Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Vận dụng kiến thức quang học để giải thích một số hiện tượng quang học thường gặp trong đời sống nhằm gây hứng thú học vật lý cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.58 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG KIẾN THỨC QUANG HỌC ĐỂ GIẢI THÍCH MỘT SỐ
HIỆN TƯỢNG QUANG HỌC THƯỜNG GẶP TRONG ĐỜI SỐNG
NHẰM
GÂY
HỨNG
THÚQUANG
HỌC VẬT
LÝĐỂ
CHO
HỌC
SINHMỘT
THPT
VẬN
DỤNG
KIẾN
THỨC
HỌC
GIẢI
THÍCH
SỐ
HIỆN TƯỢNG QUANG HỌC THƯỜNG GẶP TRONG ĐỜI SỐNG
NHẰM GÂY HỨNG THÚ HỌC VẬT LÝ CHO HỌC SINH THPT


Người thực hiện: Đậu Thị Bích
Chức vụ: Giáo viên
Người
hiện:
Thị BíchVật Lý
SKKNthực
thuộc
lĩnh Đậu
vực (môn):
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Vật Lý

THANH HOÁ NĂM 2016


MỤC LỤC
Trang
A.Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài ............................................................................………… 2
II.Mục đích nghiên cứu ........................................................................................2
III.Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………...2
IV.Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………..2
B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
I. Cơ sở lý thuyết cơ bản........................................................................................3
II. Thực trạng vấn đề…………………………………………………………….5
III. Giải pháp…………………………………………………………………….5
IV. Hiệu quả……………………………………………………………………15
C. Kết luận và kiến nghị………………………………………………………15
I. Kết luận………………………………………………………………………15
II. Kiến nghị…………………………………………………………………….16

Tài liệu tham khảo ……………………………………………………………..17

2


A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, Việt Nam nói riêng và cả thế giới nói chung
đang có những bước chuyển mình tích cực về phương pháp dạy và học ở các
trường phổ thông. Bên cạnh việc cung cấp những kiến thức mang tính hàn lâm
thì giáo dục cần coi trọng việc ứng dụng những kiến thức đó vào trong đời
sống. Vật lý học là một môn học vô cùng lý thú, các hiện tượng vật lý xuất hiện
và ứng dụng trong mọi mặt của đời sống, sản xuất. Để việc học vật lý đạt kết
quả tốt bên cạnh việc giải các bài tập tính toán thì việc vận dụng kiến thức để
giải thích các hiện tượng thực tế đóng vai trò quan trọng để nâng cao chất lượng,
tạo hứng thú cho học sinh học tập.
Qua thực tế giảng dạy cho thấy nếu trong bài dạy áp dụng được những
kiến thức đã học để giải quyết những vướng mắc các em chưa giải thích được
bằng vốn sống thì tiết học Vật lý sẽ nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn nhiều đối với học
sinh. Mặt khác, thực tế việc giảng dạy Vật lý hiện nay, chủ yếu dành nhiều thời
gian dạy học sinh nhận diện các kiểu, loại bài toán khác nhau và cách thức vận
dụng các công thức Vật lý cho từng kiểu, loại toán đó mà ít chú trọng giúp học
sinh giải thích các hiện tượng Vật lý xảy ra trong tự nhiên. Hiện nay các tài liệu,
sách tham khảo chủ yếu là sách về các dạng bài tập. Các hiện tượng vật lý nói
chung và các hiện tượng về quang học nói riêng cũng được giải thích ở một số
sách nhưng chưa có tính hệ thống và giải thích hơi chung chung để những người
không hiểu về lý thuyết vật lý cũng có thể hiểu được
Trước thực tế đó tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Vận dụng kiến thức
quang học để giải thích một số hiện tượng quang học thường gặp trong đời
sống nhằm gây hứng thú học Vật lý cho học sinh THPT”, nhằm giúp học sinh

yêu thích và hiểu hơn bản chất Vật lý của các hiện tượng Quang học.
II. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu giải thích các hiện tượng quang học trong thực tế mà học sinh
đã biết nhưng chưa hiểu cặn kẽ về bản chất vật lý của chúng, giúp các em yêu
thích học môn Vật lý nói riêng, yêu thích khoa học nói chung, góp phần nâng
cao chất lượng dạy và học trong trường phổ thông
III. Đối tượng nghiên cứu
Giải thích rõ được các hiện tượng quang học có trong chương trình phổ
thông và gần gũi với đời sống hàng ngày.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này tôi chọn phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
+ Đọc các sách giáo khoa phổ thông, các sách đại học, sách tham khảo
phần Quang học.
- Phương pháp khảo sát thực tế: Khảo sát chất lượng học của học sinh qua các
tiết dạy và các bài kiểm tra đánh giá
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
3


- Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy và
thực tế đời sống.

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý thuyết cơ bản của quang học
1. Định luật truyền thẳng ánh sáng
- Trong một môi trường trong suốt, đồng tính và đẳng hướng ánh sáng truyền
theo đường thẳng.
2. Nguyên lí về tính thuận nghịch của chiều truyền ánh sáng
- Đường đi của ánh sáng không đổi khi đảo ngược chiều truyền ánh

N
sáng.
S
3. Định luật phản xạ ánh sáng
i i’
- Tia phản xạ nằm trong mặt phẳng tới và ở phía bên kia pháp
tuyến so với tia tới.
I

- Góc phản xạ bằng góc tới (i = i)
4. Định luật khúc xạ ánh sáng
- Tia khúc xạ nằm trong mặt phẳng tới và ở bên kia pháp tuyến so với tia tới
- Đối với một cặp môi trường trong suốt nhất định thì tỉ số giữa sin của góc tới
(sin i) với sin của góc khúc xạ (sin r) luôn luôn là mọt số không S
N
đổi.
i
Số không đổi này phụ thuộc vào bản chất của hai môi trường và được
I
gọi là chiếc suất tỉ đối của môi trường chứa tia khúc xạ (môi
r
trường 2) đối với môi trường chứa tia tới (môi trường 1).
K
Kí hiệu n 21
= n 21
5. Hiện tượng phản xạ toàn phần
- Khi ánh sáng truyền từ mặt phân cách của môi trường chiếc quang hơn (n 1)
sang môi trường chiếc quang kém (n2) thì góc khúc xạ r lớn hơn góc tới i.
- Góc khúc xạ lớn nhất bằng 900; tia khúc xạ nằm là là mặt phân cách hai môi
trường thì góc tới tương ứng gọi là góc giới hạn i gh

- Với các góc tới có giá trị lớn hơn i gh, thì không còn xảy ra khúc xạ, toàn bộ áng
sáng đều trở lại môi trường chiếc quang hơn. Khi đó có hiện tượng phản xạ toàn
phần.
6. Máy ảnh
- Vật kính của máy ảnh là một thấu kính hội tụ (hoặc một hệ thấu kính tương
đương với thấu kính hội tụ) cho ảnh của vật cần chụp hiện rõ trên phim (ảnh).
7. Mắt
- Thủy tinh thể của mắt có vai trò như vật kính của máy ảnh, còn võng mạc có
vai trò như phim.
- Khi nhìn vật đặt ở điểm cực viễn CV, mắt không cần điều tiết. Còn khi nhìn vật
đặt ở điểm cực cận CC mắt phải điều tiết tối đa rất chóng mỏi mắt. Giới hạn nhìn
4

R


rõ của mắt là khoảng CVCC. Khoảng cách thấy rõ ngắn nhất là Đ = OC C (O là
quang
tâm của mắt). Thường lấy Đ = 25cm. Mắt bình thường có điểm cực viễn ở xa vô
cùng, còn điểm cực cận cách mắt 10cm đến 20cm.
- Mắt cận thị có độ tụ lớn hơn mắt bình thường không có tật, điểm cực viễn của
mắt cận thị ở tương đối gần mắt. Thường sửa tật cận thị bằng cách đeo kính
phân kỳ.
- Mắt viễn thị có độ tụ nhỏ hơn mắt bình thường; điểm cực cận của mắt viễn thị
ở tương đối xa mắt. Sửa tật viễn thị bằng cách đeo kính hội tụ.
- Góc trông α của một vật (hoặc ảnh) AB đặt thẳng góc với trục nhìn của mắt O
là α = góc AOB với tgα = .
- Năng suất phân li của mắt bình thường: α ≈ 1’ = rad
7. Các dụng cụ quang học: Kính lúp, hiển vi, thiên văn.
-Độ bội giác G của một số dụng cụ quang học: G = ≈

Trong đó: α là góc trông ảnh của một vật qua dụng cụ, α0 là góc trông vật đặt ở
điểm cực cận của mắt.
8. Tính chất sóng của ánh sáng
- Ánh sáng là sóng điện từ. Ánh sáng đơn sắc nhìn thấy có một bước sóng λ xác
định và có một màu nhất định. Một chùm ánh sáng trắng song song, gồm các
ánh sáng đơn sắc có bước sóng từ 0,4 μm (tia tím) đến 0,76 μm (tia đỏ), đến
lăng kính khi ló ra khỏi lăng kính, bị phân tích thành dãy nhiều màu, từ đỏ đến
tím, gọi là quang phổ của ánh sáng trắng. Tia đỏ bị lệch (về phía dáy lăng kính)
ít nhất, tia tím bị lệch nhiều nhất. Nguyên nhân của sự tán sắc đó là do chiếc suất
của thuỷ tinh (môi trường) phụ thuộc vào bước sóng (tần số) ánh sáng.
- Hai sóng ánh sáng kết hợp, do hai nguồn sáng kết hợp phát ra, giao thoa với
nhau khi gặp nhau, tạo nên vân sáng (cực đại giao thoa) và vân tối (cực tiểu giao
thoa) trên màn quan sát.
9. Lượng tử ánh sáng
- Chùm ánh sáng đơn sắc có bước sóng λ được coi như dòng các phôtôn (lượng
tử ánh sáng)
Mỗi phôtôn mang năng lượng xác định ε = h f = h (f là tần số ánh sáng, h là
hằng số Plăng; h = 6,625.10-34 J.s; c = 3. 108m/s). Cường độ ánh sáng tỉ lệ với số
phôtôn.
- Hiện tượng quang điện là hiện tượng các electrôn bị bật ra (gọi là electrôn
quang điện) khi chiếu vào mặt kim loại chùm ánh sáng có bước sóng λ thích
hợp.
II. Thực trạng của vấn đề
Môn Vật lý là một môn học khó, có không ít học sinh không muốn học
Vật lý thậm chí sợ môn học này. Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến
đối tượng giáo dục. Hiện tượng dùng cùng một bài giảng, một cách dạy cho
nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không ít. Với phương pháp giảng dạy này

5



nhiều khi giáo viên trở thành người truyền thụ tri thức một chiều, biến học sinh
thành “cái bình đựng kiến thức” vô thức, xa rời thực tế.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy sau khi học xong một nội dung kiến
thức nào đó rất nhiều học sinh chưa hiểu rõ được bản chất của các hiện tượng
Vật lý, không có khả năng giải thích các hiện tượng Vật lý thường gặp trong đời
sống trong đó có các hiện tượng quang hình học và quang lý học.Những em ham
hiểu biết cũng có tìm hiẻu và hiểu được một số hiện tượng nhưng chưa đầy đủ
và có hệ thống.
III. Giải pháp đã sử dụng
Trong quá trình dạy đến phần kiến thức liên quan nào thì giáo viên nêu
vấn đề để học sinh tìm hiểu.Có thể trả lời ngay tại lớp hoặc giao nhiệm vụ cho
các em về nhà tự tìm hiểu qua tài liệu, mạng internet..
Những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra xung quanh ta rất đa dạng, phong
phú, muôn hình muôn vẻ. Tuy nhiên, tất cả mọi hiện tượng đếu có nguyên nhân
của nó. Dùng tư tưởng khoa học, phương pháp khoa học và tri thức khoa học
chính xác sẽ giúp ta trả lời chính xác bản chất của các hiện tượng này.
Những hiện tượng Quang học cũng vậy, chúng đều có nguyên nhân cả. Để
trả lời đúng, chính xác và nhanh chóng hiện tượng xảy ra, ngoài việc phải nắm
vững kiến thức phần Quang học, ta còn phải xác định ‘‘mấu chốt’’ của vấn đề,
xem những hiện tượng xảy ra đó thuộc mảng kiến thức nào của phần Quang học:
Quang hình học, giao thoa, nhiễu xạ hay hiện tượng phát quang v.v... để giới hạn
kiến thức và giải thích chính xác bản chất hiện tượng.
Nội dung các hiện tượng quang học mà học sinh sau khi học và tìm
hiểu đã giải thích được:
1. Tại sao cầu vồng có bảy màu cầu vồng?
Bí mật của bảy màu cầu vồng đã được Niutơn, nhà bác học vĩ đại khám
phá bằng thí nghiệm sau đây:
Ông dùng một cái lăng kính, tức là một khối thuỷ tinh trong suốt, đã mài
thành hình một lăng trụ tam giác. Trong buồng đóng kín cửa, ông cho một chùm

ánh sáng trắng Mặt Trời qua một lỗ tròn nhỏ F (đục ở cánh cửa) rọi xiên vào một
mặt của tấm kính và ló ra khỏi mặt thứ hai (hình vẽ).

Đặt
tờ
trắng
hứng
chùm tia ló, ông thấy một vệt sáng dài, có các màu sắc sắp xếp theo thứ

một
giấy
T để
tự sau
6


đây: Đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím đúng như bảy màu của cầu vòng.
Niutơn gọi dãy sáng có màu sắc ấy là quang phổ Mặt Trời, và đã giải thích đúng
đắn sự xuất hiện của nó.
Theo ông, ánh sáng Mặt Trời, ánh sáng đèn điện là ánh sáng trắng, ánh
sáng trắng là tập hợp của vô số ánh sáng đơn sắc khác nhau.
Mọi chùm ánh sáng đơn sắc đi từ không khí vào thuỷ tinh đều bị khúc xạ
và lệch về gần pháp tuyến. Nhưng các tia đơn sắc có màu khác nhau bị khúc xạ
khác nhau: tia đỏ lệch ít nhất, rồi đến tia da cam, tia vàng v.v... Cho một chùm
ánh sáng trắng qua lăng kính, thì khi qua mặt thứ nhất của lăng kính, các chùm
tia màu sắc khác nhau bị khúc xạ khác nhau, nên không trùng nhau nữa, mà tách
rời nhau; lúc tới mặt thứ hai, các tia đơn sắc đi từ thuỷ tinh ra không khí lại rời
xa nhau thêm. Thành thử khi rọi vào tờ giấy, mỗi chùm tia đơn sắc tạo nên một
vệt sáng có màu nhất định, và các vệt sáng này sắp xếp liền nhau tạo thành
quang phổ.

Hiện tượng này gọi là sự tán sắc ánh sáng, bao giờ cũng xuất hiện khi ánh
sáng đi từ một môi trường sang môi trường khác, chẳng hạn từ không khí sang
thuỷ tinh, hoặc từ không khí vào nước. Lăng kính nhờ có hai mặt khúc xạ nên
làm cho các tia đơn sắc rời xa nhau nhiều thêm, khiến ta dễ thấy hơn, chứ thật
ra, ngay khi ở trong thuỷ tinh, ánh sáng đã bị phân tích thành quang phổ rồi.
Bảy màu của cầu vồng chính là do ánh sáng Mặt Trời bị tán sắc khi truyền
trong các hạt mưa nhỏ sinh ra. Vì vậy cầu vồng thường xuất hiện trước hoặc sau
các trận mưa rào nhẹ mùa hè, lúc mà trong không khí có một số lượng hạt mưa
đủ để khúc xạ được nhiều ánh sáng, nhưng không quá nhiều để vẫn còn ánh
nắng.
Ta có thể dùng bơm nước có thể tạo được cầu vồng nhân tạo một cách dễ
dàng. Buổi sáng, hoặc buổi chiều nắng, đứng quay lưng về Mặt Trời, dùng cái
bơm phun những hạt nước nhỏ lên trời, và hướng mắt về phía các hạt nước ấy, ta
sẽ thấy một cầu vồng thực sự.
2. Cầu vồng là ảnh thật hay ảnh ảo? Có chụp được ảnh cầu vồng không
Ta biết rằng, khi các tia sáng từ giọt nước rọi vào mắt, thì mắt trông thấy
cầu vồng tựa như các tia sáng ấy được phát đi từ các điểm trên nền trời. Do đó ta
thấy hình như cầu vồng được vẽ trên nền trời. Vậy các tia sáng tạo nên hình ảnh
cầu vồng không hội tụ vào một mặt phẳng nào cả, nghĩa là ta không thể hứng
ảnh của cầu vồng lên một màn, và cầu vồng là ảnh ảo. Ta trông thấy cầu vồng,
nhờ có thuỷ tinh thể của mắt hội tụ các tia sáng nói trên lên võng mạc. Vì vậy,
người ta mới nói rằng hai người không trông thấy cùng một cầu vồng. Vật kính
máy ảnh cũng có tác dụng hội tụ ánh sáng lên phim ảnh, như thuỷ tinh thể của
mắt, nên cũng thu được ảnh của cầu vồng lên phim, tức là, dùng máy ảnh, ta vẫn
chụp được ảnh của cầu vồng
3.Vì sao Mặt Trời, Mặt Trăng lúc mọc và lặn có màu đỏ?

7



Ánh sáng từ Mặt Trời, Mặt Trăng tới chúng ta phải đi qua khí quyển Trái
Đất. Gặp các phân tử không khí, và nhất là các hạt bụi lơ lửng trong không khí,
ánh sáng đó bị tán xạ, và phần ánh sáng tán xạ đó không tới mắt chúng ta.
Ta đã biết, các thành phần màu (đỏ,da cam, vàng, lục, lam,chàm, tím)
trong ánh sáng trắng bị tán xạ không đều: ánh sáng đỏ ít nhất, ánh sáng lam và
tím bị tán xạ nhiều hơn cả. Do đó, sau khi qua khí quyển, tới mắt ta, thì ánh sáng
lam và tím bị mất do tán xạ nhiều hơn ánh sáng đỏ, vàng và trong ánh sáng nhận
được, các thành phần đỏ, vàng thành trội hơn, so với ánh sáng tới.
Lúc giữa trưa (hay nửa đêm) Mặt Trời (hay Mặt Trăng)-chiếu sáng vuông
góc với mặt đất, các tia sáng đi qua một lớp không khí tương đối mỏng, nên
phần ánh sáng mất do tán xạ là nhỏ, và ánh sáng vẫn có đủ các thành phần của
ánh sáng trắng: ta thấy Mặt Trời, Mặt Trăng vẫn có màu trắng. Nhưng lúc Mặt
Trời mới mọc hoặc sắp lặn các tia sáng đi là mặt đất nên phải qua một lớp không
khí dày gấp hàng chục lần, lớp không khí ở gần mặt đất này lại đầy bụi nên tán
xạ ánh sáng rất mạnh. Trong ánh sáng tới mắt ta các thành phần lam, tím bị yếu
đi rất nhiều, các thành phần đỏ và vàng trở thành trội, và làm cho ánh sáng ngả
sang màu vàng, màu đỏ. Vì vậy ta thấy, khi Mặt trời ở sát chân trời, thì có màu
đỏ, lên cao một chút thì chuyển sang màu hồng, rồi màu vàng, vì lớp không khí
mà ánh sáng đi qua càng mỏng dần và cuối cùng có màu trắng.
4.Tại sao xảy ra hiện tượng ảo ảnh?
Chắc là mọi người đều biết nguyên nhân vật lý của hiện tượng ảo ảnh
thông thường. Lớp không khí nông ở kề sát mặt cát bị hun nóng trên sa mạc có
những tính chất của gương phẳng, đó là do lớp không khí này có mật độ nhỏ hơn
lớp không khí nằm trên. Tia sáng từ một vật ở xa rọi nghiêng, khi tới lớp không
khí này sẽ uống cong đường đi, rồi lại rời khỏi mặt đất và đạp vào mắt người
quan sát, tựa hồ như được phản xạ từ gương dưới một góc tới rất lớn. Và đối với
người quan sát, dường như trước mặt mình có một mặt nước phẳng lặng trải ra
trong sa mạc (hình vẽ).

Ở đây đã xảy xa hiện tượng phản xạ toàn phần.

Các hiện tượng tương tự đặt biệt xảy ra vào mùa hè tên các đường nhựa.
Các đường này có màu thẫm, nên bị hun nóng dưới ánh nắng Mặt Trời. Mặt
đường mờ đục từ xa trông tựa như một mặt nước đánh bóng và phản chiếu các
vật ở xa

8


5. Mặt Trăng, Mặt Trời lúc mới mọc, hoặc sắp lặn có đúng là to hơn lúc ở
đỉnh đầu không?
Khi nói Mặt Trăng, Mặt Trời to, nhỏ ta phải hiểu là góc trông của các
thiên thể ấy to, hay nhỏ. Và hiểu như thế, thì góc trông Mặt Trời, từ sáng đến
trưa, và từ trưa đến chiều không thay đổi hay nói cho đúng hơn chỉ thay đổi một
trị số cực nhỏ, không đáng kể so với góc ấy. Và như thế có nghĩa là Mặt Trăng,
Mặt Trời lúc mới mọc cũng chỉ to như lúc ở trên đỉnh đầu thôi. Và thực sự thì
chụp ảnh hoặc đo góc trông hai thiên thể ấy, người ta thấy đúng là chúng không
thay đổi.
Thế thì tại sao khi Trăng mới mọc ta thấy nó “to như cái mâm” để khi lên
cao chỉ còn “ nhỏ bằng cái đĩa”? Đó là vì mắt bị lừa chỉ là một ảo giác mà thôi.
Khi trăng lên cao giữa Mặt Trăng và mắt không có vật gì khác để so, nên ta thấy
Mặt Trăng có vẻ như gần. Nhìn một vật ở gần, dưới một góc nhỏ ta cho nó là bé.
Khi trăng ở gần chân trời, giữa Trăng và mắt có xen nhiều vật: nhà, cây cối,
nước, sông
..., ta có cảm giác là mặt trăng ở rất xa. Cho là trăng ở xa mà góc trông lại không
giảm, nên ta tưởng như nó to ra. Để rứt khỏi ảo giác này, ta nên làm thí nghiệm
nhỏ sau đây: Lấy một tấm kính hơ lên ngọn đèn dầu hoả cho muội bám vào
thành một lớp đều. Và nhìn Mặt Trời lúc mọc qua tấm kính đó. Qua tấm kính
đen bạn không trông thấy vật gì khác ngoài Mặt Trời, và sẻ thấy nó cũng nhỏ
như lúc ở đỉnh đầu.
6.Tại sao các vì sao lấp lánh?

Nếu qua sát kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng, những ngôi sao ở thấp gần chân
trời lấp lánh mạnh hơn, còn những ngôi sao ở cao, giữa vòm trời, thì không lấp
lánh.
Các tia sáng từ sao đến mắt ta cũng qua một lớp khí quyển dày. Ban ngày
mặt đất bị Mặt Trời nung nóng nên trong khí quyển luôn luôn có dòng khí đối
lưu nhỏ, chiếc suất khác nhau. Tia sáng từ vì sao tới mắt ta, khi đi qua những
dòng khí ấy, bị khúc xạ thành hơi cong, lúc cong về phía này, lúc cong về phía
khác. Do đó một mặt vị trí của ngôi sao hình như bị thay đổi liên tục, mặt khác
số tia sáng rọi vào mắt cũng không đều, lúc nhiều, lúc ít khiến ta thấy sao có lúc
sáng hơn, có lúc tối hơn, tức là thấy nó lấp lánh.
Sao càng ở gần chân trời, lớp không khí mà tia sáng phải đi qua càng dày,
sao càng lấp lánh mạnh. Khi sao ở giữa đỉnh đầu, lớp không khí mà ánh sáng đi
qua mỏng hơn, tia sáng lại đi cùng phương với dòng khí, nên tia sáng không bị
cong và hầu như không lấp lánh.
7. Chậu thau đựng đầy nước, vì sao khi nhìn nghiêng thấy nước trở thành
nông hơn?
Khi chậu thau đựng đầy nước, nhìn nghiêng từ bên cạnh, độ sâu từ mặt
nước tới đáy chậu có vẻ như trở thành nông hơn. Hiện tượng kì lạ này, rốt cuộc
đã xảy ra như thế nào?
Trong cùng một loại môi trường, ánh sáng bao giờ cũng truyền theo
đường thẳng-đường ngắn nhất. Song khi từ môi trường này sang môi trường
9


khác do tốc độ truyền của ánh sáng trong hai loại môi trường đó khác nhau, tại
mặt phân cách của hai môi trường, ánh sáng sẽ bị gẫy khúc, hiện tượng này của
ánh sáng gọi là khúc xạ ánh sáng. Chậu nước của bạn trông thấy biến thành
nông đi chính là do khúc xạ của ánh sáng gây nên.
Tương tự như ví dụ sau: dưới khe suối có con cá nhỏ, tia sáng từ thân cá
phản xạ ra, đến mặt phân cách giữa nước và không khí liền đổi hướng nghiêng

với mặt nước một góc. Cái đập vào mắt chúng ta chính là tia sáng đã gấp khúc
đổi hướng. Song mắt ta không cảm nhận được, vẫn cứ tưởng rằng tia sáng đó
theo đường thẳng chiếu tới, và ngộ nhận ảnh ảo do tia sáng đã bị đổi hướng đó
tạo ra con cá thật. Như vậy vị trí của cá trong nước nhìn có vẻ nông hơn. Lí lẽ
khiến cho chậu nước trở thành nông hơn cũng như thế đấy.
8. Bảng đo thị lực được cấu tạo như thế nào?
Thị lực là con số đánh giá khả năng phân ly của mắt. Võng mạc của mắt
được cấu tạo bởi hai loại tế bào: tế bào nón và tế bào que. Giữa võng mạc có
một vòng tròn đường kính chừng 1mm gọi là điểm vàng, tâm hơi trũng xuống.
Trong điểm vàng chỉ có toàn tế bào hình nón, nên điểm vàng là điểm nhạy sáng
nhất của võng mạc. Mỗi tế bào nón được nối với đầu một dây thần kinh thị giác.
Khi nhìn một vật bao giờ ta cũng hướng trục nhìn của mắt vào vật, để ảnh của
vật vào đúng điểm vàng. Nếu ảnh của hai điểm khác nhau A và B rơi vào hai tế
bào nón khác nhau trên điểm vàng, thì hai dây thần kinh ghi được hai cảm giác
khác nhau, và mắt nhận biết được rằng đấy là hai điểm khác nhau. Nhưng nếu vì
vật ở xa, hoặc vì A và B quá gần nhau đến mức ảnh của hai điểm rơi vào cùng
một tế bào nhạy sáng của võng mạc thì mắt chỉ ghi được một cảm giác độc nhất,
tức là mắt sẽ thấy hai điểm đó trùng nhau.
Vậy, muốn phân biệt hai điểm A và B thì góc trông đoạn AB phải lớn hơn
hay ít nhất là bằng một trị số giới hạn α, gọi là năng suất phân ly của mắt. Đối
với người bình thường trong phòng sáng vừa phải, α có trị số chừng 1 phút, tức
là chừng 3/10000rad. Mắt có α đúng bằng 1 phút, thì có thị lực 10, thị lực 9 ứng
với α = 2’, thị lực 8 ứng với α = 3’v.v..
Bảng đo thị lực gồm hơn một chục hàng chữ. Chữ ở hàng số 10 thì nét
rộng 2mm, để khi đứng bảng 5m ta nhìn các chữ số của hàng ấy dưới góc 1’.
Chữ hàng số 9 thì lớn gấp đôi, ở hàng số 8 thì lớn gấp 3 ... hàng số 10. Hàng chữ
trên cùng, số 1, có nét rộng 22m, hàng số 11, 12 nhỏ hơn hàng số 10.
Muốn đo thị lực phải đứng cách bảng 5m và bảng phải có độ rọi tiêu
chuẩn 50lux, và thử đọc chữ ở các hàng, bắt đầu từ hàng số 1, bằng từng mắt
một. Nếu đọc được đến hàng số 9, nhưng không đọc được hàng số 10, thì ghi thị

lực của mắt là 9. Để phép đo được đúng, ngoài việc đảm bảo cho bảng có độ rọi
chuẩn, nên đứng một lát cho quen mắt rồi thử và thử đi thử lại một vài lần.
9. Nhìn bằng hai mắt có lợi gì hơn nhìn bằng một mắt?
Tác dụng của sự nhìn bằng hai mắt, là cho ta cảm giác về độ sâu, về hình nổi.
Hai mắt cách nhau một khoảng 5-6cm. Khi nhìn một vật bằng cả hai mắt, hai
ảnh phối cảnh của vật trên võng mạc của hai mắt hơi khác nhau một chút. Khi
10


thần kinh thị giác của hai mắt “chập” hai cảm giác thu được với mỗi mắt, thành
cảm giác chung về hình ảnh của vật, thì hai cảm giác không “chập” hoàn toàn,
và do đó cho ta cảm giác về độ sâu về hình nổi.
10. Tại sao trong giao thông, người ta dùng đèn đỏ để báo hiệu nguy hiểm,
mà không dùng đèn màu khác?
Có hai lý do. Lý do thứ nhất, lý do khách quan, là trong bảy màu quang phổ,
màu đỏ ứng với bước sóng lớn nhất, nên ánh sáng đỏ truyền trong không khí
được xa hơn. Khi một chùm ánh sáng truyền trong không khí, nhất là không khí
có nhiều bụi hoặc hạt nước nhỏ (tức là sương mù), thì một phần năng lượng ánh
sáng bị các phân tử không khí và các hạt đó tán xạ ra mọi phía, nên năng lượng
chùm sáng càng giảm, khi truyền đi càng xa. Phần ánh sáng mất do tán xạ tăng
rất nhanh khi bước sóng giảm, nên ánh sáng có bước sóng dài bị mất mát ít hơn
và truyền được xa hơn ánh sáng các màu khác.
Lý do thứ hai, lý do chủ quan là như sau: Khi đứng rất xa một đèn màu, ta
trông thấy đèn nhưng không nhận ra màu của nó. Phải lại gần thêm, mới phân
biệt màu của ánh sáng đèn. Nghĩa là đối với các màu lục, lam, vàng, tím ngưỡng
sáng (là lượng ánh sáng nhỏ nhất mà mắt phát hiện được) không trùng với
ngưỡng màu (lượng ánh sáng nhỏ nhất để nhận ra màu ánh sáng). Chỉ riêng với
màu đỏ, là hai ngưỡng đó trùng nhau: ban đêm nếu đặt một chiếc đèn đỏ trên
đường, thì từ xa đi lại, lúc bắt đầu trông thấy đèn ta cũng đồng thời nhận ra màu
đỏ của nó. Như vậy dùng đèn đỏ để báo hiệu nguy hiểm thì không sợ nhầm lẫn

và lại có thể nhận thấy được từ xa.
11. Vì sao trần nhà trong phòng sơn màu trắng, còn bốn bức tường tốt nhất
không sơn màu trắng?
Vách tường trong phòng quét vôi thành màu gì hoặc hoa văn ra sao chẳng
những vì mỹ quan mà còn phải cân nhắc đến vấn đề ánh sáng nữa.
Vật thể màu trắng phản quang rất mạnh. Sơn trần nhà thành màu trắng,
ban ngày nó sẽ phản quang ánh Mặt Trời xuống dưới, còn ban đêm có thể phản
xạ ánh đèn xuống, làm cho gian buồng thêm sáng sủa, mà không ảnh hưởng gì
tới mắt người cả, vì người chẳng mấy khi ngửa cổ nhìn lâu trên trần nhà. Thế thì
tại sao bốn mặt vách tường tốt nhất không sơn thành màu trắng nhỉ? Đó là vì
bốn bức tường nằm trong trường nhìn của chúng ta.
Bất cứ bạn ngồi hay đứng, nhìn trái, nhìn phải hoặc nhìn trước nhìn ra
sau, mắt đều gặp phải bức tường. Nếu bốn bức tường cũng lại sơn thành màu
trắng, thế thì ánh Mặt Trời hoặc ánh đèn chiếu lên vách tường trắng sẽ sinh ra
phản quang rất mạnh, và trực tiếp rọi vào mắt người, làm cho mắt cảm thấy rất
khó chịu. Điều đó không có lợi đối với mắt. Vì vậy, vách tường xung quanh
phòng tốt nhất là sơn thành màu xanh nhạt, màu vàng lúa hoặc màu lam nhạt.
Ánh sáng phản xạ của chúng tương đối dịu, sẽ không làm cho mắt bị kích thích.
12.Vì sao ban ngày nhìn ngọn đèn điện ngoài phố ta không thấy lóa mắt
như về ban đêm, mặc dù cường độ sáng của đèn không thay đổi?

11


Hiện tượng lóa mắt thường gặp, khi điều kiện chiếu sáng thường thay đổi
đột ngột, khiến mắt không kịp thích nghi. Chẳng hạn, trong rạp chiếu bóng, khi
hết phim, nếu đèn điện nhất loạt bật sáng, thì mắt bị lóa; mùa hè đang đi ngoài
đường nắng, vén mành mành bước vào nhà, ta cũng bị lóa mắt, và phải đứng
định thần vài phútmới trông rõ mọi vật trong buồng.
Nguyên nhân sự lóa mắt, là do các tế bào nhạy sáng của mắt thay đổi độ

nhạy chậm hơn điều kiện chiếu sáng. Mắt được cấu tạo để nhìn trong những
điều kiện chiếu sáng rất khác nhau, từ những chỗ rất sáng, như đường phố lúc
trưa hè, đến những chỗ tối như “đêm ba mươi”: võng mạc của mắt có hai loại tế
bào; tế bào nón hoạt động khi đủ ánh sáng, (ban ngày) tế bào que chỉ hoạt động
khi thiếu ánh sáng (chiều, tối).
Cả hai loại tế bào này lại có độ nhạy tăng dần, khi lượng ánh sáng rọi vào
mắt giảm. Trước thuỷ tinh thể của mắt, lại còn có con ngươi, tự động mở rộng
khi thiếu ánh sáng, và tự động thu hẹp khi ánh sáng bên ngoài quá mạnh. Nhờ
phối hợp khéo léo ba quá trình trên, mắt có thể hoạt động ở chỗ tối cũng tốt gần
như ở chỗ sáng.Nhưng, nếu con ngươi của mắt mở rộng hay thu hẹp một cách tự
động và nhanh chóng, thì các tế bào nhạy sáng của mắt chỉ thay đổi từ từ. Khi ta
đi ngoài đường sáng, con ngươi khép nhỏ hết sức, và tế bào nón hoạt động với
độ nhạy thấp, còn tế bào que không hoạt động. Nếu ta đột ngột bước vào căn
nhà tối, thì con ngươi lập tức mở ra rộng, để lượng ánh sáng rọi vào mắt được
nhiều hơn, nhưng tế bào nhạy sáng của mắt chưa kịp tăng độ nhạy. Do đó, ta
chưa nhìn rõ các vật trong nhà. Phải một, hai phút sau, độ nhạy của các tế bào
nón mới tăng đến mức đủ giúp cho mắt nhìn rõ mọi vật. Trong một, hai phút chờ
đợi ấy, mắt ta bị loá. Ngược lại cũng vậy, từ trong hnà bước ra ngoài sân nắng,
độ nhạy của các tế bào nhạy sáng chưa kịp giảm, ta cũng bị lóa.
Ban ngày mọi vật đều sáng, sáng gần ngang với bóng đèn điện đang thắp,
mắt hoạt động với độ nhạy thấp, nên khi nhìn bóng đèn cũng như nhìn mọi vật
khác, không cần thay đổi độ nhạy, mắt không bị lóa. Buổi tối, mọi vật đều tối,
trừ các bóng đèn trên cao. Nhìn mọi vật mắt phải tăng độ nhạy lên nhiều lần.
Nếu đang lúc ấy, mắt chợt nhìn vào bóng đèn, sáng như các vật ban ngày, mắt sẽ
bị lóa, vì độ nhạy của mắt chưa giảm kịp.
13. Vì sao công nhân hàn điện phải che mặt bằng một cái mặt nạ có tấm
kính tím?
Ánh lửa hàn phát ra rất nhiều tia tử ngoại có bước sóng ngắn hơn 3800A 0.
Trong quang phổ vị trí của những tia này ngoài vùng tím, vì thế gọi là tia tử
ngoại (tử là tím). Tia náy có tác dụng hoá học rất mạnh, có thể phân huỷ tế bào.

Phải làm thế nào để ngăn cản những tia tử ngoại tác dụng tới mắt công nhân
trong quá trình làm việc. Tấm kính tím có công dụng như vậy. Mặt khác nó còn
có tác dụng làm giảm độ chói của nguồn sáng để công nhân có thể nhìn rõ vật
phải hàn, không bị lóa mắt.
14. Tắm nắng để làm gì?

12


Tia tử ngoại có tác dụng tổng hợp vitamin D cần thiết cho cấu tạo xương
và có tác dụng diệt một số nấm. Mặc dầu khí quyển hấp thụ rất nhiều tia tử
ngoại, nhưng trong ánh nắng vẫn còn nhiều tia này. Do đó, “tắm nắng” cũng là
một biện pháp chống còi xương
Trong bệnh viện người ta cho trẻ em còi xương hoặc người mắc bệnh nắm
ngoài da điều trị bằng phương pháp "tắm điện” bằng cách cho bệnh nhân phơi
mình dưới ánh đèn giàu tia tử ngoại.
15.Trong bệnh viện người ta dùng phương pháp “chiếu điện”. ‘’Chiếu điện”
là thế nào và nhằm mục đích gì?
Ngoài những tia tử ngoại có bước sóng ngắn, còn có những tia không nhìn
thấy có bước sóng ngắn hơn. Đó là những tia Rơnghen (tia X).
Người ta tạo ra tia Rơnghen bằng ống Rơnghen. Trong ống là chân không.
Khi nối âm cực K và dương cực A với nguồn điện có hiệu điện thế cao, từ âm
cực phát ra một chùm điện tử chuyển động nhanh. Đập vào đối âm cực AK làm
bằng kim loại có nguyên tử lượng lớn (bạch kim hoặc vonfram) chùm điện tử bị
hãm lại đột ngột; và AK phát ra tia Rơnghen.
Tia Rơnghen có khả năng xuyên qua màn chắn sáng thông thường, làm
huỳnh quang nhiều chất, có tác dụng làm đen phim ảnh v.v...
Đối với cơ thể sinh vật tia Rơnghen xuyên qua thịt dễ hơn xương, xuyên
qua những chỗ thương tổn cũng khác chỗ lành lặn. Đặt phía sau bộ phận bị
chiếu tia Rơnghen một màn chắn có phủ chất hùynh quang như kẽm sunfua, ta

sẽ phát hiện được những chỗ tổn thương của bộ phận này. Công việc như vậy
gọi là “chiếu điện”. Nếu thay màn chắn huỳnh quang bằng một phim ảnh, ta sẽ
chụp được vết thương trên cơ thể đó (chụp điện). Chiếu điện, chụp điện nhằm
mục đích chuẩn đoán bệnh, xác định vị trí những vật lạ chui vào cơ thể (mảnh
bom, đạn v.v...), hoặc vị trí tổn thương vì những nguyên nhân khác. Chiếu điện
còn có thể phát hiện những chỗ rạn nứt trong các chi tiết máy.
Nhìn chung, tia Rơnghen sử dụng rất nhiều trong y học và công nghiệp.
16. Vì sao nhìn bong bóng xà phòng hay vết dầu loang trên mặt nước ta
thấy có nhiều màu sặc sỡ?
Những vân màu sặc sỡ trên bong bóng xà phòng hoặc trên vết dầu loang
trên mặt nước là kết quả của sự giao thoa ánh sáng.
Màng bong bóng xà phòng là một lớp nước mỏng-cỡ phần nghìn milimettrong suốt, vết dầu loang cũng là một màng như vậy. Hai mặt của màng cùng
phản xạ ánh sáng.
Ta xét một điểm I trên màng mỏng M mà độ dày được vẽ to gấp nghìn lần
độ dày thật. Tia sáng SIR1 phát đi từ một điểm S của nguồn, phản xạ ở mặt trên
của màng và rọi vào mắt. Trong số rất nhiều tia sáng phát đi từ S, có một tia
SKR2 phản xạ ở mặt dưới của màng và cũng rọi vào mắt. Vì màng rất mỏng, nên
đối với mắt, hai tia IR1 và KR2 như là được phát đi từ cùng một điểm I. Khi hai
tia này được thuỷ tinh thể của mắt hội tụ lên võng mạc, chúng gặp nhau và giao
thoa với nhau. Hai tia sáng đi từ điểm I, mà gặp nhau trên võng mạc của mắt, thì
13


mắt nhìn rõ điểm I: ta nói là mắt điều tiết để nhìn vào mặt bản. Hai tia sáng giao
thoa với nhau, có thể hoặc tăng cường lẫn nhau, hoặc triệt tiêu nhau, tuỳ theo độ
dày của màng và tuỳ theo bước sóng ánh sáng. Chùm ánh sáng rọi vào màng là
ánh sáng trắng, có đủ các màu, ứng với nhiều bước sóng khác nhau, nên cùng
một lúc, ở cùng một điểm I, sóng ánh sáng màu này bị triệt tiêu, sóng ánh sáng
màu khác lại được tăng cường, và ánh sáng phản xạ thành có màu sắc, và màu
sắc đó thay đổi theo chổ dày, chỗ mỏng trên màng.


17. Ma trơi là gì ?
Những đêm tối trời, khô ráo, trên các bãi tha ma thường xuất hiện những khối
sáng xanh chập chờn trong gió.
Hiện tượng này được những người mê tín gọi là “ma trơi”. Chúng ta biết,
một số phản ứng hoá học, nhất là những phản ứng ôxy hoá thường kèm theo sự
phát quang. Chất hoá phát quang “cổ điển” nhất là chất lân tinh (phốt pho) mà
người ta đã phát hiện từ 1669.
Ở các bãi tha ma, phốt pho, từ các hài cốt bốc ra thành hơi qua kẽ đất bay
lên, phản ứng với ôxy trong không khí tạo thành những khối sáng xanh chập
chờn trong gió. Đó chính là bản chất của “ma trơi”.
18. Người ta làm thế nào để kim và chữ số ở mặt đồng hồ có thể phát sáng
trong đêm tối?
Một số tinh thể như tinh thể kẽm sunfua, kẽm silicat hoặc kẽm catmi có
tính chất phát quang rất mạnh khi bị kích thích bằng ánh sáng có bước sóng
ngắn như tia tử ngoại, tia X (tia rơnghen) v.v... Đó là hiện tượng quang-phát
quang
Áp dụng hiện tượng trên, người ta phủ lên mặt kim và chữ số của đồng
hồ một lớp kẽm sunfua hoặc kẽm catmi trộn lẫn một lượng rất nhỏ chất phóng
xạ như muối rađi hoặc muối mêsôtôri. Nhờ tia phóng xạ (trong đó có tia γ bước
sóng rất ngắn) kẽm sunfua bị kích thích và phát ánh sáng lục rất rõ trong đêm
tối. Sau một thời gian chất phóng xạ rã hết, tia phóng xạ tắt, kim và chữ số đồng
hồ cũng hết sáng. Lượng chất phóng xạ pha thêm phải rất nhỏ, dưới mức gây
nguy hiểm.
14


19. Đèn ống phát quang như thế nào ?
Đèn ống thường dùng là đèn chứa hơi thuỷ ngân. Khi xảy ra hiện tượng
phóng điện, hơi thuỷ ngân phát sáng và cho một quang phổ giàu tia tử ngoại.

Những tia tử ngoại này sẽ bị thuỷ tinh hấp thụ gần hết, vả chăng chúng cũng
không có tác dụng trong sự chiếu sáng. Phải làm thế nào để biến đổi tia tử ngoại
này thành ánh sáng nhìn thấy. Người ta phủ kín mặt trong của ống bằng lớp chất
huỳnh quang. Khi bị tia tử ngoại tác dụng chất này sẽ phát quang cho ánh sáng
nhìn thấy. Do đó ta thấy ánh sáng đèn ống tỏa ra từ khắp bề mặt của ống.
Tuỳ theo chất huỳnh quang ta có thể thu được ánh sáng màu sắc khác nhau.
Kẽm silicat phát quang màu lục
Cađimi-borat phát quang màu hồng
Cađimi-silicat phát quang màu đỏ
Magiê-tungxtat phát quang lam nhạt
Canxi-tungxtat phát quang lam
Màu sắc ánh sáng huỳnh quang còn có thể thay đổi nếu pha thêm một lượng nhỏ
chất kích hoạt. Chẳng hạn kẽm-silicat kích hoạt bằng mangan sẽ cho màu huỳnh
quang từ lục đến vàng nếu nồng độ mangan tăng dần.
Người ta có thể pha trộn những chất huỳnh quang trên (theo nguyên tắc
trộn màu ánh sáng) để được những đèn ống đủ loại màu sắc, kể cả màu trắng
ứng với ánh sáng ban ngày.
20. Vì sao các vật có màu sắc
Màu sắc của một vật không trong suốt là màu của ánh sáng mà vật phản xạ và
tán xạ. Màu của vật trong suốt là màu của ánh sáng mà vật cho truyền qua. Vì
vậy, màu sắc của một vật vừa phụ thuộc vật, vừa phụ thuộc nguồn sáng chiếu
sáng vật. Ở đây, chúng ta nói về màu sắc các vật được chiều bằng ánh sáng
trắng. Nếu phản xạ và tán xạ đồng đều và mạnh tất cả các màu trong quang phổ
của ánh sáng trắng, thì vật có màu trắng.
Nếu hấp thụ hầu hết và đồng đều các màu của ánh sáng trắng, thì vật có
màu đen.
Vật trong suốt cho tất cả ánh sáng truyền qua là vật không màu. Thí dụ:
nước, không khí, cồn. Vật phản xạ và tán xạ màu đỏ và hấp thụ hết tất cả các
màu khác sẽ có màu đỏ.
Cũng có vật phản xạ, tán xạ một số màu và cho truyền qua một số màu

khác. Khi nhìn vật đó qua ánh sáng phản xạ và tán xạ, thì nó có một màu nào đó;
nhưng nhìn trong ánh sáng truyền qua lại thấy nó có màu khác. Chẳng hạn một
lá vàng rất mỏng, có màu vàng khi nhìn trong ánh sáng phản xạ, nhưng soi lên
lại thấy nó có màu lục.
Màu sắc của vật trong suốt cũng phụ thuộc vào bề dày của nó. Ta thường
thấy nước dưới ao, hồ sâu có màu lục, nhưng để một cốc nước hồ riêng biệt thì
thấy nó trong suốt. Ánh sáng ban ngày truyền qua nước tới một độ sâu nào đó
mới phản xạ lại. Nước lại hấp thụ ánh sáng có bước sóng dài nhiều hơn ánh sáng

15


có bước sóng ngắn, truyền càng sâu xuống nước ánh sáng trắng càng mất nhiều
màu đỏ và vàng. Do đó, nhìn xuống hồ ta thấy nước có màu lục.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trong đề tài này tôi đã thực hiện áp dụng với các nhóm học sinh khác
nhau cụ thể là nhóm 1(lớp 11B6-năm học 2013-2014, 12C6- năm học 20142015) và nhóm 2( lớp 11B7- năm học 2013-2014, 12C7 năm học 2014-2015),
nhóm 1 áp dụng thường xuyên việc vận dụng kiến thức quang học để giải thích
các hiện tượng trong đời sống, còn nhóm 2 thì không áp dụng hoặc áp dụng
không thường xuyên. Kết quả được đo thông qua sự so sánh độ chênh lệch về
tiếp thu kiến thức, kỹ năng, thái độ sôi nổi của học sinh trong giờ học
- Đo kiến thức, kỹ năng:
Lớp
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
11B6
6,67%

40,00%
53,33%
0%
0%
11B7
0%
22,22%
64,45%
13,33%
0%
Sau khi học xong các phần quang học của chương trình THPT đa sô học
sinh đã nắm rõ các hiện tượng quang học, hiểu rõ bản chất vật lý của các hiện
tượng đó.Các em thực sự say mê khám phá và ngày càng yêu thích môn Vật Lý,
do đó kết quả học tập của các em cũng được nâng cao
- Đo thái độ:
Lớp
Không khí lớp học
11B6
Rất sôi nổi
11B7
Trầm, học sinh ít phát biểu
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Trong quá trình vận dụng đề tài tôi rút ra một số kinh nghiệm như sau: Để
có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất không phải là điều đạt được dễ dàng,
người giáo viên có lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp luôn phải trăn trở bồi
dưỡng thêm kiến thức của mình và tìm ra những phương pháp dạy phù hợp với
đối tượng học sinh, phù hợp với yêu cầu của đổi mới giáo dục. Trong khuôn khổ
nội dung đề tài tôi đã đề cập đến một số vấn đề thường gặp trong thực tế đời
sống, giúp các em học sinh hiểu đúng bản chất các hiện tượng xảy ra trong tự

nhiên và ứng dụng để giải thích các hiện tượng Quang học tương tự.
Với những kiến thức vốn có và tiếp thu được trong quá trình giảng dạy tôi
đã cố gắng trình bày tương đối hoàn chỉnh cơ sở lý thuyết đề tài. Qua kết quả
kiểm nghiệm tôi nhận thấy có thể áp dụng đề tài ở các lớp học sinh khác. Đề tài
còn có thể mở rộng đối với các hiện tượng quang học khác nói riêng và các hiện
tượng vật lý nói chung
Do còn thiếu kinh nghiệm và khả năng có hạn, nên chắc chắn đề tài không
tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý
16


thầy, cô giáo. Và hy vọng rằng, đề tài này sẽ là tài liệu giúp các em học sinh yêu
thích môn Vật lý nói chung và phần Quang học nói riêng.
II. Kiến nghị
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông đang là vấn
đề bức xúc. Để dạy Vật lý trong trường phổ thông có hiệu quả tôi đề nghị một số
vấn đề sau :
- Giáo viên phải kiên trì, đầu tư nhiều tâm, sức để tìm hiểu kiến thức, vận
dụng sáng tạo các phương pháp dạy Vật lý để bài giảng thu hút được học
sinh
- Ngành Giáo dục phải đầu tư trang thiết bị dạy và học tốt hơn để đáp ứng
được yêu cầu của môn học
- Ở các nhà trường nên thường xuyên tổ chức các hình thức tổ chức ngoại
khóa về các vấn đề liên quan đến Vật lý
- Nếu có điều kiện tôi mong sẽ phát triển sâu hơn nội dung đề tài và mở
rộng sang tất cả các hiện tượng vật lý phần khác chứ không riêng về phần
quang học, vừa đảm bảo nội dung SGK vừa tăng hứng thú học tập cho
học sinh và đạt được mục tiêu giáo dục gắn liền với thực tiễn

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG


Thanh Hóa, ngày15 tháng 4 năm2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Vật lý 11- NXBGD
2. Sách giáo khoa Vật lý 12- NXBGD
3. Vật lý thật lý thú, tập 1,2 . NXB THANH NIÊN. Tác giả: Vũ Bội Tuyền.
4. Bộ sách tri thức tuổi hoa niên. NXB VĂN HOÁ THÔNG TIN.
5. Thiên văn phổ thông- NXBGD 2001. Tác giả Phạm Viết Trinh
6. Hỏi đáp về những hiện tượng Vật lý, tập IV (phần quang học) - NXB Khoa
học và kỹ thuật. Tác giả : Ngô Quốc Quýnh, Nguyễn Đức Minh.
7. Vật lý vui, quyển 1,2. NXB-GD. Tác giả : IA.I. PÊ-REN-MAN.

18



×