Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Vùng kinh tế và các khái niệm liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.27 KB, 114 trang )

Vùng kinh tế và các khái niệm liên quan
Hà Hữu Nga
1.

Khái niệm vùng kinh tế

Khái niệm vùng kinh tế hiện đại có một lịch sử phát triển hàng thập kỷ, với rất
nhiều thay đổi, tuỳ từng điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.
Liên Xô và hầu hết các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây
vẫn coi định nghĩa vùng kinh tế của Alaev là một định nghĩa mang tính kinh
điển: “Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc
dân, có những dấu hiệu sau: chuyên môn hoá những chức năng kinh tế quốc dân
cơ bản; tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ qua lại
giữa các bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh
thổ của vùng…, coi vùng như là hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ chức trong
bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân” [Dẫn theo: Nguyễn Xuân Thu,
Nguyễn Văn Phú (Đồng chủ biên) 2006: 20]. Kể từ khi Liên Xô tan vỡ, quan
niệm về vùng kinh tế và cấu trúc vùng kinh tế của nước Nga đã có rất nhiều
thay đổi. Hiện nay người Nga chia đất nước thành 12 vùng kinh tế và đó cũng
chính là các nhóm đơn vị hành chính, có chung các đặc trưng sau: i) có các mục
đích kinh tế và xã hội chung và đều tham gia vào các chương trình phát triển; ii)
có các điều kiện và tiềm năng kinh tế tương đối giống nhau; iii) có các điều kiện
địa chất, sinh thái và khí hậu tương đồng; iv) tương đồng về các phương pháp
thanh tra kỹ thuật xây dựng mới; v) có các phương pháp giám sát hải quan
tương đồng; vi) tương đồng tổng thể về các điều kiện sống của dân cư. Không
có bất cứ một chủ thể nào của Liên bang có thể vừa thuộc về vùng kinh tế này
lại vừa thuộc về một vùng kinh tế khác. Các vùng kinh tế còn được chia thành
các khu kinh tế (còn gọi là các vùng vĩ mô “macrozones”). Một vùng kinh tế
hoặc các bộ phận của nó có thể thuộc về các vùng vĩ mô khác nhau. Việc thành
lập mới hoặc huỷ bỏ các vùng, các vùng vĩ mô, hoặc bất cứ thay đổi nào về cấu



trúc của chúng cũng đều do chính phủ Liên bang quyết định [Russian
Government 1997].
Các nước Đông Âu mới cũng đã không ngừng cải cách cấu trúc kinh tế của
mình, trong đó có việc tái cấu trúc các vùng kinh tế thích hợp với những đòi hỏi
của quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập với các nước thuộc Liên
minh Châu Âu, trong đó Ba Lan có thể được coi là một trường hợp điển hình
cho một cách tiếp cận mới đối với khái niệm vùng kinh tế. Theo họ “Một vùng
kinh tế là một lĩnh vực xã hội tổng thể được tạo bởi các công ty, các thể chế
cũng như các bản sắc và các tác nhân trong vùng. Trong một khuôn khổ chung
nhất, các lĩnh vực như vậy được tạo bởi: i) các tổ chức tìm cách cấu trúc các
môi trường của chúng; ii) các đạo luật và các thể chế đã có từ trước, vận hành
để vừa hạn chế vừa tạo điều kiện cho các tác nhân trong vùng; và iii) các tác
nhân chiến lược có kỹ năng điêu luyện làm việc trong các tổ chức, giúp duy trì
sự hợp tác giữa các nhóm và các lợi ích khác nhau” [Fligstein and Stone Sweet
2002: 1211)]. Các năng lực vùng được gắn chặt với năng lực tổ chức của các
công ty, cấu trúc công nghiệp, các mô hình chuyên môn hóa, và trong cấu trúc
thể chế của nó. “Đặc trưng này gắn liền với các khái niệm thuộc các hệ thống
đổi mới vùng định danh mục tiêu, và các cụm vùng. Về cơ bản hệ thống đổi mới
vùng bao gồm hai loại tác nhân chính và các tương tác giữa các tác nhân đó.
Những tác nhân đầu tiên là các công ty trong cụm công nghiệp chủ yếu trong
một vùng, bao gồm cả các ngành công nghiệp hỗ trợ của chúng. Tiếp đó, cần
phải có một hạ tầng thể chế, tức là các viện nghiên cứu, các cơ sở giáo dục cấp
cao, các cơ sở chuyển giao công nghệ, các tổ chức đào tạo nghề, các hội kinh
doanh, các thể chế tài chính, v.v… có đủ năng lực để hỗ trợ cho quá trình đổi
mới vùng” [Asheim and Isaksen 2002: 83].
Ngược lại với khái niệm cụm được định nghiã là “các công ty gần gũi về
phương diện địa lý theo mối quan hệ dọc hoặc quan hệ ngang liên quan đến một



hạ tầng cơ sở hỗ trợ công ty được địa phương hóa có một tầm nhìn phát triển
chung cho tăng trưởng kinh doanh dựa trên cạnh tranh và hợp tác trong một khu
vực thị trường cụ thể” (Cooke 2002: 121) – tầm quan trọng tương đối của các
cấu trúc thể chế hỗ trợ là rất cao. Các cấu trúc đó chính là “ký ức” của vùng, là
kết quả của những kinh nghiệm hợp tác và xung đột trong vùng. Các cấu trúc
thể chế này được Salais và Storper [1997] mô tả là các trật tự vùng, chẳng hạn
như các truyền thống, các mong muốn cố kết lẫn nhau, các thói quen, và các
cách thức hành động trong vùng. Các thể chế, hoặc các cấu trúc hành chính, các
truyền thống, các thói quen đó được tạo ra và được tái tạo theo cách cởi mở, nhưng lại phụ thuộc vào những cách thực hiện bởi: i) các chiến lược tối thiểu hóa
chi phí giao dịch của công ty; ii) các nhà chức trách vùng (đặc biệt là nhà nước
liên bang) và; iii) các tác nhân phi chính phủ (chẳng hạn như các công đoàn, các
hội kinh doanh, hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ (NGOs) hoặc đôi
khi là các tác tố cá nhân). Các cấu trúc hành chính đóng vai trò quyết định cho
tiềm năng đổi mới của các vùng và các công ty trong vùng, vì chúng liên quan
đến các mô hình tổ chức họat động, quản lý và đổi mới, luôn tạo ra các mô thức
liên tổ chức hợp tác, cạnh tranh, và còn vì chúng điều chỉnh các mối quan hệ
giữa các doanh nghiệp, khoa học, công nghệ, giáo dục và chính trị [Cooke
1998].
Khác với các định nghĩa tương đối phức tạp trên, người Canada lại quan niệm
rất đơn giản: “Một vùng kinh tế là một cách nhóm các đơn vị dân cư nguyên
vẹn để tạo thành một đơn vị địa lý chuẩn phục vụ cho việc phân tích các hoạt
động kinh tế vùng”. Trong tỉnh Quebec, các vùng kinh tế còn được gọi là các
vùng hành chính (régions administratives) và việc phân vùng được tuân thủ
theo pháp luật. Trong tất cả các tỉnh và các vùng lãnh thổ khác, các vùng kinh tế
được tạo bởi sự thoả thuận giữa Cục thống kê Canada và tỉnh/lãnh thổ liên quan.
Đảo Prince Edward Island và ba vùng lãnh thổ khác mỗi vùng đều được coi là
một vùng kinh tế. Riêng Ontario có một ngoại lệ vì ở đó ranh giới vùng kinh tế


không tuân thủ theo các ranh giới đơn vị dân cư: đơn vị dân cư Halton bị chia

tách bởi vùng kinh tế Hamilton – Bán đảo Niagara và vùng kinh tế Toronto.
Còn đối với người Mỹ thì quan niệm về vùng kinh tế đã có những thay đổi đáng
kể. Từ giữa thế kỷ 19, Văn phòng Dân số đã tập hợp dữ liệu các bang thành các
vùng gốm nhiều bang. Gần đây Văn phòng này đã chia 50 bang thành 4 vùng
kinh tế và bốn vùng đó lại được chia thành 9 phân vùng. Không kể việc bổ sung
Alaska và Hawaii vào phân vùng Thái Bình Dương vào những năm 1950 thì
việc chia thành 9 phân vùng vẫn không thay đổi kể từ năm 1910. Tuy nhiên, sau
cuộc tổng điều tra dân số năm 1950, một Uỷ ban Liên cơ quan thuộc Bộ thương
mại đã xem xét lại định nghĩa về vùng và phân vùng bằng tiêu chuẩn đồng nhất
kinh tế – xã hội. Cuối cùng các bang đã được phân chia lại, nhưng Văn phòng
Dân số Mỹ đã không chấp nhận. Trong khi đó thì Văn phòng Phân tích Kinh tế
Liên bang lại chấp nhận việc nhóm nhiều bang thành một vùng kinh tế, và việc
chia toàn Liên bang thành 8 vùng đã được chấp nhận kể từ những năm 1950.
Ngoại trừ khuynh hướng chia theo thu nhập đầu người (từ 1929 – 1950), các
biến kinh tế được Uỷ ban Liên cơ quan thuộc Bộ Thương mại sử dụng đều mô
tả các dữ liệu kinh tế theo thời điểm. Các nhân tố kinh tế khác được xem xét
trong định nghĩa vùng đều được cấu trúc bởi thu nhập theo các nguồn dữ liệu
năm 1950. Các nhân tố phi kinh tế được sử dụng để nhóm các bang thành vùng
bao gồm mật độ dân số và mức tăng trưởng, các cấu trúc tộc người, chủng tộc,
tỷ lệ chết của trẻ em năm 1949, số máy điện thoại trên đầu người năm 1950. Cơ
sở cuối cùng để phân vùng bao gồm cả các nhân tố kinh tế và phi kinh tế. Các
nhà kinh tế học Mỹ đã có ý định sử dụng các vùng của Văn phòng Phân tích
Kinh tế Liên bang để phân tích vì việc nhóm các bang thành các vùng kinh tế rất
thuận lợi cho việc phân tích. Một số nghiên cứu mới đây về khuynh hướng và
chu kỳ xác định vùng kinh tế vẫn dựa trên các vùng do Văn phòng Phân tích
Kinh tế Liên bang xác định, ngay cả khi các bang đã được phân vùng dựa trên
cơ sở các tương đồng theo thời điểm. Vào cuối những năm 1970 và đầu những


năm 1980, các vùng kinh tế theo cách phân chia của Văn phòng Phân tích Kinh

tế Liên bang đã được sử dụng để kiểm tra các hiệu ứng vùng về phương diện
chính sách tài chính và tiền tệ. Kể từ cuối những năm 1990 người ta vẫn sử
dụng các vùng kinh tế của Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang. Và hiện nay
đang có khuynh hướng sử dụng phương pháp phân tích cụm kinh tế để xác định
các vùng, và người ta đã phân 48 bang thành 8 vùng kinh tế khác nhau căn cứ
vào cách phân tích cụm [Crone 2003: 1-2].
2. Khái niệm cực tăng trưởng
Cực tăng trưởng – một trong những khái niệm cốt lõi tạo thành vùng kinh tế –
được nhà kinh tế học Pháp François Perroux đưa ra năm 1949. Ông và những
người khác đã mở rộng thêm khái niệm này, nhưng vẫn không có nhiều sự đồng
thuận trong giới nghiên cứu, cho dù nó có sức hấp dẫn trực cảm đặc biệt, vì vậy
nó đã tác động rất mạnh tới các nhà làm chính sách. Họ cho rằng các nhà kinh tế
học có thể đưa ra một kỹ thuật phân tích cần thiết để tăng thêm ý nghĩa cho các
chính sách dựa trên khái niệm cực tăng trưởng. Quan niệm trực cảm về khái
niệm cực tăng trưởng coi một cực tăng trưởng như một ngành công nghiệp hoặc
có lẽ là một nhóm công ty thuộc một ngành công nghiệp. Ở mức độ tối đa, một
cực tăng trưởng có thể chỉ là một công ty hoặc có thể là một nhóm ngành công
nghiệp. Tuy nhiên Perroux cũng đã định nghĩa các cực tăng trưởng là “không
gian kinh tế trừu tượng”. Đối với ông, không gian kinh tế trừu tượng có ba loại:
i) một kế hoạch kinh tế; ii) một trường lực hoặc tác động; iii) một tổng thể đồng
nhất. Vì quan niệm trừu tượng về cực tăng trưởng nên ông dứt khoát từ chối
quan niệm cho rằng không gian kinh tế lại có thể tương hợp với một khu vực
địa lý như một vùng hoặc một thành phố chẳng hạn.
Đối với Perroux, thuộc tính ưu thống của một cực tăng trưởng là rất quan trọng.
Một công ty hoặc một ngành công nghiệp A được coi là ưu thống đối với B nếu


dòng hàng hoá và dịch vụ từ A đến B là phần đầu ra của A lớn hơn luồng hàng
hoá dịch vụ từ B đến A so với phần đầu ra của B. Một công ty hoặc một ngành
công nghiệp lớn có mức độ tác động qua lại cao với các công ty hoặc các ngành

khác thì là công ty hoặc ngành ưu thống, trong đó tác động qua lại được coi là
tương tác đẩy. Quá trình phát triển của một công ty hoặc ngành công nghiệp có
lực đẩy được gọi là quá trình hình thành cực. Perroux và các tác giả khác về cực
tăng trưởng cố gắng đặt cơ sở cho khái niệm này trên các quan niệm về các lợi
thế kinh tế ngoại ứng, mức độ tập trung và các liên kết kinh tế. Có được một lợi
thế kinh tế ngoại ứng khi sự thay đổi đầu ra của một công ty hoặc một ngành
công nghiệp tác động đến chi phí ở các công ty khác. Các lợi thế qui mô kinh tế
ngoại ứng có thể là âm như trong trường hợp các chi phí ô nhiễm, hoặc chúng
có thể là dương như trong trường hợp phát triển công nghệ mạch tích hợp trong
công nghiệp điện tử. Cùng với các khái niệm cực tăng trưởng là những khái
niệm về tầm quan trọng biên duy nhất trong việc phân tích các vấn đề kinh tế
vùng. Vì vậy thì ý tưởng về các cực tăng trưởng đã đóng một vai trò chủ chốt
trong việc xây dựng chính sách phát triển vùng [Darwent, David 1969: 5-32].
Nhà kinh tế học vùng nổi tiếng J. Parr cho rằng: “Một trong những thuộc tính
sâu sắc của việc phân tích và thực hiện kế hoạch hoá kinh tế vùng trong mấy
thập kỷ qua đã làm thay đổi thái độ của chúng ta đối với chiến lược cực tăng
trưởng. Chiến lược này hoặc tập hợp các chiến lược này đã được đưa ra trong
rất nhiều môi trường khác nhau, vì vậy mà không dễ khái quát. Tuy nhiên vẫn
có thể khái quát những đặc điểm chung. Chiến lược cực tăng trưởng đã tham gia
một cách tích cực vào việc tập trung đầu tư ở một số địa phương nhất định
(thường là một phần nỗ lực để thay đổi cấu trúc không gian vùng) mong cố
gắng để cổ vũ hoạt động kinh tế và vì vậy mà phát triển các cấp độ phúc lợi
trong một vùng” [Parr 1999: 1195-1215]. Vào giữa những năm 1960, chiến lược
cực tăng trưởng đã nổi bật như một đối tượng hâm mộ nhiệt thành và đã được
coi là một ý tưởng thời thượng. Và các kế hoạch kinh tế được tái chế theo khuôn


khổ của chiến lược cực tăng trưởng. Kuklinski [1978: 21] cũng đã khẳng định
vai trò của lý thuyết cực tăng trưởng với tư cách là một bộ phận của kinh tế học
vùng: “…lý thuyết cực tăng trưởng là gần gũi nhất với lý thuyết tổng quát về

phát triển vùng”.
Chiến lược cực tăng trưởng, hoặc các biến thể của nó, các cực phát triển hoặc
các trung tâm tăng trưởng, được thảo luận và được thực hiện trong tất cả các
chiến lược phát triển vùng khác nhau. Darwent [1969]; Isard, W. [1960]; Isard,
W & Schooler, E. W. [1959]; và Friedmann, JR. [1966, 1967, 1968] đều cho
rằng công trình của Perroux đã gây ra một sự lầm lẫn lớn một phần là vì sự mập
mờ của hệ thống tri thức ban đầu của ông, một phần vì việc dịch nhầm từ tiếng
Pháp ra tiếng Anh và ngược lại, và một phần vì sự lẫn lộn ngữ nghĩa của các tác
giả sau này. Quan niệm gốc về cực tăng trưởng thực sự độc lập với một bối cảnh
không gian hoặc một không gian địa lý học kinh tế, hoặc không gian địa lý. Hơn
nữa các cực tăng trưởng chỉ liên quan và đặc biệt liên quan đến không gian kinh
tế trừu tượng. Vì vậy mà ông đã xác định các cực tăng trưởng là: “các trung
tâm, hoặc các cực, các tâm điểm, toả ra các lực ly tâm và hút vào các lực hướng
tâm. Mỗi trung tâm hút và đẩy đều có một trường lực chính xác tạo ra trong
trường lực của các trung tâm khác”. Vì vậy các cực có thể là các công ty, các
ngành công nghiệp hoặc các nhóm công ty có thể là những “lực đẩy” nếu nó có
mối tương tác cao với nhiều công ty khác, mức độ ưu trội cao và có qui mô lớn.
Darwent [1969] đã giải thích rằng sự khác biệt rất cơ bản và quan trọng giữa
không gian kinh tế và không gian địa lý đã bị bỏ qua, vì vậy đã gây ra những
quan niệm lầm lẫn to lớn.
Tuy nhiên các tác giả sau này đã cố mở rộng khái niệm cực tăng trưởng mà
không qui chiếu vào không gian địa lý hoặc cố gán ghép không gian kinh tế và
không gian địa lý với nhau. Khi mở rộng khái niệm cực tăng trưởng các học giả
Mỹ đã phát triển các khái niệm hoàn toàn khác và rộng hơn quan niệm cực tăng


trưởng gốc nhiều. Trong số các công trình liên quan đến lĩnh vực này nổi bật có
công trình của Hirschman [1958]. Chính ông là người đã đưa ra khái niệm tăng
trưởng bất cân bằng. Khi việc xác định vị trí xuất hiện trong phát triển vùng thì
các nhà qui hoạch phát triển đặc biệt quan tâm đến lý thuyết tăng trưởng vùng

và các khái niệm liên quan đến khái niệm cực tăng trưởng trong không gian địa
lý. Chính điều đó đã kích thích các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều đến việc
phát triển khái niệm “các trung tâm tăng trưởng”, ngược lại với các cực tăng
trưởng, đã qui chiếu vào các vị trí trong không gian địa lý. Quan niệm về trung
tâm tăng trưởng cho rằng sự phát triển kinh tế và xã hội được khởi đầu và lan
truyền đến các vùng xung quanh; theo đó đầu tư tốt nhất là tập trung vào các
trung tâm tăng trưởng chứ không phải là phân tán ra xung quanh bằng một quan
niệm mơ hồ “cân bằng” hoặc “bình đẳng”. Nhiều nghiên cứu về các trung tâm
tăng trưởng đã dựa trên công trình của Boudeville [1966], đặc biệt là quan niệm
của ông về ba loại vùng: vùng đồng nhất, vùng phân cực và vùng kế hoạch.
Quan niệm này đã được đưa vào kế hoạch hoá vùng ở Pháp là nơi xác định các
vùng là những khu vực để đầu tư. Vùng phân cực của Boudeville tương tự như
mô hình trung tâm – ngoại vi của Friedmann, vì nó tương hợp với cấu trúc vị trí
trung tâm của sự phân cấp các thành phố về việc nâng cấp qui mô và chức năng,
với các “trung tâm tăng trưởng” thường là những thành phố lớn hơn trong
vùng.
3. Trung tâm tăng trưởng
Các trung tâm tăng trưởng thường được coi là đồng nghĩa với các thành phố
hoặc các khu vực đô thị. Điều đó là phổ biến vì trong hầu hết các trường hợp,
các tiêu chuẩn được đưa ra để xác định một trung tâm tăng trưởng đều là các
đặc trưng của vùng đô thị. Cũng có một số người chỉ giới hạn các trung tâm
tăng trưởng vào các khu vực đô thị. Chẳng hạn Fox [1966] đã xác định trung
tâm tăng trưởng là “một vị trí đô thị có thể hoạt động như một tâm điểm cho


việc xây dựng kế hoạch phát triển”. Ông đề xuất các tiêu chuẩn phân biệt giữa
các khu vực đô thị là các cực tăng trưởng và các vùng không phải cực tăng
trưởng như sau: liên kết mạnh với nền kinh tế quốc gia; là trung tâm thị trường
lao động; là một khu vực thương mại bán lẻ chủ yếu; các chức năng phân cấp
cao; một khối lượng thương mại bán buôn lớn; và là các đầu mối giao tiếp

thuận lợi. Còn Darwent [1969] thì lại cho rằng những tiêu chuẩn đó vẫn còn quá
ít, không đủ để tạo điều kiện phân biệt vì chúng là những đặc điểm mô tả chung
của các khu vực đô thị.
Friedmann được coi là một trong số những người đã vượt khỏi các quan niệm bị
đơn giản hoá về cực tăng trưởng và trung tâm tăng trưởng. Khái niệm trung tâm
– ngoại vi của ông đã vượt khỏi sự phân bổ các nguồn theo phương thức liên
khu vực. Theo ông cực tăng trưởng phải cố gắng hướng tới giới hạn các vấn đề
hiện thực của phát triển vùng trong không gian địa lý. Bối cảnh ông sử dụng để
đưa ra quan niệm của mình là các quốc gia đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ
chế độ thuộc địa thành các nền kinh tế độc lập. Ông cho rằng các nền kinh tế
này thường có một trung tâm duy nhất và một khu vực ngoại vi gắn kết lỏng lẻo
với trung tâm. Trung tâm và vùng ngoại vi của nó có những mối quan hệ tối
thiểu và nếu đã phát triển thì nó thường phiến diện, trong đó vùng ngoại vi vẫn
ở tình trạng lạc hậu và bị bóc lột, không thể phát triển vì nó chỉ hỗ trợ cho sự
phát triển của trung tâm mà thôi. Friedmann cho rằng tăng trưởng kinh tế sẽ
xuất hiện thông qua sự xuất hiện của một hệ thống phân cấp chức năng kết nối
và phát triển cao của các thành phố và các thị trấn và sự phát triển như vậy
tương ứng với mức độ tập trung cao. Hệ thống phân cấp đô thị này là một
phương tiện thống nhất ngoại vi với trung tâm và với vùng lõi [Friedmann, JR.
1968].
Chịu ảnh hưởng đáng kể từ các lý thuyết và khái niệm của Perroux và
Boudeville, Friedmann đã đưa ra thêm các khái niệm “vùng đồng nhất” và


“vùng độc lập”. Trong đó vùng độc lập mang đặc trưng các vùng phân cực, còn
khu vực ngoại vi của một vùng phân cực có thể được chia thành bốn phần: i)
các vùng chuyển tiếp lên; ii) các vùng chuyển tiếp xuống; iii) các vùng ranh
giới nguồn lực; và iv) các vùng có vấn đề đặc biệt. Các vùng chuyển tiếp lên là
những vùng tăng trưởng bằng tiềm năng tăng trưởng cao nhưng lại hạn chế vốn.
Các vùng chuyển tiếp xuống là những khu vực kinh tế nông nghiệp, hoặc công

nghiệp cũ suy thoái và hiện tượng di cư là chỉ báo rõ ràng nhất. Các vùng ranh
giới nguồn lực là những vùng định cư mới trong đó có nhiều tiềm lực cho tăng
trưởng. Các vùng có vấn đề đặc biệt là những vùng cần các biện pháp can thiệp
về chính sách nhiều hơn các vùng khác vừa được dẫn. Vì vậy phân loại này cho
phép phân biệt các vùng theo các hoạt động chính sách cần thiết và việc xử lý
các vấn đề vùng không tách biệt mà là cùng với sự xem xét tổng thể hệ thống
vùng. Khái niệm của Friedmann đã được coi là một bước tiến vượt khỏi quan
niệm gốc về cực tăng trưởng và trung tâm tăng trưởng và nó đã đưa ra được một
mô hình tổng quát về các thuộc tính không gian của tăng trưởng kinh tế vùng.
Vào thời gian đó, khái niệm cực tăng trưởng và trung tâm tăng trưởng ngày
càng được giải thích gắn liền với sự phát triển của một trung tâm đô thị có thể
thu hút được các hoạt động kinh tế thông qua hạ tầng cơ sở và việc khuyến
khích trực tiếp tạo ra “hiệu ứng hấp dẫn” (theo thuật ngữ của Perroux làeffets
d’entrainment) trong vùng ngoại vi của trung tâm đô thị dưới hình thức tăng
công ăn việc làm và tăng thu nhập. Người ta hy vọng rằng mô thức phát triển
vùng như vậy kéo theo sự tăng trưởng của phân cấp đô thị, nhờ thế mà khoảng
cách vùng có thể giảm đi bằng cách thay đổi cấu trúc tăng trưởng đô thị.
4.

Khái niệm cụm kinh tế

Trong mấy thập kỷ qua đã xuất hiện các khái niệm cụm hoặc hợp thành cụm,
các mạng lưới và các khái niệm liên quan khác. Việc sử dụng thuật ngữ cụm đã
trở nên phổ biến bắt đầu từ khi Porter [1998] đặt khái niệm này trong bối cảnh


cạnh tranh của các công ty và các địa điểm phát triển kinh tế. Ông định nghĩa
cụm là “một nhóm công ty kề cận về địa lý có mối liên hệ qua lại và các thể chế
kèm theo trong một lĩnh vực riêng biệt liên kết với nhau bằng những tương
đồng và bổ sung”. Ông chỉ rõ tầm quan trọng của các liên kết liên công nghiệp

đó trong tính cạnh tranh của các khu vực kinh tế vùng và quốc gia. Tuy nhiên
theo Stohr [1998] thì các quan niệm này không hoàn toàn mới mà được phát
triển từ các khái niệm đã được sử dụng trước đó. Stohr đã xác định nguồn gốc
của các khái niệm này là các cực tăng trưởng liên khu vực của Perroux [1955]
“các trung tâm tăng trưởng” được xác định về không gian của Boudeville
[1966] và các “quận công nghiệp” của Marshall [1890, 1920].
Có hai cách sử dụng cụm trong các chiến lược phát triển vùng. Trước hết là
chiến lược truyền thống xác định một “cụm tăng trưởng” dựa trên hệ qui chiếu
cực tăng trưởng hoặc trung tâm tăng trưởng. Một cụm tăng trưởng là việc tập
hợp thành cụm của các khu vực (các đơn vị chính thể nhỏ, chẳng hạn như các
đô thị độc lập) dựa trên các tiêu chuẩn chẳng hạn như các hoạt động kinh tế, các
tiềm năng tăng trưởng, và các liên kết vật chất chung. Một cụm tăng trưởng có
một trung tâm đưa ra các cấp dịch vụ cao và đa dạng hoá hơn những cách thức
đang có trong khu vực ảnh hưởng có thể thực hiện bất cứ vai trò nào sau đây:
trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại, trung tâm hành chính, trung tâm
giải trí và các vai trò chức năng khác. Mới đây người ta còn sử dụng khái niệm
cụm để phục vụ cho việc quản lý môi trường và phát triển đô thị bền vững. Ở
đây một cụm được xác định là một khu vực phát triển ở qui mô tiểu vùng trong
đó các ranh giới được xác định bằng cách sử dụng ranh giới liên địa phương bao
gồm ít nhất hai khu vực hoặc các đơn vị chính thể. Một cụm như vậy là một tiểu
vùng phát triển, thích hợp cho việc quản lý và qui hoạch đất theo các đặc trưng
kinh tế, không gian, dân số và vật chất của nó. Các tiêu chuẩn để xác định các
ranh giới của một cụm bao gồm: i) tiêu chuẩn kinh tế (sự tồn tại một cơ sở kinh
tế chung, các nguồn lực bổ sung, những tiềm năng xuất khẩu và tăng trưởng


kinh tế cao); ii) tiêu chuẩn xã hội (có cơ sở văn hoá chung, và sử dụng cùng một
ngôn ngữ hoặc phương ngữ); iii) tiêu chuẩn vật chất (liên tục về mặt địa lý, và
được liên kết bởi các mạng lưới hạ tầng cơ sở); iv) tiêu chuẩn không gian (tính
chất bổ sung của các vai trò chức năng trong cấu trúc đô thị); v) tiêu chuẩn

chính thể (việc vạch ranh giới cụm phải trùng hợp với các ranh giới hành chính
của các cấp chính quyền địa phương; vi) và tiêu chuẩn môi trường (trải nghiệm
các vấn đề môi trường như nhau, và hiện có hoặc sử dụng các nguồn chung
chẳng hạn như nước, đất đai, rừng, quặng mỏ…vv.) [Mercado R.G. 2003].
Các lý thuyết cụm nhằm giải thích các khác biệt vùng trong hoạt động kinh tế
về phương diện địa lý đã dẫn đến nảy sinh các khác biệt chính sách phát triển
kinh tế quốc gia, vùng, và địa phương. Theo Maskell và Kebir thì có bốn vấn đề
cơ bản liên quan đến khái niệm cụm kinh tế: i) các lợi ích kinh tế và xã hội mà
các xí nghiệp được hưởng khi hình thành cụm hoặc các xí nghiệp cùng xây
dựng liền kề nhau về phương diện địa lý; ii) những bất lợi về kinh tế mà các xí
nghiệp phải đối mặt khi việc tập trung thành cụm đã vượt quá các ngưỡng khu
vực kinh tế hoặc ngưỡng địa lý; iii) những lợi thế có được bằng cách khai thác
các đồng hợp nội cụm hơn là việc cam kết tương tác ngoại cụm; và iv) khả năng
sói mòn các lợi thế kinh tế và sự lấn át của các bất lợi thế kinh tế đối với vòng
đời của cụm. Mỗi vấn đề đều được xem xét trong khuôn khổ của ba khung lý
thuyết chủ chốt tương ứng có thể được đưa vào khái niệm cụm [Maskell, Peter
& Leïla Kebir, 2005]. Vì vậy có thể xem xét các cách tiếp cận này dựa trên ý
tưởng về các ngoại ứng địa phương (được Marshall minh hoạ trong công trình
về “các quận công nghiệp”); về vấn đề cạnh tranh (được lý thuyết tăng trưởng
cụm của Michael Porter minh hoạ); và về viễn cảnh lãnh thổ (được minh hoạ
bằng cách tiếp cận xuất hiện trong nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Châu Âu
về Môi trường Đổi mới).
_____________________________________


Ghi chú: Bài viết năm 2008, thuộc đề tài cấp Bộ, Viện Phát triển Bền vững
vùng Bắc Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nghiên cứu cơ sở lý thuyết cho
việc xác định các ưu tiên trong phát triển bền vững vùng kinh tế do tác giả làm
Chủ nhiệm.
Tài liệu tham khảo

Asheim B.T., and A. Isaksen 2002. Regional Innovation Systems: The
Integration of Local ‘Sticky’ and Global ‘Ubiquitous’ Knowledge. Journal of
Technology Transfer 27: 77‐86.
Boudeville 1966. Problems of regional economic planning. University Press,
Edinburgh.
Cook, G.R. 1967. Canadian Centennial Cerebrations. In International Journal
22(Autumn 1967).
Crone, M. Theodore 2003. An Alternative Definition of Economic Regions in
the U.S. Based on Similarities in State Business Cycles. In Federal Reserve
Bank of Philadelphia – October 2003.
Darwent, David 1969. Growth poles and growth centers in regional planning –
A review,” Environment and Planning, vol. 1 (1969).
Fligstein N. and Stone Sweet 2002. Integration. The American Journal of
Sociology, Vol. 107, No. 5. (Mar., 2002), pp. 1206-1243.
Fox, Jonathan 2002. Ethnic minorities and the Clash of Civilizations: A
quantitative analysis of Huntington’s thesis. In British Journal of Political
Science32(3), pp. 415-434


Friedman, M. 1995. From outcomes to budgets: An approach to outcome based
budgeting for family and children s services. Washington, DC: Center for the
Study of Social Policy.
Friedmann, JR. 1966. Regional Development Policy – A Case Study of
Venezuela.MIT Press, Cambridge;
Friedmann, JR 1967. A General Theory of Polarized Development, mimeo,
Santiago, Chile, August;
Friedmann, JR 1968. The Role of Cities in National Development, mimeo,
Santiago, Chile, February.
Friedmann, John 1986. The World City Hypothesis. In Development and
Change17:69-83

Friedmann, John, and Michael Douglass 1978. Agropolitan Development:
Towards a New Strategy for Regional Planning in Asia. In Fu-chen Lo and
Kamal Salih (eds.) Growth Pole Strategy and Regional Development Policy,
New York: Pergamon Press.
Hirschman A.O. 1957. The Strategy of Economic Developmen. (London:
Duckworth, 1957).
Hirschman A.O. 1958. The strategy of economic development. Yale University
Press. New Haven.
Isaacs, Harold 2004 (Ed.) Exploring Conflicts and conflict Resolution in the
Contemporary Third World. In ATWS Proceedings, Twenty Second Annual


Meeting (2004) Americus, GA: Association of Third World Studies, Inc., 2005,
97 pp.
Isard, W. 1960. Industrial Complex Analysis, in Methods of Regional
Analysis. MIT Press, Cambridge.
Isard, W and

Schooler,

E. W.

1959. Industrial

Complex Analysis:

Agglomeration, Economics and Regional Development, Journal of Regional
Science, Spring;
Marshall A. 1920. Principles of Economics. London: Macmillan and Co., Ltd.,
1920. Eighth edition.

Maskell, Peter & Leïla Kebir, 2005. What Qualifies as a Cluster
Theory? In DRUID Working Papers 05-09, DRUID, Copenhagen Business
School, Department of Industrial Economics and Strategy/Aalborg University,
Department of Business Studies.
Mercado R.G. 2003. Regional Development in the Philippines: A Review of
Experience, State of the Art and Agenda for Research and Action. Philippines
Institute for Development Studies – Discussion Paper Series No. 2002 – 2003.
Nguyễn Xuân Thu – Nguyễn Văn Phú (Đồng chủ biên) 2006. Phát triển kinh tế
vùng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Sách chuyên khảo). Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.
Parr, John B. 1999. Growth-pole Strategies in Regional Economic Planning: A
Retrospective View. Part 1. Origins and Advocacy. Urban Studies, Vol. 36, No.
7, 1195 – 1215.


Perroux F. 1955. Note sur la notion de pôle de croissance. Economie Appliqueé,
8, pp. 307-320.
Perroux F. 1964. La notion de pole de croissance. En L’economie du X Xeme
Siecle, 2nd ed. (Paris: Presses Universitaries de France, 1964), pp. 142-154
Perroux, F (1968) Les Investissements multinationaux et l’analyse des poles de
developpement d’integration, Revue Tiers-Monde, IX, 34.
Porter, Michael 1998. On Competition. Boston: Harvard Business School Press.
Portes, A. 1998. Social Capital: its origins and applications in modern
sociology. In Annual Review of Sociology, 24, 1-24.
Russian

Government

1997. Russian


Classificaton

of

Economic

Regions (OK 024-95) of January 1, 1997 as amended by the Amendments in
January 1998 through May 2001. Section II. Economic Regions.
Salais R. and M. Storpper 1997. Worlds of Production: the Action Frameworks
of the Economy, Cambridge, MA, Harvard University Press, 1997.
Storper M. and R. Walker 1989. The capitalist imperative: territory, technology,
and industrial growth. Basil Blackwell, New York.
Khoa học vùng và Lý thuyết vùng Kinh tế – Phần I
1. Các nhân tố tạo vùng
Chúng tôi quan niệm rằng muốn có được một hệ mẫu lý thuyết thực sự khoa
học về vùng thì trước hết khoa học vùng cần phải phân biệt rõ ràng và minh


bạch năm nhóm nhân tố tạo vùng, mà mỗi nhóm bao gồm nhiều yếu tố khác
nhau, hay còn gọi là nhiều biến thể khác nhau, tổng hợp lại tạo thành một cấu
trúc vùng, và một bản sắc vùng. Các nhóm đó là:
Nhóm nhân tố tự nhiên: i) môi trường – cảnh quan với các yếu tố tạo thành
không gian gồm: địa hình, địa mạo (núi, rừng, sông, suối, hồ nước, thung lũng,
biển, đảo, vũng vịnh, cửa sông, v.v…tạo thành một lưu vực sông; một hòn đảo,
bán đảo hoặc quần đảo; một dải ven biển; một bồn địa; một khu vực cao
nguyên, v.v…); ii) các nguồn tự nhiên trong một môi trường cảnh quan nhất
định, gồm có khí hậu, thời tiết, đất, nước, khoáng sản, lâm thổ sản, các sản
phẩm đa dạng sinh học trên mặt đất, trong lòng đất, trong không trung, trong
nước, v.v…; ii) vị trí địa lý cũng là một trong số các yếu tố tạo vùng rất quan
trọng, đặc biệt là khi vị trí đó hội tụ đầy đủ các nhân tố thời cơ tập trung các

quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, v.v…trong nước, khu vực và quốc tế.
Nhóm nhân tố xã hội: i) tạo thành không gian xã hội với các yếu tố dân số, dân
cư, mật độ dân số, cách thức cư trú, các công trình dân sinh và công cộng; ii)
tạo thành không gian xã hội với các hệ thống canh tác, các khu vực chuyên môn
hoá về lao động, sản xuất; iii) tạo thành không gian văn hoá, lịch sử, tôn giáo tín
ngưỡng bằng các di sản vật thể: các công trình xây dựng, điêu khắc, kiến trúc,
các không gian vật chất như khu di sản, khu lăng tẩm, khu đất thiêng, v.v…; iv)
tạo thành không gian văn hoá, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng bằng các di sản phi
vật thể như các sinh hoạt thể thao, văn hoá, văn nghệ dân gian, các lễ hội mang
tính tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng hoặc tổng thể các tính chất đó; v) tạo thành
không gian xã hội với các yếu tố dân tộc, sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, các nhóm
thiểu số, các cộng đồng di dân, các nhóm lợi ích và sở thích, v.v…;
Nhóm nhân tố kinh tế và hạ tầng cơ sở: Thời đại ngày nay có hai đặc trưng làm
cho kinh tế và hạ tầng cơ sở trở thành yếu tố trung tâm tạo vùng: i) sản xuất


hiện đại đã làm cho thời gian trở thành một trong những nguồn lực quan trọng
nhất, vì vậy một vùng kinh tế hoặc một khu vực sản xuất có hạ tầng cơ sở tốt,
không làm tốn phí thời gian của con người chính là một thị trường cung cấp
nguồn lực thời gian tốt; ii) hạ tầng cơ sở tốt làm tăng tính di động của các yếu tố
sản xuất chính là một trong số các lợi thế của đô thị, vì nó đảm bảo nguồn cung
các đầu vào sản xuất, làm giảm giá các đầu vào sản xuất và giảm các chi phí
biên; iii) hạ tầng cơ sở tốt cũng tạo điều kiện tăng hiệu suất thị trường của các
sản phẩm được sản xuất ra. Vì vậy ngày nay, một vùng kinh tế không thể không
có các trung tâm vùng với các hệ thống hạ tầng sản xuất gồm có các xí nghiệp,
doanh nghiệp, công ty và các hệ thống dịch vụ cơ bản gồm: giao thông vận tải,
bưu chính viễn thông, ngân hàng tài chính, y tế – giáo dục và nghỉ ngơi giải trí.
Nhóm nhân tố con người: đóng vai trò quyết định tạo vùng và được coi là tác
nhân vùng theo ba nghĩa: i) con người với cấu trúc xã hội, với di sản văn hoá,
lịch sử, với ký ức và truyền thống của nó chính là các yếu tố tạo nên bản sắc

vùng, bởi vì không có bản sắc vùng thì sẽ không thể có vùng theo đúng nghĩa
của nó; ii) con người với kỹ năng lao động, sản xuất và giao dịch của nó chính
là yếu tố quyết định sự phát triển và thịnh vượng của vùng; iii) con người với cá
tính, gia đình, cộng đồng, xã hội, với hệ thống trang trại, hợp tác xã, xí nghiệp,
doanh nghiệp và các công ty của nó tạo thành mạng lưới các mối quan hệ nội
vùng và ngoại vùng chính là chất keo gắn kết tạo nên vùng.
Nhóm nhân tố thể chế và chính sách: có thể nói thể chế và chính sách vùng là
những loại nguồn lực đặc biệt tạo nên vùng. Yếu tố con người, các kỹ năng và
các mối quan hệ của nó thông qua các trang trại, hộ gia đình, hợp tác xã, các xí
nghiệp, doanh nghiệp, công ty, v.v…của nó chỉ có thể phát huy được tác dụng
và sức mạnh khi thể chế cho phép nó, chính sách tạo thuận lợi cho nó. Không có
thể chế vùng và không có chính sách vùng thì không thể có vùng theo đúng


nghĩa của khái niệm đó. Đằng sau nhân tố thể chế, và chính sách vùng chính là
vai trò của nhà nước trong việc tạo vùng.
2. Khái niệm vùng kinh tế
Khái niệm vùng kinh tế hiện đại có một lịch sử phát triển hàng thập kỷ, với rất
nhiều thay đổi, tuỳ từng điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.
Liên Xô và hầu hết các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây
vẫn coi định nghĩa vùng kinh tế của Alaev là một định nghĩa mang tính kinh
điển: “Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc
dân, có những dấu hiệu sau: chuyên môn hoá những chức năng kinh tế quốc dân
cơ bản; tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ qua lại
giữa các bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh
thổ của vùng…, coi vùng như là hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ chức trong
bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân” [Dẫn theo: Nguyễn Xuân Thu,
Nguyễn Văn Phú (Đồng chủ biên) 2006: 20]. Kể từ khi Liên Xô tan vỡ, quan
niệm về vùng kinh tế và cấu trúc vùng kinh tế của nước Nga đã có rất nhiều
thay đổi. Hiện nay người Nga chia đất nước thành 12 vùng kinh tế và đó cũng

chính là các nhóm đơn vị hành chính, có chung các đặc trưng sau: i) có các mục
đích kinh tế và xã hội chung và đều tham gia vào các chương trình phát triển; ii)
có các điều kiện và tiềm năng kinh tế tương đối giống nhau; iii) có các điều kiện
địa chất, sinh thái và khí hậu tương đồng; iv) tương đồng về các phương pháp
thanh tra kỹ thuật xây dựng mới; v) có các phương pháp giám sát hải quan
tương đồng; vi) tương đồng tổng thể về các điều kiện sống của dân cư. Không
có bất cứ một chủ thể nào của Liên bang có thể vừa thuộc về vùng kinh tế này
lại vừa thuộc về một vùng kinh tế khác. Các vùng kinh tế còn được chia thành
các khu kinh tế (còn gọi là các vùng vĩ mô “macrozones”). Một vùng kinh tế
hoặc các bộ phận của nó có thể thuộc về các vùng vĩ mô khác nhau. Việc thành
lập mới hoặc huỷ bỏ các vùng, các vùng vĩ mô, hoặc bất cứ thay đổi nào về cấu


trúc của chúng cũng đều do chính phủ Liên bang quyết định [Russian
Government 1997].
Các nước Đông Âu mới cũng đã không ngừng cải cách cấu trúc kinh tế của
mình, trong đó có việc tái cấu trúc các vùng kinh tế thích hợp với những đòi hỏi
của quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập với các nước thuộc Liên
minh Châu Âu, trong đó Ba Lan có thể được coi là một trường hợp điển hình
cho một cách tiếp cận mới đối với khái niệm vùng kinh tế. Theo họ “Một vùng
kinh tế là một lĩnh vực xã hội tổng thể được tạo bởi các công ty, các thể chế
cũng như các bản sắc và các tác nhân trong vùng. Trong một khuôn khổ chung
nhất, các lĩnh vực như vậy được tạo bởi: i) các tổ chức tìm cách cấu trúc các
môi trường của chúng; ii) các đạo luật và các thể chế đã có từ trước, vận hành
để vừa hạn chế vừa tạo điều kiện cho các tác nhân trong vùng; và iii) các tác
nhân chiến lược có kỹ năng điêu luyện làm việc trong các tổ chức, giúp duy trì
sự hợp tác giữa các nhóm và các lợi ích khác nhau” [Fligstein and Stone Sweet
2002: 1211)]. Các năng lực vùng được gắn chặt với năng lực tổ chức của các
công ty, cấu trúc công nghiệp, các mô hình chuyên môn hóa, và trong cấu trúc
thể chế của nó. “Đặc trưng này gắn liền với các khái niệm thuộc các hệ thống

đổi mới vùng định danh mục tiêu, và các cụm vùng. Về cơ bản hệ thống đổi mới
vùng bao gồm hai loại tác nhân chính và các tương tác giữa các tác nhân đó.
Những tác nhân đầu tiên là các công ty trong cụm công nghiệp chủ yếu trong
một vùng, bao gồm cả các ngành công nghiệp hỗ trợ của chúng. Tiếp đó, cần
phải có một hạ tầng thể chế, tức là các viện nghiên cứu, các cơ sở giáo dục cấp
cao, các cơ sở chuyển giao công nghệ, các tổ chức đào tạo nghề, các hội kinh
doanh, các thể chế tài chính, v.v… có đủ năng lực để hỗ trợ cho quá trình đổi
mới vùng” [Asheim and Isaksen 2002: 83].
Ngược lại với khái niệm cụm được định nghiã là “các công ty gần gũi về
phương diện địa lý theo mối quan hệ dọc hoặc quan hệ ngang liên quan đến một


hạ tầng cơ sở hỗ trợ công ty được địa phương hóa có một tầm nhìn phát triển
chung cho tăng trưởng kinh doanh dựa trên cạnh tranh và hợp tác trong một khu
vực thị trường cụ thể” [Cooke 2002: 121] – tầm quan trọng tương đối của các
cấu trúc thể chế hỗ trợ là rất cao. Các cấu trúc đó chính là “ký ức” của vùng, là
kết quả của những kinh nghiệm hợp tác và xung đột trong vùng. Các cấu trúc
thể chế này được Salais và Storper [1997] mô tả là các trật tự vùng, chẳng hạn
như các truyền thống, các mong muốn cố kết lẫn nhau, các thói quen, và các
cách thức hành động trong vùng. Các thể chế, hoặc các cấu trúc hành chính, các
truyền thống, các thói quen đó được tạo ra và được tái tạo theo cách cởi mở, nhưng lại phụ thuộc vào những cách thực hiện bởi: i) các chiến lược tối thiểu hóa
chi phí giao dịch của công ty; ii) các nhà chức trách vùng (đặc biệt là nhà nước
liên bang) và; iii) các tác nhân phi chính phủ (chẳng hạn như các công đoàn, các
hội kinh doanh, hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ (NGOs) hoặc đôi
khi là các tác tố cá nhân). Các cấu trúc hành chính đóng vai trò quyết định cho
tiềm năng đổi mới của các vùng và các công ty trong vùng, vì chúng liên quan
đến các mô hình tổ chức họat động, quản lý và đổi mới, luôn tạo ra các mô thức
liên tổ chức hợp tác, cạnh tranh, và còn vì chúng điều chỉnh các mối quan hệ
giữa các doanh nghiệp, khoa học, công nghệ, giáo dục và chính trị [Cooke
1998].

Khác với các định nghĩa tương đối phức tạp trên, người Canada lại quan niệm
rất đơn giản: “Một vùng kinh tế là một cách nhóm các đơn vị dân cư nguyên
vẹn để tạo thành một đơn vị địa lý chuẩn phục vụ cho việc phân tích các hoạt
động kinh tế vùng”. Trong tỉnh Quebec, các vùng kinh tế còn được gọi là các
vùng hành chính (régions administratives) và việc phân vùng được tuân thủ
theo pháp luật. Trong tất cả các tỉnh và các vùng lãnh thổ khác, các vùng kinh tế
được tạo bởi sự thoả thuận giữa Cục thống kê Canada và tỉnh/lãnh thổ liên quan.
Đảo Prince Edward Island và ba vùng lãnh thổ khác mỗi vùng đều được coi là
một vùng kinh tế. Riêng Ontario có một ngoại lệ vì ở đó ranh giới vùng kinh tế


không tuân thủ theo các ranh giới đơn vị dân cư: đơn vị dân cư Halton bị chia
tách bởi vùng kinh tế Hamilton – Bán đảo Niagara và vùng kinh tế Toronto.
Còn đối với người Mỹ thì quan niệm về vùng kinh tế đã có những thay đổi đáng
kể. Từ giữa thế kỷ 19, Văn phòng Dân số đã tập hợp dữ liệu các bang thành các
vùng gốm nhiều bang. Gần đây Văn phòng này đã chia 50 bang thành 4 vùng
kinh tế và bốn vùng đó lại được chia thành 9 phân vùng. Không kể việc bổ sung
Alaska và Hawaii vào phân vùng Thái Bình Dương vào những năm 1950 thì
việc chia thành 9 phân vùng vẫn không thay đổi kể từ năm 1910. Tuy nhiên, sau
cuộc tổng điều tra dân số năm 1950, một Uỷ ban Liên cơ quan thuộc Bộ thương
mại đã xem xét lại định nghĩa về vùng và phân vùng bằng tiêu chuẩn đồng nhất
kinh tế – xã hội. Cuối cùng các bang đã được phân chia lại, nhưng Văn phòng
Dân số Mỹ đã không chấp nhận. Trong khi đó thì Văn phòng Phân tích Kinh tế
Liên bang lại chấp nhận việc nhóm nhiều bang thành một vùng kinh tế, và việc
chia toàn Liên bang thành 8 vùng đã được chấp nhận kể từ những năm 1950.
Ngoại trừ khuynh hướng chia theo thu nhập đầu người (từ 1929 – 1950), các
biến kinh tế được Uỷ ban Liên cơ quan thuộc Bộ Thương mại sử dụng đều mô
tả các dữ liệu kinh tế theo thời điểm. Các nhân tố kinh tế khác được xem xét
trong định nghĩa vùng đều được cấu trúc bởi thu nhập theo các nguồn dữ liệu
năm 1950. Các nhân tố phi kinh tế được sử dụng để nhóm các bang thành vùng

bao gồm mật độ dân số và mức tăng trưởng, các cấu trúc tộc người, chủng tộc,
tỷ lệ chết của trẻ em năm 1949, số máy điện thoại trên đầu người năm 1950. Cơ
sở cuối cùng để phân vùng bao gồm cả các nhân tố kinh tế và phi kinh tế. Các
nhà kinh tế học Mỹ đã có ý định sử dụng các vùng của Văn phòng Phân tích
Kinh tế Liên bang để phân tích vì việc nhóm các bang thành các vùng kinh tế rất
thuận lợi cho việc phân tích. Một số nghiên cứu mới đây về khuynh hướng và
chu kỳ xác định vùng kinh tế vẫn dựa trên các vùng do Văn phòng Phân tích
Kinh tế Liên bang xác định, ngay cả khi các bang đã được phân vùng dựa trên
cơ sở các tương đồng theo thời điểm. Vào cuối những năm 1970 và đầu những


năm 1980, các vùng kinh tế theo cách phân chia của Văn phòng Phân tích Kinh
tế Liên bang đã được sử dụng để kiểm tra các hiệu ứng vùng về phương diện
chính sách tài chính và tiền tệ. Kể từ cuối những năm 1990 người ta vẫn sử
dụng các vùng kinh tế của Văn phòng Phân tích Kinh tế Liên bang. Và hiện nay
đang có khuynh hướng sử dụng phương pháp phân tích cụm kinh tế để xác định
các vùng, và người ta đã phân 48 bang thành 8 vùng kinh tế khác nhau căn cứ
vào cách phân tích cụm [Crone 2003: 1-2].
Khoa học vùng và Lý thuyết vùng Kinh tế – Phần II
3. Khái niệm cực tăng trưởng
Cực tăng trưởng – một trong những khái niệm cốt lõi tạo thành vùng kinh tế –
được nhà kinh tế học Pháp François Perroux đưa ra năm 1949. Ông và những
người khác đã mở rộng thêm khái niệm này, nhưng vẫn không có nhiều sự đồng
thuận trong giới nghiên cứu, cho dù nó có sức hấp dẫn trực cảm đặc biệt, vì vậy
nó đã tác động rất mạnh tới các nhà làm chính sách. Họ cho rằng các nhà kinh tế
học có thể đưa ra một kỹ thuật phân tích cần thiết để tăng thêm ý nghĩa cho các
chính sách dựa trên khái niệm cực tăng trưởng. Quan niệm trực cảm về khái
niệm cực tăng trưởng coi một cực tăng trưởng như một ngành công nghiệp hoặc
có lẽ là một nhóm công ty thuộc một ngành công nghiệp. Ở mức độ tối đa, một
cực tăng trưởng có thể chỉ là một công ty hoặc có thể là một nhóm ngành công

nghiệp. Tuy nhiên Perroux cũng đã định nghĩa các cực tăng trưởng là “không
gian kinh tế trừu tượng”. Đối với ông, không gian kinh tế trừu tượng có ba loại:
i) một kế hoạch kinh tế; ii) một trường lực hoặc tác động; iii) một tổng thể đồng
nhất. Vì quan niệm trừu tượng về cực tăng trưởng nên ông dứt khoát từ chối
quan niệm cho rằng không gian kinh tế lại có thể tương hợp với một khu vực
địa lý như một vùng hoặc một thành phố chẳng hạn.


Đối với Perroux, thuộc tính ưu thống của một cực tăng trưởng là rất quan trọng.
Một công ty hoặc một ngành công nghiệp A được coi là ưu thống đối với B nếu
dòng hàng hoá và dịch vụ từ A đến B là phần đầu ra của A lớn hơn luồng hàng
hoá dịch vụ từ B đến A so với phần đầu ra của B. Một công ty hoặc một ngành
công nghiệp lớn có mức độ tác động qua lại cao với các công ty hoặc các ngành
khác thì là công ty hoặc ngành ưu thống, trong đó tác động qua lại được coi là
tương tác đẩy. Quá trình phát triển của một công ty hoặc ngành công nghiệp có
lực đẩy được gọi là quá trình hình thành cực. Perroux và các tác giả khác về cực
tăng trưởng cố gắng đặt cơ sở cho khái niệm này trên các quan niệm về các lợi
thế kinh tế ngoại ứng, mức độ tập trung và các liên kết kinh tế. Có được một lợi
thế kinh tế ngoại ứng khi sự thay đổi đầu ra của một công ty hoặc một ngành
công nghiệp tác động đến chi phí ở các công ty khác. Các lợi thế qui mô kinh tế
ngoại ứng có thể là âm như trong trường hợp các chi phí ô nhiễm, hoặc chúng
có thể là dương như trong trường hợp phát triển công nghệ mạch tích hợp trong
công nghiệp điện tử. Cùng với các khái niệm cực tăng trưởng là những khái
niệm về tầm quan trọng biên duy nhất trong việc phân tích các vấn đề kinh tế
vùng. Vì vậy thì ý tưởng về các cực tăng trưởng đã đóng một vai trò chủ chốt
trong việc xây dựng chính sách phát triển vùng [Darwent, David 1969: 5-32].
Nhà kinh tế học vùng nổi tiếng J. Parr cho rằng: “Một trong những thuộc tính
sâu sắc của việc phân tích và thực hiện kế hoạch hoá kinh tế vùng trong mấy
thập kỷ qua đã làm thay đổi thái độ của chúng ta đối với chiến lược cực tăng
trưởng. Chiến lược này hoặc tập hợp các chiến lược này đã được đưa ra trong

rất nhiều môi trường khác nhau, vì vậy mà không dễ khái quát. Tuy nhiên vẫn
có thể khái quát những đặc điểm chung. Chiến lược cực tăng trưởng đã tham gia
một cách tích cực vào việc tập trung đầu tư ở một số địa phương nhất định
(thường là một phần nỗ lực để thay đổi cấu trúc không gian vùng) mong cố
gắng để cổ vũ hoạt động kinh tế và vì vậy mà phát triển các cấp độ phúc lợi
trong một vùng” [Parr 1999: 1195-1215]. Vào giữa những năm 1960, chiến lược


cực tăng trưởng đã nổi bật như một đối tượng hâm mộ nhiệt thành và đã được
coi là một ý tưởng thời thượng. Và các kế hoạch kinh tế được tái chế theo khuôn
khổ của chiến lược cực tăng trưởng. Kuklinski [1978: 21] cũng đã khẳng định
vai trò của lý thuyết cực tăng trưởng với tư cách là một bộ phận của kinh tế học
vùng: “…lý thuyết cực tăng trưởng là gần gũi nhất với lý thuyết tổng quát về
phát triển vùng”.
Chiến lược cực tăng trưởng, hoặc các biến thể của nó, các cực phát triển hoặc
các trung tâm tăng trưởng, được thảo luận và được thực hiện trong tất cả các
chiến lược phát triển vùng khác nhau. Darwent [1969]; Isard, W. [1960]; Isard,
W & Schooler, E. W. [1959]; và Friedmann, JR. [1966, 1967, 1968] đều cho
rằng công trình của Perroux đã gây ra một sự lầm lẫn lớn một phần là vì sự mập
mờ của hệ thống tri thức ban đầu của ông, một phần vì việc dịch nhầm từ tiếng
Pháp ra tiếng Anh và ngược lại, và một phần vì sự lẫn lộn ngữ nghĩa của các tác
giả sau này. Quan niệm gốc về cực tăng trưởng thực sự độc lập với một bối cảnh
không gian hoặc một không gian địa lý học kinh tế, hoặc không gian địa lý. Hơn
nữa các cực tăng trưởng chỉ liên quan và đặc biệt liên quan đến không gian kinh
tế trừu tượng. Vì vậy mà ông đã xác định các cực tăng trưởng là: “các trung
tâm, hoặc các cực, các tâm điểm, toả ra các lực ly tâm và hút vào các lực hướng
tâm. Mỗi trung tâm hút và đẩy đều có một trường lực chính xác tạo ra trong
trường lực của các trung tâm khác”. Vì vậy các cực có thể là các công ty, các
ngành công nghiệp hoặc các nhóm công ty có thể là những “lực đẩy” nếu nó có
mối tương tác cao với nhiều công ty khác, mức độ ưu trội cao và có qui mô lớn.

Darwent [1969] đã giải thích rằng sự khác biệt rất cơ bản và quan trọng giữa
không gian kinh tế và không gian địa lý đã bị bỏ qua, vì vậy đã gây ra những
quan niệm lầm lẫn to lớn.
Tuy nhiên các tác giả sau này đã cố mở rộng khái niệm cực tăng trưởng mà
không qui chiếu vào không gian địa lý hoặc cố gán ghép không gian kinh tế và


×