Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Thực trạng, giải pháp và định hướng khai thác nguồn thu NSNN từ đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.37 KB, 24 trang )

Hà Nội ngày

tháng 03 năm 2017

Thực trạng, giải pháp và định hướng
khai thác nguồn thu NSNN từ đất đai, tài nguyên, tài sản
nhà nước giai đoạn 2016 - 2020

I. Quản lý, phát triển lĩnh vực đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước
giai đoạn 2006-2015
1. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về quản lý, phát
triển lĩnh vực đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước giai đoạn 2006-2015
Nghị quyết của Đại hội Đảng khoá XI, Kết luận số 22-KL/TW ngày 25
tháng 5 năm 2012 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XI đã xác định quan điểm về quản lý, phát triển đất đai, tài nguyên, tài sản nhà
nước như sau:
(1) Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho các
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong quá trình thực hiện các chính sách đất đai.
Không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình và cá
nhân.
(2) Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt; là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước; quyền sử dụng đất là hàng hoá
đặc biệt. Khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên đất. Kiểm
soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa, đất có rừng
sang sử dụng vào mục đích khác nhằm đảm bảo vững chắc an ninh lương thực
quốc gia, bảo vệ môi trường, sinh thái. Khuyến khích tích tụ ruộng đất, phát
triển trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp với điều kiện của từng
vùng.
4) Việc quản lý, phát triển đất đai, tài nguyên và tài sản nhà nước phải
bảo đảm hài hòa các lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư.


Xây dựng cơ chế và có những giải pháp để đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước
trở thành nguồn lực cho sự phát triển của đất nước. Sử dụng hiệu quả các công
cụ về giá, thuế trong quản lý đất đai nhằm khắc phục tình trạng lãng phí, tham
nhũng.


(5). Cần bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ giữa quy định của Luật
Đất đai, Luật Tài nguyên, Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước với các luật
khác có liên quan, giữ vững nguyên tắc pháp chế và tính nghiêm minh của
pháp luật về đất đai, hạn chế các quy định mang tính chất hợp thức hóa vi
phạm. Đảm bảo thống nhất quản lý nhà nước về đất đai từ Trung ương đến cơ
sở, tập trung đầu mối để nâng cao vai trò của đại diện chủ sở hữu trong việc
quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước. Tăng cường trách nhiệm
và nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đối với việc quản lý và sử
dụng đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước.
2. Thực trạng quản lý, phát triển lĩnh vực đất đai, tài nguyên, tài sản
nhà nước giai đoạn 2006-2015
2.1. Quản lý và phát triển nguồn lực tài chính từ đất đai.
Chính sách khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai gồm: (i) Thu tiền sử
dụng đất, tiền thuê đất; (ii) Thuế, phí, lệ phí liên quan đến sử dụng đất (thuế thu
nhập từ chuyển nhượng bất động sản, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, lệ phí
trước bạ…); (iii) Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; (iv) Xác định giá trị
quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá.
Trên cơ sở Luật đất đai năm 2003 và các luật, pháp luật về thuế có liên
quan, Chính phủ đã triển khai thực hiện công tác thu NSNN từ đất. Mặc dù kết
quả điều tiết chưa thật đầy đủ song số thu ngân sách nhà nước từ đất tăng trưởng
cao qua các năm tạo nguồn lực quan trọng để đầu tư phát triển hạ tầng, trong đó
thu từ tiền sử dụng đất chiếm tỷ trọng cao nhất và có mức tăng cao nhất. Nếu như
năm 2002 số thu từ các khoản từ đất khoảng 5.486 tỷ đồng, chiếm 4.4% tổng số
thu NSNN. Đến năm 2010, số thu NSNN từ đất đai đã tăng lên là 67.767 tỷ đồng,

chiếm 11.21% tổng số thu NSNN. Trong giai đoạn từ 2011-2015, thu từ đất đai
bình quân đạt khoảng 60.000 tỷ đồng/năm, chiếm khoảng 10% thu NSNN. Trong
đó, số thu từ thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất chiếm tỷ trọng cao, khoảng
76% tổng thu từ đất.
Nhìn chung, chính sách tài chính đất đai theo Luật Đất đai 2003 đã đạt
được những kết quả nhất định: (i) từng bước được thể chế hoá theo nguyên tắc thị
trường, minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thu hẹp sự phân biệt
giữa tổ chức trong nước và tổ chức ngoài nước. (ii) Số thu ngân sách nhà nước từ
đất tăng trưởng cao qua các năm, trong đó thu từ tiền sử dụng đất chiếm tỷ trọng
cao nhất và có mức tăng cao nhất. (iii) Các công cụ tài chính về quản lý đất đai
như: khung giá, bảng giá đất; thẩm định giá và đấu giá đất; tổ chức phát triển quỹ
đất... dần được hoàn thiện đã giúp cho thị trường thị trường bất động sản phát
triển và đồng bộ với các yếu tố khác của kinh tế thị trường.
2


Bên cạnh kết quả quan trọng đã đạt được, việc khai thác nguồn lực tài
chính từ đất đai theo Luật Đất đai 2003 vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như sau:
(i) Hệ thống chính sách tài chính đất đai mặc dù đã tương đối đầy đủ và đồng bộ
nhưng vẫn còn phức tạp, thiếu tính ổn định; nhiều vấn đề phát trong thực tiễn
chậm được xử lý dẫn đến lúng túng, khó khăn trong tổ chức thực hiện; (ii)
Nguồn lực tài chính đất đai là rất lớn nhưng chưa được khai thác đầy đủ và chủ
động. Một phần địa tô chênh lệch từ đất chưa được tập trung vào NSNN; (iii) Hệ
thống các công cụ tài chính đã được hình thành nhưng chưa đủ mạnh và còn bị
hạn chế về năng lực, kết quả hoạt động dẫn đến kết quả thu tài chính cũng như vai
trò điều tiết, kiểm soát thị trường còn hạn chế.
Để khắc phục tồn tại, hạn chế nêu trên, Luật Đất đai năm 2013 được Quốc
hội thông qua và có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2014. Theo đó, đã thống nhất
chính sách tài chính đất đai với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài;
đưa tỷ lệ (%) đơn giá thuê đất về mức hợp lý để vừa động viên nguồn lực từ đất

đai, vừa khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuê đất để sản xuất, kinh doanh. Cơ
chế đấu giá quyền sử dụng đất đã được hoàn thiện một bước, góp phần bảo đảm
tính công khai trong quá trình Nhà nước giao đất, cho thuê đất. Nhờ chính sách
thu hợp lý mà số thu từ đất luôn vượt chỉ tiêu thu ngân sách nhà nước đề ra; tính
đến ngày 10/6/2016, số thu tiền sử dụng đất là 67.744 tỷ đồng, số thu từ thuê đất,
thuê mặt nước là 13.448 tỷ đồng.

3


Bảng tổng hợp thu tài chính đất đai 2002-2015
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2002
Số
TT
I
II
III

2

3

4

5

6
7


10/6/2016

604.570

807.179

67.767

106.338

Chỉ tiêu
Tổng thu
123.860
NSNN
Tổng thu
5.486
về đất
Cơ cấu
4,43%
Chi tiết:

1

Năm 2010

Tiền thuê
đất
Tiền
sử
dụng đất

Thuế nhà
đất (thuế sử
dụng
đất
phi
nông
nghiệp)
Bán
nhà
thuộc
SHNN

4,88
12,35

11.21%

Tỷ
Số thu trọng
(%)

Tỷ
Số thu trọng
(%)

Tỷ
Số thu trọng
(%)

Mức

(lần)

459

8,37

2.900

13.448 12,64

6,32

3.244

59,13

48.662 71,81

67.744 63,7

15

336

6,12

1.361

2,01


1.479

1,39

4,05

1.120

20,42

2.142

3,16

1.204

1,13

1,9

Thuế
chuyển
327
quyển SD
đất

Lệ
phí
trước bạ
Thuế

sử
dụng
đất
nông
nghiệp

Mức tăng
của năm
2010 so với
2002 (lần)

5,96

35

4,28

(Từ
năm
2009 thuế
chuyển
quyền sử
dụng
đất
đối với tổ
chức tính
chung vào
thuế
TNDN)


0,05

12.611 18,61

22.405 21,07

56

58

0,08

tăng

0,05
4


2.2. Quản lý và phát triển nguồn lực tài chính từ tài nguyên
Việt Nam có diện tích 331.698 km² với bờ biển dài hơn 3.200km và có
nguồn tài nguyên khoáng sản tương đối phong phú về chủng loại, một số loại
có trữ lượng, tiềm năng lớn có thể phát triển thành các ngành công nghiệp, như
dầu khí, bô-xít, ti-tan, than, đất hiếm...; tổng lượng nước mặt (khoảng 830 tỷ
m3/năm), nước dưới đất (khoảng 63 tỷ m3/năm) khá lớn; có nhiều hệ sinh thái
rừng với sự đa dạng và phong phú về các loài động vật, thực vật. Đồng thời,
Việt Nam cũng là một quốc gia biển, tài nguyên biển vô cùng phong phú, nhất
là nguồn lợi thủy sản, tiềm năng vị thế phát triển giao thông, cảng biển, du
lịch...
Trong điều kiện tích luỹ thấp, nguồn nhân lực dồi dào song vẫn còn hạn
chế về chất lượng, trình độ khoa học và công nghệ còn ở mức thấp, việc thu hút

vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều khó khăn và phải đối mặt với sự cạnh tranh vốn
từ các quốc gia khác thì việc chú trọng, nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên
thiên nhiên không chỉ đáp ứng được nhu cầu sản xuất mà còn tạo nguồn vốn để
phục vụ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thời gian qua, Việt Nam đã tập trung khai thác với quy mô tương đối lớn
nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có như: than đá, dầu khí, quặng kim loại,
rừng…. đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nguồn
thu từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đóng góp một phần khá lớn trong tổng
thu ngân sách nhà nước, như: trong giai đoạn từ 2011-2014, thu từ khai thác dầu
thô chiếm bình quân khoảng 16 %, thu từ đất đai chiếm khoảng 10%, thu thuế tài
nguyên chiếm khoảng 5% thu ngân sách nhà nước; thu từ tiền cấp quyền khai thác
khoáng sản bình quân khoảng 4.500 tỷ/năm (chưa bao gồm thu từ đấu giá quyền
khai thác khoáng sản)… Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên, đất đai với tư cách
là một nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội đang gặp những khó
khăn và đặt ra những thách thức.
2.3 Quản lý và phát triển nguồn lực tài chính từ tài sản kết cấu hạ
tầng
Để phát triển nguồn lực tài chính từ tài sản kết cấu hạ tầng, Nhà nước
cho phép áp dụng đầu tư theo hình thức đối tác công - tư để thực hiện dự án
đầu tư, quản lý, vận hành công trình kết cấu hạ tầng; chuyển đổi phương thức
khai thác tài sản kết cấu hạ tầng từ các cơ quan, đơn vị, tổ chức được giao quản
lý tự tổ chức khai thác sang hình thức chuyển nhượng quyền thu phí, cho thuê
quyền khai thác, chuyển nhượng có thời hạn quyền khai thác công trình kết cấu
hạ tầng giao thông đường bộ cho các tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành
phần kinh tế. Tổ chức, đơn vị, cá nhân có quyền khai thác, đồng thời chịu trách
5


nhiệm bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông theo hợp đồng ký kết và quy định của
pháp luật.

Hiện nay, tài sản kết cấu hạ tầng giao thông (đường bộ, đường sắt,
đường thuỷ nội địa, cảng biển, hàng không) là nền tảng vật chất có vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Có kết cấu hạ
tầng giao thông hiện đại, nền kinh tế mới có điều kiện để tăng trưởng nhanh và
bền vững.
Về vốn đầu tư, trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008, tổng số vốn
đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông khoảng 117.794 tỷ đồng. (Trong đó vốn
ngân sách là 63.113 tỷ đồng, chiếm 53,58%; tín dụng ưu đãi 7.565 tỷ đồng,
chiếm 6,5 %; trái phiếu Chính phủ 32.818 tỷ đồng, chiếm 27,86 %; vốn ngoài
ngân sách 14.206 tỷ đồng, chiếm 12,06 %).
(2) Về cơ chế chính sách: Nhiều chính sách mới ưu tiên, khuyến khích
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đã được ban hành, đáng chú ý là
chính sách thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển. Các chính
sách đều tập trung vào việc đẩy mạnh huy động các nguồn lực để ưu tiên xây
dựng mới hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông. Bên cạnh chiến lược ưu tiên
dành vốn ODA cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, Chính phủ cũng chú
trọng ưu tiên thu hút vốn FDI và vốn tư nhân thông qua các hình thức BOT,
BTO, BT, PPP. Bên cạnh đó, Chính phủ, UBND các địa phương cũng quan tâm
đến chính sách khai thác kết cấu hạ tầng giao thông nhằm có nguồn vốn để đầu
tư quay trở lại cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông.
Nhờ đó, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đã có những bước phát triển
đáng kể; cụ thể: (i) Tổng chiều dài đường bộ gần 280.000 km (gấp 2 lần so với
năm 1990); (ii) đường sắt dài 3.143km, trong đó đường chính tuyến là 2.632
km; (iii) 100 cảng biển với năng lực thông qua hơn 50 triệu tấn/năm; (iv)
đường thuỷ nội địa với công suất các cảng sông hơn 5 triệu tấn/năm. (iv) 20
sân bay, trong đó có 05 sân bay quốc tế; v.v... góp phần phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước trong những năm qua.
2.4 Quản lý và phát triển nguồn lực tài chính từ sắp xếp lại nhà đất
thuộc sơ hữu nhà nước tại các cơ quan, đơn vị, tổ chức tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước

Tài sản nhà nước là nhà, đất tại các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp
công lập, các tổ chức và tại các doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành, địa phương,
các Tập đoàn, Tổng công ty do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập có
diện tích rộng, phần lớn nằm tại những vị trí đắc địa của các đô thị, trung tâm
công nghiệp lớn, vì vậy đây là những tài sản có giá trị trong tổng tài sản quốc
gia.
6


a) Các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp đang quản lý khoảng hơn
2,5 tỷ m2 đất và 129 triệu m2 nhà với tổng giá trị hơn 956 nghìn tỷ đồng (đất là
700 nghìn tỷ và nhà là 255 nghìn tỷ), chiếm gần 93% tổng giá trị TSNN tại các
cơ quan HCSN (là 1.003 nghìn tỷ đồng). Ngày 6/3/1998, Chính phủ ban hành
Nghị định số 14/1998/NĐ-CP về quản lý tài sản nhà nước. Đây là văn bản quy
phạm pháp luật đầu tiên do Chính phủ ban hành quy định các nguyên tắc cơ bản
về quản lý, sử dụng TSNN tại cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Trên cơ sở
đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trong phạm vi thẩm quyền được
giao đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về tiêu chuẩn,
định mức sử dụng, phân cấp thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước và chế
độ quản lý, sử dụng trụ sở làm việc. Nhà, đất tại cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp đã được quản lý chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, do sự thay đổi về cơ cấu tổ
chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, đổi
mới cơ chế quản lý... nên một bộ phận đất đai, trụ sở làm việc của các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp bị sử dụng lãng phí, sai mục đích như: bỏ trống,
cho thuê, cho mượn, sử dụng để kinh doanh, dịch vụ sai mục đích được giao...
dẫn đến thất thoát TSNN.
b) Các doanh nghiệp nhà nước đang giữ nhiệm vụ kinh doanh trong
những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của đất nước. Các doanh nghiệp này đang
quản lý, sử dụng quỹ nhà, đất có diện tích lớn và có chung một số đặc điểm: (i)
Do của lịch sử để lại (qua 2 cuộc kháng chiến và thời kỳ bao cấp kéo dài) phần

lớn nhà, đất nằm tại các vị trí đắc địa, có giá trị thương mại cao (như trụ sở của
Tập đoàn Điện lực Việt Nam tại 75 Đinh Tiên Hoàng - hồ Hoàn Kiếm, Tổng
công ty Đường sắt Việt Nam tại 136 Hàm Nghi - đối diện nhà hát lớn thành
phố Hồ Chí Minh...). (ii) Quá trình đô thị hóa, các cơ sở sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp nằm tại các trung tâm thành phố không còn phù hợp với
phát triển quy hoạch đô thị, gây ô nhiễm, ùn tắc giao thông. (iii) Nền kinh tế
chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, nhu cầu sử
dụng nhà, đất vào SXKD cũng thay đổi để phù hợp với mô hình kinh doanh
mới, dẫn đến một bộ phận dôi dư. Để xử lý, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện
chuyển mục đích hoặc cho thuê lại kiếm lời, cá biệt có một số nhà, đất bị chiếm
dụng hoặc bỏ trống.
Để khắc phục được tình trạng trên, nhằm khai thác có hiệu quả, tiết kiệm
nguồn lực tài chính từ quỹ nhà, đất phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có một số chính sách tài chính
cơ bản sau đây:
(1) Chính sách sắp xếp lại nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước (Quyết định số
09/2007/QĐ-TTg ngày 19/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ): Theo chính sách
này, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp, Tập đoàn, Tổng công
7


ty Nhà nước được chủ động sắp xếp lại nhà, đất hiện có theo đúng chức năng,
nhiệm vụ, nhu cầu cho sản xuất kinh doanh và phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất của địa phương; số nhà, đất dôi dư được phép bán - chuyển nhượng, chuyển
mục đích hoặc thu hồi. Số tiền thu được từ từ đất đai trong sắp xếp lại nhà, đất
được cân đối giữa quyền lợi của Nhà nước và người đang sử dụng nhà, đất như
sau: (i) Cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp được sử sụng 100% tiền bán nhà
và chuyển nhượng quyền sử dụng đất để đầu tư trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động
sự nghiệp; (ii) Doanh nghiệp, Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước được sử dụng
50% số tiền thu được từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, 50% còn lại nộp

NSNN, trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất thì nộp NSNN 100% số tiền
thu được.
Đến hết tháng 12/2015, các Bộ, ngành, địa phương trong cả nước thực
hiện báo cáo kê khai và đề xuất phương án xử lý nhà đất đối với 154.679 cơ sở
nhà đất, với tổng diện tích khoảng 3.006 triệu m2 đất và 139,4 triệu m2 nhà.
Theo đó, đã thực hiện bán, chuyển nhượng gần 6,3 triệu m2 đất; thu hồi trên 9
triệu m2 đất; chuyển mục đích sử dụng đất trên 3,3 triệu m2 đất. Tổng số tiền
thu được từ bán tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chuyển
mục đích sử dụng đất của các Bộ, ngành, Tập đoàn, tổng công ty nhà nước và
các địa phương trên phạm vi cả nước là trên 35 ngàn tỷ đồng.
Hiện trên tài khoản tạm giữ do Bộ Tài chính làm chủ tài khoản tính đến
ngày 10/6/2016: 1.611 tỷ đồng.
(2) Chính sách tài chính di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường và
theo quy hoạch: đối tượng phải di dời được tạo nguồn vốn từ vị trí đất cũ theo
cơ chế chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất
tại vị trí cũ. Mức hỗ trợ cho doanh nghiệp phải di dời không quá 70% nguồn
vốn thu được từ xử lý đất tại vị trí cũ (sau khi trừ các khoản chi phí theo quy
định); riêng đối với các dự án đầu tư tại vị trí mới thuộc lĩnh vực đặc biệt ưu
đãi đầu tư theo quy định của pháp luật thì được hỗ trợ không quá 100% nguồn
vốn thu được từ đất tại vị trí cũ (sau khi trừ các khoản chi phí theo quy định).
Tổng số thu từ thực hiện di dời các cơ sở ô nhiễm môi trường và theo
quy hoạch theo Quyết định số 86/2010/QĐ-TTg tính đến 30/12/2015: 747,3 tỷ
đồng. Tính đến ngày 10/6/2016, số dư tài khoản tạm giữ do Bộ Tài chính làm
chủ tài khoản là: 481.658.641 đồng.
(3) Cơ chế tài chính về đất đai đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ
tài chính: Nhằm tạo sự chủ động, nâng cao trách nhiệm quản lý cho các đơn vị
sự nghiệp công lập Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước đã xác lập cơ chế đổi
mới về cơ bản theo hướng giao tài sản cho các đơn vị như giao vốn cho doanh
nghiệp nhằm tạo điều kiện cho đơn vị chủ động trong việc sử dụng tài sản được
giao để thực hiện nhiệm vụ, đồng thời khai thác tối đa công suất của tài sản để

nâng cao chất lượng dịch vụ công, cải thiện đời sống của cán bộ, nhân viên.
8


Theo đó, đơn vị sự nghiệp tự chủ tài chính được quyền sử dụng TSNN (bao gồm
cả nhà, đất) vào mục đích: cho thuê, sản xuất kinh doanh dịch vụ, liên doanh,
liên kết. Trong trường hợp này đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính phải
nộp tiền sử dụng đất hoặc nộp tiền thuê đất (đối với phần diện tích đất được sử
dụng vào các mục đích này) theo quy định của pháp luật về đất đai.
(4) Chính sách về nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước: Trong thời kỳ 1960 1990, với chủ trương tạo lập quỹ nhà ở cho cán bộ, công nhân viên chức, người
hưởng lương từ NSNN, Nhà nước đã đầu tư xây dựng khoảng hơn 16 triệu m2
nhà ở (trong đó có khoảng hơn 3 triệu m 2 nhà chung cư). Ngoài ra, còn có quỹ
nhà ở do các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp tự bố trí làm nhà ở cho cán bộ, công
chức trong thời kỳ bao cấp. Để chấm dứt bao cấp về nhà ở, Chính phủ đã có
Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 về mua bán và kinh doanh nhà ở. Theo đó,
đại bộ phận quỹ này đã được bán theo giá ưu đãi cho người đang thuê.
3. Đánh giá kết quả, hạn chế của việc quản lý, phát triển lĩnh vực đất
đai, tài nguyên, tài sản nhà nước
3.1. Về tài sản là đất đai
a) Kết quả đạt được
- Chính sách, pháp luật đất đai từng bước được hoàn thiện, đã đóng góp
tích cực cho phát triển kinh tế, góp phần giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
sinh xã hội; đã hầu như xóa bỏ sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài trong việc tiếp cận đất đai; chính sách thu chi NSNN về đất đai (thu tiền
sử dụng đất, tiền thuê đất và các loại thuế phí về đất; chi bồi thường, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng) được xây dựng theo chính sách giá thị trường và có tính đến
yếu tố cân đối NSNN.
- Phân bổ quỹ đất đáp ứng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh. Việc chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất về cơ bản phù hợp
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quỹ đất nông nghiệp đã đáp ứng yêu cầu bảo

đảm an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ và phát triển rừng. Quỹ đất dành cho
công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị được mở
rộng, từng bước đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và nhu cầu đô thị hóa. Diện tích đất chưa sử dụng cơ bản đã được đưa
vào sử dụng.
- Các quyền của người sử dụng đất được mở rộng và được Nhà nước bảo
đảm thực hiện đã làm cho người sử dụng đất gắn bó hơn với đất đai, yên tâm
đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh để tăng hiệu quả sử dụng đất.
- Thị trường bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất đã tạo lập được
cơ chế hoạt động, phát triển tương đối đồng bộ; từng bước hoàn thiện chính
9


sách tài chính đất đai theo hướng tiếp cận cơ chế thị trường, đã huy động được
nguồn vốn xã hội cho thị trường, thu hút đầu tư cho phát triển, đưa đất đai trở
thành nguồn nội lực, nguồn vốn để phát triển đất nước.
b) Tồn tại, bất cập
- Nguồn lực về đất đai chưa được khai thác và phát huy đầy đủ để trở
thành nguồn nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Việc sử dụng đất ở nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp. Nhiều diện tích
đất bị thu hồi để thực hiện các dự án đầu tư nhưng tiến độ đầu tư chậm, còn để
hoang phí đất đai, gây nhiều bức xúc trong xã hội. Nhiều địa phương chưa thực
hiện được cơ chế tạo quỹ đất “sạch” để đấu giá quyền sử dụng đất, tăng nguồn thu
cho ngân sách nhà nước.
- Một số quy định của pháp luật chưa giải quyết hài hòa về lợi ích giữa
Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Chưa thực sự có chế tài nghiêm
minh đối với những vi phạm pháp luật đất đi nên vẫn còn tình trạng nợ đọng
nghĩa vụ tài chính đất đai kéo dài.
- Thị trường bất động sản trong đó có quyền sử dụng đất còn bộc lộ
những yếu kém, không ổn định, phát triển thiếu lành mạnh, giao dịch “ngầm”

khá phổ biến. Tình trạng đầu cơ đất đai còn xảy ra đẩy giá đất tăng cao đã có
tác động không nhỏ đến ổn định kinh tế vĩ mô. Chưa đáp ứng được nhu cầu
nhà ở, đất ở của các đối tượng chính sách xã hội, cán bộ công chức, người có
thu nhập thấp. Việc cấp giấy chứng nhận đối với đất ở tại đô thị còn chậm.
- Việc xây dựng quy trình thủ tục hành chính về đất đai theo hướng một
cửa vẫn chưa hoàn thiện. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý, sử
dụng đất đai còn dừng lại ở một số thành phố lớn, chưa phổ cập trong cả nước.
Chưa có hệ thống thông tin đất đai toàn quốc.
3.2 Về tài sản là tài nguyên
Trong thời gian qua, việc quản lý và khai thác tài nguyên đã từng bước phát
triển. Cùng với sự hoàn thiện của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan về chính sách quản lý, khai thác tài nguyên khoán sản, rừng, biển, và các
loại tài nguyên khác, nguồn thu NSNN từ tài nguyên được huy động và ngày càng
tăng góp phần quan trọng để đảm bảo cân đối thu, chi NSNN. Tuy nhiên, còn có
nhiều khó khăn, thách thức như sau:
Thứ nhất, nhiều loại tài nguyên đất đai, khoáng sản, nguồn nước, rừng,
nguồn lợi thủy sản đã được điều tra, đánh giá nhưng mới chỉ ở mức nắm được
thông tin cơ bản, thiếu thông tin quan trọng để có thể lượng hóa được giá trị
kinh tế cũng như định hướng cho công tác khai thác. Hệ thống cơ sở dữ liệu,
thông tin về tài nguyên chưa được đầy đủ, đồng bộ, thống nhất đảm bảo phục
vụ tốt cho công tác quản lý nhà nước nói chung và tổ chức thực hiện khai thác.
10


Thứ hai, công tác lập quy hoạch, kế hoạch khai thác tài nguyên còn
nhiều bất cập, thiếu cơ sở khoa học và tính liên kết vùng để đảm bảo cho việc
khai thác, phân bổ nguồn lực hợp lý; mất cân đối cung – cầu và chưa cân đối
với nguồn lực tài chính để thực hiện. Thực tế cho thấy, công tác này hiện chưa
đảm bảo sự cân bằng tổng thể, xử lý hoài hòa lợi ích giữa nhu cầu phát triển
trước mắt và lâu dài; xung đột lợi ích giữa các ngành, lĩnh vực, nhóm lợi ích

trong xã hội. Hệ quả, nhiều nơi, đất đai, nguồn lực tài nguyên không được khai
thác, sử dụng đúng mục đích, hiệu quả, gây lãng phí, thất thoát.
Thứ ba, việc định giá tài nguyên, quyền khai thác tài nguyên mới được
thực hiện đối với đất đai, khoáng sản nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Phương
pháp xác định giá dựa trên các yếu tố, thông tin giả định, dự báo, có tính chủ
quan, không phù hợp với điều kiện của Việt Nam; thời gian xác định và phê
duyệt giá theo thị trường kéo dài dẫn đến chậm trễ trong thông báo, thu nộp
nghĩa vụ tài chính; chính sách thu từ đất đai, tài nguyên gắn liền với điều hành
thu - chi NSNN của cơ quan tài chính nhưng xác định giá tài nguyên, giá đất,
giá tiền cấp quyền khai thác để tính thu hiện do cơ quan tài nguyên môi trường
thực hiện là nguyên nhân dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian, mất cân đối thu chi từ đất đai, ảnh hưởng đến cân đối chung của NSNN. Mặc dù, theo quy định
của Luật Tài nguyên nước đã quy định thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên
nước, Luật bảo vệ và phát triển rừng đã quy định thu tiền sử dụng rừng, tiền
thuê rừng… nhưng đến nay vẫn chưa có quy định về phương pháp xác định cụ
thể nên thực tế chưa tổ chức thực hiện thu được đối với các khoản thu này. Kể
cả đối với tiền sử dụng khu vực biển, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành Thông tư liên tịch quy định mức thu tiền sử
dụng khu vực biển khi giao khu vực biển cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử
dụng nhưng mức thu này vẫn chưa phản ánh được đầy đủ bản chất kinh tế của
việc sử dụng, khai thác tài nguyên biển.
Thứ tư, về phương thức giao quyền khai thác tài nguyên, tính công khai,
minh bạch còn hạn chế. Việc cấp quyền khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên
chủ yếu vẫn theo hình thức chỉ định; việc giao quyền khai thác, sử dụng theo
hình thức đấu giá chưa được đẩy mạnh. Theo quy định của Luật Khoáng sản,
Nhà nước quy hoạch những loại tài nguyên cấp quyền khai thác thông qua hình
thức đấu giá, loại tài nguyên cấp quyền không thông qua đấu giá nhưng thiếu
cơ sở khoa học, thực tiễn để xác định quy hoạch này và vẫn chịu tác động khá
mạnh của yếu tố chủ quan. Đến nay, đối với khu vực mỏ thuộc thẩm quyền cấp
phép của trung ương vẫn chưa một lần thực hiện đấu giá thành công để giao
quyền khai thác theo quy định của pháp luật. Luật Đất đai năm 2013 đã quy

định Nhà nước chủ động thu hồi đất, thực hiện bồi thường, giải phóng mặt
bằng để giao đất, cho thuê đất thông qua hình thức đấu giá nhưng do nguồn lực
tài chính còn hạn chế nên vẫn tồn tại cơ chế cho phép nhà đầu tư ứng tiền bồi
thường, giải phóng mặt bằng nên các địa phương đã vận dụng để thực hiện giao
đất, cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá. Luật Biển Việt Nam chưa
có quy định về giao khu vực biển cho tổ chức, cá nhân sử dụng, khai thác tài
11


nguyên biển thông qua hình thức đấu giá; tình trạng tương tự cũng xảy ra đối
với cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo Luật Tài nguyên nước hay sử
dụng tài nguyên rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.
Thứ năm, tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên không tuân thủ theo
đúng quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt dẫn đến tình trạng khai thác quá mức,
lãng phí, nguồn tài nguyên có nguy cơ bị cạn kiệt. Với tốc độ khai thác tài
nguyên khoáng sản, chủ yếu xuất khẩu ở dạng thô, nguyên khai, giá trị thấp,
không có sự tính toán khai thác, điều chỉnh phù hợp với nhu cầu của thị trường
thì nguy cơ Việt Nam phải nhập khẩu tài nguyên để đáp ứng cho nhu cầu trong
nước cũng như phải chi nhiều tỷ USD để nhập khẩu sản phẩm tài nguyên đã qua
chế biến, tinh luyện là hiện hữu, trong tương lai gần. Tài nguyên đất đai khai
thác, sử dụng kém hiệu quả; đất nông, lâm trường với diện tích khoảng
7.916.366 ha nhưng phần lớn để hoang hóa, sử dụng lãng phí, không hiệu quả
trong khi người thực sự cần đất sản xuất thì phải đi thuê lại; tình trạng thoái hóa
đất, đất bị hoang mạc hóa ngày càng gia tăng. Tài nguyên rừng, tài nguyên nước,
nguồn lợi thủy sản ngày càng bị suy giảm nghiêm trọng. Tài nguyên vì thế chưa
được phát huy hết tiềm năng, thế mạnh. Một số nguồn tài nguyên tái tạo bị suy
thoái, cạn kiệt quá mức dẫn đến mất khả năng tái tạo, phục hồi.
Thứ sáu, nguồn lực tài chính khai thác được từ đất đai, tài nguyên thiên
nhiên chưa được định hướng cụ thể, sử dụng phù hợp, hiệu quả, bền vững cho
đầu tư phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường. Thực tế, người dân ở

những nơi khai thác tài nguyên chưa được hưởng lợi một cách xứng đáng, thậm
chí chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi từ việc khai thác tài nguyên gây ra, chất lượng
cuộc sống bị suy giảm do phải hứng chịu tình trạng ô nhiễm môi trường. Để xử
lý vấn đề này, Bộ Tài chính đã có giải pháp về tài chính điều tiết nguồn thu từ
khai thác tài nguyên, theo đó, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên khoáng sản
nộp toàn bộ vào ngân sách địa phương đối với trường hợp thuộc thẩm quyền
cấp phép của địa phương; nộp 70% vào ngân sách trung ương, 30% vào ngân
sách địa phương đối với trường hợp thuộc thẩm quyền cấp phép của trung
ương. Tuy nhiên, vẫn cần phải có giải pháp căn bản, lâu dài kết hợp giữa khai
thác, phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính từ tài nguyên thiên nhiên đảm bảo
mục tiêu phát triển bền vững.
3.3 Về tài sản kết cấu hạ tầng
a) Kết quả đạt được: Quán triệt chủ trương "Hạ tầng cần phải đi trước
một bước, đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội" nên việc phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng giao thông thời gian qua đã được Chính phủ đặc biệt
quan tâm cả về vốn đầu tư cũng như có các chính sách mới khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển, cụ thể:
Vốn đầu tư cho việc xây dựng và phát triển tài sản hạ tầng được quan
tâm và tăng dần trong các năm. Các cơ chế, chính sách mới được xây dựng và
12


hoàn thiện theo hướng đẩy mạnh huy động các nguồn lực để ưu tiên xây dựng
mới hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, kêu gọi xã hội hóa để phát triển. Do
đó, hệ thống kết cấu hạ tầng đã có những bước phát triển đáng kể góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm qua.
b) Tồn tại hạn chế: Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ,
song việc phát triển và khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản kết cấu hạ tầng
giao thông thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, cụ thể:
Thứ nhất, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đang được coi là “điểm nghẽn” cản
trở sự phát triển. Nhu cầu và khả năng bố trí vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông bị mất cân đối.
Thứ hai, chính sách khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản kết cấu hạ
tầng giao thông thiếu và yếu nên không thu hút được nguồn vốn từ các thành
phần kinh tế; cụ thể:
- Việc thu phí mới áp dụng đối với đường bộ, song chỉ áp dụng rải rác
một số ít tuyến đường quốc lộ có lưu lượng phương tiện giao thông lớn và chủ
yếu do nhà nước thực hiện. Chỉ có 6 Trạm thu phí thực hiện bán quyền thu phí
cho nhà đầu tư với thời hạn 05 năm (từ 2010-2015).
- Đối với các lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông khác như đường sắt,
cảng biển, cảng hàng không thì việc cho thuê khai thác mới bắt đầu được thực
hiện từ năm 2009 với mức thu căn cứ còn rất hạn chế.
Thứ ba, chính sách kêu gọi khu vực tư nhân (kể cả nước ngoài) đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng giao thông còn mờ nhạt và chưa đồng bộ; đồng thời
còn nghiêng về kêu gọi vốn đầu tư xây dựng mới mà không chú ý tới việc khai
thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông để phục vụ phát triển chính tài sản kết
cấu hạ tầng giao thông.
Thứ 4, do nguồn lực tài chính hạn hẹp và phải dốc sức tập trung ưu tiên
thực hiện đầu tư xây dựng mới nên công tác bảo trì tài sản kết cấu hạ tầng giao
thông chưa được quan tâm đúng mức, làm cho các công trình hiện có xuống
cấp nhanh chóng.
3.4 Tài sản là nhà đất thuộc sơ hữu nhà nước tại các cơ quan, đơn vị,
tổ chức tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước
a) Kết quả đã đạt được.
13


Việc quản lý, khai thác nguồn lực tài chính từ quỹ nhà, đất tại các cơ
quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, Tập đoàn, Tổng công ty, công ty nhà nước

đã có bước chuyển quan trọng và đạt được những kết quả cơ bản như sau:
- Nắm được số lượng, diện tích, hiện trạng sử dụng và tình trạng hồ sơ
pháp lý của nhà, đất do các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, các
tổ chức; các doanh nghiệp 100% nhà nước thuộc các Bộ, ngành, địa phương và
các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước đang quản lý, sử dụng. Tính đến nay đã
có 64 Bộ, ngành, cơ quan trung ương, 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thực hiện báo cáo kê khai và đề xuất phương án xử lý nhà đất với tổng số
131.522 cơ sở nhà, đất; với tổng diện tích là hơn 2,5 tỷ m 2 đất và 106 triệu m2
nhà.
Riêng đối với các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước hiện nay đang quản
lý, sử dụng khoảng 155 triệu m2 đất. Đến nay đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý đối với 9 triệu m2, trong đó chuyển nhượng
gần 100 ngàn m2, thu hồi trên 300 ngàn m2, chuyển mục đich sử dụng đất trên
1,3 triệu m2, di dời do ô nhiễm môi trường 300 ngàn m2.
- Thông qua việc xử lý, sắp xếp lại nhà, đất đã quản lý, sử dụng nhà, đất
hợp lý và hiệu quả hơn: Đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng
nhà, đất theo tiêu chuẩn, định mức; đối với các doanh nghiệp sử dụng vào hoạt
động sản xuất kinh doanh và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của địa
phương. Đồng thời giành quỹ đất để xây dựng các công trình phúc lợi xã hội
như trường học, bệnh viện và các công trình phúc lợi quan trọng khác của địa
phương... góp phần chỉnh trang quy hoạch lại đô thị theo hướng hiện đại.
- Tạo nguồn tài chính từ quỹ đất để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp trụ
sở làm việc cho cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, để đầu tư xây dựng cơ
sở sản xuất kinh doanh mới, đầu tư chiều sâu, tăng thêm năng lực sản xuất kinh
doanh cho doanh nghiêp và bổ sung nguồn thu cho NSNN.
Đến hết tháng 12/2015, các Bộ, ngành, địa phương trong cả nước thực
hiện báo cáo kê khai và đề xuất phương án xử lý nhà đất đối với 154.679 cơ sở
nhà đất, với tổng diện tích khoảng 3.006 triệu m2 đất và 139,4 triệu m2 nhà.
Theo đó, đã thực hiện bán, chuyển nhượng gần 6,3 triệu m2 đất; thu hồi trên 9
triệu m2 đất; chuyển mục đích sử dụng đất trên 3,3 triệu m2 đất. Tổng số tiền

thu được từ bán tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chuyển
mục đích sử dụng đất của các Bộ, ngành, Tập đoàn, tổng công ty nhà nước và
các địa phương trên phạm vi cả nước là trên 35 ngàn tỷ đồng.
b) Tồn tại, hạn chế.
- Cơ chế chính sách sắp xếp lại nhà, đất và huy động nguồn lực từ đất
tương đối đầy đủ, nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm và mang tính hình
14


thức đối phó ở một số cơ quan, đơn vị. Một số Bộ, ngành, địa phương, Tập
đoàn, Tổng công ty Nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến việc sắp xếp xử lý
nhà, đất nói riêng và việc khai thác, quản lý có hiệu quả nguồn lực tài sản là
nhà, đất nói chung. Chậm thực hiện việc quản lý, sử dụng nhà, đất theo đúng
phương án đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
- Quy hoạch sử dụng đất chậm được công bố công khai, gây khó khăn
cho việc sắp xếp nhà, đất và thực hiện di dời; cản trở các đối tượng có nhà, đất
sắp xếp lại hoặc di dời tiếp cận thực hiện các thủ tục để được giao đất hoặc cho
thuê đất, làm cơ sở để chủ động lập dự án đầu tư xây dựng cơ sở mới, phục vụ
di dời cơ sở cũ.
- Việc sắp xếp, xử lý nhà, đất theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg chưa
bao quát hết đối tượng quản lý, sử dụng nhà, đất: đối tượng Quyết định số
09/2007/QĐ-TTg là công ty 100% vốn nhà nước và các doanh nghiệp đến thời
điểm Quyết định 09/2007/QĐ-TTg có hiệu lực chưa phê duyệt phương án cổ
phần hóa. Trong khi đó số lượng các doanh nghiệp phê duyệt phương án cổ
phần hóa trước ngày Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg có hiệu lực chiếm giữ số
lượng nhà, đất lớn. Riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, doanh nghiệp
cổ phần hóa của Tổng công ty Lương thực Miền Nam quản lý 50 địa chỉ nhà,
đất; doanh nghiệp cổ phần của Tập đoàn Dệt may Việt Nam quản lý 35 địa chỉ
nhà, đất; doanh nghiệp cổ phần hóa Tổng công ty xi măng Việt nam quản lý 11
địa chỉ nhà, đất;... Sau khi cổ phần hóa, các công ty tổ chức lại sản xuất kinh

doanh và bộ máy nên có nhiều đất đai không còn nhu cầu sử dụng nữa; bên
cạnh đó nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện đăng ký, sử dụng đất đai, thậm chí
không thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước nhưng Nhà nước chưa kiểm
tra, kiểm soát hết.
- Cơ chế quản lý đất đai tại đơn vị sự nghiệp công lập chưa được khai
thác hết nguồn lực: Đơn vị sự nghiệp công lập đang quản lý, sử dụng diện tích
nhà, đất lớn (1,5 tỷ m2) đất, trong đó: khu vực sự nghiệp công lập chiếm 1,2 tỷ
m2 bằng khoảng 80% diện tích. Hiện tại, phần lớn đất của các đơn vị sự nghiệp
công lập vẫn sử dụng đất dưới hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Mặc dù Nhà nước đã đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế quản lý tài sản tại các
đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, nhưng những cơ chế này chưa đủ
mạnh để khai thác có hiệu quả và khơi dậy được nguồn lực tài chính đất đai tại
các đơn vị này.
- Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức và phương thức SXKD của các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước có
nhiều thay đổi, song việc chuyển đổi công năng của tài sản trên đất và mục
đích sử dụng đất không theo kịp, đặc biệt là đất của một số ngành như lương
15


thực, thực phẩm, nội thương, cơ khí, quốc phòng... dẫn đến hiệu quả khai thác
quỹ đất thấp, thậm chí bỏ trống, cho thuê, bị lấn chiếm. Quá trình công nghiệp
hoá cũng như phát triển kinh doanh, dịch vụ không gắn kết với quy hoạch sử
dụng đất dẫn đến tình trạng nơi thừa đất, nơi thiếu đất hoặc gây ra ô nhiễm môi
trường, ùn tắc giao thông... Nhiều cơ sở nhà, đất buộc phải di dời đã gây ra
những thiệt hại lớn về tài sản, về vốn, vật chất xã hội và tác động đến sự ổn
định đời sống người lao động. Do chính sách cho thuê đất thời kỳ trước đây
nghiêng về ưu đãi sản xuất, chậm được điều chỉnh theo thị trường nên không
thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, thậm chí dẫn đến cho thuê lại để hưởng chênh
lệch từ đất mà lẽ ra nguồn lực này phải được tập trung vào NSNN. Khi thực

hiện đổi mới các doanh nghiệp nhằm mục tiêu hình thành nên các Tập đoàn,
Tổng công ty Nhà nước lớn hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực. Trong đó kinh
doanh bất động sản là một lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận, đặc biệt là trong
giai đoạn chính sách thu tiền sử dụng đất, tiền cho thuê đất chưa sát với giá
chuyển nhượng đất trên thị trường đã đem lại địa tô chênh lệch lớn, từ đó đã
hấp dẫn các Tập đoàn, Tổng công ty đầu tư nguồn lực lớn vào lĩnh vực này. Do
đó, các Tập đoàn, Tổng công ty vừa sao nhãng nhiệm vụ chính, giá trị cốt lõi
của doanh nghiệp, vừa tạo ra sự phát triển quá nóng cho thị trường bất động
sản. Đến nay, khi chính sách thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã có sự thay
đổi, quan hệ cung cầu trên thị trường bất động sản thay đổi thì sẽ có thể dẫn
đến sự đổ vỡ, gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
II. Định hướng quản lý, phát triển lĩnh vực đất đai, tài nguyên, tài
sản nhà nước giai đoạn tới (2016-2020) và định hướng đến 2030
1. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc quản lý,
phát triển lĩnh vực đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước giai đoạn tới
Để huy động một cách có hiệu quả vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ đặt ra trong Nghị quyết, Cương lĩnh, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
được thông qua; tại Quyết định số 2174/QĐ-TTg ngày 12/11/2013, Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai, tài sản nhà
nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2013-2020 cần bám sát các
quan điểm, mục tiêu sau:
- Đất đai, tài sản nhà nước, tài sản kết cấu hạ tầng được xác định là
nguồn lực tài chính quan trọng phục vụ phát triển kinh tế xã hội đất nước, đảm
bảo an sinh xã hội.
- Việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai, tài sản nhà nước phải phù
hợp với quy hoạch, kế hoạch; đảm bảo lợi ích trước mắt cũng như lâu dài; tiết
kiệm, hiệu quả; xử lý hài hoà lợi ích giữa Nhà nước và các đối tượng có liên
16



quan.
- Chính sách khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai, tài sản nhà nước phải
thực hiện theo nguyên tắc thị trường có sự điều tiết của nhà nước, đảm bảo công
khai, minh bạch và phát triển bền vững.
2. Mục tiêu chiến lược quản lý, phát triển lĩnh vực đất đai, tài
nguyên, tài sản nhà nước
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt mục điêu phát triển lĩnh vực đất đai,
tài nguyên, tài sản nhà nước đến năm 2020 như sau:
a) Về tài chính đất đai
Đổi mới hoàn thiện chính sách tài chính về đất đai, Nhà nước chủ động
điều tiết giá đất trong thị trường bằng quan hệ cung - cầu; bảo đảm xác định giá
đất theo nguyên tắc thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Trong giai đoạn từ
2011- 2020, tổng thu ngân sách nhà nước về đất đai dự báo đạt 700.000 tỷ
đồng, bình quân thu hàng năm đạt 70.000 tỷ đồng.
b) Về khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản nhà nước
- Phấn đấu đến năm 2018, hoàn thành việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất
thuộc sở hữu nhà nước trên phạm vi cả nước (bao gồm cả các Tập đoàn, Tổng
công ty Nhà nước), số tiền thu được từ việc bán tài sản trên đất và chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với cơ sở nhà đất dôi dư theo hình thức đấu giá,
xử lý quỹ nhà, đất gắn với tái cấu trúc các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà
nước dự báo đạt khoảng 100.000 tỷ đồng.
- Phấn đấu đến năm 2020, hoàn thành việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm
môi trường, cơ sở phải di dời theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Số tiền thu được từ việc chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất; bán, chuyển nhượng cơ sở nhà, đất (cũ) dự báo đạt
khoảng 18.000 tỷ đồng.
c) Về khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản kết cấu hạ tầng.
- Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng giao thông. Thu hút khu vực tư nhân đầu tư vốn để xây dựng, kinh
doanh kết cấu hạ tầng giao thông; theo đó ngân sách nhà nước giảm bớt chi do

thu hút nguồn vốn khu vực tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng bình quân
khoảng 42.000 tỷ/năm.
- Thí điểm cho thuê quyền khai thác, chuyển nhượng có thời hạn đối với
một số loại tài sản kết cấu hạ tầng giao thông như: đường sắt, cảng biển, cảng
hàng không.
- Thực hiện điều tiết một cách hợp lý giá trị tăng thêm từ đất không do
đầu tư của người sử dụng đất đem lại. Trước mắt hoàn thiện cơ chế, quy định
của pháp luật và triển khai thực hiện triệt để phương thức khai thác quỹ đất hai
bên đường khi đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo quy
định của pháp luật đất đai và pháp luật khác có liên quan. Dự báo số thu từ khai
thác quỹ đất hai bên đường bình quân đến năm 2020 khoảng 10.000 tỷ/năm.
3. Giải pháp thực hiện
17


Để khai thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai, tài nguyên, tài
sản nhà nước, một trong những giải pháp tiên quyết đó là hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý về quản lý, sử dụng tài sản công tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc
khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước. Trong đó,
một số chính sách cần tập trung nghiên cứu, xây dựng đó là:
3.1. Xây dựng Luật Quản lý, sử dụng tài sản công nhằm thể chế hóa
Điều 53 Hiến pháp năm 2013, đảm bảo tất cả các loại tài sản công đều được
quản lý chặt chẽ, hiệu quả bằng pháp luật; quy định những nguyên tắc chung
nhất trong quản lý, sử dụng tài sản công; đổi mới phương thức quản lý, sử dụng
tài sản công theo hướng nắm chắc, phản ánh đầy đủ tài sản công cả về giá trị và
hiện vật; coi tài sản công là nguồn lực quan trọng theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
từ đó tạo cơ chế khai thác tài sản công hợp lý, tạo ra nguồn lực tài chính từ tài
sản đóng góp có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng,
an ninh quốc gia...; quản lý tài sản bằng các công cụ hiện đại, hiệu quả; thực
hiện công khai, minh bạch về tài sản, góp phần chống lãng phí, thất thoát.

Đồng thời, kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật cho từng
lĩnh vực để bảo đảm có hiệu lực đồng thời với Luật Quản lý, sử dụng tài sản
công (dự kiến từ 01/01/2018).
3.2. Giải pháp về tài chính đất đai:
Trước hết cần hoàn thiện chính sách tài chính về đất đai nhằm tháo gỡ kịp
thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Thực hiện Luật Đất
đai năm 2013, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số
45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2016 về thu tiền sử dụng đất và Nghị định số
46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2016 về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước. Các chính
sách này đã góp phần khuyến khích sử dụng đất đai có hiệu quả, tiết kiệm, số thu
ngân sách nhà nước từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất tăng trưởng cao. Tuy nhiên,
qua công tác quản lý và tổng hợp phản ánh của các địa phương, tổ chức cho thấy
một số nội dung chính sách cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để có căn
cứ thực hiện. Vì vậy, Bộ Tài chính đã thực hiện rà soát các vướng mắc về chính
sách thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất để đề xuất phương án xử lý, xây dựng
Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định của Chính phủ về thu
tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trình Chính phủ xem xét, quyết
định.
Ngoài ra, cần áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm thúc đẩy thị trường
bất động sản phát triển lành mạnh: (i) Thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt
trong giao dịch bất động sản và có chế tài đăng ký biến động về giao dịch bất
động sản nhằm trách thất thu thuế. (ii) Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát
thị trường bất động sản; nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý
nhà nước ở Trung ương trong việc kiểm tra, thẩm định việc đầu tư, vay vốn
ngân hàng đối với các dự án phát triển nhà ở, đầu tư bất động sản để đảm bảo
18


nhà đầu tư có đủ năng lực thực hiện dự án. (iii) Thực hiện tái cơ cấu hàng hóa
bất động sản cho phù hợp với nhu cầu của thị trường, đồng thời đẩy mạnh phát

triển các loại hình nhà ở xã hội có sự tham gia, điều tiết của Nhà nước để đáp
ứng nhu cầu nhà ở cho các đối tượng khó khăn về nhà ở, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.
Đồng thời cần áp dụng các biện pháp về tổ chức thực hiện gồm:
(1) Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống định giá đất
và công cụ hỗ trợ tài chính như: Quỹ phát triển đất, tổ chức Phát triển quỹ đất,
tổ chức đấu giá đất; tiến tới chuyên môn hoá công tác đền bù, giải toả nhằm
đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch để đưa ra đấu giá giao
đất, cho thuê đất.
(2) Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về đất đai, tập trung tháo gỡ
vướng mắc trong khâu tổ chức thực hiện nhất là trong việc giao đất, cho thuê
đất, đấu giá quyền sử dụng đất, xác định giá đất, nghĩa vụ tài chính đất đai và
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; …
(3) Rà soát lại việc quản lý sử dụng đất, đối với đất đang còn để trống thì
nhanh chóng đưa vào sử dụng, đối với đất đã giao nhưng không có khả năng
đầu tư đưa vào sử dụng thì chuyển sang mục đích khác có hiệu quả hơn đặc
biệt là tại các KCN, KCX, KKT; thực hiện nghiêm việc thu hồi đất bị sử dụng
lãng phí, sai mục đích theo quy định của pháp luật đất đai và có phương án cụ
thể để khai thác, sử dụng có hiệu quả đối với đất sau thu hồi. Bên cạnh chế tài
xử lý các trường hợp chậm trễ trong việc khai thác, sử dụng đất đai thì cũng
cần phải có cơ chế khuyến khích, động viên tổ chức, cá nhân được giao đất sử
dụng đất khẩn trương đưa đất đai vào khai thác sử dụng từ đó tăng hiệu quả
kinh tế xã hội của đất đai.
(4) Tổ chức phối kết hợp giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan ở các cấp
trong việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai nói chung và thu ngân sách
nhà nước từ đất đai nói riêng. Có cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên và
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ.
3.3. Giải pháp về quản lý và phát triển tài nguyên
Trước hết, cần phải thống nhất quan điểm, chuyển cách tiếp cận về đất
đai, tài nguyên thiên nhiên; đất đai, tài nguyên thiên nhiên phải được ứng xử với

tư cách là nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội, phòng chống biến đổi khí hậu
và bảo vệ môi trường. Đây là cơ sở để nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm
khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính này, cụ thể:

19


Thứ nhất, cần phải thực hiện quản lý thống nhất nguồn lực từ đất đai, tài
nguyên thiên nhiên trên cơ sở một khung pháp lý thống nhất có tính nguyên tắc
từ đánh giá, xác định nguồn lực cho đến công cụ, phương thức, tổ chức khai thác
và phân bổ, sử dụng nguồn lực khai thác được cho phát triển kinh tế xã hội và
cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá tiềm năng đất đai, tài
nguyên thiên nhiên trong đó cần phải lượng hóa, đánh giá được khía cạnh tài
chính, giá trị thực tế có khả năng khai thác. Trong điều kiện ngân sách nhà nước
khó khăn, không đủ bố trí thì việc khuyến khích xã hội hóa, ban hành cơ chế thu
hút nguồn tài chính trong và ngoài nước cho công tác điều tra, đánh giá sẽ là giải
pháp cơ bản cho vấn đề này; cần có cơ chế chia sẻ thông tin, lợi ích cụ thể khi tổ
chức, cá nhân tham gia điều tra, đánh giá khi tổ chức thực hiện khai thác tài
nguyên.
Thứ ba, công tác lập quy hoạch, kế hoạch khai thác tài nguyên cần phải
dự báo, dựa trên thông tin nhu cầu của thị trường nhằm tối đa hóa lợi ích kinh tế
thu được khi thực hiện khai thác và kịp thời có sự điều chỉnh phù hợp khi diễn
biến thị trường có yếu tố bất lợi làm giảm giá trị tài nguyên khai thác. Đồng thời,
phát huy tối đa lợi thế so sánh giữa các địa phương có tài nguyên gắn với liên
kết vùng kinh tế nhằm hạn chế tình trạng khai thác tràn lan, tối ưu hóa việc khai
thác nguồn lực tài chính từ tài nguyên cho phát triển kinh tế xã hội của địa
phương, của vùng, của đất nước. Ngoài ra, khi lập quy hoạch, kế hoạch khai thác
tài nguyên cần phải đánh giá tác động môi trường một cách đầy đủ, nghiêm túc
và xác định rõ chi phí môi trường mà xã hội, người dân nơi có tài nguyên phải

gánh chịu khi thực hiện khai thác. Tài nguyên chỉ được khai thác khi tổng lợi ích
xã hội thu được lớn hơn tổng chi phí mà xã hội phải bỏ ra, gánh chịu.
Thứ tư, nghiên cứu hoàn thiện các phương pháp định giá tài nguyên, định
giá quyền khai thác tài nguyên phù hợp với thị trường và điều kiện cụ thể của
Việt Nam đảm bảo thực hiện thu đúng, thu đủ các khoản nghĩa vụ tài chính có
liên quan vào ngân sách nhà nước. Đẩy mạnh cấp quyền khai thác tài nguyên
thông qua hình thức đấu giá, thu hẹp dần cấp quyền theo hình thức chỉ định. Đối
với những khu vực mỏ, tài nguyên đã hết thời hạn khai thác thì phải thực hiện
đấu giá để giao quyền tiếp tục khai thác, ứng xử như đối với trường hợp cấp
quyền khai thác lần đầu. Việc giao quyền khai thác theo hình thức chỉ định chỉ
nên áp dụng đối với trường hợp thực sự đặc biệt, ảnh hưởng đến an ninh quốc
phòng, lợi ích quốc gia. Từng bước hình thành thị trường về quyền khai thác tài
nguyên từ thị trường sơ cấp (cấp phép ban đầu) đến thị trường thứ cấp (chuyển
nhượng quyền khai thác giữa các tổ chức, cá nhân). Thực hiện cải cách thủ tục
hành chính, giao cơ quan tài chính thực hiện nhiệm vụ giá tài nguyên, định giá
quyền khai thác tài nguyên nhằm đảm bảo cân đối thu – chi NSNN và rút ngắn
thời gian xác định, kịp thời tính, thông báo cho tổ chức, cá nhân thực hiện các
nghĩa vụ tài chính.
20


Thứ năm, nguồn lực tài chính từ đất đai, tài nguyên chỉ được sử dụng
cho đầu tư phát triển có mục tiêu (trước hết là cơ sở hạ tầng kinh tế), bảo vệ
nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái. Tổ chức, cá nhân khai
thác tài nguyên thiên nhiên làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái phải nộp
cho Nhà nước một khoản tiền tương ứng để khôi phục, hoàn trả môi trường
sinh thái những giá trị đã mất tại địa điểm khác để đảm bảo cân bằng sinh thái
bền vững. Thực hiện phương pháp điểm sinh thái để xác định giá trị môi
trường sinh thái phải hoàn trả khi khai thác tài nguyên.
Thứ sáu, tỷ lệ phân chia nguồn tài chính khai thác được từ tài nguyên

thiên nhiên giữa trung ương và địa phương cần phải có sự linh hoạt, điều chỉnh
phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn phát triển; không nhất thiết tất cả các
nguồn thu từ tài nguyên thiên nhiên thuộc về ngân sách địa phương trong khi
hầu hết các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng, có tính liên kết giữa các
vùng, địa phương và khắc phục hậu quả môi trường lại do ngân sách trung
ương đảm nhiệm. Cần phải xử lý tốt mâu thuẫn giữa phân cấp nguồn thu tài
nguyên với phân cấp về đầu tư giữa trung ương và địa phương.
Thứ bảy, tăng cường công khai, minh bạch, công tác kiểm tra, giám sát,
trách nhiệm giải trình nhằm đảm bảo quản lý chặt chẽ và khai thác tiết kiệm, có
hiệu quả nguồn lực từ đất đai, tài nguyên thiên nhiên phần lớn là hữu hạn này.
3.4. Giải pháp về tài sản kết cấu hạ tầng
Hoàn thiện khung pháp lý về quản lý tài sản kết cấu hạ tầng, trong đó tập
trung vào xây dựng chính sách về quản lý tài sản kết cấu hạ tầng giao thông
đường sắt và kết cấu hạ tầng thủy lợi theo hướng thu hút mạnh và sử dụng có
hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh
thực hiện xã hội hóa đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, mở rộng các phương
thức đầu tư; nâng cao chất lượng sử dụng vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
Tăng cường khai thác nguồn lực tài chính từ kết cấu hạ tầng giao thông nhằm
huy động vốn phát triển kết cấu hạ tầng giao thông (đường bộ, cảng biển, cảng
hàng không, đường sắt...) thông qua một số phương thức cho thuê quyền khai
thác hoặc chuyển nhượng có thời hạn, cụ thể:
- Bán quyền thu phí sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông đối với những
công trình kết cấu hạ tầng giao thông có khả năng và điều kiện thu thuận lợi
theo hướng cho phép các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh trong việc
thu phí đường bộ để tạo nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông; cụ thể: Nhà nước bán quyền thu phí sử dụng kết cấu hạ tầng giao
thông trong một thời hạn nhất định cho tổ chức, đơn vị, cá nhân. Tổ chức, đơn
vị, cá nhân mua quyền thu phí thực hiện thu phí theo giá do Nhà nước quy
định; đồng thời chịu trách nhiệm bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông trong thời
hạn mua theo đúng cấp tiêu chuẩn hiện có của kết cấu hạ tầng giao thông.

21


- Cho thuê quyền khai thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông theo hướng
cho phép các thành phần kinh tế được thuê quyền khai thác kết cấu hạ tầng
giao thông để tạo nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao
thông; cụ thể: Nhà nước cho thuê quyền khai thác kết cấu hạ tầng giao thông
trong một thời hạn nhất định cho tổ chức, đơn vị, cá nhân. Tổ chức, đơn vị, cá
nhân được thuê có quyền khai thác; đồng thời thực hiện bảo trì kết cấu hạ tầng
giao thông theo Hợp đồng đã ký kết.
- Chuyển nhượng có thời hạn kết cấu hạ tầng giao thông đối với những
kết cấu hạ tầng giao thông: Cơ chế này cho phép các thành phần kinh tế được
nhận chuyển nhượng kết cấu hạ tầng giao thông trong một thời hạn nhất định
để họ chủ động đầu tư xây dựng, bảo trì, kinh doanh khai thác kết cấu hạ tầng
giao thông theo nguyên tắc của thị trường; cụ thể: Nhà nước chuyển nhượng có
thời hạn kết cấu hạ tầng giao thông cho tổ chức, đơn vị, cá nhân. Người nhận
chuyển nhượng có thời hạn kết cấu hạ tầng giao thông sẽ được Nhà nước bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi thực hiện khai thác, bảo trì, bảo vệ kết cấu hạ
tầng giao thông; được quyết định thu phí sử dụng kết cấu hạ tầng giao thông
sau khi có ý kiến thoả thuận của cơ quan có thẩm quyền; được chủ động thực
hiện các biện pháp quản lý nhằm bảo đảm cấp tiêu chuẩn của kết cấu hạ tầng
giao thông khi đầu tư xây dựng. Đồng thời, người nhận chuyển nhượng có
trách nhiệm thực hiện đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, khai thác, bảo trì kết
cấu hạ tầng giao thông đã mua theo quy hoạch, đúng lộ trình cam kết.
- Khai thác quỹ đất 02 bên đường để tạo vốn phát triển tài sản kết cấu hạ
tầng giao thông: Quá trình Nhà nước đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao
thông tạo ra địa tô chênh lệch rất lớn của quỹ đất hai bên đường, nhất là tại các
vị trí có lợi thế thương mại ở các đô thị có giá đất cao. Cơ chế hiện hành chưa
tạo lập được hành lang pháp lý đủ mạnh để Nhà nước điều tiết nguồn lực này
theo hướng coi đây là nguồn lực tài chính to lớn, quan trọng để đầu tư phát

triển kết cấu hạ tầng giao thông. Do đó cần thiết phải có chế tài đủ mạnh theo
hướng tổ chức bán đấu giá đối với quỹ đất 2 bên đường để tạo thêm nguồn lực
phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
Đổi mới cơ chế về bảo trì tài sản kết cấu hạ tầng giao thông theo hướng:
(i) Áp dụng cơ chế mới theo hướng thống nhất một đầu mối trong quản lý NSNN
giữa vốn đầu tư xây dựng mới và vốn bảo trì tài sản kết cấu hạ tầng giao thông với
việc giao trách nhiệm bảo trì tài sản kết cấu hạ tầng cho nhà thầu xây dựng công
trình nhằm nâng cao chất lượng công trình, giảm chi phí bảo trì. (ii) Xử lý cân đối
giữa chi cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông và chi cho bảo trì các
công trình hạ tầng giao thông; theo đó chủ động dành ưu tiên cho bảo trì kết
cấu hạ tầng giao thông nhằm đảm bảo tuổi thọ và chất lượng công trình. (iii)
Thực hiện đổi mới hoạt động bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức
22


khoán bảo trì thay cho hình thức thanh toán khối lượng thực tế. Cơ chế này một
mặt giảm bớt khối lượng công việc thanh quyết toán; mặt khác phát huy tính
chủ động của người thực hiện bảo trì trong việc bảo đảm tình trạng kỹ thuật
của kết cấu hạ tầng giao thông.
3.5. Giải pháp về sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước
a) Phân định rõ trên cơ sở tách biệt quyền và trách nhiệm về quản lý, sử
dụng tài sản giữa cơ quan nhà nước với đơn vị sự nghiệp công lập, theo
hướng:
- Đối với các cơ quan nhà nước thực hiện đầu tư, bố trí theo tiêu chuẩn,
định mức quy định, có sự theo dõi, cập nhật, điều chỉnh phù hợp với thực tế
biến động về nhu cầu sử dụng TSNN, khả năng kinh phí, tình hình kinh tế của
đất nước và tiến tới hình thành các khu hành chính tập trung.
- Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập: Thực hiện đổi mới cơ chế hoạt
động theo kết luận 37/TB-TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị, theo đó chuyển
từng bước từ cơ chế giao đất không thu tiền sử dụng đất hiện nay sang thuê đất

theo nguyên tắc giá thị trường để tạo lập sự chủ động, minh bạch trong hạch toán
dịch vụ công. Trường hợp Nhà nước giao nhiệm vụ theo đơn đặt hàng thì thanh
toán theo nguyên tắc đảm bảo đủ bù đắp chi phí cho đơn vị; Đối với các tài sản
khác (không bao gồm đất) được Nhà nước xác định giá trị để giao cho đơn vị
quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp, đơn vị có trách nhiệm khấu hao
và bảo toàn vốn đã được giao.
b) Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước, đối
với những cơ sở nhà, đất gây ô nhiễm môi trường hoặc không phù hợp với quy
hoạch phải thực hiện di dời; tăng cường nhận thức và sự phối hợp giữa các Bộ,
ngành, địa phương, đảm bảo sớm hoàn chỉnh và công bố công khai quy hoạch
để có cơ sở triển khai thực hiện; tạo nên quỹ nhà, đất dôi dư để bố trí, sử dụng
theo quy hoạch của địa phương.
c) Thực hiện quyết liệt việc sắp xếp, bố trí lại quỹ nhà, đất trong quá
trình tái cấu trúc các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước: Nắm chắc và
đầy đủ quỹ nhà, đất hiện do các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước (bao gồm cả
các đơn vị thành viên) đang quản lý, sử dụng. Từ đó để làm cơ sở cho việc bố
trí lại quỹ đất phù hợp với nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động theo hướng tập trung
vào các KCN, khu kinh tế, khu thương mại... Đối với quỹ nhà, đất dôi dư sau
khi bố trí, sắp xếp lại thì cho phép bán, chuyển nhượng để tạo vốn tái đầu tư
cho SXKD ; Đối với quỹ nhà, đất được phép chuyển mục đích sử dụng nhưng
chưa thực hiện thì đánh giá lại theo giá thị trường và chuyển giao cho các đơn
vị có chức năng; Đối với quỹ nhà, đất dôi dư mà doanh nghiệp không có
phương án sử dụng hợp lý, có hiệu quả thì thu hồi, bán đấu giá hoặc chuyển
23


giao cho địa phương để phục vụ cho lợi ích công cộng theo quy hoạch.
Tổ chức đánh giá nhu cầu và hiệu quả sử dụng đất của các doanh nghiệp
cổ phần hoá, từ đó áp dụng các biện pháp tài chính, kinh tế để thúc đẩy sử dụng
đất có hiệu quả, tổ chức di dời các cơ sở SXKD gây ô nhiễm môi trường, tập

trung đông người ra khỏi đô thị. Khi thực hiện phương án cổ phần hóa cần đảm
bảo nguyên tắc giá trị tài sản nhà nước được định giá theo nguyên tắc thị
trường, bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất.
Tổ chức thực hiện thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo cơ chế mới,
đảm bảo giá đất sát với thực tế thị trường; đồng thời, tăng cường kiểm soát việc
sử dụng vốn của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, hạn chế tình trạng đầu
tư thoát ly với nhiệm vụ chính của doanh nghiệp, thực hiện chuyển đổi, rút dần
vốn ra khỏi lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
d) Rà soát cơ chế chính sách ưu đãi về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và
các nghĩa vụ tài chính khác về đất đai đối với các lĩnh vực như điện lực, đường
sắt, hàng không..., tiến tới xóa bỏ ưu đãi để tạo ra sự bình đẳng, minh bạch giữa
các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
đ) Đối với các nông, lâm trường quốc doanh, đẩy mạnh rà soát, xử lý
theo Nghị quyết 28-NQ/TW ngày 16/6/2003 của Bộ Chính trị, chuyển sang mô
hình doanh nghiệp hoặc giao đất trực tiếp cho người dân, thực hiện nghĩa vụ tài
chính về đất đai theo quy định về pháp luật. Riêng đối với rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng thì duy trì Ban quản lý là đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính.
e) Đẩy mạnh công tác bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang
thuê, nếu người đang thuê không có nhu cầu mua thì thực hiện cải tạo, nâng
cấp và cho thuê theo giá, đảm bảo bù đắp chi phí.
3.6. Tập trung đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương ban hành định mức và
quy chế sử dụng xe ô tô theo quy định tại Quyết định số 32/2015/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ để phát huy kết quả rà soát.
3.7. Đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương công bố danh mục tài sản thực
hiện mua sắm tập trung của Bộ, cơ quan trung ương, địa phương. Sau khi Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 08/2016/QĐ-TTg ngày 26/02/2016, Bộ
Tài chính đã ban hành Thông tư số 34/2016/TT-BTC ngày 26/02/2016 công bố
danh mục mua sắm tập trung cấp quốc gia, Thông tư số 35/2016/TT-BTC ngày
26/02/2016 hướng dẫn quy trình mua sắm tập trung. Tuy nhiên, đến nay phần lớn
các Bộ, ngành, địa phương vẫn chưa công bố danh mục tài sản thực hiện mua sắm

tập trung của Bộ, cơ quan trung ương, địa phương theo quy định./.

Tô Quỳnh Thảo
24



×