Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Cách tiếp cận nghệ thuật sử dụng nhịp điệu trong bài sóng của xuân quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.44 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Trang
1. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………….. .1
2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………... . 2
3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………….2
4. Phạm vi nghiên cứu ……...………………………………………………2
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………2
2. Nội dung sáng kiến
2.1. Cơ sở lí luận……………………………..………………………………….3
2.2. Thực trạng vấn đề…………………………………………………………..7
2.3. Các giải pháp
2.3.1. Xuân Quỳnh- Cuộc đời gửi lại trong thơ………………………………8
2.3.2. Xuân Quỳnh- Cuộc đời và thơ ca …………………………………….11
2.3.3. Nhịp điệu trong bài Sóng- Sự độc đáo, mới lạ ………………………15
2.4. Kết quả thu được……………………………………………………............18
3. Kết luận……….…………………………………………………………. ….20
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mở đầu
1


1.1 Lý do chọn đề tài
1.1.1. Vẻ đẹp của văn chương luôn ẩn ở đằng sau những lớp ngôn từ. Văn
chương ngôn từ để miêu tả, cảm nhận và khái quát tất cả những gì đang diễn ra
trong cuộc sống. M. Goorki nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Đối
với người nghệ sĩ sử dụng ngôn từ luôn luôn là điều trăn trở. Bởi vậy những đứa
con tinh thần được họ sản sinh ra thường mang đến cho độc giả niềm vui và niềm
đam mê khám phá.
1.1.2. Sử dụng nhịp điệu trong thi ca có sự thu hút lôi cuốn đặc biệt vì từ ngữ


dành cho thơ ca là sự hàm súc cô đọng tinh lọc và nhiều khi có cả sự thăng hoa.
Đối với các nhà thơ hiện đại ngôn từ và việc sử dụng ngôn từ lại càng có những
điều thú vị hơn. Nguyễn Đình Thi quan niệm về thơ “Thơ là tư tưởng hình tượng
quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái toàn thể viết bằng cả tâm
hồn chứ không chỉ bằng ý thức”. Chính vì thế tìm hiểu nhịp điệu trong thơ là rất
quan trọng.
1.1.3. Các nhà soạn giả đã đưa vào sách Ngữ Văn ở trường phổ thông trung học
yêu cầu người giáo viên phải có kiến thức toàn diện vững vàng. Nhất là những
kiến thức về ngôn ngữ, về từ loại và từ vựng học nói chung, nhịp điệu nói riêng.
Thông qua dạy ngữ văn học sinh có thể nắm được những giá trị về nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm. Hơn nữa thông qua phân tích, khơi dậy trong học sinh
niềm yêu thích văn chương, khám phá các giá trị Chân, Thiện, Mĩ trong sáng tạo
nghệ thuật của thơ ca, đồng thời cũng tăng cường thêm vốn từ vựng cho học sinh.
1.1.4. Xuân Quỳnh (1942-1988) được nhiều thế hệ độc giả yêu mến qua những
bài thơ rung động tâm hồn như: Sóng, Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu…
Xuân Quỳnh là tác giả của nhiều tập thơ: Hoa dọc chiến hào, Lời ru mặt đất, Sân
ga chiều em đi, Hoa cỏ may, Tự hát…
Năm 2017, Nhà thơ Xuân Quỳnh được Bộ VH-TT&DL đề nghị xét tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật với hai tập thơ là Lời ru mặt
đất và Bầu trời trong quả trứng.
Đó là những lí do tôi chọn đề tài này làm đối tượng viết sáng kiến kinh
nghiệm này.
2


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Những kiến thức về tiếng Việt đặc biệt là cách sử dụng từ như thế nào cho
hợp lý ở mọi phong cách văn bản.
Đề tài này làm cơ sở cho việc học tập nhất là phục vụ trực tiếp cho công
tác giảng dạy học sinh PT trong tương lai.

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tìm hiểu nhịp điệu trong bài Sóng ở chương trình ngữ văn THPT.
- Trên con đường bình thơ, chủ yếu ttimf hiểu nhịp điệu.
- Đối tượng là HS THPT
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài với khả năng có hạn, tôi sử dụng các phương pháp cụ thể như sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp khảo sát
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp thống kê, miêu tả
- Phương pháp tổng hợp khái quát, hệ thống hoá kết hợp với phương pháp
phân tích ngôn ngữ văn học.
1.5. Những điểm mới của SKKN
Từ khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, tôi thấy có sự chuyển biến
rõ rệt. Học sinh hiểu bài, yêu thích bộ môn hơn. Ngoài học bài Sóng, các em còn
sưu tầm nhiều bài thơ cùng đề tài và thuộc nhiều bài thơ của nữ sỹ Xuân Quỳnh.
Đặc biệt cảm nhận được nhạc điệu, từ đó đọc điễn cảm theo những cung bậc cảm
xúc của Sóng như chính những khát khao cháy bỏng trong hồn thơ của chị.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
3


Giáo sư tiến sĩ Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa”(NXBĐHQG-1997): - Đối với người Việt Nam thông thường buổi chiều mặt trời xuống
núi vì nước Việt nam tựa lưng vào miền núi phía Tây mà ngoảnh mặt ra phía
Đông thành ra cách nói “Mặt trời xuống biển” (Huy Cận) rất bất ngờ. Song đó là
cách nói thực. Bởi vì lúc này vị trí đoàn thuyền đã ở giữa biển cả. Đã ở giữa biển
thì mặt trời lặn hay mọc đều trên biển. Câu thơ mở đầu vẽ ra cảnh trời đất mênh
mông bốn bề bao phủ đoàn thuyền đánh cá nhỏ nhoi. Không nói được cái thực đó

thì làm sao hiểu được câu thơ.
Nhà xuất bản Khánh Hòa cuốn “Bình luận văn học Xuân Diệu - Huy Cận”
có đoạn bình về nghệ thuật dùng từ láy thành công của Xuân Diệu trong bài “Thơ
duyên” dùng với âm điệu rất đạt:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Đây là mấy nét thanh thanh sinh động
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Giới nghiên cứu phê bình văn học nghệ thuật có khá nhiều bài viết nói về
cách sử dụng trong thi pháp thơ hiện đại. Nhưng vẫn chưa có chuyên luận nào đi
sâu nghiên cứu phân tích, đánh giá việc vận dụng từ trong sáng tạo nghệ thuật.
Tuy nhiên, nhịp điệu và thi tứ gắn bó chặt chẽ với nhau. Thơ muốn trở
thành khúc nhạc lòng nhạc hồn không thể không có tiết tấu nhịp điệu uyển
chuyển. Nhạc lòng chuyển hoá thành nhạc thơ. Nhạc thơ đa dạng. Khi trầm bổng
du dương. Lúc thanh thoát nhẹ nhàng... ứng với điệu hồn thi sĩ. Nhạc thơ biểu
hiện cụ thể ở nhịp điệu. Thi nhân phổ nhạc cho thơ tiếng thơ vang ngân trong
không gian tạo thành các "bước sóng" gõ cửa tâm hồn độc giả. Thơ giàu nhạc
điệu khi và chỉ khi tâm hồn nhà thơ tràn đầy xúc cảm. Mọi sự thay đổi ngôn từ
đều làm biến đổi nhịp điệu và nội dung tư tưởng thể hiện. Xuân Diệu nói: thơ hay
thì lời thơ chín đỏ trong cảm xúc. Do chỗ nhà thơ thổi hồn mình vào ngôn từ cho
nên chất nhạc thấm đẫm từng câu từng chữ. Mỗi khuôn nhịp có thể ví với những
giai âm độc đáo trong "bản giao hưởng tâm hồn" của thi sĩ.. Thơ giàu nhạc điệu
4


không hề sáo mòn về ngôn từ. Trái lại nó có khả năng nâng ngôn ngữ đời
thường thành ngôn từ nghệ thuật .Nhiều người nhầm tưởng cách tân thơ chỉ đơn
giản ở chỗ: người viết kéo thơ về gần với đời thường hoặc văn xuôi hoá lời thơ.
Kì thực mọi lời thơ thiếu vắng nhịp điệu tiết tấu đều tuột khỏi tâm trí người đọc.

Thơ đọc lên phải nghe lọt tai. Nhạc thơ ru ta theo điệu hồn của nghệ sĩ. Người
sành thơ thường dị ứng với kiểu thơ ngang ngang trúc trắc về tình ý. Khi những
bài thơ thiếu tính nhạc rơi vào quên lãng ta mới hiểu thêm rằng mọi sự ngừng
ngắt trong tổ chức lời thơ chỉ đơn thuần thuộc về kĩ thuật kĩ xảo làm thơ đều bị
nàng thơ từ chối
Một số lí thuyết gia và thi sĩ tuyên bố: thơ đã được giải phóng khỏi nhạc
nhịp và vần điệu.Nhưng trên thực tế họ đã làm nghèo đi khả năng biểu hiện của
thơ. Trong tiềm thức của không ít người thơhoặc tính thơ luôn thuộc về loại hình
ngôn ngữ có tiết tấu nhịp điệu. Tư duy thơ khác tư duy văn xuôi. Văn xuôi
không có tiết tấu vần nhịp. Văn xuôi chỉ có tiết tấu nhịp điệu khi nó đã " bị thơ ca
gặm nhấm"(Claude Montel). Tiết tấu vần nhịp trong văn- nếu có- thường bị gián
đoạn. Còn trongthơ nhịp nhạc vần điệu vận động khá đều đặn theo một chu kì
quy luật nào đó. Một đằng thuộc thủ pháp nghệ thuật có cũng được không cũng
chẳng sao. Còn đằng kia thuộc về bản thể về sự sống. Thơ tìm tòi tiết tấu hướng
tới sự gián đoạn trong chuỗi ngữ lưu liên tục. Thơ gây ấn tượng bằng việc lệch
chuẩn nhịp điệu. Thơ phá huỷ tính chất tuyến tính của thời gian. Thơ hướng về ấn
tượng ban đầu nên tìm tới các hình thức chuyển nghĩa. Văn xuôi nhằm vào kết
thúc khái quát nên tìm mọi cách thức tạo nghĩa. Thơ liên tục tạo ra các kí
hiệu biểu đạt còn văn xuôi liên tục xác lập hệ qui chiếu. Sự biểu đạt ý tứ bằng
hình thức tiết tấu nhịp điệu do vậy khiến cho lời thơ không cần phải kéo dài như
câu văn xuôi lời thơ dứt khoát. Người xưa nói "ý tại ngôn ngoại" có lẽ còn muốn
nhấn mạnh rằng: ý tứ nằm ở tiết tấu vần nhịp. Chính tiết tấu nhịp điệu góp phần
tạo ra ý thơ phong phú. Sự thu hẹp "vương quốc thơ" sự mở rộng ranh giới văn
xuôi hoặc sự chuyển dịch của hai hệ thống đó vào nhau khiến nhiều người nhầm
tưởng vần nhịp không còn quan trọng đối với thơ nữa. Thơ dù biến đổi đến đâu
vẫn giữ cho mình những yếu tố nòng cốt đảm bảo cho sức sống bất tử của thể loại
5


khiến nó tồn tại với tư cách phát ngôn thơ chứ không phải văn xuôi đơn thuần.

Phản bội vần nhịp tiết tấu- theo nghĩa chặt chẽ của từ này đồng nghĩa với "phản
thơ". Đổi mới thơ đích thực trước hết thuộc về đổi mới vần nhịp tiết tấu...Chẳng
hạn cuộc cách mạng trong thơ Việt Nam giai đoạn 1930-1945 không hề diễn ra
trong trạng thái loại bỏ vần nhịp tiếu tấu.Trái lại cách gieo vần ngắt nhịp tổ chức
tiết tấu câu thơ không ngừng được làm phong phú thêm với sức mạnh và năng
lượng mới. Charles Hartman khẳng định : "Nhịp điệu đóng góp toàn bộ ý nghĩa
của bài thơ và phép làm thơ là chuyển nó thành ý nghĩa".
Nếu xem tài năng nhà thơ biểu hiện ở chỗ: tạo ra cuộc chơi và dẫn người
đọc tham gia vào cuộc chơi đó thì nhạc nhịp thuộc về yếu tố "mê hoặc" độc giả.
Nhịp và giọng điệu gắn bó chặt với nhau .Nhịp thơ tạo ra giọng điệu .Nhịp chẵn ở
lục bát tạo ra giọng mềm mại tha thiết. Nhịp thơ thất ngôn tạo ra giọng điệu trang
trọng...Nhà thơ tài hoa thường phổ nhạc cho thơ tới mức như ta có thể hát ngay
bài thơ đó theo một giai điệu nhất định. Phổ nhạc tức là mượn hình thức nhạc để
biểu đạt chất thơ của cuộc sống .Tính chất chu kì và nguyên tắc láy đi láy lại của
nhịp thơ khiến nó gần hơn với môtíp âm nhạc. Nhịp thơ chỉ tác động mạnh mẽ
vào tình cảm người đọc khi giữa các khuôn nhịp có những âm thanh không đều
nhau không giống nhau.Nhịp thơ chuyển hoá thành các giai điệu. Bố cục nhịp
điệu tương đồng về khả năng biểu đạt ý tình với bố cục âm nhạc.
Mỗi bài thơ tương ứng với một thế giới nghệ thuật.Một thi phẩm có nhiều
dòng thơ. Dòng thơ xét về hình thể rất giống với xương cốt của bài thơ. Theo
Denida Levertop : " việc chia thơ ra thành dòng chính là một sự bắt đầu cần thiết
cho toàn bộ đời sống của nó".Chia thơ ra thành dòng không đơn giản là tách ý
chuyển ý mà thuộc cách tổ chức tứ thơ vần nhịp. Cách phân dòng thơ tổ chức câu
thơ thuộc về phương diện hình thức. Nhờ sự phân chia thành từng dòng thơ mà
toàn bộ tư tưởng tâm trạng... của nhân vật được thể hiện đầy đủ. Maiakovski cho
rằng: " Sự ngắt đoạn và nhịp điệu của bài thơ hệ trọng hơn sự chấm câu".Một
dòng thơ ngắn có thể tương ứng với một khuôn nhịp. Nhưng thường thì một câu
thơ dòng thơ có nhiều nhịp . Nhịp thơ không nhất thiết phải đều đặn cố định
.Nhịp thơ đổi thay theo nhu cầu biểu hiện ý tình; theo nhiệm vụ tái hiện sự vận
6



động của sự vật hiện tượng; theo ngữ điệu phát ngôn ở từng nhân vật .Mỗi dòng
thơ câu thơ được tổ chức theo qui luật câu hát. Ngâm thơ cũng luyến láy ngừng
nghỉ kéo dài và lướt nhẹ một số âm tiết nào đó.
Tổ chức nhịp điệu trong một bài thơ như thế nào phụ thuộc vào tư duy thơ
ở từng tác giả. Tổ chức nhịp thơ thuộc về hệ thống biểu hiện nghệ thuật. Cả vần
lẫn nhịp đều biểu đạt tư tưởng cảm xúc...Bỏ qua nhịp điệu độc giả không thể "gọi
tên sự vật" một cách đầy đủ. Người ta có thể chủ trương thơ không vần nhưng
nhịp thơ thì không bao giờ mất đi trong thi phẩm . Nhịp thơ trước hết được lĩnh
hội bằng trực giác. Song không vì thế mà mất đi sự tinh tế bí ẩn của thơ. Những
cấu trúc nhịp sáng tạo luôn hấp dẫn mời gọi độc giả cắt nghĩa. Giá trị của bài thơ
không chỉ xét ở nội dung tư tưởng mà chủ yếu ở điều: khiến cho bài thơ trở thành
một tác phẩm nghệ thuật. Nhịp thơ tham gia vào quá trình đó bằng cách tạo ra
những giá trị thẩm mỹ đặc sắc ở từng khuôn nhịp cụ thể. Phát hiện ra ý nghĩa của
nhịp thơ giúp độc giả tiếp cận với chiều sâu và vẻ đẹp toàn vẹn của đối tượng
miêu tả. Thích một bài thơ trước hết hứng thú với cái âm vang của ngôn từ nhịp
điệu.Có giai điệu thơ buồn thương u hoài có giai điệu sôi nổi rạo rực. Giai âm
khoan thai đan lồng với gấp gáp. Nhịp thơ đặc trưng bằng sự phân bố của các âm
thanh thuộc hai nhóm thanh điệu cao thấp tương tự với đường nét trong tác phẩm
hội hoạ và giai điệu trong nhạc phẩm. Trong âm nhạc tiết tấu biểu hiện ở dáng
đi(bộ điệu)câu nhạc. Khái niệm "tiết tấu" trong âm nhạc và khái niệm "bước thơ"
trong thơ khá gần nhau.
Nhịp điệu nằm bên trong bản thân kiến trúc ngôn từ và qui định kiểu kiến
trúc ấy.. Nhịp thơ một mặt thoả ước tuân theo qui luật khách quan của thể loại
mặt khác vận động theo qui luật trái tim hơi thở con người. Hình thái nhịp điệu
hiện thực hoá cấu trúc ý thơ tứ thơ. Đường nét vận động của nhịp điệu ngữ điệu
thể hiện rõ tính nhạc của ngôn từ. Phổ nhạc cho thơ cần thiết như phổ thơ cho
nhạc.Không phải ngẫu nhiên bước sang thế kỉ XX nhiều nghệ sĩ đã cố gắng kết
hợp hiệu quả hơn nữa âm nhạc với thơ ca. Họ cố gắng để cho giai điệu tiết tấu

"gần gũi đến mức tối đa với ngữ điệu tự nhiên của ngôn ngữ"(Vũ Khánh).
7


Nhịp thơ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trước hết bị chế ước bởi thi
pháp thể loại. Ví dụ thơ Đường luật ngắt nhịp theo "hình thế đối lập nhau": chẵn
trước lẻ sau: 4/3 hay 2/2/3. Thơ thất ngôn Đường luật thường kết thúc ở nhịp lẻ.
Theo luật âm dương đắp đổi nhịp thơ của thơ người Tàu biểu hiện tính "cương"
tiết tấu mạnh mẽ sang trọng. Thơ lục bát của người Việt ưa nhịp chẵn nhịp đôi. ở
thơ song thất lục bát tần số nhịp chẵn cũng rất lớn. Nhịp thơ của thơ người Việt
biểu hiện tính "nhu" tiết tấu mềm mại gọn gàng. Thơ ngũ ngôn của người Việt
ngắt nhịp lẻ trước chẵn sau( 3/2) ngũ ngôn Trung Quốc có cách ngắt nhịp khác:
chẵn trước lẻ sau(2/3). Như vậy luật thơ Việt khác với thi luật Tàu.Hẹp hơn cấu
trúc nhịp thơ mang tính dân tộc. Điều đó rõ hơn ở chỗ: cùng một thể thơ( thất
ngôn ngũ ngôn...) nhưng cách thức tổ chức nhịp điệu của thi nhân Việt và Trung
Quốc không giống nhau. Sự khác biệt này thiết nghĩ do hệ tư tưởng và quan niệm
triết mĩ của chủ thể sáng tạo qui định. Vì nhịp điệu của thơ không tách rời tư duy
và điệu thức xúc cảm. Nhịp thơ luôn phù hợp với ngữ nghĩa và ngữ điệu.
2.2. Thực trạng vấn đề
Nhịp thơ tạo ra lượng ý nghĩa bổ sung khá lớn so với nghĩa từ vựng. Nhịp
thơ thể hiện kĩ thuật tổ chức các đơn vị ngôn ngữ của nhà thơ. Nhịp thơ tạo ra sức
vang vọng về âm điệu và ngữ nghĩa. Tính có nhịp điệu chính là một tiêu chí để
phân biệt lời thơ với ngôn ngữ văn xuôi cho thấy sự gần gũi giữa nó với âm
nhạc. Sự đa dạng của nhịp thơ giống như sự đa dạng của giai điệu. Các thanh
điệu cao thấp các âm luyến láy được biểu hiện qua các bước đi của giai điệu nhịp
điệu. Ngâm thơ hát thơ "trình diễn thơ" về bản chất: khai thác tính trầm bổng của
tiết tấu thơ. Bất kì một nhịp thơ nào trên phương diện hình thức cũng gợi cho ta
cảm giác về tính không liên tục của chuỗi ngôn ngữ. Nhưng về mặt nội dung nhịp
thơ bao giờ cũng có tính thống nhất bên trong.
Tuy nhiên, hiện nay đa số học sinh cảm nhận thơ văn còn hạn chế do môn

Văn không còn tính thiết thực hoặc không yêu thích bộ môn này, nên các em chỉ
học qua loa, đối phó.. Cũng như phân tích tác phẩm không cặn kẽ, thấu đáo, đặc
biệt là tính nhạc trong thơ. Vì vậy với kinh nghiệm tìm hiểu nhạc điệu trong bài
8


Sóng phần nào giúp GV và HS có cái nhìn toàn diện hơn về nét độc đáo, mới lạ
và tạo hứng thú hơn trong giờ học văn.
2.3. Các giải pháp
2.3.1.Xuân Quỳnh- Cuộc đời gửi lại trong thơ
Xuân Quỳnh, một cô gái mồ côi nghèo khổ: lớn lên giữa một thời kì đất nước
phài đương đầu với vô vàn khó khăn về kinh tế, về chiến tranh… Nhưng Xuân
Quỳnh, khác nào một cây xương rồng kiên cường và kì diệu trên sa mạc, đã vắt
kiệt sức mình để nở những bông hoa quý cho cuộc đời.
Thế hệ các nhà thơ này hoàn toàn thuộc về thời kì “lịch sử dân tộc vừa lật
sang trang mới” (cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi). Sau lưng họ,
thời đại phong kiến thuộc địa đã bị đẩy lùi vào dĩ vãng. Trước mắt họ là cả một
chân trời vô cùng xán lạn của đất nước đang bắt đầu bước vào thời kì phục hưng.
Họ là những “con người mới” của thời đại phục hưng ấy.
Phải trải qua nhiều thập kỉ thai nghén, lịch sử và đất nước mới sản sinh ra
được những con người tài hoa và xuất chúng như cặp Xuân Quỳnh- Lưu Quang
Vũ. Nói như Nguyễn Công Trứ, họ chính là “khí đẹp của con sông chung đúc lại”
(Dã thị giang sơn chung tú khí). Cuộc hôn nhân của Xuân Quỳnh và Lưu Quang
Vũ là cái duyên tất yếu của hai tài năng. Chị đã có những giây phút thăng hoa
trong tình yêu nhưng cũng có những lúc phải đóng vai của một người hạnh phúc.
Phải chăng đó là một tình yêu, mà tạo hóa, không ai tạo ra nổi.
Xuân Quỳnh, một cô gái mồ côi nghèo khổ: lớn lên giữa một thời kì đất
nước phài đương đầu với vô vàn khó khăn về kinh tế, về chiến tranh… Nhưng
Xuân Quỳnh, khác nào một cây xương rồng kiên cường và kì diệu trên sa mạc, đã
vắt kiệt sức mình để nở những bông hoa quý cho cuộc đời.

Cũng giống như hầu hết nữ sĩ Đông Tây Kim Cổ, Xuân Quỳnh làm thơ cốt để
diễn tả cuộc sống của chính mình về tất cả mọi phương diện: những khát khao,
những tình cảm, những suy nghĩ, và “sự sống” của một người phụ nữ. Vì lẽ đó
hầu hết thơ của chị đều là thơ trữ tình. Đất nước, thiên nhiên, thời đại đều được
phản ánh vào thơ chị thông qua cái lăng kính trữ tình đó. Thơ Xuân Quỳnh khác
nào một cuốn nhật kí bỏ ngỏ và ai ngờ, chính vì vậy mà thơ chị được đông đảo
9


quần chúng- nam, nữ, phụ lão và cả ấu, cả lính nữa nâng niu và nồng nhiệt đón
nhận. Họ bị thu hút bởi những gì rất “Hồ Xuân Hương” nơi chị: Một người phụ
nữ xinh đẹp, chân chất, đôn hậu, rất mực yêu đời và vui tính nhưng cung rất mực
sắc sảo và “đáo để”, còn thơ chị thật là “cực kì”!
Léc- môn- tốp, văn hào Nga thế kỉ XIX, đã hóm hỉnh chia đàn bà ra làm hai
loại. thứ nhất là hạng đàn bà “man rợ”, tức là những đàn bà “hồn nhiên, chỉ có
tình cảm mà thiếu hụt về trí tuệ”. Thứ hai là hạng đàn bà “trí tuệ”, tức là những
đàn bà khôn ngoan, trí xảo, nhưng lại thiếu hụt về tình cảm. nhà văn hào Nga đã
vô cùng thất vọng vì không kiếm đâu ra một người đàn bà nào có đủ cả hai phẩm
chất tình cảm và trí tuệ. Xuân Quỳnh của chúng ta, đáng quý thay, là mẫu phụ nữ
viên mãn cả về tình cảm lẫn trí tuệ. Và không chỉ thế, chị còn là mẫu mực của
người phụ nữ đức hạnh, điều mà văn hào Nga hình như “không dám” đòi hỏi ở
phụ nữ quý tộc Nga thời đại ông.
Với bản chất thông minh, với trí tuệ phát triển Xuân Quỳnh đã ứng xử và giải
quyết mọi vấn đề phức tạp mà cuộc sống đặt ra. Chị đã định hướng dứt khoát cho
con đường sự nghiệp của mình: đó là nghiệp thơ. Chị quyết định chấm dứt cuộc
hôn nhân mà chị biết là mình đã lầm. Chị quyết định xây dựng tình yêu và hôn
nhân với “chú đại bàng non trẻ” Lưu Quang Vũ mà chị biết chắc trong đó có tình
yêu và hạnh phúc đích thực.
Chúng ta hãy xem chất trí tuệ của Xuân Quỳnh thể hiện như thế nào:
“Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng

Trái tim em, anh đã từng biết đấy
Anh là người coi thường của cải
Nên nếu cần anh bán nó đi ngay”
(Tự hát)
Với những dòng thơ sau đây, Xuân Quỳnh thổ lộ tâm tư nhưng chính là để tự
khẳng định mình trước một người chồng mà chị biết anh ta vốn không phải là
hạng “gà mờ”:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Biết khao khát những điều anh mơ ước
10


Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu”
(Tự hát)
Cổ nhân nói “Nhất cố khuynh nhân thành, tái cổ khuynh nhân quốc”
(Ngó một lần nghiêng thành người, ngó lần nữa đổ nước người), để khẳng định
cái mãnh lực bất khả kháng của sắc đẹp. Riêng Xuân Quỳnh thể hiện cái mãnh
lực của mình bằng những lời nói sâu sắc. những lời nói ấy theo cách ví von của
Vôn- te, có thể làm cho những trái tim bằng đồng cũng phải mềm nhũn ra! Xuân
Quỳnh nhận thức được tính bi kịch vĩnh cửu của cuộc sống: đó là sự ngắn Ngoài
đạo đức cao quý và tình cảm sâu sắc, chính trí tuệ sáng suốt, lànhmạnh là sức
mạnh thần kì đã nâng đỡ Xuân Quỳnh trong những bước khó khăn, giúp chi tồn
tại, chịu đựng được cả những chà xát của cuộc sống trần gian, làm cho tài năng
của chị thăng hoa. Xuân Quỳnh là người chiến thắng tất cả, vượt qua tất cả để
hướng về phía hạnh phúc chói lọi và tuyệt vời của tình yêu và sự nghiệp. Chị
cũng là người biết giữ gìn và biết tận hưởng hạnh phúc cuộc sống ở mức tối đa có
thể được hưởng. Xuân Quỳnh là đỉnh cao của những con người “nhân bản chủ
nghĩa” thời hiện đại.
“Thơ tình tôi viết cho tôi

Qua cay đắng với buồn vui đã nhiều
Vẫn còn nguyên vẹn niềm yêu
Như cây tứ quý đất nghèo nở hoa”
(Thơ tình tôi viết)
Màng thơ đặc sắc nhất của Xuân Quỳnh chính là mảng thơ về tình yêu. Điều
gì đã làm nên sự đặc sắc ấy?
Trước hết vì Xuân Quỳnh có một “nhân bản yêu đương” cực kì mãnh liệt, là
một người con gái có thể “sống chết vì tình
Xuân Quỳnh không giấu giếm bản chất ấy của mình:
“…Nếu tôi yêu được một người
Tôi yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm
Tôi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng…”
11


(Thơ viết cho mình và những người con gái khác)
Xuân Quỳnh là người hành động nên chị nhất định không chấp nhận kiểu
sống “đói lòng ngồi gốc cây sung”. Trái lại chị đã “đi khắp chốn tìm người tôi
yêu”, đồng thời gạt bỏ những gì là “mạo danh tình yêu”. Và khi đã đạt được tình
yêu rồi thì chị sống với tất cả chiều sâu thăm thẳm của trái tim:
“Khi anh nói yêu em, trái tim em đập chừng mạnh quá
Mạnh đến nỗi em tưởng là nghe rõ
Tiếng tim anh đang đập vì em
Em yêu anh, yêu anh như điên…’
Khác hẳn với những người đàn bà “sống trong vương quốc của tình yêu mà
không biết được biên giới của vương quốc ấy”, Xuân Quỳnh là một phụ nữ
không những có khát vọng mà còn có đủ khả năng đi đến tận cùng biên giới và
tận cùng đáy sâu của vương quốc tình yêu. Phải chăng ở những điểm tận cùng đó
mà những câu thơ tuyệt tác đã ra đời:
“Chỉ có thuyền mới hiểu

Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu”
(Thuyền và biển)
Một điều nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh là chị không chỉ yêu say đắm mà còn đặt
tình yêu lên ngai vàng của sự tôn thờ tuyệt đối. Xuân Quỳnh rất có lí: ở cõi đời
này tình yêu chẳng phải điều thực sự đáng tôn thờ hay sao? Vả chăng Xuân
Quỳnh, bằng tất cả những phẩm chất hội tụ trong con người mình, chị đã đạt
được một mối tình yêu đáng tôn thờ. Người chồng, trong mắt Xuân Quỳnh, lúc
nào cũng như một người tình mà chị yêu đắm đuối, cũng cảm thấy như chàng có
thể vuột khỏi tay:
“Anh, con đường xa ngái
Anh, bức vẽ không màu
Anh, nghìn nỗi lo âu
Anh, dòng thơ nổi gió
12


Mà em người đời thường
Biết là anh có ở!”
(Anh)
Ai cũng nói thơ Xuân Quỳnh ngày một hay hơn. Có một nghịch lí trong
thơ chị. Đó là càng hạnh phúc thì lại càng lo âu khắc khoải. Và càng lo âu khắc
khoải thì lại càng đắm say, da diết. Cũng vì tôn thờ tình yêu thái quá, có lúc Xuân
Quỳnh đã có linh cảm chẳng lành về hạnh phúc của mình. Thơ của chị ngày càng
ám ảnh, nung đốt lòng người.
“Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào trong cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn…”

(Tự hát)
Thơ tình của chị đã đẩy tình yêu lên đến tầm bi kịch: tình yêu tuyệt đích có
thể sẽ kết thúc cách nào đó thật bất ngờ, trước khi tuổi già sộc đến:
‘Đọc bài thơ yêu em thấy sự chia xa
Và bỗng nhiên em lại bơ vơ
Tay vẫn vụng, trán dô ra như trước…’
(Thơ viết cho mình)
Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh thật là nồng nàn, sâu sắc và đượm nỗi
thoảng thốt lo âu, tất cả được diễn đạt bằng một ngôn ngữ giản dị, trong sáng, hầu
như không cách điệu. Đó là thứ thơ đạt tới tầm cao của nghệ thuật nhưng vẫn dễ
hiểu với đông đảo quần chúng, vẫn có thể gây được những niềm xúc động khác
thường:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuôc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh ngay cả khi chết đi rồi”
(Tự hát)
13


Và rồi cái bất ngờ nhất xảy ra với Xuân Quỳnh. Chị đã đột ngột từ giã ra đi
vĩnh viễn cùng với chồng và con trong một tai nạn thảm thương, để lại biết bao
thương tiếc cho tất cả những ai yêu thơ chị, yêu kịch Lưu Quang Vũ.
Thế nhưng chính cái sự kết thúc ấy đã khiến cho tình yêu mà chị tôn thờ trở
thành bất tử, đã làm Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh dường như càng đẹp ngời
thêm lên bởi một vừng sáng kì diệu của huyền thoại.
Xuân Quỳnh là người được yêu tha thiết và chị cũng yêu không kém phần
mãnh liệt. Ở chị- một người luôn khao khát tình yêu thì cách bộc lộ tình yêu cũng
mang một nét mãnh liệt riêng. Tình yêu khi dành cho con (chùm thơ xuân cho ba
đứa con nhỏ), khi là tình yêu dành cho chồng(hát ru chồng những đêm khó

ngủ…). Lẽ tự nhiên, một người sinh ra đã chịu đựng nỗi chơ vơ, côi cút, thiếu
thốn một phần tình cảm của người thân thì giờ đây Xuân Quỳnh như đang muốn
bù đắp lại ít nhiều, muốn những người thân luôn được yêu thương. Chị đã chịu
đựng những mặc cảm côi cút. Vì thế, có thể thấy rằng: cuộc đời và thơ Xuân
Quỳnh là một nỗ lực vượt thoát nỗi chơ vơ định mệnh đó. Chính vì thế mà chị
suốt đời yêu thương, luôn thường trực ở hồn thơ này một khát khao đến khắc
khoải: khát khao được gắn bó và che chở. Dĩ nhiên ở một người bản tính nhân
hậu, chuyện ấy là song phương: vừa được gắn bó với đời vừa được đời gắn bó,
vừa che chở người và được người chở che. Đó là nội dung hệ trọng của hạnh
phúc theo quan niệm của Xuân Quỳnh. Và đời chị là hành trình tìm kiếm hạnh
phúc như thế. Chị phải trở thành thi sĩ của tình yêu, phải đặt kì vọng vào tình yêu,
điều ấy dường như là tất yếu. Bởi vì tình yêu vừa là cứu tinh vừa là cứu tinh vừa
là cứu cánh của thi sĩ. Chị gửi tình yêu vào thơ như một nỗi niềm, một tâm sự sâu
lắng. Đó là những bài thơ giản dị, chân xác, đôi khi chỉ bằng một câu hỏi tưởng
như bâng quơ cũng đã mở ra một thế giới tình yêu đầy biến động. Trước Xuân
Quỳnh chưa có một người phụ nữ nào làm thơ bằng những lời cháy bỏng, tha
thiết và nồng nàn đến vậy. Tình yêu trong thơ chị đẹp và trong sáng quá. Dù có
những gian truân cách trở, nhưng bao giờ cũng trọn vẹn, cũng đến được những
tận cùng hạnh phúc như con sóng nhỏ đến với bờ xa. Tình yêu với Xuân Quỳnh,
trước nhất, cao nhất và sâu xa nhất không thể là gì khác hơn một “sự gắn bó giữa
14


hai người xa lạ”, “bằng tình yêu không thể tách rời, khi đó em là máu thịt của anh
rồi- nếu cắt đi em sẽ ngàn lần đau đớn”. Chị nghiệm ra bản chất máu thịt ấy ở cả
sóng và bờ, đồi đá ong và cây bạch đàn, con đường và bàn chân, đường ray và
con tàu, tình yêu và thi ca… mà đậm chất nhất là thuyền và biển. Thế là, còn
thiêng liêng hơn cả những thủy chung, những duy nhất, tình yêu với Xuân Quỳnh
là niềm khát khao được gắn bó với con người và cõi sống này.
Tuy không sinh ra và lớn lên từ quê biển, nhưng cảm xúc về “biển”, về

“sóng”, về “thuyền” của Xuân Quỳnh thấm đẫm chất triết lí nhân gian của người
xứ biển, quyện lẫn chất trữ tình đậm chất nhân văn của thời đại. Chất thơ trữ tình
của Xuân Quỳnh đan quyện cái đắm đuối của cảm xúc trẻ trung vừa đồng thời là
niềm lo âu hạnh phúc của người đã qua trải nghiệm, đem đến cho người đọc niềm
cảm chân thành, sự lôi cuốn lãng mạn, nóng hổi tình đời, tình người.
Xuân Quỳnh đã từng nói: “Vì thích thú nên làm văn học và cảm thấy như
mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa. Khi mới vào nghề bị xô đẩy, khinh
rẻ nên tôi quyết phải sống mà sống tức là phải viết. nói được niềm vui nỗi khổ
của chính mình, tôi cảm thấy cái sung sướng không mấy ai có! Như người khác
không yêu mà mình được yêu. Như người khác chỉ biết im lặng mà mình biết nói,
và nói lên được thành tiếng.”

Chân dung nhà thơ Xuân Quỳnh

Dữ dội và dịu êm

2.3.2 Nhịp điệu trong bài Sóng- Sự độc đáo và mới lạ.

15


Xuân Quỳnh là một tài năng thơ có giọng điệu, gương mặt riêng. Trong cuộc
sống đời thường, Xuân Quỳnh rất biết trân trọng hiện tại, biết cách tận hưởng
hạnh phúc, sống say mê với thời của mình. Hãy xem cách thể hiện trong bài thơ
“Sóng”:
Với bài thơ “Sóng” thể hiện cái nhìn đặc biệt về tình yêu: Vừa hồn nhiên
chân thật vừa sôi nổi, mãnh liệt của trái tim phụ nữ. Qua phép dùng từ người ta
lột tả được cái hồn thơ luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống
hằng ngày. Và trong những nhà thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh là một trong
số người xứng đáng được gọi là nhà thơ của tình yêu.

Tình yêu là đề tài muôn thưở của thơ ca. Nhiều nhà thơ nổi tiếng đã viết về
tình yêu bằng một cảm hứng mãnh liệt, in đậm dấu ấn tâm hồn, tư tưởng và
phong cách nghệ thuật của mình. Xuân Diệu trước đó đã mượn hình tượng
“sóng” để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong
phú phức tạp, vừa that thiết sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khao
khát yêu đương.
Ngay ở khổ thơ đầu, loạt từ láy “dữ dội”, “ồn ào”, “lặng lẽ” được sử
dụng đi kèm với: “dịu êm” như là cung bậc cảm xúc của người con gái vậy. Đọc
cả khổ hiện lên trước mắt chúng ta hình tượng của “sóng”, của cung bậc cảm xúc
khi nghĩ về anh. Sự hào hoà trong câu chữ cũng như trong ngữ nghĩa: “dữ dội và
dịu êm”, “ồn ào và lặng lẽ”, ta tưởng như nó đối nhau vậy mà lại không như vậy.
Chúng là những cặp “bài trùng” bổ trợ cho nhau. Bên cạnh đó việc sử dụng nhịp
thơ 2/3 và 3/2 đã mô phỏng và tái tạo được đặc thù của sóng luôn biến đổi không
ngừng. Ngôn từ được tổ chức theo lối, tương ứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là
việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng
hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đắc đổi nhau về bằng trắc nữa,
làm cho chúng ta như đang lướt trên sóng vậy, lúc lên lúc xuống, nối tiếp nhau,
gối đầu và xô đẩy nhau đến tận bất tận. Đứng trước biển cả bao la chúng ta có
cảm tưởng mình như những hạt cát bé nhỏ. Biển mãi còn đó như một mình chúng
đi ngược với thời gian. Biển trường tồn bất tận. Đối diện với sự bất diệt của biển,
16


người ta liên tưởng đến sự bất diệt của khát vọng. Chừng nào còn tuổi trẻ thì khát
vọng tình yêu vẫn tràn trề trong họ. Và những khổ thơ tiếp theo ta thấy đó là sự
giãi bầy tình cảm, lấy đòn bẩy là sống để nói lên tâm trạng của em khi nghĩ về
anh và tình cảm của chúng ta:
“Ôi con sóng ngày xưa
………..
Dù muôn trùng cách trở”

Tất cả những gì diễn ra đều theo mạch cảm xúc của cung bậc tình cảm.
Đặc biệt “khi nào ta yêu nhau” câu hỏi ấy dường như làm băn khoăn mọi đôi lứa.
Và không ai trả lời được tới cùng. Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu người ta
càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích được. Người ta càng
tôn thờ tình yêu xem tình yêu thiêng liêng như chính cuộc sống con người vậy.
Thử xem nếu thế giới này không có tình yêu thì thế giới trở nên thế nào? Có lẽ
chúng ta không bao giờ tưởng tượng nổi?
“ Sóng” là một bài thơ tình, nên khi đọc bằng hình dung ký ức và tưởng
tượng nghệ thuật có thể xác định được giọng đọc chung với âm hưởng thiết tha
để biểu lộ những phức điệu của tâm trạng chủ thể trữ tình. Thế nhưng trong từng
đoạn thơ, mỗi đoạn có chức năng biểu hiện riêng nên giọng đọc và cách ngắt nhịp
không thể giống nhau.
Dữ dội \ và dịu êm

( 2/3 )

Trước muôn trùng \ sóng bể ( 3/2 )

Ồn ào \và lặng lẽ

( 2/3 )

Em nghĩ về anh\ em

( 4/1 )

Sông\ không hiểu nổi mình ( 1/4 )

Em nghĩ về\ biển lớn ( 3/2 )


Sóng\ tìm ra \ tận bể ( 1/2/2 )

Từ nơi nào\ sóng lên ( 3/2 )

Ôi\ con sóng\ ngày xưa( 1/2/2 )
Và\ ngày sau \ vẫn thế ( 1/2/2 )
Nỗi\ khát vọng tình yêu ( 1/4 )
Bồi hồi\ trong ngực trẻ ( 2/3)

17


- Đoạn thứ nhất là lời kể nên đọc chậm vừa, thể hiệ sự bồi hồi, hình dung đường
nét, tâm trạng. Đọc chủ yếu ngắt theo nhịp 2/3.
- Đoạn hai giọng đọc kể, có tính chất hồi tưởng nên đọc chậm, đặc biệt câu 1, 2
ngắt nhịp 1 – 2 – 2 nhấn mạnh ở từ “ ôi”, “ và”còn lại đọc chậm hơn đoạn thứ
nhất thể hiện sự bâng khuâng xao xuyến gợi không gian, thời gian kỷ niệm.
- Đoạn 3, 4: Ngắt nhịp 4/1 và 3/2, đọc nhanh thể hiện tâm trạng thổn thức mãnh
liệt của một trái tim tuổi trẻ giàu khao khát.
- Hai đoạn cuối bài đọc ngắt nhịp 2/3, đọc giọng trầm và chậm, thể hiện nỗi phấp
phỏng, lo âu đó cũng là khao khát tình yêu cháy bỏng.
Bằng nhịp thơ ngắn ( chủ yếu là nhịp chẵn 2/4, xen kẽ nhịp lẻ 1/3/5 )
- Giọng điệu thủ thỉ, da diết và cách sử dụng nhuần nhuyễn cặp tiểu đối trong thể
thơ năm chữ, Xuân Quỳnh đã thể hiện một khát vọng tình yêu tuổi trẻ nồng nàn,
đồng thời khẳng định triết lý nhân sinh cao đẹp, đó là khát vọng được hoá thân
cho tình yêu vĩnh cửu.
Từ ngữ nối lên nhau, những điệp từ như “em nghĩ”, “bắt đầu”, “con
sóng”, “dẫu” làm cho ta có cảm tưởng mạch suy nghĩ của người con gái không
ngừng nghĩ, hết lớp này đến lớp khác, lúc quyết liệt lúc lại trữ tình. Đó chính là
những cung bậc của tình yêu. Lấy hình ảnh, tính chất, đặc điểm của sóng để so

sánh với tình yêu thật tuyệt vời bởi: sóng có lúc dâng cao như những cột buồm,
có lúc lại lăn tăn nhẹ nhàng đi vào bờ. Đó như những cảm xúc đang giằng xé
trong tâm hồn người con gái. Tình yêu khiến “em” có niềm tin tuyệt đối vào
“anh”: Hướng về anh một phương. Vâng đó là tình yêu đấy: Tin và yêu. Bởi vậy
mà luôn khát vọng sống để yêu và được yêu:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
“Làm sao” là niềm mong ước, mong ước hoá thành con sóng nhỏ, con sóng của
tình yêu, vỗ mãi đến ngàn năm trên “biển lớn tình yêu”. Con sóng thì nhỏ mà
18


biển thì lớn, cái riêng và cái chung hoà hợp gắn bó vĩnh hằng. Lời nguyện cầu
mang tấm chân tình người con gái, em đã lo lắng cho tình yêu:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn qua đi
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Bởi vậy nàng đã quyết vượt qua mọi thử thách khó khăn giữ vững một tình yêu
chung thủy, một niềm tin để xây dựng một tình yêu và hạnh phúc trọn vẹn: “giữa
biển lớn tình yêu, để ngàn năm còn vỗ”.
Bài thơ kết lại bằng niềm tin của người con gái với những khát khao cháy
bỏng, như chính những con sóng kia vẫn mãi mãi vỗ vào bờ. Ta thấy rằng “Sóng”
được viết vào năm 1967 khi đó đất nước đang đương đầu với đế quốc Mĩ. Vậy thì
đặt tình yêu của em trước biển như chính chiến trường bom đạn thì đó chính là
mối tình đầu tiên, thuần khiết với những yêu thương với niềm tin mãnh liệt tuyệt
vời đó sao. Qua đây ta thấy rằng vần đề sử dụng nhịp điệu phù hợp luôn là yếu tố
tiên quyết hàng đầu cho thi ca.

2. 4. Kết quả đạt được
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng triệt để phương pháp khai thác từ ngữ
đối với HS lớp 11A3 và lớp 11A5 (2015 -2016). Kết quả phần lớn các em đều
hứng thú học tập hơn. Các em phát huy được vai trò chủ động học tập của mình
bằng cách phát biểu ý kiến, trao đổi với giáo viên. Hầu hết các em đều hiểu bài.
Kết qủa cụ thể bài kiểm tra
Lớp
Điểm
9 - 10
8
7
5-6
Dưới 5

11A3 (sĩ số 40)

11A5 (sĩ số 39)

1
3
6
20
10

0
5
7
18
9


19


3. Kết luận
Người xưa thường nói “ Thi trung hữu hoạ”, trong quá trình phân tích cái hay, cái
đẹp của bài thơ, ta không thể bỏ qua những yếu tố nhạc điệu trong thơ. Để phân
tích được những yếu tố này, người giáo viên không những phải hiểu nhạc điệu
trong thơ mà phải còn rèn luyện kỹ năng phân tích nhạc điệu trong thơ . Muốn
như vậy, người giáo viên cần tích luỹ và nâng cao hiểu biết về các loại hình nghệ
thuật có liên quan trực tiếp tới văn học, đặc biệt là thơ, trong đó có âm nhạc. Từ
đó tập phân tích những yếu tố nhạc điệu trong bài thơ, góp phần nâng việc khai
thác những yếu tố thẩm mỹ của bài thơ tạo nên giờ dạy học thơ đầy hào hứng và
lý thú.
- Tuy vậy, trong quá trình phân tích thơ, người giáo viên cũng đừng quá cường
điệu các yếu tố nhạc điệu thơ, mà cần phải chú ý tới các yếu tố khác có liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp các yếu tố nhạc điệu của bài thơ.
20


- Với những suy nghĩ trên và bằng những thể nghiệm của chính mình. Cách khai
thác nhịp điệu trong dạy thơ đã giúp tôi đạt được những kết quả nhất định :Những
học trò trong lớp dạy của tôi từ năm học 2016– 2017 đã quan tâm hơn đến giờ
Văn và có hứng thú trong quá trình học thơ, cảm thơ. Trên cơ sở đó, từ những lớp
bình thường có thể chọn những học sinh có khả năng cảm thụ thơ thực sự để bồi
dưỡng nâng cao.
Tuy nhiên, với trình độ người viết có hạn chắc chắn những phần trình bày
trên còn nhiều thiếu sót. Nhưng với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng
học tập của bộ môn Văn. Xin được trao đổi và rất mong được các thầy cô có kinh
nghiệm lâu năm trong nghề tận tình chỉ bảo góp ý.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA BGH NHÀ TRUỜNG

Thanh Hóa, ngày 5 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác
Người viết

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trên con đường bình thơ - Nhà xuất bản GD, Vũ Dương Quỹ,
2. Đinh Gia Khánh ( 1976), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Nxb Văn học. Hà Nội
3. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội
4. Nguyễn Đăng Mạnh - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn- Nxb
Giáo dục
5. Nguyễn Đăng Mạnh, Bài giảng về tác gia trong văn học hiện đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục ,1999
6. Hoàng Văn Thành, Từ láy trong Tiếng Việt. Nxb Giáo dục 1981, Hà Nội
7. Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
8. Đoàn Thiện Giáp - Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
9. Phan Trọng Luận ( Tổng biên tập), Sách giỏo khoa Ngữ Văn 12, Nxb Giáo dục
Việt Nam
21


-

22




×