các biểu tượng về văn hóa làng của dân làng Xô - man nói riêng, của
người dân Tây Nguyên nói chung:
Ở Rừng xà nu, bên cạnh ngọn lửa xà nu hừng hực nóng còn có ngọn gió mát
dịu từ con suổi và máng nước đầu làng, từ không khí nhà Rông. Rất tiếc rằng
"ngọn gió mát" ấy lâu nay không được tìm hiểu một cách thấu đáo nên đã làm giảm
đi rất nhiều vẻ đẹp của truyện ngắn được cho là thành công nhất của nhà văn
Nguyễn Trung Thành. Ngọn gió mát ấy chính là cái tình người sâu nặng của cộng
đồng Xô-man. Sự kiện Tnú trở về sau ba năm đi lực lượng đã làm cho không khí
thâm trầm của làng bỗng nhiên rạo rực hẳn lên: "Ở mỗi cửa nhà ló ra bốn, năm cái
đầu ngơ ngác. Những cặp mắt tròn xoe, rồi những tiếng ré lên và những tiếng
reo...cả làng đã vây chặt quanh Tnú". Hơn ở đâu hết, không gian làng ở Tây Nguyên
là một không gian luôn đầy ắp tình người. Tính cộng đồng và lẽ công bằng đã làm
nên đặc điểm đó của người Tây Nguyên. Đối với họ, chuyện của một gia đình cũng
là chuyện của làng, một nhà có khách là cả làng đến chia vui, không cần phải mời
mọc. Thật hạnh phúc biết bao! Đêm Tnú trở về, cả làng tụ họp ở nhà cụ Mết để
không phải chỉ nghe những lời giáo huấn của truyền thống mà quan trọng hơn là để
thể hiện niềm ân tình đối với một thành viên của cộng đồng. Đó là tình cảm thiêng
liêng mà người Tây Nguyên hằng tôn thờ như là sự tôn thờ Giàng tốt của họ. Vốn là


10


người rất am hiểu đời sống Tây Nguyên, tác giả đã dành rất nhiều chi tiết để nói về
tình cảm này thông qua các biểu tượng văn hóa như sau.
- Hình ảnh con suối đầu làng
Giáo viên dặt câu hỏi:
- Khi trở về làng, Tnú được bé Heng đón ở đâu, yêu cầu phải làm gì?
- Chi tiết bé Heng yêu cầu Tnú “rửa chân đi” có ý nghĩa như thế nào?
(Chi tiết không có ở văn bản trong SGK, giáo viên đã cung cấp văn bản đầy đủ để
học sinh đọc ở nhà)
Học sinh trả lời, giáo viên định hướng cách tiệp cận vấn đề:
Khi Tnu trở về làng, nếu chúng ta để ý một chút sẽ thấy rõ điều này: bé Heng
đón Tnú ở chỗ "con nước lớn", rồi đến chỗ "con suối nhỏ dẫn nước từ trong lòng đá
ra" bé Heng bảo Tnú "rửa chân đi". Tại sao phải rửa chân? Ở Xô-man, ranh giới
giữa làng và rừng là một dòng nước. Bên kia là rừng, bên này là làng. Rừng là tự
nhiên, làng là văn hoá (theo định nghĩa những gì không phải tự nhiên là văn hoá).
Chỉ là dòng nước thôi nên ranh giới ấy là hết sức mong manh, rừng có thể chiếm lại
làng bất cứ lúc nào. Người Tây Nguyên quan niệm rừng là nơi ngự trị của thần linh
và cả ma quỉ cho nên bước chân ra khỏi làng vào rừng là con người dễ trở thành "cái
tự nhiên", trở thành "người rừng" đầy mê hoặc. Bởi vậy khi Tnú bước chân vào làng
là phải "rửa chân", tức phải gột rửa "bụi bặm" của "người rừng" để trở về tinh khiết
của "người làng"- một thực thể đã được văn hoá làng thanh lọc.
- Hình ảnh máng nước
Giáo viên dặt câu hỏi:
- Khi đến máng nước đầu làng Tnú đã có hành động như thế nào?
11



- Vì sao khi vả nước lên đầu Tnú không lau khô tóc?
(2 chi tiết không có ở văn bản trong SGK, giáo viên đã cung cấp văn bản đầy đủ để
học sinh đọc ở nhà)
- Câu hỏi của cụ Mết: “Mày có nhớ cái máng nước ở đầu làng không?”có ý nghĩa
như thế nào?
- Vì sao cụ Mết thân hành dẫn Tnú ra tới máng nước đầu làng?
- Vì sao Tnú đã rửa sạch ở con suối nhỏ rồi nhưng khi được cụ Mết dẫn ra máng
nước đầu làng, anh vẫn rửa lại?
Học sinh trả lời, giáo viên định hướng cách tiệp cận vấn đề:
Văn hoá làng Tây Nguyên được nhà văn thể hiện rất đặc sắc qua hình ảnh
máng nước đầu làng. Khi đến suối nước nhỏ đầu làng, Tnú "bỏ mũ, cởi mấy khuy áo
trên ngực, rồi khom lưng xuống, ngửa hai bàn tay vả nước lên mặt, lên đầu. Nước
mát lạnh đến tê người. Máu trong đầu anh phản ứng, giần giật ở hai bên má". Hành
động của Tnú rất nhẹ nhàng, cẩn thận và có cái gì đó thành kính. Thành kính bới bến
nước là không gian thiêng liêng bậc nhất trong làng (cùng với không gian nhà
Rông). Hàng năm cứ đến mùa "ăn năm uống tháng" dân làng đều tổ chức lễ cúng
bến nước rất trang trọng để tạ ơn thần nước. Bến nước không chỉ đem lại nguồn
nước sinh hoạt cho làng, nó còn là nơi gặp gỡ tâm tình của dân làng sau mỗi buổi đi
rẫy về (điểm này giống với bến nước của làng Bắc bộ). Bởi vậy bến nước là nỗi nhớ,
là niềm thương da diết của những người đi xa làng. Ta hiểu vì sao sau khi vả nước
lên đầu, Tnú "không lau khô đầu tóc", Tnú để cho tình làng mơn man da thịt anh.
Bến nước cũng là thước đo cho tình cảm thuỷ chung với làng. Gặp Tnú, cụ
Mết hỏi: "Mày có nhớ cái máng nước ở chỗ nào không?...Nhớ à, được! Tưởng quên
rồi thì tau đuổi ra rừng, không cho ở làng nữa đâu". Ở Tây Nguyên, hình phạt
khủng khiếp nhất là bị tách ra khỏi cộng đồng, tức bị đuổi ra rừng. Khi ấy con người
12


chỉ biết trở về với bản nguyên rừng, tức phải chọn cái chết. Nếu Tnú mà quên cái
máng nước của làng (mà quên bến nước của làng cũng tức là không thuỷ chung với

làng) thì sẽ nhận hình phạt nặng nhất, cũng có nghĩa là con người ấy đáng khinh bỉ
nhất.
Tuy vậy, vẫn có một khía cạnh thú vị khác, đó là việc cụ Mết "thân hành dẫn
anh ra tới máng nước đầu làng". Điều này cho thấy được vai trò to lớn của người
già làng ở Tây Nguyên trong việc tổ chức đời sống tinh thần và giữ gìn văn hoá làng.
Nếu bé Heng nhắc anh "rửa chân" thì cụ Mết lại đưa anh ra máng nước, tức dắt anh
trở về với cội nguồn làng, với cộng đồng đã nuôi anh khôn lớn cả thể xác lẫn tâm
hồn. Hành động của cụ Mết cho chúng ta thấy được lòng nhân ái và sự hiền minh
của một tộc người nhỏ bé sống heo hút trên sườn núi Ngok Linh.
Dù Tnú đã rửa sạch ở con suối nhỏ rồi nhưng khi được cụ Mết dẫn ra máng
nước đầu làng, anh vẫn rửa lại "Anh cởi áo ra để cho vòi nước lạnh ngắt của làng
mình giội lên đầu, lên lưng, lên ngực như những ngày xưa...". Khác với câu chữ
cuồn cuộn khí thế trong trận quyết chiến với bọn thằng Dục, giọng văn ở đây nhẹ
nhàng và sâu lắng như chính tình cảm của cộng đồng làng. Ở chỗ máng nước, Tnú
đã được đắm mình trong mảnh hồn làng thân thương nhất, không phải chỉ một lần
mà hai lần mới thoả nỗi nhớ mong.
- Âm thanh của tiếng chày giã gạo
Giáo viên đặt câu hỏi:
- Khi nghe âm thanh của tiếng chày giả gạo tâm trạng của Tnú đã thay đổi như thế
nào? (Chi tiết không có ở văn bản trong SGK, giáo viên đã cung cấp văn bản đầy đủ
để học sinh đọc ở nhà)
Học sinh trả lời, giáo viên định hướng cách tiệp cận vấn đề:

13


Có một chi tiết rất đáng chú ý mà chắc chắn Nguyễn Trung Thành gửi gắm rất
nhiều ý tưởng của mình, đó là tiếng chày giã gạo của dân làng. Rất tiếc chi tiết này
đã bị lược bỏ. Vì là chi tiết mang đậm dấu ấn văn hóa nên giáo viên có trách nhiệm
cho học sinh nắm bắt chi tiết này trong chỉnh thể tác phẩm: Cái âm thanh khiến

“Mặt đanh lại. Anh lẳng lặng đi cho đến khi anh nhận ra tiếng chày dồn dập của
làng anh. Bây giờ anh chợt hiểu ra rằng hình như cái mà anh nhớ nhất ở làng, nỗi
nhớ day dứt lòng anh suốt ba năm nay chính là tiếng chày đó, tiếng chày chuyên
cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa,
của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi. Tnú cố giữ
bình tĩnh nhưng ngực anh vẫn đập liên hồi, chân cứ vấp mãi mấy cái rễ cây ở chỗ
ngã quẹo vào làng”. Cũng như tiếng mái chèo đuổi cá ở những làng đánh cá ven
sông miền xuôi, tiếng chày giã gạo của làng miền núi đã trở thành âm thanh của ký
ức mà những lúc đi xa, người ta nhớ đến nao lòng. Tnú cũng vậy, cái âm thanh được
tạo nên bởi bàn tay của mẹ, của Mai, của Dít, của những người phụ nữ Strá đã đi vào
tâm thức của anh. Đó cũng là một mảnh hồn làng mà anh luôn theo bên mình để
nhắc nhở anh, để thôi thúc anh, để đưa anh trở về nguồn cội. Cho nên khi Tnú nghe
lại âm thanh ấy thì "ngực anh đập liên hồi, chân cứ vấp mãi mấy cái rế cây ở chỗ
ngã quẹo vào làng". Anh đã xúc động thật sự, yêu thương thật sự. Điều này cho thấy
đời sống tâm hồn phong phú của Tnú, bên cạnh phẩm chất anh hùng của anh. Có thể
nói sức sống của văn hoá làng đã tạo nên sức mạnh của những con người như cụ
Mết, Tnú, Mai, Dít.
- Hình ảnh nhà Rông
Giáo viên đặt câu hỏi:
- Em hiểu gì về nhà Rông Tây Nguyên?
- Trong truyện “Rừng xà nu” nhà Rông gắn với những sự kiện gì?
Học sinh trả lời, giáo viên định hướng cách tiệp cận vấn đề:
14


Nhà Rông được coi là linh hồn của làng, nơi hội tụ khí thiêng của đất trời,
sông núi, là nơi lưu giữ những giá trị thiêng liêng của buôn làng. Buôn làng có nhà
Rông như được tiếp thêm sức sống. Theo tư duy truyền thống của đồng bào các dân
tộc Tây Nguyên thì nhà Rông là một thành tố không thể thiếu trong đời sống cộng
đồng (văn hóa làng). Nhà Rông bao quát mọi tinh hoa văn hóa sáng tạo của con

người trong môi trường sinh thái tự nhiên, vừa hùng vĩ vừa tiềm ẩn những yếu tố
tâm linh, là biểu hiện của văn hóa rừng và sự cố kết cộng đồng người gắn với thiên
nhiên.
Nhà Rông là hình ảnh thu nhỏ của các thành tố văn hóa truyền thống của một
làng, một tộc người. Nó chiếm giữ vị trí quan trọng nhất trong tư duy và hiện thực
đời sống sinh hoạt của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Đối với cộng đồng các
dân tộc thiểu số thì “Dân tộc – Làng – Nhà Rông” là mối quan hệ không thể tách rời,
cũng như làng của người Kinh gắn với cây đa, bến nước, sân đình. Nhà Rông hùng
vĩ vươn lên bầu trời với hình dáng như một lưỡi búa khổng lồ biểu hiện sức mạnh
của một cộng đồng làng, thể hiện tinh thần thượng võ, đầy uy quyền, như là chế ngự
không gian và thời gian để khẳng định chủ quyền, lãnh địa của làng.
Trong truyện ngắn Rừng xà nu, dưới ánh sáng của lửa xà nu trong nhà Rông,
tiếng cụ Mết trầm vang: ”Chém”! Xác của bọn thằng Dục đã nằm dưới lưỡi gươm,
cả làng Xô man bắt đầu đồng khởi. Dân làng Xô – man nhận mệnh lệnh của cụ Mết:
“Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo, mác”. Bên bếp lửa nhà Rông, dân
làng Xô man lũ lượt kéo nhau đến mừng Tnú trở về làng, nghe cụ Mết kể về cuộc
đời của người anh hùng Tnú, mà cuộc đời Tnú là hiện thân cuộc đời và thân phận
của dân làng Xô - Man: “Đêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó
về thăm làng. Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy
lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu
nghe…”. Nhà Rông là biểu tượng cho uy quyền, là nơi tập hợp tất cả sức mạnh về

15


tinh thần và thể chất, là biểu tượng của sự đoàn kết, gắn bó trong đời sống văn hóa
của người dân Tây Nguyên
Như vậy, dưới góc nhìn văn hoá, ta thấy Rừng xà nu có nội dung rất quan
trọng: văn hoá làng và những tình cảm thâm trầm, cao đẹp. Và đó là cơ sở của nội
dung thứ hai: tinh thần bất khuất của người Tây Nguyên. Tinh thần ấy lớn mạnh

được là nhờ nó bám rễ sâu chặt vào "đất làng".
Vẫn biết rằng trong thời lượng ít ỏi, người thầy khó mà chuyển tải được hết
cái hay cái đẹp của một tác phẩm. Tuy nhiên hoàn toàn chúng ta có thể gợi ý cho học
sinh những giá trị khác ngoài cái giá trị đã quá quen thuộc đến nỗi trở nên nhàm
chán. Ở Rừng xà nu, chính những mảng màu văn hoá sẽ kích thích "thị giác" của các
em, đem đến những điều mới lạ và rất có thể sẽ làm cho giờ dạy hấp dẫn hơn.
2.3.3. Ngôn ngữ của truyện thể hiện vẻ đẹp của văn hóa Tây Nguyên.
Để làm nên bản sắc Tây Nguyên trong tác phẩm của mình, ngoài hình ảnh
thiên nhiên, con người, các sinh hoạt văn hóa…, ngôn từ nghệ thuật là vấn đề mà
nhà văn quan tâm hàng đầu. Để tạo được ngôn ngữ mang màu sắc Tây Nguyên, nhà
văn Nguyễn Trung Thành phải nhập vào không khí sinh hoạt, nhập thân vào nhân
vật để lắng nghe tiếng nói về tư tưởng, tình cảm của các nhân vật. Điều đó là một
yếu tố quan trọng giúp nhà văn thành công trong việc tạo dựng bản sắc văn hóa Tây
Nguyên trong tác phẩm của mình. Có thể thấy những đặc sắc về sử dụng ngôn ngữ
trong việc thể hiện vẻ đẹp văn hóa Tây Nguyên trong truyện như sau:
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu vẻ đẹp nghệ thuật trong tác phẩm, tôi
định hướng cách tiếp cận như sau:
- Về Từ vựng, ngữ pháp
+ Yếu tố dễ nhận thấy trước tiên về từ vựng là người Tây Nguyên thường sử
dụng thán từ trong câu nói của mình. Hiểu được đặc điểm đó, trong tác phẩm Rừng
xà nu, Nguyễn Trung Thành đã sử dụng cách nói này.
16


+ Về ngữ pháp, nhà văn sử dụng kiểu câu đơn, câu tĩnh lược. Điều đó phù hợp
với tính cách ngay thẳng, bộc trực không ưa lòng vòng của người Tây Nguyên. Tác
giả còn sử dụng kiểu câu hỏi tu từ? (hỏi không nhằm mục đích hỏi) để bộc lộ tình
cảm, cảm xúc của nhân vật: Mười ngón tay vẫn cụt thế à? Không mọc ra được nữa
à? ; Đúng chớ? Nó có phép chớ?......
- Các biện pháp tu từ

+ Con người Tây Nguyên thường nhìn sự vật hiện tượng theo lối so sánh, nhìn
tự nhiên như có hồn vía như con người. Hiểu được điều này nhà văn đã nhiều lần sử
dụng phép so sánh: “Hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”, “Đời nó khổ
nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” Nhìn chung trong lời nói hàng ngày,
người Tây Nguyên làm nổi bật bản chất của sự vật thông qua sự so sánh. Họ thường
lấy những yếu tố vật chất thông thường, tiếp xúc hàng ngày để so sánh với những
vấn đề trừu tượng. Khi đó mọi thứ đều cụ thể hoá, rất dễ nắm bắt.
+ Biện pháp nhân hóa cũng được nhà văn sử dụng hiệu quả khi nói về sức

mạnh của rừng xà nu có thể bao bọc chở che được cho con người: “Chúng vượt lên
rất nhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế, hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm
ngực lớn của mình ra, che chở cho dân làng...”. Bút pháp nhân hoá đã giúp con
người như được chạm vào cảnh vật, thấm thía được sự khắng khít giữa con người
với thiên nhiên Tây Nguyên.
Như vậy, dù chưa thể hiện một cách toàn diện về đời sống ngôn ngữ của
người Tây Nguyên, nhưng dù sao nhà văn khi viết Rừng xà nu đã khai thác một
cách tích cực vốn ngôn ngữ đa dạng của con người nơi đây để có thể làm nên một
diện mạo riêng về văn hóa của vùng đất này. Điều đó cũng sẽ tô điểm thêm cho bức
tranh văn hóa muôn màu về thiên nhiên, con người Tây Nguyên..
2.4. Hiệu quả của đề tài.
Trong năm học 2015 – 2016, tôi được phân công dạy 02 lớp 12. Khi áp dụng
đề tài vào thực tiễn giảng dạy đã mang lại những hiệu quả tích cực như sau:
- Bản thân tôi cảm thấy hứng thú, dạy có cảm xúc và không còn tình trạng bị
gò bó, dập khuôn.
17


- Học sinh được tiếp cận văn bản từ góc nhìn mới nên tự giác, chủ động, hào
hứng lĩnh hội và xây dựng bài tích cực
- Khi đề tài được chia sẻ với đồng nghiệp trong tổ thì nhận được sự đồng tình,

hưởng ứng, coi đây là sáng kiến có tính đổi mới và có thể áp dụng, nhân rộng trong
thực tiễn dạy học ở nhà trường.
Thử nghiệm đề tài
Tôi áp dụng thử nghiệm vào 2 lớp có trình độ tương đương nhau trong bài thi 2 tiết.
01 lớp chưa áp dụng và 01 lớp áp dụng đề tài. Kết quả có sự khác biệt rõ rệt.
Đề bài: Sức sống của thiên thiên và con người (nhân vật Tnu, cụ Mết) trong
truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Lớp 12C4 chưa áp dụng đề tài
Sĩ số

Điểm yếu-kém

%

Điểm TB

%

Điểm Khá- giỏi

%

51

7

14%

33


65%

11

21%

Ghi chú

- Lớp 12C6 áp dụng đề tài
Sĩ số

Điểm yếu-kém

%

Điểm TB

%

Điểm Khá- giỏi

%

42

1

2%

21


50%

20

48%

Ghi chú

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Trước thực trạng học sinh đang ngày càng mất đi sự tập trung, hứng thú trong
giờ học Văn hoặc chỉ học một cách đối phó để hoàn thành các kì thi mà không nhận
thức được một cách sâu sắc giá trị của môn Văn trong cuộc hành trình của cả cuộc
đời các em thì việc đổi mới phương pháp tiếp cận bài học trong từng tiết học là việc
quan trọng và cần thết để tạo hứng thú học tập cho các em.
Ý thức được tầm quan trong đó, trong hoạt động giảng dạy môn Ngữ văn,
nhất là dạy – học Văn theo định hướng năng lực, người thầy phải trau dồi kiến thức,
đổi mới phương pháp để làm sao giờ học Văn phải thật sự mang lại sự hứng khởi
cho cả người dạy và người học.
18


Với đề tài này chúng tôi hy vọng khắc phục được nhược điểm trong giảng
dạy: dạy theo thói quen, máy móc, công thức, tiếp cận văn bản theo theo phương
pháp xã hội học đơn thuần. Điều đó triệt tiêu đi sự sáng tạo ở người dạy, sự tích cực,
chủ động của người học.
3.2. Kiến nghị
Để việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, vận dung đề tài SKKN này
vào thực tiễn nói riêng một cách có hiệu quả, tôi xin có ý kiến đề xuất như sau:

+ Vế phía Sở giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa: tổ chức các chuyên đề, hội thảo
về kinh nghiệm dạy học, đổi mới phương pháp đề giáo viên các trường THPT có
điều kiện giao lưu, học hỏi lẫn nhau, chia sẻ và lắng nghe những kinh nghiệm hay
trong quá trình dạy học, nhất là đổi mới phương pháp.
+ Về phía BGH nhà trường: quan tâm chỉ đạo, kiểm tra chuyên môn. Lắng
nghe tâm tư, nguyện vọng của giáo viên, học sinh, nhất là những thuận lợi, khó khăn
trong quá trình dạy học để có giải pháp hành động phù hợp. Tạo điều kiện về thời
gian, kinh phí thực nghiệm, nhân rộng để SKKN này có thể áp dụng trong thực tiễn
giảng dạy giờ học văn trong nhà trường.
+ Về phía đồng nghiệp: trao đổi, góp ý mang tính xây dựng để đề tài được
hoàn thiện, được thực nghiệm. Tránh tình trạng sáng kiến chỉ của cá nhân, áp dụng
đơn lẻ.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Tôi xin cam đoan đề tài SKKN này do tôi tự
viết, không sao chép của người khác.
Tác giả

Nguyễn Văn Hào

19


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 2
----------------&-----------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


HƯỚNG DẪN HỌC SINH TÌM HIỂU TRUYỆN NGẮN
“RỪNG XÀ NU” CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN TRUNG THÀNH
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

Người thực hiện: Nguyễn Văn Hào
Chức vụ: Tổ trưởng

SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Ngữ Văn

THANH HOÁ NĂM 2016
20


MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1

NỘI DUNG
Mở đầu
Lí do chon đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung

Cơ sở lí luận của vấn đề

1
1
2
3
3
4
4

2.2

Thực trạng của vấn đề

5

2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.4
3
3.1
3.2

Các giải pháp để giải quyết vấn đề
Cây xà nu – biểu tượng văn hóa của người dân Tây Nguyên
Các biểu tượng thể hiện văn hóa làng của người dân Tây Nguyên
Ngôn ngữ của truyện thể hiện vẻ đẹp của văn hóa Tây Nguyên
Hiệu quả của đề tài

Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

5
5
9
16
18
19
19
19

TRANG

21



×