Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Quy trình tạm thời nuôi tôm thẻ chân trắng an toàn trong vùng dịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569 KB, 28 trang )

Quy trình tạm thời nuôi tôm thẻ chân trắng an toàn trong vùng dịch
Những năm gần đây, các địa phương và người dân trong cả nước đang từng bước
mở rộng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng; tuy nhiên theo khuyến cáo của Tổng cục
Thủy sản, chỉ nên mở rộng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng đối với những vùng
nuôi tôm sú hiệu quả thấp và có điều kiện kết cấu hạ tầng phù hợp. Để hạn chế
những rủi ro trong quá trình nuôi tôm thẻ chân trắng, năm 2014 Tổng cục Thủy sản
đã tổng kết kinh nghiệm nuôi tôm trong cả nước, trên cơ sở đó xây dựng quy trình
tạm thời nuôi tôm thẻ chân trắng an toàn trong vùng dịch, khuyến cáo để người dân
tham khảo và áp dụng.

I. ĐIỀU KIỆN NUÔI
- Cơ sở nuôi phải nằm trong vùng quy hoạch.
- Kết cấu hạ tầng phải đáp ứng yêu cầu sản xuất như: Có hệ thống cấp, thoát nước riêng
biệt; có ao chứa xử lý nước cấp vào ao nuôi (20-25% diện tích ao nuôi), có ao xử lý chất
thải, nước thải trước khi thải ra môi trường ngoài (10-15% diện tích ao nuôi); có điện
lưới, máy nổ dự phòng; kho chứa thức ăn, kho chứa máy móc, dụng cụ, nguyên vật liệu
và các công trình phụ trợ khác (nhà ở, nhà vệ sinh…).
- Đảm bảo các trang thiết bị, máy móc, dụng cụ chuyên dùng như: Máy quạt nước, máy
bơm nước, chài, vợt, cân, xô, chậu và các dụng cụ kiểm tra môi trường nước như pH,
ôxy, NH3, H2S, độ mặn, độ kiềm và các thiết bị phụ trợ khác.


Sơ đồ mặt bằng hệ thống ao nuôi tôm
II. KỸ THUẬT NUÔI
1. Chuẩn bị ao nuôi
1.1. Cải tạo ao
Bước 1: Tháo cạn nước ao, loại bỏ rác tạp, địch hại, tu sửa bờ, cống, vét bùn đáy ao.
Lưu ý: Bờ ao phải đầm nén kỹ hoặc lót bạt để chống xói lở và hạn chế rò rỉ. Vây lưới
xung quanh ao để tránh các loài ký chủ trung gian (cua, còng, …) vào ao truyền bệnh cho
tôm.
Bước 2: Bón vôi nông nghiệp (CaCO3) với lượng 7-10 kg/100 m2.




Bước 3: Đối với ao nuôi, sau khi bón vôi phải được bừa kỹ để vôi ngấm xuống đáy ao,
giải phóng khí độc (NH3, H2S) và trung hòa pH ao nuôi.
Bước 4: Đối với ao nuôi không lót bạt, tháo được kiệt nước, tiến hành phơi ao từ 20-30
ngày. Những ao ở vùng trũng, không tháo được kiệt nước, tiến hành bơm cạn đến mức tối
đa có thể, dùng khùa và máy bơm áp lực lớn dồn bùn hữu cơ về một góc ao, dùng máy
bơm hút chất thải sang ao xử lý rồi tiến hành bón vôi như bước 2.
Lưu ý: Sau mỗi vụ nuôi, phải tiến hành cải tạo, phơi khô nền đáy ao chứa, ao nuôi từ 1-2
tháng để ngắt vụ, diệt mầm bệnh, phục hồi môi trường nền đáy.
1.2. Chuẩn bị quạt nước
Tùy theo diện tích và hình dạng ao để bố trí máy quạt và cánh quạt nước cho ao nuôi tôm,
có thể dùng cánh quạt nhựa, tốt nhất nên kết hợp cánh quạt nhựa với cánh quạt lông nhím
để tạo được dòng chảy và cung cấp đầy đủ ôxy hòa tan cho tôm, vòng tua của cánh quạt
nhựa nên > 120 vòng/phút, cụ thể bảng sau.

1.3. Chuẩn bị nước
Bước 1: Lựa chọn con nước có các yếu tố môi trường ổn định, lấy vào ao chứa qua túi


lọc bằng vải dày nhằm loại bỏ rác tạp, ấu trùng tôm, cua, còng, cá…
Bước 2: Chạy quạt nước liên tục từ 2-3 ngày để kích thích trứng tôm, cá nở hết.
Bước 3: Diệt khuẩn, diệt tạp trong ao chứa bằng một trong các hóa chất như: Chlorin
lượng 20-30 ppm (2-3 kg/100 m3), KMnO4 lượng 0,2-0,5 kg/100 m2, BKC lượng 0,30,5 kg/100 m3, hợp chất Iodin lượng 0,1-0,3 lít/100 m3. Phương pháp và liều lượng sử
dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Lưu ý: Nếu sử dụng Chlorin, thì trước đó 3-5 ngày không nên sử dụng vôi và sau đó phải
quạt nước liên tục từ 7-10 ngày để giải phóng khí Clo trong nước trước khi cấp vào ao
nuôi. Không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và các chất cấm theo quy định của Bộ Nông
nghiệp và PTNT.
Bước 4: Bơm nước đã được xử lý từ ao chứa lắng sang ao nuôi qua túi lọc để loại bỏ rác

tạp.
1.4. Gây màu nước
Gây màu nước có tác dụng giúp sinh vật phù du phát triển, môi trường ổn định, hạn chế
tôm nuôi bị sốc và tăng tỷ lệ sống của tôm.
- Phương pháp gây màu nước:
+ Sử dụng cám ủ với thành phần gồm mật đường + cám gạo + bột đậu nành theo tỷ lệ
3:1:3 được ủ trong 12 giờ; lượng dùng 0,3-0,5 kg/100 m3 nước ao. Thời gian bón xuống
ao vào lúc 9-10 giờ sáng, liên tục trong 3 ngày. Khi nước có màu vàng nâu hoặc nâu nhạt
tiếp tục cấp thêm nước sạch đạt mức tối đa rồi tiến hành thả giống.
+ Hoặc sử dụng phân gây tảo có bán trên thị trường để gây màu nước, lượng dùng theo
hướng dẫn của nhà sản xuất.
Lưu ý: Không sử dụng phân vô cơ để gây màu nước.
- Kết hợp bón vôi Dolomit và vôi nông nghiệp với lượng 2 kg/100 m3 vào ban đêm để ổn
định độ kiềm.
- Sau khi gây màu nước, kiểm tra và điều chỉnh các yếu tố môi trường nước ao nuôi đảm
bảo trong ngưỡng thích hợp trước khi thả giống, cụ thể tham khảo bảng sau.


2. Chọn và thả giống
2.1. Chọn giống
Người nuôi nên chọn tôm giống tại các cơ sở có uy tín, tôm bố mẹ cho sinh sản phải đảm
bảo chất lượng theo quy định.
- Chọn tôm giống P12, có kích cỡ đồng đều, chiều dài 9-11 mm, màu sắc sáng, sắc tố rõ,
đôi râu khép lại, các đốt bụng thon dài, bụng căng đầy, thịt đầy vỏ, đầu và thân cân đối.
Tôm bơi khỏe ngược dòng, bám thành bể tốt, phản xạ nhanh, phụ bộ hoàn chỉnh, ruột đầy
thức ăn, không có ký sinh trùng bám, không bị bệnh phát sáng. Có phiếu xét nghiệm âm
tính về các bệnh MBV, đốm trắng, đầu vàng, Taura, hoại tử cơ (IMNV), hoại tử gan tụy

- Kiểm tra sức khỏe tôm trước khi thả xuống ao nuôi bằng gây sốc Formol: Pha 2-2,2 ml
Formol (46%) vào chậu chứa khoảng 10 lít nước chứa tôm. Thả 100 con tôm Post vào

chậu, sau 1 giờ nếu tỷ lệ sống đạt > 95%, tôm hoạt động bình thường là tôm khỏe.
2.2. Thả giống
Trước khi thả giống nên chạy quạt nước từ 8-12 giờ để cung cấp ôxy hòa tan trong ao
nuôi đạt trên 4 mg/l.
- Mật độ thả: 60-80 con/m2
- Cách thả: Thả giống vào sáng sớm hoặc chiều mát, thả túi tôm giống xuống ao nuôi để
cân bằng nhiệt độ, sau đó cho nước từ từ vào bao chứa tôm rồi dốc nhẹ bao để tôm theo


nước bơi ra ngoài.
- Vị trí thả: Thả đều các điểm trong ao.
3. Chăm sóc quản lý
3.1. Quản lý cho ăn
- Sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm tổng số từ 32-45%
Lưu ý: Thức ăn và chất bổ sung thức ăn phải thuộc danh mục được phép lưu hành tại Việt
Nam, không dùng thức ăn hết hạn sử dụng.
- Thời điểm và lượng thức ăn mỗi lần tham khảo bảng sau.

- Lượng thức ăn
+ Ngày đầu tiên cho tôm ăn 2 kg/100.000 con giống và trong thời gian 20 ngày đầu, cứ
mỗi ngày tăng thêm 0,2 kg/100.000 con giống.
+ Từ ngày thứ 21, mỗi ngày tăng thêm 0,5 kg/100.000 con giống, kết hợp điều chỉnh
lượng thức ăn hàng ngày qua theo dõi lượng thức ăn trên sàng (vó) ăn.


+ Từ ngày nuôi thứ 35 trở đi chỉ cho 70-80% lượng thức ăn theo yêu cầu.
Lượng thức ăn được điều chỉnh tùy theo điều kiện thực tế như: Sức khỏe tôm, chu kỳ lột
xác, thời tiết và theo dõi qua sàng cho ăn hoặc kiểm tra chài khi tôm trên 20 ngày tuổi.
Tránh để thức ăn thừa hoặc thiếu, ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và sức khỏe của tôm.
Lưu ý:

+ Những ngày thời tiết mưa, nắng gắt, tôm lột xác chỉ cho 70-80% lượng thức ăn đã định.
Tăng lượng thức ăn sau khi tôm lột xác xong.

+ Từ ngày thứ 10 trở đi, cho thức ăn vào sàng (vó) để tôm làm quen, thuận tiện cho việc
kiểm tra nhu cầu tiêu thụ thức ăn của tôm. Sàng đặt cách bờ 1,5-2 m, sau cánh quạt nước
từ 12-15 m, không đặt ở góc ao, khoảng 1.600-2.000 m2/1 sàng.
+ Từ ngày thứ 15 trở đi, có thể bổ sung Vitamin, các khoáng vi lượng (TA-Feedmin, …)


và men tiêu hóa (T-Food, Sitto SC …) trộn vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho tôm,
lượng dùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Cách cho ăn:
+ Cho tôm ăn ở những nơi được làm sạch bằng quạt nước như xung quanh ao, tránh cho
ăn ở những điểm có chứa chất bẩn.
+ Khi chuyển đổi loại thức ăn cần phối trộn 2 cỡ hoặc loại thức ăn cho ăn ít nhất trong 3
ngày.
3.2. Quản lý môi trường ao nuôi
- Trong quá trình nuôi, duy trì các yếu tố môi trường ao nuôi ổn định trong khoảng thích
hợp như: Mực nước 1,4-1,8 m; ôxy hòa tan > 4 mg/l; độ trong 30-40 cm; độ kiềm 80-120
mg/l; độ mặn 10-15‰; pH 7,5-8,5; H2S < 0,05 mg/l; NH3 < 0,3 mg/l.
- Đo kiểm tra các yếu tố pH, ôxy, độ trong 2 lần/ngày (7giờ sáng và 14 giờ chiều); độ
kiềm, NH3, H2S từ 3-5 ngày/lần.
* Một số biện pháp khắc phục môi trường biến động trong quá trình nuôi:
- pH:
+ Thấp < 7,5: Bón vôi CaCO3, Dolomite lượng 1-2 kg/100m3.
+ Cao > 8,5: Mật đường 0,3 kg/100 m3 kết hợp với men vi sinh hoặc C TAT theo hướng
dẫn của nhà sản xuất.
Tùy theo độ mặn để điều chỉnh pH cho phù hợp, định kỳ 10 ngày/lần bón vôi nông
nghiệp CaCO3 vào lúc 20-21 giờ với lượng 1,0-2,0 kg/100 m3.
- Độ kiềm:

+ Thấp < 60 mg/l: Bón Dolomite 1-2 kg/100 m3 vào ban đêm hoặc Soda lạnh 20 ppm
đến khi đạt yêu cầu.
+ Cao > 180 mg/l: Sử dụng EDTA lượng 0,2-0,3 kg/100 m3 vào ban đêm.
- Độ mặn:
+ Nếu thấp dưới 17‰ thì điều chỉnh pH từ 8,2-8,4;
+ Nếu độ mặn trên 17‰ thì điều chỉnh pH giảm dần xuống 8,0-8,2;
+ Nếu độ mặn = 25‰ thì điều chỉnh pH bằng 7,7-7,8.
Đến 11-12 giờ trưa ngày hôm sau, sử dụng vi sinh (Super VS, CP Bio plus, enzim HN,
…) của các hãng có uy tín để ổn định môi trường, lượng dùng theo hướng dẫn của nhà
sản xuất.
+ Nếu độ mặn giảm đột ngột do mưa thì điều chỉnh bằng nước ót hoặc muối hột.
- Khi tảo trong ao phát triển mạnh, màu nước thay đổi, pH dao động trong ngày > 0,5 đơn
vị cần:
+ Thay tối thiểu 30% nước trong ao;
+ Hòa tan 0,2-0,3 kg đường cát/100 m3 và tạt đều xuống ao vào lúc 9-10 giờ sáng;
+ Sục khí liên tục trong vài giờ.
- Khi nhiệt độ nước tăng > 340C cần:
+ Giảm thức ăn (cho ăn khoảng 70-80% lượng thức ăn đã định);
+ Bổ sung Vitamin C (trộn vào thức ăn), lượng dùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất;
+ Tăng thời gian chạy quạt nước (sục khí).
- Khi nhiệt độ nước ao giảm < 240C, có hiện tượng tôm vùi đầu phải giảm lượng thức ăn
và bổ sung Vitamin C để tăng sức đề kháng.


Lưu ý:
+ Trong quá trình nuôi tôm cần rất nhiều khoáng chất (Canxi, magiê, silic, đồng, mangan,
…), do đó 3-5 ngày/lần bổ sung khoáng chất xuống ao nuôi tôm vào ban đêm, giúp tôm
nhanh cứng vỏ và lột xác đồng loạt.
+ Hạn chế lấy nước vào ao nuôi, khi cần thiết lấy nước vào ao nuôi từ ao chứa (qua lúi
lọc).

+ Không xả nước thải, chất thải sinh hoạt vào ao nuôi, ao chứa lắng…. Nước thải nuôi
tôm sau khi được xử lý, đảm bảo theo quy định mới được xả thải ra ngoài môi trường;
chất thải rắn phải được thu gom vào thùng chứa theo quy định.
4. Thu hoạch
Sau thời gian nuôi khoảng 60-70 ngày, tôm đạt kích cỡ thương phẩm (40-60 con/kg), tùy
theo giá cả thị trường và điều kiện thời tiết, người nuôi chủ động chọn thời điểm thu
hoạch phù hợp.
Lưu ý:
+ Trước khi thu hoạch từ 15-20 ngày, người nuôi ngừng sử dụng các loại thuốc và hóa
chất trong ao nuôi tôm theo quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
+ Không thu hoạch tôm khi vào chu kỳ lột xác, hạn chế thu hoạch khi tôm còn mềm vỏ./
KỸ THUẬT NUÔI TÔM SÚ THƯƠNG PHẨM
Tôm Sú là một trong những đối tượng có giá trị dinh dưỡng cao, giá cả và thị
trường tiêu thụ ổn định, giúp ngư dân xoá đói, giảm nghèo và làm giàu nhanh chóng
trong công tác chuyển dịch cơ cấu kinh tế lĩnh vực thuỷ sản.

KỸ THUẬT NUÔI TÔM SÚ THƯƠNG PHẨM
A. Một số đặc điểm cơ bản về sinh học của tôm Sú (loài P.monodon)
Tôm Sú phân bố rộng, hầu hết các vùng ven biển từ Móng Cái đến Kiên Giang
song tập trung ở khu vực miền Trung: Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Khánh… tôm Sú thường
sống ở độ sâu nhỏ hơn 50 m nước. Có độ mặn thay đổi từ 15-30 0/00. Còn nhỏ sống ở ven
bờ khu vực nước lợ, lớn di dần ra biển và sinh sản.
- Là đối tượng sống đáy nơi có chất bùn cát, hoặc cát bùn, vùi mình, hoạt động bắt
mồi chủ yếu về ban đêm.
- Là đối tượng sống có vòng đời dài so với một số đối tượng tôm nước ngọt (từ 3-4
năm), tốc độ sinh trưởng nhanh sau mỗi lần lột xác "từ cỡ thả P15 sau 110- 120 ngày đạt
25-30 g/con. Lớn gấp từ 3.000 -4.000 lần so với ban đầu".


- Là loài thích ứng với độ mặn từ 5-35 0/00 tốt nhất là từ 15-250/00. Nhiệt độ thích

hợp cho sự phát triển từ 25-300C lớn hơn 350C hoặc thấp hơn 120C kéo dài tôm sinh
trưởng chậm.
- Là một trong những đối tượng có giá trị dinh dưỡng cao, giá cả và thị trường tiêu
thụ ổn định, giúp ngư dân xoá đói, giảm nghèo và làm giàu nhanh chóng trong công tác
chuyển dịch cơ cấu kinh tế lĩnh vực thuỷ sản.
B. Các hình thức thức nuôi và phương pháp nuôi tôm Sú
I. Hình thức nuôi: Có 4 hình thức nuôi tôm:
1. Nuôi quảng canh cải tiến
Là hình thức nuôi thuỷ sản kết hợp với một số đối tượng khác trong ao đầm: cua
Xanh, cá, tôm tự nhiên và rong câu chỉ vàng. Là loại hình dựa vào điều kiện môi trường
tự nhiên là chính, mật độ tôm Sú thả 5-7 con P 15 /m2 bổ sung một lượng thức ăn. Quy mô
đầm nuôi thường 2-5 ha, năng suất đạt 0,5-0,8 tấn/ha/vụ.
2. Nuôi bán thâm canh
Là loại hình phù hợp với điều kiện nuôi có diện tích từ 0,5-1 ha, độ sâu 0,8-1,2m,
điều kiện kinh tế của ngư dân chưa mạnh, mật độ thả giống P 15 10-15 con/m2, năng suất
thường đạt 1,5-2 tấn/ha/vụ.
3. Nuôi thâm canh
Là loại hình cần đầu tư lớn, trình độ kỹ thuật của ngư dân cao, nhiều kinh nghiệm
thực tế. Là hình thức nuôi hoàn toàn dựa vào giống nhân tạo, thức ăn công nghiệp, người
quản lý có thể khống chế tốt sự biến đổi của môi trường nước ao nuôi. Quy mô ao nuôi
thường 0,5-1 ha, tốt nhất là 1 ha/ao. Mật độ thả giống: 25-40 con/m 2. Năng suất từ 3 tấn
trở lên.
4. Nuôi sinh thái: mật độ thả 1-2 con/m2 không sử dụng thức ăn nhân tạo, thường
nuôi xen ghép với các đối tượng tôm cá tự nhiên năng suất tôm sú thường đạt 0,15 - 0,2
tấn/ha/năm. Năng suất tuy thấp nhưng sản phẩm đạt yêu cầu về an toàn thực phẩm.
* Trong 4 hình thức nuôi trên, căn cứ vào cơ sở vật chất ao đầm nuôi, trình độ quản
lý (đặc biệt về kỹ thuật). Khuyến cáo ngư dân Thái Bình nên áp dụng hình thức nuôi
quảng canh cải tiến, mở rộng hình thức nuôi bán thâm canh.
II. Phương pháp nuôi: ( có 2 phương pháp)
a. Nuôi chuyên: Trong ao chỉ nuôi duy nhất một đối tượng tôm sú theo các hình

thức nuôi như đã giới thiệu ở phần trên.
b. Nuôi xen ghép: Là nuôi từ 2 đối tượng trở lên trong cùng một ao. Cụ thể như:
Nuôi xen ghép tôm sú với cua xanh; tôm sú với rong câu chỉ vàng, hoặc nuôi xen tôm sú


với một số đối tượng cá (rôphi đơn tính, rôphi lai xa, cá bống bớp …). Trong các phương
pháp xen ghép, nuôi có hiệu quả kinh tế nhất là nuôi tôm sú với cá rô phi (đơn tính, lai
xa). Vì, cá rô phi là đối tượng ăn tạp, lợi dụng tính ăn của cá rô phi, tận dụng các chất thải
trong ao để làm thức ăn như: thức ăn thừa, phân tôm… nhằm hạn chế ô nhiễm môi
trường. Bên cạnh đó, cá rô phi có thể sử dụng xác chết của tôm để làm thức ăn, nhằm hạn
chế sự phát tán của sinh vật gây bệnh khi xác chết bị phân huỷ hoặc bị chính những con
tôm khoẻ sử dụng làm thức ăn. Phương pháp này có thể áp dụng như sau:
- Mùa vụ: Tập trung vào vụ xuân hè.
Tôm sú P15 sau khi thả nuôi được từ 30 – 40ngày, tiến hành thả cá giống.
- Mật độ nuôi:
Tôm sú nuôi theo hình thức QCCT, mật độ 5 - 7con/m2.
Cá rôphi 5 – 7m2/1con (1.500 - 2.000con/ha), (20g/con) cỡ 4 – 6cm, (lưu ý: nếu thả
cá cỡ lớn sẽ cạnh tranh thức ăn của tôm sú hoặc khi không đủ thức ăn chúng có thể ăn
tôm sú). Trong quá trình nuôi xen ghép, theo dõi nếu thấy hiện tượng cá đói do thiếu thức
ăn có thể bổ sung cám gạo hoặc bột ngô cho cá ăn.
- Thu hoạch:
Tôm sú nuôi 100 – 120 ngày, đạt cỡ 30 – 40con/kg tiến hành thu hoạch.
Cá rôphi nuôi tiếp đến tháng 10, 11 khi đạt cỡ 0,4 – 0,5kg/con.
C. Kỹ thuật nuôi tôm Sú
I. Chuẩn bị ao nuôi
1. Chọn địa điểm
Là một khâu quan trọng cần được xác định một cách thận trọng khi xây dựng ao
đầm nuôi tôm khi chọn địa điểm cần chú ý:
- Về địa điểm: Vùng nuôi thường ở vùng trung triều (tiếp vùng cao triều) để dễ tháo
cạn ao, đầm để phơi đáy ao khi cải tạo. Vùng hạ triều rất khó khăn cho việc thay nước,

quản lý chất lượng nước ao nuôi.
- Đất xây dựng ao thường phải là đất thịt, thịt pha cát, ít mùn bã hữu cơ.
- Nguồn nước cung cấp cho ao nuôi phải chủ dộng, không bị ô nhiễm công nghiệp,
nông nghiệp và sinh hoạt, các yếu tố cơ bản phải đảm bảo:
+ pH: 7,5-8,5
+ S0/00: 15-350/00
+NH3: <0,1 mg/l
+ H2S: <0,03 mg/l


- Về kinh tế xã hội: Ao đầm nuôi chọn ở địa điểm thuận lợi về giao thông, thuận
tiện cho việc dịch vụ giống, thức ăn, tiêu thụ sản phẩm khi thu hoạch.
2. Xây dựng ao nuôi
- Ao lắng (thường bằng 20-25 % diện tích ao nuôi): tác dụng làm trong nước, công
tác xử lý chất lượng nước trước khi đưa vào ao nuôi.
- Ao nuôi: có diện tích nên từ 0,5- 1 ha, những ao có diện tích quá lớn thì khó chăm
sóc, quản lý; diện tích quá nhỏ nước ao nuôi dễ bị biến đổi theo điều kiện nuôi. Ao có
dạng hình chữ nhật, đáy ao bằng phẳng, độ dốc từ cống tưới đến đáy cuối ao: 2%. Ao
nuôi có độ sâu 1-1,5m., trung bình 0,8-1,2m.
- Ao xử lý: Thường có diện tích chiếm 10-15% diện tích ao nuôi. Nước thải của ao
nuôi sẽ được xử lý bằng hoá chất, sinh học trước khi thải ra ngoài hoặc có thể sang ao
lắng để tiếp tục bơm phục vụ cho ao nuôi (với hình thức nuôi kín).
* Lưu ý: Ao xử lý có tầm quan trọng trong việc giữ gìn cho việc dịch bệnh không
lan tràn trong vùng khi một số ao nuôi tôm bị mắc bệnh.
- Ao ương tôm bột P15: Thường kết hợp trong quy hoạch thiết kế ao ương nằm
trong ao nuôi để thuận tiện cho quá trình chăm sóc khi tôm còn nhỏ.
Ao ương có thể là ao đất, hoặc có thể là hình thức quây lưới mắt nhỏ, diện tích tuỳ
thuộc vào lượng giống cần trong ao nuôi để thiết kế cho phù hợp.
Ao ương có độ sâu bằng độ sâu ao nuôi, hình chữ nhật dài gấp từ 2-3 lần, chiều
rộng. Có cống từ ao ương sang ao nuôi thuận tiện cho việc thu tôm giống sau khi ương.

II. Cải tạo ao nuôi
Là khâu quan trọng trong quy trình kỹ thuật nuôi tôm Sú, ảnh hưởng trực tiếp đến
năng suất, sản lượng tôm nuôi.
1. Cải tạo ao mới xây dựng
Sau khi xây dựng xong ao, cho nước vào ao ngâm 2-3 ngày, sau đó xả hết để rửa
ao. Tốt nhất nên thau rửa 2-3 lần như trên. Bón vôi để cải tạo đáy. Lượng vôi tuỳ thuộc
vào độ pH của đất:
- Nếu pH 6-7: dùng 300-600 kg/ha (10-20 kg/sào)
- Nếu pH 4,5-6: dùng 600-1.000 kg/ha (20-35 kg/sào)
Vôi thường dùng để cải tạo: Vôi bột ( CaCO 3), vôi tôi Ca(OH)2 có tác dụng diệt
khuẩn cao. Trong quá trình nuôi để điều chỉnh pH của nước nên dùng Donomite (vôi
đen), bột đá.


Sau khi rải vôi phơi ao 7-10 ngày rồi đưa nước vào ao qua lưới lọc hoặc có thể cày
lật úp mặt đáy sau khi rải vôi, để vôi có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với đất đáy ao tăng
tác dụng khử chua đối với đáy ao.
2. Đối với ao cũ
- Sau khi thu hoạch tôm, xả hết nước cũ với những ao tháo được kiệt nước thì tiến
hành nạo vét đưa hết chất lắng đọng hữu cơ ở đáy ra khỏi ao, tiến hành bón vôi, cày lật
(nếu có điều kiện) phơi đáy 10-15 ngày cho phân huỷ hết chất hữu cơ, chất độc và những
sinh vật gây bệnh cho tôm.
- Với ao không tháo kiệt được nước phơi đáy thì dùng phương pháp cải tạo ướt.
Dùng bơm sục đáy ao và tháo tẩy rửa chất thải sau đó bón vôi. Sau khi cải tạo ao đưa
nước vào để gây màu.
Tất cả các ao lắng, ao xử lý, ao ương đều cải tạo đúng như ao nuôi. Đồng thời lưu ý
với ao có độ phèn cao thì không phơi nắng khi cải tạo để tránh xì phèn.
3. Diệt tạp
Sau khi cải tạo đáy ao, lấy nước vào ao qua lưới lọc. Với những ao không lấy nước
từ ao lắng mà lấy từ ngoài vào để 2-3 ngày cho các loại trứng theo nước vào ao nở thành

ấu trùng hoặc địch hại của tôm do không lọc kỹ lọt vào, ta tiến hành diệt tạp bằng:
Saponin. Lượng dùng: 15-20 kg/1000m3 tác dụng diệt tạp,
diệt các loại ký sinh hay gây bệnh, làm sạch môi trường trong nước, chỉ thả tôm sau
khi sử dụng Saponin 4 ngày (Saponin có thể sử dụng cho ao nuôi đang có tôm nhưng tôm
phải lớn hơn 2 g/con). Ngư dân Thái Bình đã sử dụng thuốc diệt tạp Saponin của công ty
phát triển nguồn lợi thủy sản miền Trung rất có kết quả. Sản phẩm trên an toàn cho tôm
nuôi nhưng chỉ có tác dụng diệt các loài cá không diệt được các loài cua, sò, ốc và các
loài vi khuẩn.
- Thuốc sát trùng TH4 (do Đức sản xuất) không gây ô nhiễm môi trường, không gây
độc cho người và tôm, diệt khuẩn, diệt vi rút đầu vàng, mang đen: liều dùng 1lít/ 300m3.
- Diệt tạp bằng hoá chất và cách sử dụng:
+ Thuốc tím (KMnO4): Liều dùng 4-5 g/m3 nước. Cách xử lý: hoà tan 1 g thuốc tím
với 10 lít nước tạt đều trên mặt ao, quạt nước kết hợp với phơi nắng sau 24 giờ cho bay
hết thuốc tím là có thể sử dụng được. Thuốc có tác dụng khử trùng nguồn nước cực
nhanh, tiêu diệt nấm, ký sinh trùng.
+ Formalin: 10ppm (1 lít Formalin /100m 3 nước) quạt nước kết hợp với phơi nắng,
khoảng 3 ngày có thể sử dụng được.


+ Chlorin (CaCOCl): 10-15g/100 m3 nước, quạt nước kết hợp với phơi nắng tối
thiểu 3 ngày mới sử dụng được.
Việc dùng hoá chất để xử lý ao nuôi dễ gây thoái hoá đất, làm nghèo dinh dưỡng
môi trường đáy ao và môi trường nước, có thể nên sử dụng hoá chất ở ao chứa nước. Tuy
nhiên xử lý bằng hoá chất có thể tiêu diệt được mầm bệnh, các loại địch hại của tôm như:
cua, cá, còng, ốc …
4. Bón phân gây màu
- Ao nuôi cần được bón phân gây màu nước để động, thực vật phù du phát triển là
nguồn thức ăn tự nhiên của tôm, đồng thời hạn chế sự phát triển của các loại tảo đáy, tạo
oxy, hấp thụ các chất độc sinh ra từ thức ăn dư thừa, chất thải của tôm trong quá trình
nuôi.

- Các loại phân dùng để gây màu:
+ Phân hữu cơ gồm: phân chuồng, gà, trâu, bò, khi bón phân phải được ủ mục.
+ Phân vô cơ: NPK 0,2 kg/100m2 + urê 0,2 kg/100m2. Nên bón phân vào 9-10 giờ
sáng. Lượng phân bón trên có thể chia ra 2-3 ngày bón
* Sau khi bón phân 2-3 ngày, sinh vật phù du phát triển,độ trong đạt 40-50 cm nước
có màu xanh nõn chuối hoặc vàng nâu là tốt nhất cho việc thả tôm.
III. Thả giống tôm
1. Mùa vụ thả giống
Do đặc điểm khí hậu miền Bắc, trong đó có các yếu tố cơ bản về môi trường có liên
quan đến đời sống của tôm trong vụ nuôi: nhiệt độ, độ muối, chế độ thuỷ triều, bão lũ …
thời gian thả giống P15 của Thái Bình tập trung sau tiết Thanh minh 7-10 ngày (thường
trong tháng 4 dương lịch). Vụ nuôi trong năm nên chỉ nuôi vụ xuân hè kể từ khi nhập
giống từ tháng 4 đến tháng 8 (dươnglịch).
2. Lựa chọn tôm giống P15
2.1 Về cảm quan
- Quan sát hoạt động của tôm:
+ Tôm bám thành chậu hoặc bơi thành đàn ngược chiều dòng nước.
+ Lẩn tránh chướng ngại vật, khi có tác động đột ngột về tiếng động, ánh sáng tôm
phản ứng nhanh. Tôm đều con.
- Về ngoại hình:
+ Có gai (chuỳ) phía trên, đuôi xoè, khi bơi 2 ăng ten đóng mở thành hình chữ V.


+ Không dị hình (gẫy khúc, co thắt, vẹo thân khi bơi luôn theo chiều nằm ngang
thân thẳng đứng, bơi theo chiều ngược dòng nước (nếu có dòng chảy).
+ Chiều dài thân: đạt 12-15 mm, độ chênh khác cỡ cá thể không quá 10 %.
- Về màu sắc:
+ Vân màu xám tro, đen, lưng màu xám bạc.
+ Tôm trắng đục, đỏ hồng thường là tôm có dấu hiệu bệnh lý.
2.2. Kiểm tra chất lượng tôm giống: Có 2 phương pháp kiểm tra

a. Gây sốc độ mặn:
Dùng chậu có đường kính 0,4-0,5m chứa nước sạch ở ao nuôi (khoảng 1/2 chậu)
thả 40-50 tôm giống dùng nước mưa, nước máy để pha nhạt nước trong chậu xuống độ
mặn thấp hơn 8 0/00 sau 10-15 phút nếu số tôm bị chết trên 10% thì chất lượng đàn tôm
kém). Nếu lượng tôm chết nhỏ hơn 10%, tôm bơi ngược dòng khi dòng chảy yếu hướng
tập trung ra thành chậu chứng tỏ tôm khoẻ, chất lượng tốt.
b. Sốc bằng phương pháp foocmon:
Lấy nước ao cho vào chậu có đường kính 30-40 cm (lượng nước bằng 1/2 chậu),
pha foormon 46 % với lượng 2-2,2ml/10 lít, cho khoảng 100 con tôm vào chậu, sau 1 giờ
thấy tôm hoạt động bình thường, tỷ lệ sống lớn hơn 90 % là tôm khoẻ.
3. Mật độ và phương pháp thả giống
3.1 Mật độ thả: Tuỳ thuộc vào cơ sở vật chất kỹ thuật, kinh nghiệm, trình độ của
người quản lý, hình thức nuôi và điều kiện môi trường đầm ao nuôi để quyết định mật độ
thả nuôi cho phù hợp.
- Nuôi quảng canh cải tiến: 5-7 con P15/m2. Năng suất 0,6-0,8 tấn/ha/vụ
- Nuôi bán thâm canh : 10-15 con P15/m2. Năng suất 1,5-2 tấn/ha/vụ
- Nuôi thâm canh: 20-40 con P15/m2. Năng suất 2,5-4,5 tấn/ha/vụ
(Nếu thả với cỡ 2-3 cm thì số lượng thả bằng 70 % lượng giống P15)
Với cơ sở vật chất ao đầm nuôi ở tỉnh ta hiện nay nên nuôi ở hình thức quảng canh
cải tiến là chủ yếu. Các hộ có điều kiện có thể nuôi bán thâm canh, thâm canh.
3.2 Thả giống: Có 2 phương pháp
- Tôm ương từ P15 - P35 - 40 (đạt từ 2-3 cm) phương pháp này chọn được giống
tốt trong thời gian ương, kiểm tra được số lượng cá thể dễ quản lý về chế độ cho ăn.
- Thả trực tiếp P15 xuống ao nuôi: Xu hướng chung hiện nay của Thái Bình do quỹ
đất nuôi có hạn không thiết kế được ao ương. Nhược điểm của phương pháp này khó


kiểm tra được số lượng, khó loại bỏ những cá thể kém chất lượng. Vì thế đàn tôm trong
ao nuôi phân đàn lớn, khó điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày dễ gây dư thừa thức ăn,
gây ô nhiễm môi trường.

* Cách thả tôm giống:
- Thả tôm vào thả thời tiết mát mẻ, không nên thả vào lúc trời sắp mưa hoặc đang
mưa, thời gian thả 6-9 giờ sáng hoặc 5-7 giờ chiều, tránh lúc trưa nắng nhiệt độ cao.
- Tôm thả ở nhiều vị trí trong ao để có sự phân bố đều về mật độ, thả đầu hướng
gió.
* Cần chú ý trước khi thả giống
- Ngâm túi chứa tôm trong ao: 20-30 phút để cân bằng nhiệt độ giữa nước trong túi
chứa tôm và nước trong ao nuôi. Khi mở túi phải để nước trong ao vào trong túi từ từ
tránh gây sốc cho tôm.
- Tuỳ theo mức chênh lệch độ mặn giữa nơi sản xuất tôm giống và ao nuôi cần
thuần hoá độ mặn trước khi thả. Công việc trên thường do các cơ sở dịch vụ tôm giống
chịu trách nhiệm. Tôm giống trước khi thả không qua thuần, nếu chênh lệch độ muối cao
có thể dẫn tới tôm bị sốc, dẫn đến tỷ lệ hao hụt lớn. (Thuần trong bể từ 2-3 ngày trước khi
đưa xuống ao nuôi).
IV. Quản lý chăm sóc
1. Thức ăn cho tôm
1.1 Các loại thức ăn: Có 3 loại thức ăn
- Thức ăn tự nhiên: Bao gồm thực vật phù du (tảo), động vật phù du, các mùn bã
hữu cơ, mà tôm tự chọn trong ao nuôi.
- Thức ăn tự chế được sản xuất từ nguồn nguyên liệu của địa phương sẵn có, dể
kiếm, rẻ tiền (ốc, cá tạp, don, dắt, phể phẩm nông nghiệp …) những loại thức ăn dễ gây ô
nhiễm môi trường, đặc biệt khi sử dụng ở dạng tươi sống. Độ dính kém, hàm lượng các
chất dinh dưỡng, đặc biệt độ đạm không đủ do vậy lượng thức ăn nhiều khó điều chỉnh,
dễ dư thừa hoặc thiếu.
- Thức ăn công nghiệp: Là loại thức ăn dùng trong nuôi tôm bán thâm canh, thâm
canh gần đây cũng đã được ngư dân sử dụng trong nuôi quảng canh cải tiến. Nó đảm bảo
lượng dinh dưỡng Protein, chất khoáng, các vi lượng cần thiết cho tôm. Ngoài ra, nó còn
góp phần đảm bão giữ môi trường nước ao nuôi được trong sạch, do thức ăn tôm được sử
dụng tốt ít dư thừa.
Hiện có khoảng 35 loại thức ăn sản xuất trong nước và nhập từ nước ngoài, để đảm

bảo chất lượng thức ăn người nuôi tôm khi mua thức ăn công nghiệp cần chú ý: "Thức ăn


sản xuất từ cơ sở có uy tín, hình dạng bên ngoài đều bóng, thơm tự nhiên, độ bền thích
hợp (tan sau 5-6 giờ), còn hạn sử dụng".
1.2 Lượng cho ăn
- Tuỳ theo chất lượng thức ăn, trọng lượng cá thể tôm, môi trường thời tiết, sức
khoẻ đàn tôm để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
Qua thực tế có thể vận dụng lượng thức ăn cho ngày nuôi trên cơ sở trọng lượng
đàn tôm như sau:
Bảng 1: Tỷ lệ thức ăn công nghiệp cho tôm ăn cần đối với trọng lượng
(Thời gian vụ nuôi 110-120 ngày)

SốT
T

Thể trọng
của tôm
(gam/con)

Ngày nuôi
(ngày)

1

0,01 - 0,03

2

Tỷ lệ thức ăn cho ăn nên có

% thể trọng
ngày

Tinh cho 1 vạn
cá thể (kg/vạn)

1-5

100, - 75,

0,1 - 0,23

0,03 - 0,5

5 - 15

75, - 10

0,6 - 1,3

3

0,5 - 2,4

15 - 30

10,0 - 8,0

0,24 - 0,5


4

2,4 - 5,0

30 - 55

8,0 - 6,0

1,5 - 3,0

5

5,0 - 10,0

55 - 65

6,0 - 5,0

3,0 - 3,5

6

10,0 - 15,0

65 - 75

5,0 - 4,0

3,6 - 4,3


7

15,0 - 20,0

75 - 85

4,0 - 3,8

4,3 - 4,8

8

20,0 - 25,0

85 - 95

3,8 - 3,5

4,8 - 5,6

9

25,0 - 30,0

95 - 105

3,5 - 3,0

5,6 - 6,0


10

30,0 - 35,0

105 - 120

3,0 - 2,5

6,1 - 7,5

Ghi chú

Từ P15 đến
gian 1 tháng

thời

Sang tháng thứ 2

Sang tháng thứ 3

Sang tháng thứ 4

Lượng thức ăn điều chỉnh tốt để có hệ số chuyển đổi 1,2 -1,5 (1,2-1,5 kg thức ăn
được 1 kg tôm thương phẩm) nếu cao sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi. Đối với thức ăn tự
chế cần được nấu chín, theo dõi khả năng sử dụng của tôm để điều chỉnh lượng thức ăn
cho tôm ăn hàng ngày phù hợp.


- Xác định tỷ lệ sống của tôm các nơi đang áp dụng là dùng chài để kiểm tra (chỉ

tiến hành khi tôm đã nuôi được sau 1 tháng), cứ 7-10 ngày để kiểm tra, chài vào lúc mát
trời) sáng sớm, chiều mát), chài 1 cách ngẫu nhiên, căn cứ lượng tôm chài để ước lượng
tôm sống trong ao.
Cách tính: Số và trọng lượng đàn được căn cứ vào diện tích ao nuôi, diện tích
mình chài, số lượng, trọng lượng tôm thu được qua các mẻ quăng chài có thể tính một
cách tương đối trọng lượng đàn tôm nuôi ở thời điểm kiểm tra.
Thí dụ: Ao nuôi có mặt nước rộng 5.000 m2, miệng chài có diện tích rộng 7m2, như
vậy 3 lần chài là 21m2. Số tôm thu được sau 3 lần chài: 250 con bằng 4.750 g.
Như vậy ta có thể tính được số con trong ao là:
(250 :21) x 5.000 = 59.524 con
Trọng lượng trung bình cá thể tôm là:
4750 : 250 = 19 g/con
Trọng lượng tổng đàn tôm trong ao là:
19 x 59.524 =1.130.956 (g) (hoặc gần 1.131 kg tôm)
Từ trọng lượng đàn tôm trong ao ta có thể tính được tỷ lệ thức ăn công nghiệp theo
bảng 1.
Tuy nhiên, hiện nay ngoài biện pháp trên, còn tiến hành theo dõi chặt chẽ sức ăn
của tôm hàng ngày qua vó ăn để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
* Phương pháp cho ăn:
- Số lần ăn:
+ Tháng thứ 1: 5 lần/ngày: 4-6-10-16-22 giờ
+ Tháng thứ 2-3: 5 lần/ngày: 4-9-17-19-22 giờ
+ Tháng thứ 4: 6 lần/ngày: 4-8-10-16-19-22 giờ
- Lượng thức ăn điều chỉnh: Buổi sáng, tối nhiều hơn buổi trưa. Khi cho ăn phải rải
đều các điểm trong ao để tôm tiếp xúc được với thức ăn. Khi cho ăn tháng đầu tôm còn
nhỏ, thức ăn kích thước nhỏ dễ bị trôi, bay nên thức ăn cần trộn với nước để cho ăn được
dễ dàng, ít thất thoát.
- Để biết tôm ăn thừa, thiếu hàng ngày ta nên dùng vó (sàng ăn) để kiểm tra. Vó
thường làm bằng Polyetylen có kích cỡ 1,5 x 1,5 m hoặc có thể 2 x 2m (để kết hợp thu tỉa
tôm sau này). Số lượng vó tuỳ thuộc vào diện tích song phải được phân bổ đều ở các vị

trí để tôm tập trung sử dụng thức ăn. Thường sau 2 giờ (với tôm nhỏ hơn 10 g, 2-3 tháng)
và 1 giờ với tôm cỡ lớn (20 g trở lên, trên 3 tháng nuôi).


+ Nếu kiểm tra thức ăn trong vó hết thì tăng 10 % lượng thức ăn lần sau
+ Nếu còn thừa lớn hơn 20 % thì giảm đi 10% lượng thức ăn lần sau
- Khi thấy tôm lột xác nhiều nhất (nhất là kích thích tôm lột xác nên giảm đi 20 % lượng
thức ăn hàng ngày trong vòng 2 ngày, sau đó tăng trở lại bình thường.
- Ngoài kiểm tra lượng thức ăn trong vó hết, ta còn kết hợp kiểm tra độ no của tôm
qua ruột theo các độ đói, no vừa, no, no căng. Đồng thời lưu ý những ngày mưa gió lớn,
nước đục, nhiệt độ nước cao hơn 32-33 0C, chất đáy có dấu hiệu bẩn chưa xử lý kịp, biểu
hiện qua màu nước, ta cần điều chỉnh lược thức ăn tôm cho phù hợp với tình hình thực tế,
hạn chế dư thừa.
2. Quản lý môi trường nước ao nuôi
2.1 Thay nước
Việc cấp thay nước không theo chế độ nhất định, có thể không thay nước mới. Mục
đích của thay nước nhằm tăng cường độ trong của nước ao nuôi, cung cấp hàm lượng
muối, dinh dưỡng tảo phát triển, tăng hàm lượng oxy, góp phần điều chỉnh pH, giảm chất
độc H2S, NH3 phân huỷ do thức ăn tôm dư thừa, kích thích tôm lột xác.
Trong mô hình nuôi ít thay nước trong 40-45 ngày đầu của chu kỳ nuôi, không thay
nước mà chỉ cấp nước bổ sung do nước bốc hơi và thấm lâu, chỉ cấp thêm từ 10-20%
nước từ nguồn nước dự trữ ở ao chứa nhằm ổn định môi trường.
- Thường từ tháng thứ 2 trở đi vào các chu kỳ thuỷ triều có độ cao lớn ta lấy nước
vào. Mỗi lần thay nước cần kiểm tra chất lượng nước độ muối, độ trong, các chất độc vào
những kỳ nước thải từ sản xuất nông nghiệp ra khu vực vùng nuôi (nếu có điều kiện với
hình thức nuôi quảng canh cải tiến).
Khi thay nước, lượng nước không quá 20% lượng nước ao nhằm hạn chế sự thay
đổi môi trường gây sốc cho tôm nuôi. Sau mỗi lần thay nước cần kiểm tra lại nước trong
ao: pH, S0/00, duy trì sự ổn định nước ao nuôi.
2.2 Điều chỉnh độ pH

- pH thích hợp để tôm phát triển tốt 7,5-8,5. pH trên 9,5 và dưới 4 tôm chết:
+ Khi dao động độ chênh lệch trong ngày lớn hơn 0,5 thì phải xử lý bằng bột đá
(CaCO3), tốt nhất là dùng vôi Donomite với lượng 7-10 kg/1000 m 3 hoà nước tạt đều
khắp mặt ao.
+ Khi pH>8,5 thường gặp ở ao có tảo phát triển quá mạnh, những ngày nắng to,
thời gian nuôi ở tháng thứ 2 trở đi có độ dư thừa thức ăn tôm nhiều.
Cách xử lý: Thay một ít nước trong ao bón thêm bột đá CaCO 3, tốt nhất là vôi
Donomite để giảm độ pH hoặc rải đường xuống ao: 1-2 kg/1000 m3.


+ Khi pH< 7,5 (thường gặp sau cơn mưa lớn, hoặc khi tảo trong ao tàn). Để tăng
pH thì bón vôi bột, vôi đen Donomite lượng 5-7 kg/1000m3 điều chỉnh pH đạt yêu cầu.
Tốt nhất người nuôi tôm nên cố gắng điều chỉnh sự phát triển của tảo không để xảy
ra trường hợp pH>8,5 và pH<7,5 nên định kỳ bón bột đá CaCO 3, Donomite để tăng hệ
đệm duy trì pH ở mức độ thích hợp nhất cho tôm nuôi (thường 10 ngày ta bón 1 lần
lượng 5-7 kg/1000 m3).
2.3 Quản lý màu nước (độ trong)
- Độ trong: Tốt nhất là từ 30-40 cm. Độ trong là biểu hiện của chất lượng màu
nước, mà màu nước của ao là do các vi sinh vật phù du trong nước nhiều, ít. Ao nuôi có
chất lượng nước tốt thường có màu xanh nõn chuối độ trong từ 30-40 cm, do tảo lục phát
triển chiếm ưu thế, 2 tháng đầu vụ nuôi tôm độ trong đảm bảo do lượng thức ăn của tôm
dư thừa còn ít.
- Khi độ trong thấp 20-25 cm màu nước xanh đậm đặc do tảo lam phát triển mạnh,
môi trường có chiều hướng xấu thì nên thay một ít nước trong ao nuôi (10-20%) và bón
vôi đen Donomite 7-10 kg/1000m3 nước vào buổi sáng.
- Nếu độ trong lớn hơn 50 cm nước trong ao lúc này rong tảo phát triển kém có
nguy cơ rong đáy phát triển ảnh hưởng đến hoạt động của tôm vì vậy ta dùng phân vô cơ
Urê +NPK tỷ lệ 1:1 (1kg/1000m3), phân gà, phân chuồng: 5-7 kg/1000 m2 kết hợp với vôi
Donomite 5-7 kg/1000 m3 để bón. Lưu ý trước khi bón cần thay 10-15% lượng nước
trong ao để bổ sung hàm lượng muối dinh dưỡng cho tảo phát triển.

- Khi màu nước trong ao đục do đất sét (thường sau mưa to) do đất sét trên bờ chảy
xuống kéo theo pH giảm. Khắc phục hiện tượng trên dùng vôi xử lý, vôi vẫn dùng 2 loại
trên với lượng 5-7 kg/1000 m2 hoà loãng tạt mặt ao và bờ ao, nếu có điều kiện thay 10-15
% nước trong ao. Hoặc có thể dùng Zeolite để bón hạn chế độ đục do đất sét gây ra.
- Nước trong màu xanh đậm (xanh đen) do tảo lam phát triển, biểu hiện môi trường
bị nhiễm bẩn. Cần xử lý nhằm tránh nước ao chuyển sang màu nâu đen do bị nhiễm nặng
trong thời gian dài (màu do tảo giáp chiếm ưu thế) dùng các chế phẩm vi sinh BRF 2, MS
tạo môi trường ổn định trở lại.
2.4 Điều chỉnh oxy hoà tan
Lượng oxy hoà tan trong nước ao ảnh hưởng trực tiếp điều kiện sống của tôm (đặc
biệt ở ao nuôi công nghiệp có mật độ thả giống cao) yêu cầu hàm lượng oxy của tôm luôn
lớn hơn 4mg/lít (tốt nhất từ 5-6 mg/lít), lượng oxy trong ao nuôi được tiêu thụ bởi phân
huỷ các chất lắng đọng hữu cơ chiếm 50-70%, sinh vật phù du 20-45%, chỉ có 1 phần
nhỏ oxy là do tôm tiêu thụ (5%). Nếu lượng oxy thiếu tôm sẽ nổi đầu và chết ngạt, thừa
oxy sinh bệnh bọt khí ở mang.


Có thể kiểm soát oxy hoà tan theo 3 cách:
- Lắp đặt hệ thống quạt nước và sục khí, cách làm này không chỉ làm nước được
tuần hoàn, bổ sung oxy hoà tan trong nước ao tạo điều kiện để tôm lột xác cho và gom
thức ăn dư thừa tập trung để hút đưa ra khỏi ao làm cho nên đáy sạch
- Kiểm soát giữ mật độ sinh vật phù du ở mức độ tối ưu
- Giảm tối thiểu các chất hữu cơ dư thừa (thức ăn tôm không sử dụng hết) bằng các
chế phẩm vi sinh
2.5 Quản lý nhiệt độ nước
Tôm là động vật biến nhiệt, nhiệt độ cơ thể phụ thuộc nhiệt độ môi trường nước. Vì
thế, một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến tốc độ sinh trưởng, thời gian
bắt mồi của tôm, khoảng nhiệt độ thích ứng của tôm 25-30 0C. Nhiệt độ cao lượng oxy
hoà tan có xu hướng giảm (do sự phân giải chất hữu cơ tăng). Trong khoảng nhiệt độ
thích hợp nếu nhiệt độ càng cao thì hoạt động bắt mồi và trao đổi chất càng tốt, tôm càng

lớn nhanh.
Để hạn chế sự biến động, nhiệt độ nước trong ngày lớn cần lưu ý:
- Giữ mực nước ao tối thiểu: 0,8-1m, tốt nhất nên 1,0-1,2m.
- Ở những ao có mực nước quá thấp do chưa có điều kiện xây dựng cải tạo ao từ
đầu thì nên có mương trong ao (thường ở giữa ao) để làm nơi trú ẩn giai đoạn rét, nóng
(đầu và giữa vụ nuôi). Cần chú ý: Không nên rải thức ăn vào mương trú ẩn tránh gây ô
nhiễm.
2.6 Quản lý độ mặn: Độ mặn của nước ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm, ảnh
hưởng đến quá trình lột xác, điều hoà áp suất thẩm thấu tế bào. Độ mặn thấp tom Sú mau
lớn nhưng vỏ mỏng dễ mắc bệnh.
Ở mỗi giai đoạn phát triển của tôm có yêu cầu độ mặn khác nhau, ở Thái Bình đầu
vụ nuôi độ mặn trung bình thường 12-180/00 (khu vực bãi ngang); 8-120/00(khu vực cửa
sông) tương đối phù hợp với giai đoạn ương P15 (tuy nhiên phải trải qua thuần để không
bị sốc khi thả), giữa và cuối vụ nuôi (tháng 7 - 8) mùa mưa độ mặn 5 - 100/00.
Để khắc phục độ mặn biến động lớn do thời tiết biến động cần chú ý:
+ Sau những cơn mưa lớn, mưa dầm kéo dài nước ao nuôi bị phân tầng nước mưa
tầng trên nước mặn tầng đáy, hạn chế lượng oxy hoà tan xuống đáy ao, vì vậy phải tháo
bỏ lớp nước mặt qua cánh phai cống hoặc dùng máy bơm bổ xung nước mặn từ bên ngoài
(vào lúc triều cường) đồng thời dùng máy quạt nước tạo dòng chảy đối lưu tầng mặt tầng
đáy, hạn chế sự phân tầng của nước ao nuôi.
2.7 Quản lý khí độc (NH3, H2S)


Hàm lượng NH3, H2S ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của tôm, hàm lượng cho
phép: - H2S < 0,03 mg/lít, tốt nhất < 0,01 mg/lít
- NH3 < 0,2 mg/lít, tốt nhất < 0,1 mg/lít
Hai loại khí độc trên thường xuất hiện trong ao nuôi tôm thương phẩm đặc biệt ở
thời gian nuôi cuối vụ (tháng thứ 3 - 4). Nó là kết quả của sự phân huỷ các chất hữu cơ từ
ngoài vào, thức ăn dư thừa, các chất thải của tôm, tảo chết. Để khắc phục:
+ Hạn chế lượng thức ăn dư thừa bằng cách quan sát sức ăn của tôm để điều chỉnh

lượng thức ăn cho phù hợp, dùng thức ăn có chất lượng tốt để tôm sử dụng hết thức ăn.
+ Cải tạo đáy ao đúng tiêu chuẩn kỹ thuật (vét bùn, chất thải bẩn trong ao từ những
vụ nuôi trước, lắng lọc nước hạn chế các chất hữu cơ bên ngoài).
+ Dùng hệ thống sục khí tăng hàm lượng oxy hoà tan trong ao đặc biệt tầng đáy tạo
điều kiện cho vi sinh vật hiếu khí phát triển, sẽ làm giảm 2 loại khí trên đặc biệt H2S.
Đồng thời dùng các chế phẩm vi sinh: BRF2, MZ xử lý các chất dư thừa trong nước.
Quản lý môi trường ao nuôi là công việc giữ vai trò cực kỳ quan trọng, môi
trường xấu đi trong quá trình nuôi sẽ là cơ sở để mầm bệnh phát triển, tôm mắc bệnh
là nguy cơ dẫn đến vụ nuôi tôm thất bại. Hạn chế những biến động bất lợi của môi
trường là tạo điều kiện cho tôm có sức khoẻ để sinh trưởng phát triển tốt, hạn chế rủi
ro người nuôi tôm có thu nhập.
3. Bệnh tôm và phương pháp xử lý
Bệnh của tôm phát sinh khi tôm không đủ sức đề kháng với những bất lợi của môi
trường nước ao nuôi; khác với môi trường trên cạn khi tôm bị bệnh việc chuẩn đoán bệnh
cho tôm chính xác và chữa trị bệnh gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có nhiều kinh
nghiệm và kiến thức chuyên môn. Do đó trong quá trình nuôi tôm việc phòng bệnh cho
tôm là vô cùng quan trọng còn trị bệnh là giải pháp cuối cùng của tình thế.
3.1 Phòng bệnh cho tôm: Phòng bệnh tức là áp dụng các biện pháp cần thiết để
nâng cao sức đề kháng của tôm nuôi, tránh đưa mầm bệnh từ bên ngoài vào ao nuôi, ngăn
ngừa mầm bệnh đã có ở tôm phát triển và lây lan. Phòng bệnh cho tôm gồm các biện
pháp sau:
+ Cải tạo ao đầm nuôi đúng kỹ thuật
+ Chọn tôm giống có chất lượng, nuôi tôm ở mật độ phù hợp với điều kiện môi
trường địa phương, trình độ kỹ thuật của các hộ nuôi, thả giống đúng kỹ thuật, đúng mùa
vụ.
+ Cho tôm ăn với loại thức ăn có chất lượng hạn chế tối đa thức ăn tươi sống, cho
ăn đúng lượng không thiếu, thừa.


+ Quản lý môi trường ao nuôi tốt, nước vùng nuôi phải sạch, không ảnh hưởng

nước thải công nghiệp, nước có mầm bệnh, hạn chế sử dụng nước từ vùng sản xuất nông
nghiệp đổ ra biển khi thời gian phun thuốc trừ sâu bệnh hại lúa.
Đối với ao chưa nhiễm bệnh, mà bên ngoài vùng ao đó đã có dấu hiệu nhiễm bệnh
thì tuyệt đối không được cấp nước từ ngoài vào.
3.2 Các dấu hiệu bên ngoài khi tôm bị bệnh
* Dấu hiệu về ban ngày:
+ Sáng sớm nằm rải rác ven bờ, chậm chạp dễ bắt
+ Kiểm tra ruột tôm thấy không có thức ăn
+ Tôm bơi lừ lừ đuôi không xoè rộng
+ Màu sắc của tôm mất đi vẻ tươi sáng, mô cơ trở lên trắng đục
* Dấu hiệu về ban đêm
+ Tối chiếu đèn quanh ao thấy tôm có triệu chứng bệnh sẽ bơi lơ lửng quanh bờ, khi
rọi đèn vào mắt tôm thì mắt đỏ không bình thường mà có màu trắng nhợt, tôm bơi khỏi
vùng chiếu sáng chậm chạp.
3.3 Bệnh tôm và cách trị bệnh: Đến nay người ta đã phân lập được 28 tác nhân gây
bệnh cho tôm nằm ở 4 nhóm bệnh:
- Nhóm bệnh do vi rút (đầu vàng, đốm trắng, MBV, HPV...)
- Nhóm bệnh do vi khuẩn (bệnh phát sáng, đốm màu, hoại cơ...)
- Nhóm bệnh do nhiều nhóm sinh vật (bệnh đóng rong, nguyên sinh động vật...)
- Nhóm bệnh do môi trường và dinh dưỡng: mềm vỏ, đỏ thân, thiếu vitaminC, bệnh
bọt khí do pH thấp, phồng nắp mang, toè đầu, xơ cứng đuôi.
a. Bệnh do vi rút gây ra (thường gặp ở Việt Nam) có hai bệnh chủ yếu:
* Bệnh thân đỏ đốm trắng (BV):
Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn tôm từ 40 - 50 ngày tuổi. Đốm trắng là các ion Ca +
+
lắng đọng ở mặt vỏ. Nguyên nhân do vi rút BV gây ra, bệnh xuất hiện khi môi trường
xấu vi rút này có từ nguồn nước và các giáp xác hoang dã.
- Dấu hiệu bệnh lý: Tôm bỏ ăn, lờ đờ, trên thân xuất hiện nhiều đốm trắng nhỏ
đường kính 1mm nằm dưới lớp ki tin phần đầu ngực và các đốt bụng. Màu sắc của tôm
khi mắc bệnh dần biến từ màu hồng sang màu đỏ nâu, đuôi và chân bơi tôm bị cụt, mang

đổi màu.


- Tác hại: Các vi rút xâm nhập vào các cơ quan và phá huỷ mang, gan, tuỵ, thần
kinh, dạ dày làm tôm chết hàng loạt sau 5 - 7 ngày.
- Phương pháp xử lý tôm bị chết trên không có biện pháp xử lý bệnh nếu tôm đạt
kích cỡ có thể bán được nên tranh thủ thu hoạch nhanh. Ao tôm sau khi thu hoạch phải xử
lý tốt trước khi tháo nước ao ra ngoài bằng Clorin (30mg/m2 nước) trong vòng 3 - 5 ngày
trước khi tháo ra.
* Bệnh đầu vàng (YHD)
Bệnh xuất hiện khi môi trường nuôi xấu. Vi rút gây bệnh trên có từ nguồn nước và
các loại giống: còng, cua, cáy, ghẹ... bệnh thường xuất hiện sau khi thả giống đến trưởng
thành.
- Dấu hiệu bệnh lý: Tôm khi mắc bệnh thấy sức ăn giảm đáng kể, tôm bơi chậm
chạp trên bờ mặt sát bờ ao nuôi và dừng lại ở trạng thái bất động. Tôm bị bệnh lần đầu
đặc trưng là mang có màu nhợt nhạt, (đầu vàng do gan tuỵ có màu vàng nhạt bị vi rút phá
huỷ).
- Tác hại: Bệnh gây chết nghiêm trọng 100% trong vòng 3 - 5 ngày kể từ khi xuất
hiện đầu tiên.
- Phòng bệnh: Áp dụng các phương pháp đã nói ở phần đầu.
- Trị bệnh: Hiện chưa có biện pháp xử lý bệnh tốt, cần thu hoạch khi tôm chớm
bệnh nếu đạt cỡ thu,
b. Bệnh do vi khuẩn gây ra:
* Bệnh phát sáng: Do vi khuẩn Vibrio harveyi gây ra, nếu tôm bị nhiễm sẽ làm tôm
phát sáng trong bóng tối
- Nguyên nhân: Do môi trường xấu
- Giai đoạn xuất hiện bệnh chủ yếu thời kỳ ấu trùng và hậu ấu trùng (thời kỳ ương
từ P15)
- Dấu hiệu bệnh lý: Tôm lờ đờ, kém ăn một số nổi lên mặt nước hoặc dạt vào mép
ao, trên cơ thể tôm nổi bị vi khuẩn phát sáng trong bóng tối, bệnh lây lan nhanh ra quanh

khu vực nếu phòng trị vệ sinh không tốt.
- Tác hại: Tôm bị nhiễm với lượng vi khuẩn phát sáng nhiều cơ thể bị tổn thương có
thể gây chết hàng loạt.
- Xử lý: Nước trước khi vào ao nuôi cần được xử lý bằng hoá chất Clorin 100 - 200
ppm + thuốc tím.


- Phòng bệnh: Quản lý môi trường nước ao tốt.
* Bệnh ngoài vỏ, đốm nâu, hoại tử phụ bộ
Do nhóm vi khuẩn Vibrio có khả năng phá vỏ lớp ki tin do môi trường xấu, sức đề
kháng của tôm giảm và cơ hội để mầm bệnh tôm phát triển.
- Giai đoạn bị bệnh: Tất cả các giai đoạn của tôm
- Dấu hiệu bệnh lý: các chỗ bị bệnh bị ăn mòn như phụ bộ, râu, mang, biểu bì xung
quanh và phần cuối của giáp đầu ngực giai đoạn bệnh nặng xuất hiện những chấm có màu
nâu nhạt.
- Nguyên nhân: Do môi trường ô nhiễm
- Tác hại gây tổn chuỳ trên vỏ, mắt, lột xác bị trở ngại di chuyển hoạt động khó
khăn, kém ăn gây tử vong nếu bệnh kéo dài
- Phòng bệnh như các giải pháp phòng bệnh tổng hợp
* Bệnh hoại cơ:
- Nguyên nhân: Do sốc mạnh và quá đột ngột với các yếu tố hàm lượng oxy hoà tan,
nhiệt độ nước, độ mặn, môi trường xấu.
- Giai đoạn bị bệnh: tất cả các giai đoạn.
- Dấu hiệu bệnh lý bệnh thường riêng lẻ tôm bị mốc trắng (màu đục sữa) ở phần cơ
của các đốt hay nơi bị hoại tử hai mép đuôi hư hại nên giòn dễ gẫy (thường gọi bệnh thối
đuôi).
- Tác hại: ảnh hưởng đén sự phát triển của tôm, chỗ bị hoại cơ là cơ sở đẻ mầm
bệnh khác phát triển.
- Phòng bệnh: áp dụng các giải pháp phòng bệnh tổng hợp.
c. Bệnh do nhóm sinh vật gây ra

* Bệnh đóng rong:
- Nguyên nhân: Do nhóm sinh vật gây ra gồm: một số nấm, nguyên sinh động vật,
nhóm tảo. Bệnh thường xảy ra ở những ao có nguồn nước bị ô nhiễm nền đáy xấu, do
nuôi ở mật độ cao, thức ăn dư thừa xử lý môi trường không tốt, phiêu sinh vật phát triển
mạnh.
- Giai đoạn bị bệnh: Tôm giống cỡ 2 - 3 cm (do nuôi ở mật độ cao tôm ở những
tháng cuối cùng môi trường đặc biệt đáy xấu.
- Dấu hiệu bệnh lý: Do môi trường nước ao xấu tôm yếu nên các sinh vật phủ thành
lớp trên vỏ mang, các đốt phụ bộ, tôm thường nổi lên mặt nước hay bám vào thành bờ,


×