Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Cách tiếp cận bài thơ đây thôn vĩ dạ của hàn mặc tử từ hình tượng cái tôi trữ tình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.18 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài.
Tác phẩm văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Là bức
tranh về hiện thực đời sống được nhìn qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ.
Trong đó, thơ tiêu biểu cho loại hình trữ tình, là tấm gương phản chiếu của tâm
hồn, chú trọng đến cái đẹp, cái thi vị trong đời sống tâm hồn con người, là tiếng nói
của tình cảm con người, của những rung động trái tim. Hay nói như : nhóm tác giả
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cho rằng: “Thơ là hình thức sáng tác
văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ
bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” (Từ điển thuật ngữ
văn học, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội,1999).
Là một thể loại văn học nằm trong phương thức trữ tình nhưng bản chất của
thơ lại rất đa dạng, với nhiều biến thái và màu sắc phong phú. Thơ tác động đến
người đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa bằng khả năng gợi cảm sâu sắc,
vừa trực tiếp với những cảm xúc suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua liên tưởng và
tưởng tượng phong phú, vừa theo mạch cảm nghĩ, vừa bằng sự rung động của ngôn
từ giàu nhạc điệu.Bàn về thơ Sóng Hồng có viết “ Thơ là một hình thái nghệ thuật
cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy
trong lòng .Nhưng thơ là tình cảm và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có
nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua
những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường”.
Chính vì những phẩm chất và những đặc điểm khác nhau đó của thơ mà có
nhiều cách lí giải, cách tiếp cận khác nhau về một tác phẩm thơ.
Trong chương trình Ngữ văn THPT hiện nay, có rất nhiều bài thơ đặc sắc, độc
đáo về nội dung và nghệ thuật, có nhiều điểm mới lạ trong cách cảm nhận về cuộc
sống và con người. Đặc biệt là phải kể đến những bài thơ tiêu biểu của phong trào
thơ mới trong chương trình Ngữ văn 11 như Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang
của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, đứng trước những tác phẩm này sẽ
có rất nhiều con đường giúp giáo viên hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh cái hay, cái
đẹp của tác phẩm từ đó góp phần bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thị hiếu thẩm mĩ
cho các em. Nhưng vấn đề là, dù tiếp cận từ góc độ nào cũng không thể phá vỡ chất


thơ, hiểu và cảm sai ý thơ, tình thơ mà cần phải giúp học sinh cảm nhận cho được
hồn thơ toát lên từ câu chữ và vần điệu. Bởi đọc thơ là đi tìm tiếng nói đồng cảm.
Mỗi bài thơ là một tiếng lòng mà nhà thơ muốn giãi bày, thổ lộ, kí thác mà sâu xa là
mong ước được gặp tiếng lòng tri âm, tri kỉ. Tình trong thơ là tình riêng của một
người nhưng cũng chính là tình chung của bao người. Chính cái tính chất vừa cụ
thể vừa có sức khái quát rộng lớn ấy là đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật nói
chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng. Vì vậy, đọc- hiểu bài thơ phải cảm nhận cho
được cái tình sâu xa và kín đáo mà nhà thơ kí thác. Đó mới là điều chủ yếu.
1


Như trên đã nói, Đây thôn Vĩ Dạ là một thi phẩm xuất sắc của phong trào thơ
mới, nó còn là một chủ âm trong cây đàn thơ muôn điệu của Hàn Mặc Tử .Với một
nguồn thơ dào dạt và lạ lùng, với một vườn thơ rộng không bờ bến, hình tượng thơ
đa nghĩa, biến ảo lung linh, cái tôi đa sắc điệu – một cái tôi li hợp bất định. Vì thế,
khi tiếp cận tác phẩm này cái khó ở đây là làm sao là làm sao chuyển tải được cái
hay, cái độc đáo đến với học sinh. Qua thực tế giảng dạy và dự giờ của các đồng
nghiệp,tôi thấy bài thơ đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau: theo bố cục của bài
thơ, theo mạch cảm xúc, theo gợi ý của hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa…,
mỗi cách khai thác có một ưu thế song vẫn chưa làm bật được hình tượng cái tôi trữ
tình trong bài thơ - nội dung cốt yếu của tinh thần thơ mới. Bản thân tôi, nhận thấy
vai trò quan trọng của hình tượng cái tôi trữ tình trong việc thể hiện giá trị của các
bài thơ mới, đặc biệt sự vận động trong tâm trạng của cái tôi trữ tình trong Đây
thôn Vĩ Dạ góp phần tạo nên vẻ đẹp toàn bích của bài thơ. Vì thế , trong phạm vi
bài viết này tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Cách tiếp cận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
của Hàn Mặc Tử từ hình tượng của cái tôi trữ tình” nhằm tạo hứng thú cho học sinh
và nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu này mục đích sẽ đưa ra một cách tiếp cận, một hướng khai
thác bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, từ đó đề xuất những định hướng có

tính khả thi về việc dạy và học tác phẩm thơ mới theo sự đổi mới phương pháp dạy
học hiện đại,nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học môn Ngữ văn THPT,giúp
học sinh giải quyết tốt một số dạng đề thi theo hướng mở trong những năm gần
đây.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Với mục đích nghiên cứu đã nêu ở trên, những đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
- Nghiên cứu các cách hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản thơ.
- Thiết kế giáo án thể nghiệm tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử .
- Khảo sát thực tế học sinh trong quá trình tổ chức dạy văn bản tại các lớp 11B1,
11B2 ở trường THPT Đinh Chương Dương, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
- Nghiên cứu các tài liệu, sách, báo có liên quan.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Xuất phát từ thực trạng của đề tài, để đạt được kết quả nghiên cứu, tôi đã vận
dụng những phương pháp: Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin, so sánh,
đối chiếu, phân tích- tổng hợp.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Khái lược về thơ trữ tình
Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ ngắn gọn,
súc tích , theo những quy định ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh tâm trạng, thái độ,
tình cảm ... của người nghệ sĩ về đời sống qua những hình tượng nghệ thuật .
2


Đặc trưng cơ bản nhất của thơ là tính trữ tình, trữ tình là phương thức phản ánh
đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc, ý thức của con người thông
qua cái tôi trữ tình, mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể.
Cũng giống tự sự và kịch, phương thức trữ tình cũng tái hiện các hiện tượng
của đời sống, nhưng sự tái hiện này không mang mục đích tự nhiên mà tạo điều
kiện để chủ thể bộc lộ những cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng của mình . Ở đây

nguyên tắc chủ quan là nguyên tắc cơ bản trong việc chiếm lĩnh hiện thực, là nhân
tố cơ bản quy định những đặc điểm cốt yếu của tác phẩm trữ tình.
Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ. Thơ ca bao giờ cũng là tấm gương
của tâm hồn, là tiếng nói tình cảm của con người, những rung động của trái tim
trước cuộc đời : Thơ là tiếng lòng (Diệp Tiếp), đến với thơ không chỉ là tìm đến với
thế giới hiện thực được “tinh lọc” qua con mắt nhà thơ mà còn tìm đến với một thế
giới nữa - thế giới thứ hai - thế giới của những cảm xúc, những rung động trong sâu
thẳm tâm hồn thi sĩ. Đó là những rung động trực tiếp của nhà thơ trước cuộc sống
được bộc lộ một cách chân tình, tự nhiên. Có biết bao nghệ sĩ đã khẳng định bản
chất của thơ ca: Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn ( Tố Hữu); Thơ là
người thư kí trung thành của những trái tim ( Đuy Be- lây). Chính Hàn Mặc Tử
cũng đã từng viết:
Tôi làm thơ?
- Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng.
Tôi làm thơ ?
- Nghĩa là tôi yếu đuối, tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu
tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật ...
Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi?
2.1.2.Cái tôi trữ tình.
Phương thức trữ tình là chủ thể bộc lộ, phản ánh đời sống theo nguyên tắc chủ
quan, là bộc lộ tình cảm trước thế giới, cái cốt lõi làm nên phương thức trữ tình là
cái tôi chủ quan cái tôi này thường xuất hiện dưới dạng nhân vật trữ tình.
Vậy cái tôi trữ tình ở đây là gì? Có thể hiểu cái tôi trữ tình là sự bộc lộ bản lĩnh
và ý thức cá nhân, tình cảm, cảm xúc của nhà thơ trước hiện thực cuộc sống. Nó
thường thể hiện qua cách xưng hô, cách nói, cách dùng từ ngữ, giọng điệu, hình
ảnh…trong thơ .
Cái tôi là một kiểu nhân vật trong thế giới nghệ thuật thơ trữ tình .Trong quá
trình sáng tác, cái tôi nghệ sĩ bước vào thế giới nghệ thuật và trở thành một hình
tượng trọn vẹn.“Hình tượng cái tôi có mối quan hệ tương đồng với chủ thể trữ tình
đang tự bộc lộ với toàn bộ sức mạnh nhân cách với mọi khả năng của nó. Hình

tượng cái tôi này là nhân vật trung tâm trong tác phẩm thơ, mang vẻ đẹp độc đáo,
không lặp lại”. Tuy nhiên, cần phải lưu ý khi tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ là
không nên đồng nhất cái tôi trữ tình với chủ thể nhà thơ trong mọi trường hợp.

3


Trong thơ ca cái tôi trữ tình trình bày trực tiếp cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ của
con người nên xúc động trữ tình bao giờ cũng mang thời hiện tại . Ngay cả khi thơ
trữ tình nói về quá khứ, về những chuyện đã qua, xúc động trữ tình vẫn được xuất
hiện như một trạng thái sống động, một quá trình đang diễn ra. Nhờ đặc điểm này
mà những rung động thầm kín mang tính chất chủ quan, cá nhân dễ dàng được
người đọc tiếp nhận như những rung động của chính bản thân họ. Đây là cơ sở tạo
nên sức mạnh truyền cảm lớn lao của thơ ca. Hơn thế, việc tập trung thể hiện những
nỗi niềm thầm kín, chủ quan cho phép tác phẩm trữ tình thâm nhập vào những
chân lí phổ biến nhất của tồn tại con người như sống, chết, tình yêu, ước mơ, hi
vọng… Đây lại là nhân tố tạo nên sức khái quát và ý nghĩa xã hội to lớn của tác
phẩm.
Nói như vậy, trong các tác phẩm thơ , cái tôi trữ tình chiếm một vị trí đặc biệt
quan trọng bởi nó là nguồn trực tiếp, duy nhất của nội dung tác phẩm .
2.1.3.Cái tôi trữ tình trong thơ mới
Thơ ca lãng mạn 1930-1945 có vị trí bước ngoặt trong tiến trình lịch sử văn học
dân tộc. Nó kết liễu một cái tôi - khắc kỉ và phục sinh một cái tôi - cá tính .Ở đây
cái tôi xuất hiện rất phong phú đa dạng, đa sắc ,đa thanh. Trong Thi nhân Việt Nam,
nhà phê bình văn học Hoài Thanh có viết:
“Tôi quyết rằng trong lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong
phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn
thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn
Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”

(Hoài Thanh – Thi nhân Việt Nam).
Như vậy, thơ mới là thời đại của cái tôi cá nhân. Chịu ảnh hưởng của nền văn học
nghệ thuật thế giới thế kỉ XX, thơ mới đã đi sâu khám phá thế giới tâm hồn với
cảm xúc của cái tôi nội cảm vô cùng phong phú đa dạng đã tạo nên ảnh hưởng sâu
rộng đối với sự phát triển của thơ ca dân tộc, đưa thơ ca Việt Nam bước vào thời kì
hiện đại.
2.2.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
2.2.1. Thơ trữ tình hiện đại trong chương trình Ngữ văn THPT
Tác phẩm trữ tình chiếm số lượng khá lớn trong các tác phẩm ở sách giáo khoa
Ngữ Văn THPT, đây là những tác phẩm tiêu biểu, tạo được dấu ấn cá nhân và chỗ
đứng cho mỗi tác giả. Mỗi tác phẩm gắn liền với các đề tài, chủ đề khác nhau, với
cái tôi trữ tình khác nhau xoay quanh đời sống tinh thần của con người , diễn tả nội
tâm, tâm trạng và những cung bậc tình cảm khác nhau của con người từ đó bồi
dưỡng tâm hồn, trí tuệ, góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển
nhân cách cho con người. Vậy chúng ta phải dạy thơ trữ tình như thế nào để học
sinh nắm được tâm trạng, cảm xúc,cảm nhận được tiếng lòng , thấy được bản sắc
của cái tôi trữ tình trong mỗi tác phẩm?
4


2.2.2.Thực trạng về việc học thơ trữ tình của học sinh.
Trong chương trình giảng dạy THPT, môn Ngữ văn, một môn học quan trọng
chiếm số tiết khá nhiều so với các môn học khác, nhưng nhiều học sinh tỏ ra thờ
ơ,hờ hững với tác phẩm văn chương nói chung và thơ ca nói riêng .Các em chưa
chủ động tìm hiểu, khám phá tác phẩm thơ , thường ít hiểu, ít yêu thơ. Trong việc
tiếp nhận văn bản thơ, nhiều học sinh rất thụ động, các em ghi nhớ một cách máy
móc bài giảng của thầy cô giáo, phụ thuộc vào tài liệu tham khảo, ít chịu tư duy,
động não. Bên cạnh đó kiến thức lí luận về thể loại của học sinh còn mơ hồ, các em
không có trong tay hệ thống kiến thức lí luận cơ bản để hình thành năng lực văn.
Vì vậy trong quá trình kiểm tra, đánh giá khi gặp những dạng đề như:

“ Cảm nhận của anh(chị) về cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu”
hoặc“Cảm nhận của anh(chị) về tâm trạng của cái tôi trữ tình qua bài Tràng giang
của Huy Cận”… đã không ít học sinh tỏ ra lúng túng không biết triển khai vấn đề
như thế nào hoặc viết rất lan man, nhiều em sa vào việc phân tích tác phẩm, diễn
xuôi bài thơ bởi trong thực tế các em chưa hiểu cái tôi trữ tình ở đây là gì hoặc
hiểu một cách đại khái, mang máng dẫn đến kết quả không được như mong muốn.
2.2.3.Thực trạng giảng dạy của giáo viên
Trong quá trình giảng dạy các bài thơ mới , nhiều giáo viên chỉ cố gắng phân tích
từ ngữ, hình ảnh, chi tiết trong các bài thơ từ đó chỉ ra ý nghĩa biểu đạt của nó một
số giáo viên lại dựa vào hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa để hướng dẫn học
sinh đọc ,tìm hiểu và chiếm lĩnh tác phẩm mà ít quan tâm đến hình tượng cái tôi trữ
tình, sự vận động của tâm trạng của nhân vật trữ tình. Hơn nữa có nhiều giáo viên
chưa có ý thức cung cấp kiến thức lí luận về đặc trưng thể loại, những khái niệm
văn học cơ bản cho học sinh, cũng chưa trang bị cho học sinh kiến thức về một trào
lưu, một phong trào thơ ca với những đặc trưng nổi bật của nó . Vì thế học sinh tỏ
ra lúng túng trong việc giải quyết các đề kiểm tra như đã trình bày ở trên cũng là
điều dễ hiểu.
Một điều bất cập trong việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản còn là do việc
phân bố thời lượng cho bài học còn ít , chẳng hạn bài Tràng giang- Huy Cận hoặc
Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử giáo viên hướng dẫn học sinh đọc - hiểu cả tác giả,
tác phẩm mỗi bài trong thời gian 45 phút, điều đó cũng là một nguyên do dẫn đến
giáo viên không thể khai thác kĩ các giá trị tiềm ẩn của văn bản, không có thời gian
giúp học sinh hiểu tường tận về cái tôi trữ tình trong các bài thơ.
2.2.4. Về phía bản thân
Dạy - học thơ mới, theo tôi trước hết phải nắm được cái hồn cốt của thơ mới
trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc.Mới thứ nhất là sự giải phóng thăng
hoa của cá tính, sau nữa là cách tân sáng tạo về ngôn ngữ, thể loại và xây dựng hình
tượng.Nó đã phá bỏ được vỏ bọc sùng cổ phi ngã và những nguyên tác sáng tạo
thuộc mĩ học trung cổ. Thơ mới đặc biệt chú trọng khai thác phản ánh cái hay, cái
đẹp, cái lạ của thế giới khách quan, cũng như thế giới bên trong của nhà thơ.

5


2.3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
2.3.1. Xuất phát từ thực trạng trên, tôi thấy để nâng cao hiệu quả giảng dạy tác
phẩm thơ mới từ đặc trưng thể loại, khi tiếp cận thơ mới từ hình tượng cái tôi trữ
tình cần tiến hành các bước sau:
2.3.1.1 Phần chuẩn bị bài
Để học sinh có cái nhìn rõ ràng về hình tượng cái tôi trữ tình trong các bài thơ
mới, giáo viên có thể giành ít phút ở tiết học trước cung cấp kiến thức lí luận giúp
học sinh hiểu được hình tượng cái tôi trữ tình ở đây là gì, nó thường có biểu hiện
như thế nào.Việc làm này rất cần thiết bởi trong việc học văn, bộ môn Lí luận văn
học có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một hệ thống kiến thức về toàn bộ những
phương diện cơ bản, quan trọng nhất của văn học như đặc tính chung của văn học
với tư cách là một nghệ thuật ngôn từ, phương pháp xem xét, nghiên cứu tác phẩm
văn học từ đặc trưng thể loại…từ đó giúp các em biết sử dụng những kiến thức cơ
bản về lí luận vào việc học tập cũng như góp phần hình thành và bồi dưỡng năng
lực cảm thụ thẩm mĩ cho học sinh.
Giáo viên cũng có thể đặt hệ thống câu hỏi mang tính chất định hướng, giúp các
em khỏi bỡ ngỡ và lúng túng khi chiếm lĩnh tác phẩm.
2.3.1.2.Lời dẫn vào bài mới.
Trước khi hướng dẫn học sinh đọc - hiểu bài thơ ở phần dẫn vào bài mới ,tôi sẽ
dẫn dắt, giới thiệu, nhấn mạnh vai trò của hình tượng cái tôi trữ tình trong các bài
thơ - một phương diện tạo nên giá trị đặc sắc, nổi bật của thi phẩm. Đây là cách
định hướng, tạo ấn tượng ban đầu cho học sinh giúp các em luôn có ý thức khám
phá, phát hiện bản chất của hình tượng cái tôi trữ tình trong các bài thơ.
Có thể nói, trong thực tế giảng dạy, phần lớn các giáo viên chỉ chú tâm hướng
dẫn học sinh tìm hiểu phần tiểu dẫn, khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm mà xem nhẹ phần dẫn vào bài mới, dường như không ý thức được trong
một bữa tiệc thịnh soạn của thưởng thức thơ ca, lời giới thiệu nó như một món ăn

khai vị nhẹ nhàng thôi nhưng lại kích thích khẩu vị của người dùng, góp phần quyết
định đến chất lượng của bữa ăn.
2.3.1.3. Tìm hiểu tiểu sử của tác giả.
Tác giả nào, tác phẩm ấy.Mỗi tác phẩm thơ là thế giới nội tâm của nhà thơ, thể
hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ của nhà thơ đối với cuộc sống, thể hiện khát vọng
hướng đến cái chân- thiện- mĩ của các thi nhân. Vì thế, hướng dẫn học sinh tìm
hiểu tiểu sử của tác giả, giáo viên nhất thiết phải nhấn mạnh những đặc điểm về
cuộc đời, con người, phong cách nghệ thuật hay điệu hồn riêng của các nhà thơ,
giúp các em nắm được những nét độc đáo về chân dung của cái tôi của mỗi tác giả.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, bởi hình tượng cái tôi trữ tình trong tác phẩm
thường mang bóng dáng chủ nhân của nó. Chính Hàn Mặc Tử đã khẳng định
“ Người thơ phong vận như thơ ấy” hoặc Buy –phông có viết “ Phong cách chính
là người”. Chẳng hạn,khi khai thác phần tiểu dẫn của các tác giả thơ mới trong
6


chương trình tôi sẽ giúp học sinh chỉ ra :với Xuân Diệu là cái tôi cuồng nhiệt đắm
say,với Huy Cận là cái tôi với nỗi sầu vạn kỉ và với Hàn Mặc Tử là cái tôi nhiều
khát khao - giằng xé.
2.3.1.4.Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm thơ.
Bên cạnh tìm hiểu tiểu sử của tác giả, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm
hiểu hoàn cảnh ra đời và tâm thế sáng tác của người nghệ sĩ, đây chính là cơ sở
giúp cho học sinh hiểu đúng, hiểu trúng, hiểu sâu sắc, giải mã được những dụng ý
nghệ thuật mà người thơ gửi gắm, trong đó học sinh thấy rõ hơn, đậm nét hơn về
hình tượng cái tôi trữ tình. Điều này còn giúp học sinh làm tốt hơn các dạng đề, các
câu hỏi so sánh giữa hình tượng cái tôi trữ tình, hoặc tâm trạng của nhân vật trữ
tình trong các đoạn thơ, bài thơ nhất là khi học sinh so sánh,đối chiếu tìm ra điểm
giống nhau hoặc khác nhau giữa chúng.
Giáo viên cũng cần lưu ý cho học sinh, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm không tác
động trực tiếp đơn giản đến tác phẩm mà nó tác động đến nhà văn qua hoàn cảnh

riêng gắn liền với cuộc đời, tư tưởng, thế giới quan, tâm hồn nhà văn.Chính hoàn
cảnh riêng này tạo nên một lăng kính khiến ánh sáng của hoàn cảnh lịch sử chịu
một độ khúc xạ nào đó trước khi hiện lên tác phẩm. Tuy nhiên hoàn cảnh riêng này
cũng không tác động thẳng đến tác phẩm mà còn phải thông qua một hoàn cảnh
trực tiếp tạo nên cảm hứng nghệ thuật để tạo nên tác phẩm. Vì vậy khi phân tích bài
thơ " Đây thôn Vĩ Dạ "của Hàn Mặc Tử hay"Tràng giang" của Huy Cận cần khai
thác hoàn cảnh gợi cảm hứng.
Về bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" khi tìm hiểu về hoàn cảnh sáng tác cần chú ý:
+ Giới thiệu về thôn Vĩ, mối tình đơn phương giữa Hàn Mặc Tử với người con gái
Vĩ Dạ - Hoàng Thị Kim Cúc, chi tiết về bức bưu ảnh.
+ Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ khi ông biết mình mắc bệnh phong, ý thức về sự
sống đang mất dần nên càng nung nấu khát vọng sống cháy bỏng.
+ Khi khai thác về mối tình đơn phương này tôi thấy cần rất khéo và phải có định
hướng đối với học sinh nếu không các em sẽ chỉ tập trung khai thác văn bản ở khía
cạnh như một bi kịch tình yêu của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc.Bởi người
con gái ấy giờ đã khúc xạ qua tâm hồn Hàn Mặc Tử trở thành người con gái của kí
ức, kỉ niệm của của cái thuở ban đầu đầy mộng tưởng, của thế giới khát vọng yêu
và được yêu.
2.3.1.5. Hướng dẫn tìm hiểu nhan đề bài thơ.
Nhan đề một tác phẩm thường chứa đựng những thông tin quan trọng đối với
người đọc về ý nghĩa của toàn bộ tác phẩm. Đôi khi người ta có thể không hiểu bài
thơ nếu người ta không chú ý đến nhan đề bài thơ. Cũng có khi người đọc hiểu sai
bài thơ. Bởi khi sáng tác, bao giờ các tác giả cũng phải đặt tên cho đứa con tinh
thần, cho sự sáng tạo nghệ thuật của mình một cái tên. Giống như cha mẹ đặt tên
cho con, ai cũng muốn gửi gắm vào đấy ước mơ, khát vọng về tương lai của đứa

7


con, nhà thơ cũng vậy, đặt tiêu đề cho tác phẩm là một cách gây ấn tượng, tạo cảm

xúc cũng như kích thích sự tò mò nơi người đọc.
Chẳng hạn Hàn Mặc Tử đặt tên cho tác phẩm với nhan đề "Đây thôn Vĩ Dạ".
- Ý chung: Nhan đề bài thơ như một sự tưởng nhớ, hoài niệm của Hàn Mặc Tử về
vùng đất và con người xứ Huế. Đồng thời, thể hiện một khát khao tình yêu của thi
nhân với người con gái xứ Huế.
Khi phân tích thơ trữ tình chú ý thế giới khách quan tồn tại trong tâm hồn tác giả sẽ
trở thành thế giới chủ quan nên khi khai thác bài thơ không thể nhìn thôn Vĩ tái
hiện trong bài thơ như một thôn Vĩ tồn tại khách quan về mặt địa lý mà đó là một
thôn Vĩ của cõi nhớ, của mộng tưởng với những khắc khoải, tuyệt vọng, buồn đau.
- Từ "Đây" - nó mang ý nghĩa như một sự nhấn mạnh đối với một sự vật, sự việc
nào đó. Và chính chữ "đây" này , đã làm nhấn mạnh hơn cảnh và tình thôn Vĩ.
Chính là Huế, chính là Vĩ Dạ, chính là mảnh đất này và con người này, không thể
nhầm lẫn với một vùng đất nào khác.
2.3.1.6.Đọc văn bản.
Một trong những yêu cầu của việc dạy và học môn Ngữ văn hiện nay là rèn cho
học sinh các kỹ năng: Nghe- Đọc- Nói- Viết. Vì vậy, trước khi hướng dẫn các em
tìm hiểu bài thơ, giáo viên cần tổ chức cho các em đọc văn bản. Đọc là bước đầu
để hiểu bài thơ , đọc tác phẩm văn học trước hết chúng ta tiếp xúc với những hình
thức nghệ thuật cụ thể của ngôn từ nghệ thuật, đó là những dấu câu, cách ngắt nhịp,
là vần điệu, âm hưởng và nhạc tính, là từ ngữ, hình ảnh…Phân tích tác phẩm văn
học bao giờ cũng phải bám sát các hình thức biểu hiện của ngôn từ nghệ thuật,chỉ
ra vai trò của chúng trong việc thể hiện nội dung. Qua việc đọc để xác định giọng
điệu chủ đạo của bài thơ. Nhưng đọc như thế nào, vì thế vai trò của người giáo viên
là vô cùng quan trọng, giáo viên cần hướng dẫn học sinh các phương pháp đọc, đọc
đúng vần, đúng nhịp, đúng âm hưởng.trong đó đọc diễn cảm là một phương pháp
cơ bản giúp học sinh cảm nhận được giá trị của tác phẩm. Thơ trữ tình là “tiếng
lòng” của tác giả, là tâm hồn, tình cảm, cảm xúc của tác giả gửi gắm trong ngôn từ,
hình ảnh, thế nên khi hướng dẫn học sinh đọc giáo viên nên lưu ý các em đọc một
cách nhập tâm để hòa mình vào tiếng nói, tình cảm của tác giả, để thâm nhập vào
tâm trạng của cái tôi trữ tình, lắng nghe điệu hồn thi nhân bằng tâm hồn đồng điệu,

bằng cả sự rung cảm của trái tim.
2.3.1.7. Xác định chủ đề bài thơ:
Chủ đề là vấn đề cơ bản được đặt ra trong tác phẩm, chủ đề lưu giữ tư tưởng chủ
đạo của bài thơ mà nhà thơ đã khái quát hóa một vấn đề xã hội hoặc đời sống. Chủ
đề của tác phẩm thơ là tâm trạng của cái tôi trữ tình trước một vấn đề nào đó trong
hiện thực đời sống. Hiểu được chủ đề cũng là bước quan trọng để hiểu tác phẩm.Vì
thế, sau khi hướng dẫn học sinh đọc văn bản, giáo viên nên cho học sinh xác định
chủ đề của bài thơ.
2.3.1.8. Hướng tiếp cận hình tượng thơ
8


Một bài thơ luôn luôn là sự thống nhất giữa hình tượng, âm điệu và ý nghĩa.
Những phần đó có tác động qua lại chặt chẽ.Thông thường, mỗi bài thơ đều có ba
cấp độ như sau:
- Cấp độ hình tượng bao gồm
+ Chủ thể trữ tình ( Nhân vật trữ tình)
Khi đọc một bài thơ, trước mắt chúng ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên
nhiên, sinh hoạt, những con người mà còn một hình tượng của một ai đó đang
ngắm nhìn, rung động, suy tư về chúng,về cuộc sống nói chung. Hình tượng ấy
chính là nhân vật trữ tình. Đó cũng là tâm hồn, nỗi niềm, tấm lòng của cái tôi nhà
thơ mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm thơ ca.
+ Hình tượng trữ tình
Như người họa sĩ, nhà thơ cũng xây dựng hình tượng trữ tình thông qua những
phần( hoặc những đoạn) khác nhau. Nhà thơ xây dựng hình tượng trữ tình thông
qua ngôn ngữ nghệ thuật, các tác giả đã vẽ bằng ngôn từ bức tranh phong cảnh
thiên nhiên và cuộc sống rất sống động, từ đó người đọc có thể hình dung ra vị thế
của nhà thơ và khát vọng,tư tưởng ,tình cảm, thái độ của tác giả trước cuộc sống.
+ Hình tượng ngôn ngữ ( từ ngữ và các biện pháp tu từ)
Tiếp xúc một bài thơ trữ tình trước hết là tiếp xúc với hình thức nghệ thuật ngôn

từ. Như thế phân tích thơ trữ tình trước hết phải xuất phát từ chính hình thức nghệ
thuật ngôn từ mà chỉ ra vai trò và tác dụng của chúng trong việc thể hiện tình cảm,
thái độ của nhà thơ.
- Cấp độ âm thanh bao gồm: Vần;Nhịp điệu; Tác động của âm thanh từ việc lựa
chọn từ ngữ.
Trong tác phẩm thơ để bộc lộ những tình cảm, cảm xúc mạnh mẽ của cái tôi trữ
tình cần phải lựa chọn không chỉ từ ngữ mà còn là vần, nhịp điệu, thanh điệu của từ
ngữ nữa. Hệ thống vần điệu và thanh điệu, nhịp điệu là những yếu tố có bản tạo nên
tính nhạc của bài thơ .
- Các cấp độ ý nghĩa bao gồm:
+ Ý nghĩa của từng phần, từ các cấp độ hình tượng.
+ Ý nghĩa của toàn bộ văn bản.
Các cấp độ trên tác động lẫn nhau tạo nên ý nghĩa chung của cả bài thơ.
Đối với các văn bản thơ mới nói chung và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử nói
riêng tôi đều khai thác phối hợp các cấp độ từ ngôn ngữ, hình tượng, vần nhịp để từ
đó làm nổi bật vẻ đẹp của cái tôi trong thơ mới : đó là cái tôi - nội cảm và cái tôinghệ sĩ cũng chính là cá tính sáng tạo, là bản lĩnh của nhà thơ. Vai trò của nó quyết
định sự hình thành phong cách nghệ thuật, thể hiện ở những tìm tòi, khám phá, phát
hiện riêng của từng nhà văn, nhà thơ trong việc chọn đề tài, nêu vấn đề, sử dụng
ngôn ngữ, xây dựng hình tượng...
Để làm nổi bật cái tôi- nội cảm tôi định hướng khai thác từ nhịp điệu, vần, từ
những cấp độ biểu đạt của ngôn ngữ để gọi tên trọn vẹn những tầng biểu đạt của
9


hình tượng trữ tình, qua những hình tượng trữ tình, học sinh có thể tự hình thành
kiến thức về chủ thể trữ tình trong văn bản thơ. Khi hướng học sinh hình thành tri
thức về chủ thể trữ tình, cái tôi - trong thơ lãng mạn bao giờ tôi cũng đặc biệt nhấn
mạnh đến cái tôi - giàu cảm xúc – giàu năng lượng sống.
Từ việc tiếp cận hình tượng cái tôi trữ tình với thế giới nội cảm của nó tôi cũng sẽ
định hướng cho học sinh nhận thấy tâm trạng chung của cả một thế hệ trong một

giai đoạn, một thời đại thi ca. Trong phong trào thơ mới dù mỗi người có một
gương mặt riêng, nhưng mỗi nhà thơ đều góp phần tạo nên diện mạo chung của
thời đại thơ mới bởi “ Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”(Tô
Hoài).
Hơn nữa,theo tôi bản thân mỗi một tác phẩm tự nó đã phô diễn vẻ đẹp tâm hồn,
năng lực sống, kỹ năng sống của chính chủ nhân của tác phẩm.Vì thế qua tác phẩm
tôi luôn có định hướng giáo dục học sinh kĩ năng sống đẹp: đẹp trong nhận thức tư
duy về cuộc sống , tư duy đẹp về nỗi buồn , tư duy đẹp về tình yêu về cuộc đời.
2.3.1.9.Sử dụng thao tác lập luận
Trong việc tiếp cận tác phẩm thơ lãng mạn giáo viên thường xuyên sử dụng phối
hợp các thao tác lập luận . Nếu thao tác phân tích giữ vai trò chủ đạo thì thao tác so
sánh có vai trò hỗ trợ hiệu quả nhất khi tiếp cận thơ lãng mạn. So sánh là thao tác
làm khắc sâu, làm nổi bật sự độc đáo hoặc sự khác biệt của đối tượng so sánh.Tác
dụng của so sánh là nhận thức nhanh chóng đặc điểm nổi bật của đối tượng và cùng
một lúc có thể cung cấp tư duy về hai hay nhiều đối tượng. So sánh cho ta thấy
được bản chất của sự vật hiện tượng, sự đóng góp sáng tạo và tài năng cá tính của
nhà thơ.Nguyên tắc khi so sánh cần lưu ý học sinh về tiêu chí so sánh: cùng bình
diện, và tránh phiến diện cực đoan.
Ví dụ trong Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử khi cảm nhận về từ kịp trong câu thơ
“ Có chở trăng về kịp tối nay?”có thể so sánh: Nếu trong “ Vội vàng”, Xuân Diệu
hối hả, gấp gáp, vội vã chạy đua với thời gian để tận hưởng mọi hạnh phúc nơi trần
thế thì với Hàn Mặc Tử chạy đua với thời gian chỉ với một mong ước tối thiểu:
khao khát được sống, được đến bên cuộc đời.
2.3.2 Sau đây tôi xin cụ thể hóa các giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện về
cách tiếp cận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ từ hình tượng cái tôi trữ tình qua thiết kế giáo
án thể nghiệm:
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
- Hàn Mặc TửI, MỤC TIÊU BÀI HỌC: Giúp HS
1. Về kiến thức
- Cảm nhận được tình yêu đời, lòng ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc qua bức

tranh phong cảnh xứ Huế.
- Nhận biết sự vận động của tứ thơ, của tâm trạng chủ thể trữ tình và bút pháp độc
đáo, tài hoa của một nhà thơ mới.
10


2. Kỹ năng:
- Đọc hiểu một bài thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại.
- Cảm thụ, phân tích tác phẩm thơ.
3. Thái độ tư tưởng:
- Vận dụng phân tích một bài thơ, đoạn thơ, hình tượng thơ.
- Trân trọng tấm lòng tha thiết gắn bó với thiên nhiên, cuộc sống và con người của
một nhà thơ trẻ tài hoa mà bất hạnh.
II,CÁCH THỨC TIẾN HÀNH
1, Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
*GV: SGK, SGV, tài liệu tham khảo, giáo án, máy chiếu
*HS: SGK, STK, bài soạn.
2, Phương pháp dạy học:
- Nêu vấn đề, giảng bình, trao đổi thảo luận ...
III, TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
1,Ổn định tổ chức:
2, Kiểm tra bài cũ: Đọc thuộc lòng bài thơ “ Tràng Giang” của Huy Cận,
nhận xét về bức tranh thiên nhiên và tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ ?
3, Bài mới :
GV giới thiệu, dẫn dắt vào bài mới:
Cảm nhận thơ trữ tình xét cho cùng là cảm nhận “cái tình” trong thơ và tâm trạng
của nhân vật trữ tình trước thiên nhiên, vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca lãng mạn
Việt Nam, giai đoạn 1932-1945 “ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu liêu trong
trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử. Chế Lan Viên ,
ta đắm say cùng Xuân Diệu ( Hoài Thanh- Thi nhân Việt Nam). Đúng thế, bạn đọc

đương thời và hôm nay yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi chất “điên cuồng” của nó.
Chính “chất điên” ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt , mới
mẻ của Hàn Mặc Tử. “Chất điên” trong thơ chính là sự thay đổi tâm trạng khó
lường trước trong hình tượng cái tôi trữ tình. Nét phong cách đặc sắc ấy đã hội tụ
và phát sáng trong bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ”.
* Hoạt động 1:Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần tiểu dẫn.
I, Tiểu dẫn:
1, Tác giả
Giáo viên yêu cầu công việc: Anh (chị) tự đọc phần tiểu dẫn sách giáo khoa, sau đó
trình bày vài nét về đời và thơ Hàn Mặc Tử?
- Học sinh tự đọc và phát biểu
- Giáo viên chốt lại những điểm chính
- Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên khai sinh Nguyễn Trọng Trí.
- Có cuộc đời nhiều bi thương: mắc căn bệnh hiểm nghèo, quái ác, mất hơn 4 năm
Hàn Mặc Tử phải vật vã, quằn quại trong nỗi đau đớn về thể xác, bệnh tật → ảnh

11


hưởng khá sâu sắc đến hồn thơ. Người thơ ấy đã chấm dứt cuộc đời đầy đau
thương, bất hạnh ở tuổi 28.
- Một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới
“ Ngôi sao chổi trên bầu trời thơ Việt Nam”(Chế Lan Viên)
- Đặc điểm thơ:
+ Cái tôi khao khát đắm say vẻ đẹp tinh khiết mà xuân tình
+ Đau thương, cô đơn và tuyệt vọng.
2, Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
-Giáo viên yêu cầu học sinh: Trình bày xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của bài thơ và
tâm thế sáng tạo của thi nhân ?
- Học sinh tự đọc và phát biểu

* Xuất xứ:
- Lúc đầu có tên“Ở đây thôn Vĩ Dạ”,sáng tác năm 1938, in trong tập“Thơ Điên”.
* Hoàn cảnh ra đời và tâm thế sáng tạo:
-Gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái ở Vĩ Dạ.
Giáo viên cung cấp thêm kiến thức:Trong cuộc đời 28 năm của thi nhân, Hoàng
Thị Kim Cúc là mối tình đầu, là người yêu trong đơn phương, lặng thầm của Hàn
Mặc Tử. Khi còn làm việc ở sở Đạc Điền – Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng
yêu thương Hoàng Cúc – con một viên chức cao cấp. Đấy là người thiếu nữ mang
vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo còn giữ được nhiều nét chân quê. Thi nhân yêu nhưng chỉ
dám đứng từ xa để chiêm ngưỡng dung nhan Hoàng Cúc bởi tính quá rụt rè, bẽn
lẽn. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, còn Hoàng Cúc theo cha về
Vĩ Dạ (Huế).Đến năm 1939, trong những ngày tháng vật lộn với cơn bệnh hiểm
nghèo, Hàn Mặc Tử nhận được tấm bưu ảnh về phong cảnh xứ Huế có sông nước,
có thuyền, có trăng, có mặt trời cùng những hàng cau kèm theo những dòng chữ hỏi
thăm của Hoàng Cúc. Xúc động, bồi hồi trước tấm lòng cố nhân, Hàn Mặc Tử đã
sáng tác bài thơ này.
- Bài thơ được thăng hoa bởi những cảm xúc mãnh liệt của một con người biết
mình không thể sống được nữa nhưng đắm say nuối tiếc trước vẻ đẹp thanh tú của
cuộc sống và con người.
(Giáo viên cho học sinh xem về hình ảnh thôn Vĩ qua máy chiếu)
*Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản .
II, Đọc – hiểu văn bản:
1, Đọc – tìm hiểu chung:
- Giáo viên gọi học sinh đọc- diễn cảm văn bản, giọng đọc chậm rãi, thiết tha, tươi
vui (khổ 1), trầm buồn, da diết (khổ 2,3), Giáo viên có thể kết hợp các phương tiện
dạy học cho học sinh nghe giọng ngâm bài thơ .
-Giáo viên gọi học sinh xác định chủ đề của bài thơ:

12



- Chủ đề: Bài thơ thể hiện tình cảm yêu mến đối với cảnh sắc thiên nhiên ,con
người xứ Huế và nỗi buồn sâu kín trong dự cảm tình yêu , hạnh phúc chia xa của
nhà thơ.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc - hiểu chi tiết.
2, Đọc- hiểu chi tiết:
- Trước tiên giáo viên đặt ra những câu hỏi mang tính định hướng:
+ Em hãy xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ?
+Ấn tượng đầu tiên của em về nhân vật trữ tình trong tác phẩm là gì?
+ Quá trình vận động và phát triển của nhân vật trữ tình?
- Học sinh suy nghĩ, trả lời, giáo viên bổ sung, khái quát ý:
+ Nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ là nhà thơ Hàn Mặc Tử. Trong bài thơ
nhân vật trữ tình xuất hiện với vai trò là chủ thể trữ tình – người trực tiếp bộc lộ
cảm xúc. Ở đó người đọc bắt gặp bóng dáng của những nỗi đau từ chính cuộc đời
tác giả và tâm tư, tình cảm tận đáy lòng ông. Hàn Mặc Tử mất năm 1940 bởi căn
bệnh phong quái ác khi tuổi đời còn rất trẻ.Vì thế cái chết xuất hiện trong thơ ông
trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi. Ý thức được cái chết cận kề nên sự mong
cầu được sẻ chia, đồng cảm luôn khắc khoải trong thi sĩ của Đây Thôn Vĩ Dạ. Và
bài thơ này cũng phần nào bộc bạch những khắc khoải ấy qua dòng tâm trạng của
nhân vật trữ tình.
+ Cả bài thơ thiết tha một niềm yêu sống, khát sống và níu đời của thi sĩ.
+ Mạch tâm trạng của nhân vật trữ tình không đứng yên mà có sự vận động , phát
triển lô gic và hợp lí. Khổ thơ thứ nhất là những tiếc nuối vọng về từ hoài niệm xa
xăm với bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tuyệt bích.Đến khổ thơ thứ hai, từ hoài niệm
về quá khứ lấp lánh , nhân vật trữ tình trở về với hiện thực đầy nghịch lí bởi bị nỗi
buồn chủ quan chi phối, gửi vào trăng tất cả nỗi niềm hy vọng , ngóng trông của
mình. Và khổ thơ cuối kết lại bởi nỗi hoài nghi của nhân vật trữ tình: Không biết
rằng tình đời, tình người có sẻ chia, thông cảm với nỗi đau của riêng mình hay
không.
-Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc- hiểu từng khổ thơ.

a, Khổ 1: Những tiếc nuối vọng về từ hoài niệm xa xăm với bức tranh thiên nhiên
thôn Vĩ tuyệt bích.
- Giáo viên giúp HS tìm hiểu cái hay, cái độc đáo của câu thơ mở đầu: Mở đầu bài
thơ là một câu hỏi, địa danh nào được nhắc tới trong câu hỏi, ai hỏi, giọng điệu
hỏi và ý nghĩa của lời hỏi?
- Học sinh thảo luận, trả lời; Giáo viên chốt ý:
- Thôn Vĩ: địa danh chứa đựng nhiều kỉ niệm thân thương của tác giả với người xứ
Huế
- Câu hỏi: “ Sao ....Vĩ” khơi gợi nhiều sắc thái cảm xúc:
+ Lời trách móc nhẹ nhàng, lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ .

13


+ Lời tự vấn của chính nhà thơ, Tử đang phân thân để hỏi chính mình, để bộc lộ
tâm trạng: bâng khuâng, nuối tiếc, ao ước đắm say.
+ Là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ bao kỷ niệm, hình ảnh đẹp đẽ,
đáng yêu về xứ Huế.
- Giáo viên hỏi: Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong niềm hoài niệm của nhà thơ
được miêu tả thông qua những hình ảnh, những chi tiết nào? Cắt nghĩa vẻ đẹp độc
đáo của các hình ảnh thiên nhiên. Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ, các biện pháp
nghệ thuật?
- Học sinh trả lời
* Thiên nhiên thôn Vĩ:
+ Nắng hàng cau,nắng mới lên: → vẻ đẹp của cái nắng mới lên trong trẻo, ấm áp,
thanh tân, tinh khiết.
+ Khu vườn mướt xanh như ngọc : Khu vườn được chăm sóc chu đáo. Từ “ mướt”
→ sắc xanh mỡ màng, non tơ, óng mượt, tràn trề nhựa sống. Xanh như ngọc là một
so sánh thật đẹp, gợi hình ảnh những lá cây óng mướt được ánh nắng rực rỡ chiếu
vào mà trở nên lung linh, ngời sáng.

→ Vườn Vĩ Dạ trong buổi bình minh mang vẻ đẹp vừa thanh khiết vừa cao sang.
Đúng là chốn nước non thanh tú của quê hương xứ sở.
- Sự hài hòa giữa cảnh vật và con người
Thấp thoáng đằng sau lá trúc thanh sơ mảnh mai là khuôn mặt chữ điền cương
nghị dịu dàng, phúc hậu.
→ Thiên nhiên tô điểm cho vẻ đẹp của con người, con người xuất hiện làm cho bức
tranh thêm sinh động, ấm áp .
* Tâm trạng nhân vật trữ tình:
- Giáo viên giúp học sinh đi sâu vào thế giới của hình tượng thơ, cảm nhận tâm
trạng của thi nhân bằng cách đặt ra câu hỏi:
+Tâm trạng của nhà thơ trước phong cảnh và con người xứ Huế?
Cảm nhận của em về cảm xúc tâm trạng của Hàn Mặc Tử ở câu thơ “Vườn ai mướt
quá xanh như ngọc”?
-Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và chốt ý
- Cách nói : Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
+ Cảm xúc say mê, trầm trồ, ngỡ ngàng, vì thế câu thơ thốt ra như một lời cảm
thán.
+ Cảm xúc nuối tiếc, buồn thương bởi cảnh chỉ đi về trong cõi nhớ thương, hoài
niệm → đại từ “ai” vang lên vừa gần gũi, vừa xa xôi, nghe mơ hồ mà lại rất da diết.
-Giáo viên tiếp tục đưa ra câu hỏi gợi mở : Hình ảnh cái tôi trữ tình trong bài thơ
là cái tôi li hợp bất định. Vậy em có suy nghĩ gì về hình ảnh “khuôn mặt chữ
điền”, đây là hình ảnh của ai?
- Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và chốt ý

14


- Câu cuối: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
→ hình ảnh con người xứ Huế kín đáo, phúc hậu.
→ chân dung tác giả thấp thoáng đi ngang qua cuộc đời với tất cả nỗi niềm lưu

luyến, yêu thương.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tiểu kết:Em hãy khái quát bức tranh thiên nhiên thôn
Vĩ và tâm trạng của nhân vật trữ tình ở khổ thơ 1?
Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và chốt ý
⇒ Khổ thơ đã khắc họa được bức tranh thôn Vĩ tươi sáng, ấm áp, tràn đầy sức
sống, vạn vật và con người giao hòa, gắn kết.
→ Tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người xứ Huế rất mãnh liệt xuất phát từ tình
yêu cuộc sống, niềm khao khát hướng vọng tới vẻ đẹp của cuộc sống của một hồn
thơ đang chịu cảnh dày vò, đau đớn bởi bệnh tật.
b, Khổ 2: Nỗi niềm nhân vật trữ tình qua cảnh mây,trời ,sông nước
- Giáo viên gợi mở: Thơ- ngoại cảnh cũng là nội tâm,bức tranh thiên nhiên là cái
nền, cái cớ để tác giả bày tỏ tâm trạng. Hình ảnh thiên nhiên ở đây có gì khác với
khổ 1? Em hãy chỉ ra tâm trạng thi nhân trong khổ thơ ?
- HS suy nghĩ, trả lời:
Cảnh vận động từ thực sang ảo tạo nên một không gian thấm đẫm nối buồn, không
gian thôn Vĩ nhường chố cho không gian mây, trời, sông nước xứ Huế.
* Cảnh mây trời sông nước :
-Thiên nhiên hiện ra với nhiều nét vẽ: gió mây ở tầng trời, hoa bắp ở bờ sông và
trên dòng sông tràn ngập ánh trăng như được dát vàng , dát bạc có con thuyền neo
đậu → bức tranh phong cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp.
* Tâm trạng nhân vật trữ tình:
- Giáo viên yêu cầu: Phân tích cái hay , cái độc đáo trong cách thể hiện của nhà
thơ qua hình ảnh“gió theo lối gió, mây đường mây,dòng nước buồn thiu hoa bắp
lay” ?
- Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và chốt ý
+ gió đi một đường mây đi một ngả → phiêu tán, tan tác.
+ Nhịp 4/3 chia tách câu thơ thành hai vế và mỗi hình ảnh chỉ đóng khung trong
một vế, tô đậm thêm sự rời rạc, chia lìa của cảnh.
+ Dòng nước: buồn thiu → gợi ấn tượng về một dòng sông buồn đến mức không
còn trôi chảy nữa, dòng sông như bất động, như đánh mất sự sống của mình.

+ Động từ lay → hình ảnh hoa bắp lay động, phất phơ hay là nỗi buồn của mây
nước đã xâm chiếm vào hình ảnh những bông hoa.
→ Sông nước Vĩ Dạ đẹp nhưng đượm buồn, thơ mộng, lung linh hư ảo nhưng
nhuốm đầy nỗi buồn li tán, như nhuộm khắp nỗi niềm li biệt, chia lìa.
→ Nỗi buồn li tán mang mặc cảm chia lìa ẩn giấu trong cảnh sông nước đêm
trăng.

15


- Giáo viên hỏi: Trong ca dao và thơ văn xưa nay, thuyền bến, trăng thường là
những ẩn dụ nghệ thuật. Hãy cho biết ý nghĩa ẩn dụ của các hình ảnh thơ trên. Từ
đó chỉ ra những tình cảm, tâm tư sâu kín của thi nhân?
- Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và chốt ý
- Câu hỏi khắc khoải:“Thuyền … tối nay?”
+Hình ảnh con thuyền mang tính biểu tượng: “Bến sông trăng” → bến bờ hạnh
phúc mà nhà thơ hoài vọng, mong mỏi; con thuyền chở trăng → chở cái đẹp của
cuộc sống hay hạnh phúc, tình yêu.
+ Câu hỏi → nỗi niềm khẩn thiết, mong ngóng, đợi chờ mà cũng đầy lo âu, phấp
phỏng của tác giả. Qua đây, người đọc thấy được niềm khát khao hướng tới cái đẹp,
hướng tới hạnh phúc.
+ Từ “kịp” → những trạng thái phong phú, phức tạp vừa hi vọng lại vừa âu lo, vừa
khát khao mong chờ, vừa mang mặc định về một hạn định thời gian đang đến gần.
-Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh cái tôi trữ tình nhà thơ với cái tôi trữ tình
Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng cùng khát vọng chạy đua với thời gian ; sau đó
hướng dẫn học sinh tiểu kết.
⇒ Cảnh sắc thiên nhiên trong khổ thơ 2 không còn có vẻ giao hòa, ấm áp, tươi
sáng, tràn đầy sức sống mà chỉ có sự chia lìa, rời rạc, buồn bã, hiu quạnh.
- Cảnh hay chính là tâm trạng của tác giả: tha thiết, gắn bó với cuộc đời nhưng chới
với trong nỗi đau và mặc cảm về sự chia lìa.

3, Khổ 3: Nỗi hoài nghi đau đáu của nhân vật trữ tình
- Giáo viên hỏi :Hình ảnh con người xuất hiện trong vị thế như thế nào? Em hiểu
khách đường xa ở đây là ai? Áo em là áo ai ? Sắc áo trắng trong thơ Hàn Mặc Tử
tượng trưng cho điều gì?
- HS thảo luận, trả lời, giáo viên chốt ý:
- Con người xuất hiện trong tư thế và vị thế của một vị khách đường xa. Khách
đường xa → có thể là người đang sống ở Vĩ Dạ cũng có thể là chính nhà thơ.
- Điệp từ khách đường xa → con người đang lùi dần, xa mờ dần, mất hút dần khỏi
tầm nhìn, tầm với của tác giả.
- Câu thơ ngắt nhịp 4/3 và gắn liền với thủ pháp điệp, “khách đường xa …” và âm
tiết kết thúc là âm mở “a”.
→ Tạo nhịp điệu cuống quýt, gấp gáp như cố giữ lấy hình ảnh phía trước nhưng
hình ảnh đó cứ vuột dần khỏi tầm tay. Câu thơ thốt ra như tiếng kêu chới với, khắc
khoải với âm điệu buồn thương.
- Con người xuất hiện trong sắc áo trắng
+ Áo em → áo của người con gái xứ Huế cũng là của người sống ở thôn Vĩ.
+ trắng quá nhìn không ra → Lớp từ cực tả đã tuyệt đối hóa sắc trắng, đó cũng là
hiện thân cho vẻ đẹp thanh khiết, lung linh, trong sáng.hình ảnh này vừa như một
lời thú nhận về sự bất lực, chới với của tác giả.

16


- Giáo viên yêu cầu: Phân tích sắc thái thái đa nghĩa của từ ngữ “Ở đây” Ở đây là
ở đâu?
- Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và chốt ý
+Ở đây sương khói… → xứ Huế một mảnh đất lắm nắng nhiều mưa, sương khói
hư ảo.
→ nơi cách biệt với thế giới bên ngoài , mặc cảm về sự cách biệt, chia xa .Điều
này, hơn một lần Hàn Mặc Tử đã viết:

“Tôi đang ở đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu”
- Giáo viên đặt câu hỏi: Câu thơ cuối có ý nghĩa gì ?Giải mã các tín hiệu nghệ
thuật được thể hiện trong câu thơ ?
-Bài thơ là một câu hỏi và kết thúc cũng là một câu hỏi
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” lại một lần nữa vang lên. Từ chỗ “vườn ai”, “thuyền ai” và
giờ đây là “tình ai”, nghe vừa gần gũi, vừa xa xôi → giọng điệu thơ tha thiết,
ngóng đợi mà cũng đầy hoài nghi, mặc cảm.
+ “Tình ai” là tình cảm đôi lứa hay chính là tình đời, tình người mà nhà thơ khát
khao mãnh liệt.
Giáo viên yêu cầu: Qua khổ thơ , em có nhận xét gì về cái tôi trữ tình nhà thơ?
Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và chốt ý.
→ Qua đây, người đọc thấy được cái tôi cô đơn, hoài nghi và đau buồn nhưng cái
tôi đó vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn tha thiết gắn bó với cuộc sống và con người.
*Hoạt động 3:Hướng dẫn học sinh tổng kết
III, Tổng kết:
Giáo viên yêu cầu : Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ?
- Về giá trị nội dung (Lưu ý nhận xét về bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của
nhân vật trữ tình)
- Những nét đặc sắc về nghệ thuật? (ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu, các biện pháp
tu từ)
*Nội dung:
- Bài thơ đã vẽ ra được một bức tranh thiên nhiên xứ Huế đẹp đẽ , thơ mộng.
- Nỗi buồn cô đơn của một con người tha thiết yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp
, yêu sự sống trong một cảnh ngộ bất hạnh, đây cũng là nỗi buồn chung của thế hệ
các nhà thơ mới.
* Nghệ thuật
+ Hình ảnh thơ đẹp, độc đáo, gợi cảm, ngôn ngữ thơ trang sáng tinh tế, giọng thơ
đa thanh, sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, đặc biệt là những
câu hỏi tu từ …

IV, Củng cố và hướng dẫn học sinh học ở nhà

17


- Nắm vững nội dung bài học, học thuộc lòng bài thơ và làm bài tập luyện tập: Chỉ
ra sự vận động trong tâm trạng chủ thể trữ tình qua Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc
Tử..
- Soạn bài mới .
2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Thơ hay là giếng không đáy, nó là thế giới tâm hồn phong phú của các nhà thơ.
Chính vì thế mỗi tác phẩm bao giờ cũng mở ra nhiều con đường, nhiều cách tiếp
cận để người đọc khám phá hình tượng, cảm được những gì thi nhân gửi gắm qua
thi phẩm, rút ra giá trị đích thực của tác phẩm. Với cương vị của người làm công
tác giảng dạy môn Ngữ văn THPT, bao giờ tôi cũng có mong muốn tìm ra các cách
tiếp cận khác nhau về tác phẩm, giúp các em có thể cảm nhận hình tượng nghệ
thuật một cách rõ ràng, thấu đáo, biết vận dụng những kiến thức đã học vào quá
trình làm văn, biết giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình kiểm tra đánh giá
một cách gọn ghẽ, đạt chất lượng cao.
Việc tiếp cận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử ,tôi đã thử nghiệm ở hai
lớp dạy 11B1, 11B2 - Trường THPT Đinh Chương Dương kết quả như sau:
Ở lớp 11B2, khi áp dụng cách tiếp cận bài thơ theo hướng hình tượng cái tôi
trữ tình , giáo viên hướng dấn học sinh cảm nhận các từ ngữ, hình ảnh, biện pháp
nghệ thuật rồi từ đó chỉ ra ý nghĩa của nó, các em rất hứng thú, say mê, trong toàn
bộ tiết học các em đã rất tích cực hoạt động, say sưa nghiên cứu, nhiệt tình trong
việc phát biểu, giải đáp những vấn đề mà giáo viên đưa ra nhằm chiếm lĩnh trọn
vẹn cái hay, cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật. Ở phần hướng dẫn học sinh tổng
kết, khái quát lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, khi
giáo viên đặt ra câu hỏi em có cảm nhận gì về tâm trạng của cái tôi trữ tình trong
bài thơ các em đã trình bày một cách cụ thể, đầy đủ, rõ ràng, lưu loát, tự tin.

Ở lớp 11B1, không áp dụng hướng khai thác này,khi hướng dẫn học sinh đọchiểu, giáo viên đặt ra các câu hỏi liên quan đến tâm trạng nhân vật trữ tình, hình
ảnh cái tôi trữ tình , học sinh không tự tin lắm, thậm chí nhiều em đang còn rất mơ
hồ về khái niệm được đặt ra trong câu hỏi.
Qua kiểm tra đánh giá ở hai lớp cũng cho thấy:
Học sinh lớp 11B2 khi làm bài viết với đề bài: Cảm nhận của anh ( chị) về diễn
biến tâm trạng của cái tôi trữ tình trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử,
nhiều học sinh tỏ ra am hiểu sâu sắc về vấn đề, các ý sáng rõ, cách dẫn dắt mạch
lạc làm nổi bật được hình tượng cái tôi với diễn biến tâm trạng của nó. Một số bài
viết như của em Đỗ Thị Trang, em Lê Vân Anh, em Hoàng Thị Huế còn chỉ rõ cái
tôi trữ tình trong Đây Thôn Vĩ Dạ là cái tôi li hợp bất định (Nhân vật trữ tình vừa là
mình, vừa tự phân thân thành nhiều nhân vật khác), các em đã đưa ra những minh
chứng tiêu biểu như câu thơ mở đầu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ hoặc hình ảnh
mặt chữ điền, khách đường xa, hoặc câu hỏi kết thúc bài thơ Ai biết tình ai có đậm
đà?...
18


Em Vũ Thị Tú có những cảm nhận rất tinh tế: Ở câu thơ kết Ai biết tình ai có
đậm đà? lặp lại hai lần đại từ phiếm chỉ ai tạo thành một câu hỏi day dứt, xót xa
của một tâm hồn khao khát được yêu, khao khát sự đồng điệu, đồng cảm, đồng thời
cũng thể hiện tâm trạng bất an, hoài nghi của cái tôi trữ tình, đó là niềm hoài nghi
của một tâm hồn yêu đời khát sống.
Ngay cả phần đánh giá, tổng kết, em có nhận xét: Đây thôn Vĩ Dạ là một bức
tranh đẹp về một miền quê của đất nước, bức tranh ấy được vẽ bằng niềm hoài
niệm nhuốm sắc màu tâm trạng với những hình ảnh giản dị, đầy sức biểu cảm vẫn
gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh của một xứ Huế thơ mộng, trữ tình nhưng xa
xôi trong cảm nhận của thi nhân. Đây thôn Vĩ Dạ còn là tiếng nói của một cái tôi cô
đơn, bơ vơ luôn khao khát hướng về cuộc đời, đó cũng là khát vọng ngàn đời của
con người về sự đồng cảm, đồng điệu mà tình yêu và hạnh phúc lứa đôi là biểu hiện
cao nhất.

Em Bùi Thị Thúy trong bài viết của mình có nhấn mạnh về sự vận động trong
tâm trạng của cái tôi trữ tình: Niềm thiết tha hi vọng ( khổ 1) → Dự cảm chia lìa,
thất vọng, hồ nghi ( khổ 2) → cô đơn, trống vắng, xót xa, tuyệt vọng nhưng vẫn
thấm đẫm tình yêu người, yêu cuộc sống ( khổ 3), cũng trong bài viết này, em Bùi
Thúy còn cho người đọc thấy được tâm trạng của cái tôi trữ tình còn được thể hiện
qua hình thức nghệ thuật:
Đại từ phiếm chỉ ai cùng với các câu hỏi tu từ lặp lại đều đặn trong các khổ thơ:
vườn ai, thuyền ai, ai biết tình ai … thể hiện sự khắc khoải, khát khao tình yêu,
hạnh phúc của cái tôi trữ tình...
Về kết quả kiểm tra: Có tới 11/41 học sinh đạt điểm 8 trở lên, 16 học sinh đạt
điểm 7 → 7.5, còn lại học sinh đạt điểm 6, không có học sinh đạt điểm dưới 5.
Học sinh lớp 11B1 (không áp dụng phương pháp dạy trên), có 1/40 học sinh đạt
điểm 8, có 6 học sinh đạt điểm 7 → 7.5, có 23 học sinh đạt điểm 5 → 6.5, có 10 học
sinh đạt điểm dưới trung bình. Có những em khi giải quyết đề bài này chủ yếu trình
bày cảm nhận về bài thơ , hầu như trong bài làm của các em không có ý thức giải
thích cái tôi trữ tình là gì, nhiều em chưa hiểu được bản chất mà đề bài yêu cầu nên
viết rất chung chung, chưa làm rõ được vấn đề trọng tâm.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận:
Trên đây tôi đã mạnh dạn trình bày một vài kinh nghiệm của bản thân về cách
tiếp cận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử từ hình tượng cái tôi trữ tình,
cách tiếp cận này đã bước đầu thu được những kết quả khả quan trong thực tế giảng
dạy , có thể xem đây là một cách gợi ý để tiếp cận các bài thơ mới trong chương
trình Ngữ văn THPT.Tất nhiên đây không phải là cách thức, là phương pháp chung
áp dụng cho việc đọc - hiểu các văn bản thơ mới bởi văn bản văn học chỉ có một
nhưng tác phẩm văn học lại có nhiều mà đây chỉ là một đề xuất nhỏ trong kinh
nghiệm dạy học môn Ngữ văn của bản thân tích lũy qua mười mấy năm trong nghề
19



dạy học. Với khả năng có hạn của người viết, chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót, hạn chế, tôi rất hy vọng được sự trao đổi, chia sẻ, góp ý chân thành
của các quý vị, các bạn đồng nghiệp để vấn đề này đạt chất lượng cao hơn .
3.2. Kiến nghị:
Trong quá trình dạy học để nâng cao hiệu quả giáo dục không thể không kể đến
vai trò của việc thiết kế bài dạy, của việc sáng tạo, khám phá ra những cách tiếp cận
mới nhằm đa dạng hóa bài dạy cho phù hợp với đối tượng, với hình thức tổ chức
kiểm tra đánh giá theo hướng đổi mới. Chính vì thế theo tôi, người làm công tác
giảng dạy môn Ngữ văn ở THPT cần phải biết tìm ra và kết hợp nhiều cách tiếp cận
tác phẩm phù hợp với trình độ, nhu cầu và tâm lí học sinh thời đại. Vậy có nên
chăng, để khích lệ tinh thần sáng tạo của giáo viên mỗi năm trong phạm vi các
trường học hoặc rộng hơn là Sở Giáo Dục và Đào Tạo sẽ phát động cuộc thi thiết
kế các bài học hay và khó từ đó dần dần hình thành thư viện giáo án hay ngân hàng
bài giảng.
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy, việc hướng dẫn học sinh tiếp nhận cái tôi trữ tình
là điều rất quan trọng .Để làm được điều này giáo viên cần cung cấp kiến thức lí
luận văn học, giúp các em nắm bắt được đặc trưng của thơ. Vì vậy việc học các bài
lí luận văn học: Một số thể loại văn học: Thơ, truyện ... là rất cần thiết, trong thực
tế học sinh rất ngại học những bài này, chính vì thế giáo viên cần định hướng cho
các em thấy được tầm quan trọng của bài học, đó là cơ sở của việc đọc- hiểu thơ.
Cần tạo cho học sinh ý thức, thói quen tiếp nhận cái tôi trữ tình bằng cách đặt ra
những câu hỏi có liên quan trong kiểm tra đánh giá miệng, mười lăm phút, kiểm
tra định kỳ…Chẳng hạn ta có thể ra đề kiểm tra 15 phút: Cảm nhận về bức tranh
thiên nhiên và tâm trạng của nhân vật trữ tình qua khổ thơ đầu bài thơ“Đây thôn
Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử hay Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật trữ tình trong
bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử hoặc Cái tôi trữ tình trong bài thơ
“Vội vàng” của Xuân Diệu …trong những bài kiểm tra định kỳ.
Đối với những thi phẩm hay và khó, có nhiều cách hiểu như Đây thôn Vĩ
Dạ -Hàn Mặc Tử, dung lượng dài như Tràng giang - Huy Cận…cần tăng thêm
lượng thời gian để giáo viên có giúp học sinh khám phá sâu hơn về các lớp ý nghĩa

của văn bản từ đó nâng cao hiệu quả, chất lượng qua sự kiểm tra, đánh giá.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

GV: Nguyễn Thị Xuân
20


TÀI LIỆU THAM KHẢO .
1. Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn 11 tập 2.
Nhà xuất bản giáo dục 2007.
2. Thi nhân Việt Nam ( Hoài Thanh - Hoài Chân)
Nhà xuất bản văn học 1999.
3. Văn học Việt Nam 1900-1945.
Nhà xuất bản giáo dục 1999.
4. Lí luận văn học .
Nhà xuất bản giáo dục 2014.
5. Vẻ đẹp độc đáo trong thơ Hàn Mặc Tử - Vũ Quần Phương
( Giáo viên nhân dân, số đặc biệt; tháng 7 -1989).
6. Phân tích tác phẩm Ngữ văn 11 ( Trần Nho Thìn chủ biên)
Nhà xuất bản giáo dục 2008.
7.Cẩm nang ôn luyện thi đại học, cao đẳng môn Ngữ Văn. ( Lã Minh Luận)
Nhà xuất bản đại học sư phạm 2013.
8.Từ điển thuật ngữ văn học
Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội , 1999.

9.Mạng in ternet .

21


22


23



×