Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong bài làm văn của học sinh lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.89 KB, 15 trang )

Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
1 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

MỤC LỤC
MỤC
1
2
3
4
I
II
1
2
2.1
a
b
c
d
2.2
3
III
1
2
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
IV
V
1


2
VI

NỘI DUNG
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
Thực trạng viết văn của học sinh hiện nay
Các lỗi thường gặp trong viết văn của học sinh lớp 11B5
trường THPT Thạch Thành 2
Lỗi chính tả
Lỗi viét hoa
Lỗi viết tắt
Lỗi dùng số và chữ biểu thị số
Lỗi chính tả âm vị
Lỗi dùng từ
Nguyên nhân
NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LỖI VIẾT VĂN
CHO HỌC SINH
Cần bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu thích văn chương
Rènluyện chính tả và chữ viết cho học sinh
Luyện phát âm
Luyện viết chính tả
Rèn luyện kỹ năng dùng từ cho học sinh

Giáo viên phai giao bài tập thường xuyên cho học sinh
Học sinh học cách dùng từ, viết câu, dựng đoạn
NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
KẾT LUẬN
Kết luận
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

TRANG
1
2
2
2
2
2
3
3
4
4
4
4
4
5
6
6
8
9
10

10
10
11
11
11
12
12
12
14
14
14
15

1


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
2 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Từ xa xưa, người xưa đã có câu: " Nét chữ - nết nghười" đủ để cho chúng
ta thấy vai trò của chữ viết được đánh giá cao như thế nào. Trong cuộc sống
hiện đại ngày nay, làm bất cứ công việc gì đề cần đến văn bản, giấy tờ và những
văn bản đó cần phải mang tính khoa học, chính xác, chặt chẽ , lô gic. chúng ta
đã biết, có đọc đúng mới viết đúng. Có viết đúng chính tả mới có thể tạo tiền đề
cho việc viết văn.
Trong trường THPT. việc viết các bài văn có vai trò rất quan trọng. Các
bài viết văn không chỉ đánh giá học sinh về mặt điểm số mà còn rèn luyện tính
kiên nhẫn, rèn luyện các kỹ năng, trong đó có kỹ năng chính tả). cách nói năng,

bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh.
Hiện nay, nhiều học sinh lơ là trong việc rèn luyện kĩ năng làm văn dẫn
đến chất lượng bài làm văn của học sinh ngày càng bị giảm sút. Tình trạng phổ
biến là học sinh yếu kĩ năng làm văn. Hầu hết học sinh mắc lỗi trong việc viết
văn từ một đoạn văn ngắn cho đến một bài luận dài với rất nhiều kiểu lỗi.
Giáo viên giảng dạy Ngữ văn trong trường THPT đã có cố gắng trong
việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh nhưng kết quả vẫn chưa được như mong
đợi. Vậy để làm gì có thể củng cố, rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh?
Người viết bài này xin đưa ra một số kinh nghiệm mình đã tích lũy được qua
quá trình dạy học môn Ngữ văn ở lớp 11B5 trường THPT Thạch Thành 2 huyện Thạch Thành - Thanh Hóa.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này chỉ xin dừng ở việc chỉ ra các lỗi về kĩ năng viết chính tả mà
học sinh mắc phải và đề cập một số biện pháp khắc phục những lỗi đó.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp hạn chế lỗi chính tả trong bài
làm văn cho học sinh lớp 11B5 trường THPT Thạch Thành 2 - huyện Thạch
Thành - Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp ứng dụng cho đề tài bao gồm:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp trắc nghiệm.
Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

2


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
3 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

PHẦN NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
Văn chương vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con người
hóa thân và thăng hoa. Vì thế nó vô cùng tinh vi và phức tạp. Môn Ngữ văn
trong nhà trường là môn khoa học nhân văn. Tuy vẫn mang tính phức tạp của
đối tượng nghiên cứu xong là một môn học thì nó phải đòi hỏi những chuẩn mực
khoa học để đánh giá các hoạt động giảng dạy, học tập của giáo viên và học
sinh. Việc đọc hiểu văn bản là những thao tác đầu tiên của hình thức tập dượt
nghiên cứu văn học. Nghiên cứu văn học là để hiểu văn học, đối tượng cụ thể là
tác phẩm văn học. “Cơ sở và xuất phát điểm của khoa học văn học là sự đối
thoại với các văn bản văn học thông qua hoạt động đọc và hiểu chúng”. Đây
cũng là vấn đề được tác giả Trần Đình Sử quan tâm, theo đuổi khá lâu. Trong tạp
chí Nhà văn, số 6-2002, GS. cho rằng: “Về tác phẩm văn học, nhất thiết phải có
khái niệm tác phẩm văn học xây dựng trên cơ sở khái niệm văn bản mà lí luận
văn học hiện hành còn thiếu. Ở đó văn bản chỉ được coi như cái vỏ ngôn ngữ
bên ngoài. Tác phẩm văn học phải được cắt nghĩa theo lí thuyết tiếp nhận hiện
đại”. Như vậy, tư tưởng trở về với văn bản là một luận điểm khoa học khá nhất
quán trong phương pháp dạy và học văn của GS. Trần Đình Sử. Cùng với các bộ
môn khác góp phần hình thành nhân cách học sinh, môn văn trong trường phổ
thông có tầm quan trọng đặc biệt, tác động trực tiếp đến phẩm chất, tư tưởng
tình cảm học sinh. Một bài thơ hay, một trích đoạn đặc sắc khắc họa sinh động
hình tượng nhân vật, vào và đứng được trong tâm hồn học sinh sẽ trở thành
thành lũy, là ngọn hải đăng hướng đạo hành vi, thái độ sống các em.
Dạy văn là một hoạt động thuộc phạm trù nghệ thuật, khám phá và
chuyển tải cái hay, cái đẹp từ tác phẩm đến học sinh. Mỗi tác phẩm, tùy thể loại,
được tuyển chọn trong chương trình sách giáo khoa đều toát lên vẻ đẹp
riêng.Tác phẩm văn học mang đặc trưng riêng của cấu trúc tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ. Đó là một chỉnh thể bao gồm các thành tố nhà văn – văn bản - người
đọc tương tác với nhau. Nội dung thẩm mĩ của tác phẩm văn học gắn liền với
tầm đón nhận của người đọc. Tiếp nhận văn học tức là đọc hiểu để biến văn bản
thành một thế giới hình tượng sinh động và nắm bắt được ý nghĩa của nó.

Cùng với quá trình đọc hiểu văn bản, trong trường phổ thông, học sinh
còn phải viết các bài làm văn theo quy định. Việc viết bài của học sinh không
chỉ kiểm tra xem các em lĩnh hội kiến thức, khả năng cảm nhận văn chương mà
còn rèn khả năng ngôn ngữ, cách diễn đạt. Thông qua các bài làm văn khả năng
vận dụng và diễn đạt ngôn ngữ của các em được cải thiện rất nhiều. Như vậy,
trong trường phổ thông các bài làm văn giữ vị trí hết sức quan trọng.

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

3


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
4 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng viết văn của học sinh hiện nay:
Hiện nay, tình trạng học sinh các cấp viết sai lỗi chính tả, dùng sai từ, ngữ
pháp đang lên đến mức báo động.
Vậy do đâu mà có tình trạng trên? Trước hết là do chính bản thân học sinh
các cấp lười học, lười đọc sách báo, thiếu ý thức rèn luyện ngôn ngữ tiếng Việt
nên kiến thức và khả năng vận dụng ngôn từ của các em còn yếu kém, mắc
nhiều lỗi về chữ và nghĩa của câu.
Có không ít học sinh khi kiểm tra đã quá ỷ lại vào sách hướng dẫn, sách
học tốt mà chép y nguyên đáp án, lời giải vào bài kiểm tra nên không phát huy
được tính tích cực của mình, khi tự viết một bài tập làm văn thì mắc mắc rất
nhiều lỗi về chính tả, ngữ pháp. Do không được rèn luyện nên ngày càng có
nhiều học sinh, sinh viên mắc phải các lỗi về chính tả, ngữ pháp. Một nguyên
nhân nữa dẫn đến tình trạng này là do sự chủ quan, lơ là việc rèn luyện kỹ năng
viết chính tả của một số thầy, cô giáo khi không dành thời gian để sửa lỗi chính

tả, ngữ pháp cho học sinh, lúc chấm bài chỉ phê rất chung chung như: Bài viết sơ
sài, câu văn lủng củng,… nên khi học sinh xem bài thì không hề biết mình mắc
những lỗi gì cụ thể.
2. Các lỗi thường gặp trong viết văn của học sinh lớp 11B5 trường
THPT Thạch Thành 2 - huyện Thạch Thành - Thanh Hóa.
2.1. Lỗi chính tả:
Cũng giống như rất nhiều học sinh trên cả nước, học sinh lớp 11B5 trường
THPT Thạch Thành 2 - huyện Thạch Thành - Thanh Hóa cũng viết sai chính tả
rất nhiều. Cụ thể các em mắc những lối sau:
a. Lỗi viết hoa.
Lỗi viết hoa là một trong những loại lỗi chính tả xuất hiện rất nhiều trong bài
viết của học sinh. Lỗi viết hoa bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ : viết hoa sai quy định
chính tả và viết hoa tùy tiện.
* Viết hoa sai quy định chính tả :
Viết hoa sai quy định chính tả là viết hoa hay không viết hoa theo đúng
quy định chính tả về viết hoa. Chẳng hạn như học sinh không viết hoa chữ cái
mở đầu bài viết, đoạn văn, không viết hoa sau dấu chấm (.),dấu chấm hỏi (?),
dấu chấm than (!), dấu chấm lửng hết câu (...), hay vi phạm các quy định về cách
viết hoa các danh từ riêng.
Ví dụ :

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

4


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
5 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

hồ chí minh. Vũ trọng Phụng, Phan bội Châu, Nam cao, Vũ đại, Tố như,

chị út Tịch, chí Phèo, tác phẩm người mẹ cầm súng, cách mạng tháng 8, cách
mạng tháng 10....
Lẽ ra, theo quy định chính tả, học sinh phải viết :
Hồ Chí Minh. Vũ Trọng Phụng, Phan Bội Châu, Nam Cao, Vũ Ðại, Tố Như, chị
Út Tịch, tác phẩm Chí Phèo, Người mẹ cầm súng, Cách mạng tháng Tám, Cách
mạng tháng Mười...
* Viết hoa tùy tiện :
Viết hoa tùy tiện là viết hoa những đơn vị từ vựng bình thường, không
nằm trong quy định chính tả về viết hoa.
Ví dụ:
Nguyễn Đình Chiểu là Nhà thơ nổi tiếng của Văn học Việt Nam, Chế độ
Phong kiến tàn ác, giai cấp Tư sản, cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa, giai cấp
Vô sản....
Lỗi viết hoa là loại lỗi chính tả thông thường, dễ tránh, dễ khắc phục,
nhưng học sinh THPT vẫn mắc phải và điều đó được thể hiện rõ ở lớp 11B5.
Ðiều đó có nguyên nhân của nó, xét về mặt khách quan lẫn chủ quan.
b. Lỗi viết tắt :
Lỗi viết tắt xuất hiện trong bài viết của học sinh thấp hơn nhiều so với lỗi
viết hoa. Tuy nhiên, trong việc rèn luyện chính tả cho học sinh, lỗi viết tắt cũng
cần được lưu ý đến.
Thông thường, lỗi viết tắt bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ: viết tắt sai quy định
chính tả và viết tắt tùy tiện.
* Viết tắt sai quy định chính tả :
Viết tắt sai quy định chính tả là viết tắt không theo đúng quy định chính tả
về viết tắt. Chẳng hạn như các em dùng mẫu chữ thường, dùng dấu chấm hay
dấu gạch xéo giữa các chữ cái viết tắt...
Ví dụ : P/V, đ/c, T.P, H.Ð.N.D v.v...
Lẽ ra, theo quy định chính tả, phải viết : PV, ÐC, TP, HÐND (phóng viên,
đồng chí, thành phố, hội đồng nhân dân).
* Viết tắt tùy tiện:

Viết tắt tùy tiện là dùng các kí hiệu viết tắt mang tính chất cá nhân vào bài
viết chính thức. Ðây là các kí hiệu bằng chữ viết Việt Nam hay chữ viết nước
ngoài, được chế biến lại, lẽ ra chỉ được dùng khi ghi chép, nhưng học sinh lại
đưa vào bài kiểm tra, bài thi, do đó trở thành lỗi chính tả.
Ví dụ : ( ta (người ta), ( vật (nhân vật), ( (nhấn), ( (nhận), ( (sau), ((trước),
( (trên), ( (dưới), ( (trong), of (của), on (trên), ...... (những), ...... (nhưng), fê fán
(phê phán), ffáp (phương pháp), tình thg (tình thương), fg tiện (phương tiện),
ndung (nội dung), t2 (tư tưởng), hthức (hình thức), chnghĩa (chủ nghĩa), chthắng
(chiến thắng), xlc (xâm lược),K0 (không), V.V.....

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

5


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
6 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

Hiện tượng viết tắt tùy tiện rất dễ khắc phục nếu như học sinh có ý thức
tránh loại lỗi chính tả này khi làm bài thi, kiểm tra.
c. Lỗi dùng số và chữ biểu thị số:
Kiểu lỗi chính tả này có hai biểu hiện chính: lẫn lộn giữa hai loại số và lẫn
lộn giữa số với chữ biểu thị số.
* Lẫn lộn hai loại số:
Trong bài viết, có những trường hợp học sinh phải biểu đạt bằng số, chẳng
hạn như khi đề cập đến ngày, tháng, năm, thế kỉ... Theo quy định chính tả, tùy
trường hợp mà dùng số Á Rập, còn gọi là số thường (1,2,3...), hay số La Mã (I,
II, III...). Do không nắm được quy định chính tả, nên học sinh thường sử dụng
lẫn lộn hai loại số.
Ví dụ : Thế kỉ 20, Ðại hội Ðảng lần thứ 6.

Lẽ ra, theo quy định chính tả, phải viết bằng số La Mã những trường hợp này
mới đúng.
*Lẫn lộn số và chữ biểu thị số:
Bên cạnh một số trường hợp phải viết số, theo quy định chính tả, có khá
nhiều trường hợp phải viết bằng chữ, khi biểu thị số chỉ số lượng, số chỉ thứ tự,
số chỉ số lượng phỏng chừng v.v... Do không nắm rõ quy định chính tả và do viết
theo thói quen, học sinh dễ lẫn lộn giữa số và chữ biểu thị số trong rất nhiều
trường hợp.
Ví dụ:
Ngày ba, tháng hai, năm một ngàn chín trăm ba mươi; 1 đám tang; 3 đứa
con thơ dại; 1 cuộc sống; đẹp I , lần gặp gỡ thứ 2; vài 3 người bạn...
Theo quy định chính tả, phải viết :
Ngày 3, tháng 2, năm 1930; một đám tang; ba đứa con thơ dại ; một cuộc
sống; đẹp nhất; lần gặp gỡ thứ hai, vài ba người bạn...
So với hiện tượng lẫn lộn hai loại số, hiện tượng lẫn lộn số và chữ biểu thị
số xuất hiện trong bài viết của học sinh nhiều hơn. Tuy nhiên, cả hai loại lỗi sai
này cũng dễ tránh, nếu như học sinh nắm được quy định chính tả về việc dùng
số và chữ biểu thị số.
d. Lỗi chính tả âm vị :
Lỗi chính tả âm vị là hiện tượng vi phạm diện mạo ngữ âm của từ thể hiện
trên chữ viết. Nói đơn giản hơn, đó là hiện tượng chữ viết ghi sai từ.
Dựa vào cấu trúc của âm tiết tiếng Việt, có thể chia lỗi chính tả âm vị thành hai
kiểu nhỏ: lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính và lỗi chính tả âm vị đoạn tính.
* Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính:
Âm vị siêu đoạn tính là loại âm vị không được định vị trên tuyến thời gian
khi phát âm, mà được thể hiện lồng vào các âm vị đoạn tính. Trong âm tiết tiếng

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

6



Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
7 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

Việt, thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính. Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính là hiện
tượng chữ viết ghi sai thanh điệu của âm tiết.
Tiếng Việt có tất cả sáu thanh điệu, được ghi bằng năm dấu thanh: sắc,
hỏi, ngã, nặng, huyền và thanh không dấu. Hiện tượng ghi sai thanh điệu chỉ xảy
ra ở hai thanh hỏi, ngã. Trong bài viết của học sinh lớp 11B5 mà người viết đã
khảo sát, kiểu lỗi sai này xuất hiện khá nhiều. Hầu như bài nào cũng có lỗi hỏi,
ngã. Thậm chí, chép đề cũng sai hỏi, ngã. Dưới đây là những từ sai hỏi, ngã của
học sinh lớp 11B5:
Gố, rế, mớ, đá làm… Đúng ra phải là: Gỗ, rễ, mỡ, đã làm…
Nguyễn Trãi thì các em viết Nguyễn Trái
* Lỗi chính tả âm vị đoạn tính :
Âm vị đoạn tính là các âm vị được phân bố nối tiếp nhau trên tuyến thời
gian khi phát âm. Trong âm tiết tiếng Việt, âm vị đoạn tính gồm có phụ âm đầu,
âm đệm, âm chính và âm cuối / bán âm cuối. Lỗi chính tả âm vị đoạn tính là
hiện tượng chữ viết ghi sai các âm vị vừa nêu. Cụ thể là :
Ghi sai phụ âm đầu :
Hiện tượng ghi sai phụ âm đầu trong bài viết của học sinh thường thể hiện
ở sự lẫn lộn các chữ cái hay các tổ hợp chữ cái ghi phụ âm đầu sau đây :
- ch / tr : chung thành, trà đạp, chống chả, từng chải, chăng chối, chủ chương,
chông đợi, chầy chật, xáo chộn...
- s / x : sương máu, xum họp, sâu sa, đi xứ, đổi sử... xúc vật, xúc tích, xi mê,
sống xót, xỉ nhục, bổ xung...
- gi / d : thúc dục, dan dối, dành lại, giả man, để giành, dèm pha, che dấu, dòn
dã, gia chạm, vấn thân, bởi gì.
- g (gh) / r : ranh tị, hàn rắn , gàn buộc, đói ghét, gắn gỏi...

- h /q : huênh quang, quang vắng , quyển quặc, quyền bí, quà quyện, quyên
náo...
Ghi sai âm đệm :
Trong âm tiết tiếng Việt, âm đệm /-u-/ phân bố sau phụ âm đầu, được ghi
bằng hai chữ cái u và o, tùy trường hợp. Trong bài viết của học sinh, hiện tượng
ghi sai âm đệm thường có biểu hiện thiếu chữ cái ghi âm đệm.
Ví dụ : lẩn quẩn, lạn đả, lanh quanh, lay hoay, lằng ngoằng, lắt chắt, ngó ngáy,
ngọ ngậy v.v...
Ghi sai âm chính :
Trong bài viết của học sinh, hiện tượng ghi sai âm chính thường có hai
biểu hiện chính :
Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn, cụ thể là giữa :
- ă / â : câm phẫn, che lắp, tái lặp, trùng lập, tối tâm, xăm lăng, hâm hở, đầm
thấm, e ắp, hắp tắp v.v....
- o / ô/ ơ : bốc lột, tận góc, mưa mốc, chốp bu, chốp lấy, hồi hợp, đớp chát, họp
nhất, bộp tai v.v...

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

7


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
8 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn với các chữ cái ghi
nguyên âm đôi, nhất là giữa : - ê / i / iê : điều đặn, điu đứng, điểu cáng, kiềm
kẹp, chiệu đựng, hiêu quạnh, nâng niêu, tìm ẩn, thất thiểu v.v...
- u / uô : tuổi thân, muổi lòng, đen đuổi, theo đui, hất huổi, xuôi khiến, xui tay
v.v...

- ư / ươ : chưởi mắng, cữi cổ, tức tửi, rác rửi, sửi ấm v.v...
Ghi sai âm cuối / bán âm cuối :
Hiện tượng ghi sai âm cuối trong bài viết của học sinh thường có hai biểu hiện
chính :
Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi phụ âm cuối, cụ thể là lẫn lộn
giữa :
- c /t : biền biệc, buộc miệng, chất phát, heo húc, lẩn lúc, lũ lược, mất mác, man
mát, mua chuột, phó mặt, phúc chốc, tấc bậc, tiếc hạnh v.v...
- n / ng : dun túng, hiên ngan, hoang hỉ, lãng mạng, làm lụn, phản phất, rung sợ,
rung rẩy, sản khoái, tang hoang, vung trồng, vụn về ...
Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi bán âm cuối, cụ thể là giữa :
- o /u : báo vật, cao có, lao lách, láo lỉnh, mếu máu, trao chuốt, trao dồi v.v....
- i /y : ái nái, đai nghiến, đài đọa, lai động, mai mắn, mỉa may, phơi bài, tai chân,
sai mê, van lại ...
Giữa bốn kiểu lỗi chính tả âm vị đoạn tính, trong bài viết của học sinh,
hiện tượng ghi sai âm cuối xuất hiện nhiều hơn. Kế đến là ghi sai âm chính và
ghi sai phụ âm đầu. Lỗi ghi sai âm đệm xuất hiện ít nhất.
2.2. Lỗi dùng từ:
*Lỗi dùng từ sai phong cách: Thông thường hoàn cảnh giao tiếp được chia làm
hai loại chính: hoàn cảnh giao tiếp theo nghi thức và hoàn cảnh giao tiếp không
theo nghi thức. Hoàn cảnh giao tíêp theo nghi thức đòi hỏi ngôn ngữ được gọt
giũa. Nhưng nhiều khi học sinh trong bài viết của mình thường sử dụng khẩu
ngữ:
Hàn Mặc Tử bị hủi về thể xác nhưng tâm hồn nhất quyết không bị hủi cho.
Đúng ra học sinh phải viết là:
Hàn Mặc Tử bị đau đớn về thể xác nhưng tâm hồn ông vẫn tràn ngập cảm hứng
sáng tạo.
* Lỗi về nghĩa của từ: Mỗi từ được dùng phải đúng nghĩa. Nhiều học sinh dùng
từ sai nghĩa:
Trong bài văn viết về mẹ, một học sinh viết:

Mẹ em vất vả lang thang, lảng vảng ở chợ để bán hàng nuôi hai chị em
ăn học.
Trong trường hợp này, học sinh đã sai khi dùng từ “ lang thang’, “ lảng
vảng”.
Khi phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của nhà
văn Nguyễn Tuân một học sinh viết:
Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

8


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
9 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

Huấn Cao đã đồng hóa viên quản ngục.
* Lỗi lặp từ: Trong một câu văn học sinh có thể dùng một từ đến hai ba lần:
Khi phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, một học sinh viết:
Nhà thơ Xuân Diệu là một nhà thơ lớn. Xuân Diệu có nhiều bài thơ trong đó có
bài thơ Vội vàng.
3. Nguyên nhân:
Theo suy nghĩ và kinh nghiệm của một nhà giáo, tôi xin mạnh dạn nêu lên
những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, ảnh hưởng Internet. Ngày nay đông đảo học sinh sử dụng
Internet, ngoài số ít biết khai thác, tận dụng để học tập thì phần lớn chỉ để chơi
game và chat chít. Khi “chát” các em hầu hết sử dụng tiếng Việt không dấu.
dùng ngôn ngữ ký hiệu và dùng cách diễn đạt rất ngắn gọn bằng những từ ngữ
chỉ quen dùng với giới trẻ, và theo quan niệm của họ như thế mới được cho là…
sành điệu. Ngôn ngữ phản ánh tư duy. Việc thường xuyên sử dụng ngôn ngữ bất
thường, cụt ngủn như thế sẽ góp phần làm “cùn” đi tính thẩm mỹ và tinh tế vốn
có của ngôn ngữ truyền thống, còn gây khó khăn cho việc rèn luyện

tư.duy.sâu.sắc.
Thứ hai, ảnh hưởng của phim ảnh. Ngày nay. truyền hình, phim ảnh phát
triển đến chóng mặt. Có nhiều kênh chiếu những phim hấp dẫn với mật độ dày
đặc khiến cho thanh thiếu niên ngoài giờ đến trường chỉ “mê mẩn” với phim
ảnh. Việc xem phim nhiều khiến các em lười đọc sách. Nếu có đọc thì đó cũng
chỉ là các truyện tình yêu rẻ tiển, những truyện tranh hình nhiều mà chữ ít. Có
rất nhiều em đọc và bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ trong các câu truyện đó.
Thứ ba, ảnh hưởng của âm nhạc “thị trường”. Ngày nay có một bộ phận
khá đông giới trẻ mê nhạc “thị trường” với những ca từ giai điệu mà khi hát lên
như… đọc, như nói. Lời lẽ rất cộc cằn và thô thiển. Những ngôn từ đó ảnh
hưởng không tốt đến sự phát triển ngôn ngữ cũng như tâm hồn của học sinh.
Thứ tư, những năm học gần đây việc áp dụng hình thức thi trắc nghiệm
với việc lựa chọn các phương án hoặc A, hoặc B, hoặc C, hoặc D cũng góp phần
làm “cùn” tư duy cũng như cách diễn đạt của học sinh.
Thứ năm, ngày nay rất ít giáo viên dạy cho học sinh kỹ năng làm một bài
viết hoàn chỉnh. Ngoài một số ít giáo viên dạy Văn khi chấm bài có sửa lỗi cho
học sinh về chính tả, câu cú, diễn đạt, còn đa số giáo viên không sửa lỗi cho học
sinh khiến cho các em không biết mình mắc lỗi gì để khắc phục, để lần sau sẽ
tiến bộ.
Thứ sáu. là việc trên thị trường tràn ngập các bài văn mẫu. Học sinh
không cần phải học, suy nghĩ mà cứ thuộc bài văn mẫu làm bài.
Nguyên nhân cốt lõi nhất vẫn là do thầy và trò học văn để đối phó với thi
cử. Từ những năm học cấp I, cấp II, học sinh đã học thuộc lòng bài văn mẫu,
hiếm có giáo viên nào có “con mắt xanh”, cho HS điểm cao vì bài viết “sáng
Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

9


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong

10 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

tạo”. Lên đến cấp III, áp lực thi tốt nghiệp lớp 12 càng đè nặng. Từ đầu năm
học, các em đã được phát đề cương môn Văn để học thuộc lòng như cháo, để chỉ
cần viết đủ ý cũng đạt điểm trung bình.
Một nguyên nhân quan trọng nữa là ý thức học văn của học sinh chưa tốt.
Nhiều em lười học môn văn, khi viết bài thì không đầu tư thời gian. Các em viết
theo kiểu chống đối. Cá biệt có em cho bài về nhà cũng không làm. Khi viết thì
kệ, chính tả muốn sai thế nào cũng được. Viết bài không cần chấm câu, không
chú ý dùng từ. phần lớn học sinh thiếu kiên nhẫn luyện viết. Các em không coi
trọng “chữ viết” bằng “chữ số”. Các môn tự nhiên vẫn hấp dẫn các em hơn bởi
“viết ít điểm nhiều” (lời của học sinh) và có nhiều cơ hội lựa chọn ngành nghề
thi vào đại học, cao đẳng.
Đối với học sinh lớp 11B5 trường THPT Thạch Thành 2 - huyện Thạch
Thành - Thanh Hóa. còn một nguyên nhân nữa là các em học sinh dân tộc thiểu
số phát âm không chuẩn; phát âm như thế nào thì viết như thế nên sai rất nhiều.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LỖI VIẾT VĂN CHO HỌC
SINH:
Việc rèn kĩ năng cho học sinh là một vấn đề nan giải đã làm đau đầu
nhiều thầy cô giáo và cán bộ quản lí giáo dục. Đã có rất nhiều Hội thảo được tổ
chức đề nhằm nâng cao trình độ làm văn của học sinh. Sau đây người viết bài
này xin đưa ra một số kinh nghiệm mà mình đã áp dụng:
1. Cần bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu thích văn chương, thích môn
Văn. Có yêu thích thì các em mới học: Để học sinh yêu thích môn mình dạy,
mỗi giáo viên có những cách riêng: một trong những cách được nhiều giáo viên
áp dụng là quan tâm đến học sinh; đặc biệt chú ý đến những học sinh yếu nhưng
cũng không nên tạo áp lực nhiều quá khiến các em sợ. Khen thưởng kịp thời khi
học sinh học yếu có cố gắng. Khen thưởng bằng nhiều hình thức: cho quà, cho
điểm khuyến khích… Còn có giáo viên hướng các em tới thế giới mà các tác
phẩm văn chương đã tạo ra. Học sinh thường rất thích thú khi giáo viên kể

truyện hoặc bình những câu văn, câu thơ hay. Đặc biệt, giáo viên phải hết sức
nhiệt tình truyền đạt cho các em cái hay cái đẹp của văn chương.
2. Rèn chính tả và chữ viết cho học sinh:
Nhiều học sinh phát âm như thế nào thì viết như vậy. Giáo viên cần chú
ý rèn cách phát âm cho học sinh khi các em phát âm chưa chuẩn. Ở lớp 11B5
trường THPT Thạch Thành 2, giáo viên Văn tập trung vào uốn nắn học sinh mắc
những lỗi về phát âm như:
- Chưa chuẩn “ x” và “s” “ ch” và tr”, "r" và "d"

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

10


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
11 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

- Phát âm không phân biệt "hỏi" "ngã": ví dụ " Xã hội chủ nghĩa" thành "
Xả hội chủ nghỉa" ……….Có thể đưa ra các từ, các câu có dấu ngã để học sinh
luyện.
- Chưa chuẩn âm cuối như “ đêm khuya” thành “ đêm khuê”, “ thuyền”
thành “ thuền”…
- Chưa chuẩn âm của bộ phận HS dân tộc thiểu số: như "Mong mỏi" phát
âm là "Mông mỏi", "trông ngóng" thành "Trông ngống"…
Giáo viên rèn cho học sinh các phân biệt phụ âm đầu, các âm đệm, âm chính, âm
cuối.
2.1 - Luyện phát âm:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho
học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ
là chữ ghi âm - âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy. Để việc sửa lỗi phát âm đạt hiệu

quả cao, tôi đã áp dụng các hình thức khuyến khích : Kiểm tra phát âm khi học
thuộc các bài thơ trong chương trình, dành một phần quỹ thời gian các tiết tự
chọn môn văn để rèn luyện phát âm, có hình thức thưởng phạt, khích lệ đối với
học sinh.
2.2: Luyện viết chính tả:
Trong quá trình luyện viết đúng chính tả tôi đã tổng hợp các lỗi chính tả
thường mắc của từng em, từ đó nhắc nhở các em khắc phục lỗi.
Biện pháp áp dụng đã thực hiện là: Dành một số bài kiểm tra viết thường
xuyên để học sinh chép lại các bài thơ trong chương trình bằng trí nhớ. Như vậy,
vừa giúp học sinh thuộc tư liệu, vừa khắc phục lỗi chính tả. Có trường hợp học
sinh khắc phục lỗi chậm, tôi đã áp dụng cho về nhà chép lại các từ thường sai
chính tả bằng nhiều lần, tạo lối mòn để loại bỏ thói quen. Trong các bài viết, lỗi
chính tả được khoanh tròn bằng bút màu đỏ để học sinh dễ nhận biết khiếm
khuyết, đồng thời quy định việc trừ điểm bài viết bằng quy định số lỗi chính tả.
Ví dụ: Trong bài viết 90 phút/thang điểm 10, cứ 10 lỗi mắc phải, học sinh bị trừ
1 điểm.
Trong việc viết chính tả, rèn luyện viết chữ đẹp đóng một vai trò quan
trọng trong việc viết bài văn. Tôi đã áp dụng các biện pháp khích lệ, khen
thưởng với những em viết chữ đẹp. Giáo viên phải đặc biệt chú ý rèn chữ cho
học sinh. Yêu cầu những em chữ xấu, viết ẩu phải có vở tập viết. Giáo viên
thường xuyên giao bài và kiểm tra. Khen thưởng kịp thời những em có tiến bộ.
2.3. Rèn kĩ năng dùng từ cho học sinh:

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

11


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
12 bài làm văn của học sinh lớp 11B5


Đây là một kĩ năng khó đòi hỏi người dạy và người học phải kiên trì. Mục
đích, không chỉ các em có cách dùng từ đúng, chuẩn làm phong phú bài làm văn
mà còn rèn luyện khả năng phát âm vốn từ. Từ đó có khả năng phát âm đúng và
viết đúng chính tả. Ví dụ: khi dùng từ "Bàng quan" (nhìn nhận hời hợt…) các
em dùng sai là "Bàng quang" ( một bộ phận thuộc hệ bài tiết); Từ "Yếu điểm" và
"điểm yếu" hay bị lẫn lộn; ….Giáo viên sửa cách dùng từ cho học sinh khi ở trên
lớp trả lời bài và sửa trong bài làm văn của học sinh. Khi chấm bài làm văn của
các em, giáo viên đánh dấu những lỗi dùng từ. Sau đó yêu cầu học sinh sửa lại
trong vở sửa lỗi. Có thể đưa ra những tình huống để học sinh tìm từ phù hợp.
Các em cũng có thể học cách dùng từ của những bạn học tốt.
2.4. Giáo viên phải giao bài thường xuyên cho học sinh và yêu cầu các
em viết bài nhiều. Khi học sinh viết xong, giáo viên cần chấm kĩ và sửa lỗi, chỉ
ra những điểm đã được và chưa được yêu cầu học sinh phát huy và khắc phục,
tránh viết nhận xét chung chung. Giáo viên cần dành thời gian và tâm huyết cho
việc này.
2. 5. Học sinh cũng có thể học cách dùng từ, viết câu, dựng đoạn của các
nhà văn mà các em được học.
Sau khi tiến hành rất nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bài làm
của học sinh lớp 11B5, người viết đã tiến hành khảo sát lần hai.
IV. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Từ thực tiễn viết bài của học sinh, người viết bài đã tiến hành khảo sát:
Kết quả khảo sát lần thứ nhất:
Kết quả này được thống kê dựa trên bài viết số 1 của học sinh lớp 11B5.
Sĩ số lớp thời điểm này là 33 học sinh,
Lối học sinh mắc phải
Lỗi viết hoa
Viết hoa sai quy định
chính tả
Viết hoa tuỳ tiện

Lỗi viết tắt
Viết tắt sai quy định
chính tả
Viết tắt tuỳ tiện
Lỗi dùng số và
chữ biểu thị số
Lỗi chính tả âm Lỗi chính tả âm vị siêu

Số học sinh mắc lối
32/33
20/33
15/33
12/33
20/33
17/33 ( học sinh mắc lỗi này chủ

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

12


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
13 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

vị
Lỗi dùng từ

đoạn tính
Lỗi chính tả âm vị đoạn
tính

Lỗi dùng từ sai phong
cách
Lỗi về nghĩa của từ
Lỗi lặp từ

yếu là người dân tộc thiểu số)
30/33
16/33
12/33
18/33

Kết quả khảo sát lần thứ hai:
Kết quả này được thống kê dựa trên bài viết số 5 của học sinh lớp 11B5.
Sĩ số lớp thời điểm này là 33 học sinh:
Lối học sinh mắc phải
Lỗi viết hoa
Viết hoa sai quy định
chính tả
Viết hoa tuỳ tiện
Lỗi viết tắt
Viết tắt sai quy định
chính tả
Viết tắt tuỳ tiện
Lỗi dùng số và
chữ biểu thị số
Lỗi chính tả âm Lỗi chính tả âm vị siêu
vị
đoạn tính
Lỗi chính tả âm vị đoạn
tính

Lỗi dùng từ
Lỗi dùng từ sai phong
cách
Lỗi về nghĩa của từ
Lỗi lặp từ

Số học sinh mắc lối
20/33
17/33
10/33
8/33
11/33
14/33 ( học sinh mắc lỗi này chủ
yếu là người dân tộc thiểu số)
20/33
10/33
8/33
5/33

Nhận xét:
Sau khi áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục và giảm những lỗi mà học
sinh mắc phải trong quá trình làm văn, người thực hiện nhận ra:
Thứ nhất, số lượng học sinh mắc lỗi có giảm so với lần khảo sát thứ nhất.
Thứ hai, đối với những học sinh còn mắc lỗi thì số lượng lỗi mà các em mắc
phải trong một bài làm văn có giảm.

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

13



Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
14 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

Ví dụ: Em Nguyễn Đình Hùng: trong bài văn số 1 em mắc 34 lỗi viết hoa
tuỳ tiện thì đến bài số 5 số lượng lỗi đó đã giảm xuống còn 16.
Em Nguyễn Tuấn Anh chữ viết thường thiếu nét dẫn đến sai chính
tả, sau một thời gian thực hiện việc chép chính tả và sửa lỗi chính các bài viết
của mình, số lỗi trong bài của em đã giảm.
Như vậy qua kết quả khảo sát hai lần, ta có thể nhận ra những biện pháp mà
người thực hiện đề tài này áp dụng phần nào đã có tác động trong việc nâng cao
chất lượng viết bài của học sinh lớp 11B5
V. KẾT LUẬN
1/ Kết luận:
Rèn kĩ năng làm văn cho học sinh là một vấn đề hết sức gian nan và phức
tạp., đặc biệt đối tượng học sinh lớp 11B5 phần đông lười biếng học tập, khả
năng làm văn yếu, điều kiện học tập không mấy thuận lợi, bị mất gốc. Việc học
sinh lớp 11B5 có tiến bộ trong làm văn đó mới chỉ là những thành công bước
đầu. Công việc này đòi hỏi người thầy và học trò phải kiên trì trong thời gian
dài và mất nhiều công sức. Học sinh và giáo viên cũng cần phải hợp tác tích
cực. Chú trọng kĩ năng làm văn khả năng diễn đạt của học sinh sẽ được cải thiện
sẽ giúp học sinh có thể vận dụng trong cuộc sống, công việc sau này.
2/ Kiến nghị:
- Công tác chỉ đạo: Đề nghị Ban lãnh đạo xác định mục tiêu dạy học đối với
đối tượng học sinh nói trên là nâng cao dân trí nhằm đào tạo nguồn nhân lực bổ
sung cho địa phương.
- Cho phép xây dựng chương trình tự chọn có một số tiết khắc phục lỗi chính
tả.
Trên đây là một số kinh nghiệm làm văn mà tôi và các đồng nghiệp trường
THPT Thạch Thành 2 đã từng áp dụng và thu được những kết quả đáng khích

lệ. Đỗi chỗ còn nhiều thiếu sót. Mong được mọi người quan tâm và đóng góp ý
kiến.
Xin chân thành cảm ơn

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa

14


Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi chính tả trong
15 bài làm văn của học sinh lớp 11B5

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1/Trong tạp chí Nhà văn, số 6-2002.
2/ Báo "Thế giới trong ta" - (cơ quan ngôn luận của hội tâm lí - giáo dục Việt
nam). các số xuất bản từ 2005 đến 2008.
3/ Tạp chí giáo dục tiểu học.

Thanh hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Người thực hiện
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác

Vũ Ngọc Hải

Vũ Ngọc Hải - Trường THPT Thạch Thành 2 - Thanh Hóa


15



×