Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Kien truc thoi ly

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.07 KB, 5 trang )

Kiến trúc

Gạch lát nền trang trí hoa cúc, thế kỷ 11-12, được tìm thấy tại Thành cổ Hà Nội.

Những công trình kiến trúc chủ yếu thời kỳ này là kinh thành, cung điện, dinh thự các quan lại, lăng mộ
vua chúa và đặc biệt là chùa chiền, đền miếu.
[sửa]Kinh

thành, cung điện

Đại Việt sử ký toàn thư mô tả việc xây dựng kinh thành Thăng Long thời Lý Thái Tổ như sau[1]:
Xây dựng các cung điện trong kinh thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm
chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ. Lại mở cửa Phi Long
thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng chính nam dựng
điện Cao Minh, đều có 3 thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía...
Cấm Thành (nơi ở của vua) có trục đối xứng bắc – nam, điện Càn Nguyên ở trên núi Nùng (Long
Đỗ). Nhà Lý cho xây dựng 36 cung, 49 điện ở khu trung tâm Cấm thành Thăng Long [2]. Công trình
hoàng thành Thăng Long, qua kết quả khai quật của giới khảo cổ học Việt Nam từ năm 2002 đã cho
thấy những dấu tích của nghệ thuật kiến trúc thời Lý. Đó là những công trình mang các đặc điểm [3]:


Đẹp và công phu



Phong phú về loại hình (từ 3 hàng chân cột tới 6 hàng chân cột một vì)



Quy mô rộng lớn (có kiến trúc dài 13 gian vẫn chưa kết thúc trong hố khai quật)




Trang trí rất tinh xảo, kết hợp hài hòa giữa các chất liệu gỗ - đá - gạch - đất nung



Quy hoạch thống nhất và cân xứng


Việc khai quật khu Hoàng thành Thăng Long ở 18 Hoàng Diệu (Hà Nội) còn giúp các nhà khảo cổ
nhận diện mặt bằng kiến trúc tại đây[4]:


Chân cột bằng đá, móng trụ sỏi, nền nhà lát gạch vuông, có cống thoát nước



Mặt bằng kiến trúc kiểu chữ nhật nhiều gian, có từ 3 cột đến 6 cột, bên cạnh các mặt bằng kiểu
lục giác, bát giác

Các sử gia đánh giá kiến trúc hoàng thành Thăng Long đánh dấu bước chuyển biến vượt bậc của
nghệ thuật kiến trúc và quy hoạch kinh thành Thăng Long [4].
Bến sông Hồng có điện Hàm Quang, bên hồ Kim Minh có điện Hồ Thiên Bát Giác, trên hồ Dâm
Đàm có cung Tây Hồ. Trong kinh thành có các vườn ngự uyển như Xuân Quang, Thượng Lâm,
Quỳnh Lâm, Bảo Hoa... Đời Lý Thái Tông làm thêm điện Tuyên Đức, điện Diên Phúc có thềm trước
gọi là thềm rồng (long trì), phía đông thềm rồng đặt điện Văn Minh, phía tây đặt điện Quang Vũ.
[sửa]Chùa,

đền, miếu


Chùa chiền mọc lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của Phật giáo. Chùa thời Lý được chia làm 3
hạng: Đại, Trung và Tiểu danh lam[2].
Nổi lên các chùa lớn là chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm (Bắc Ninh), chùa Long Đọi (Hà Nam).
Năm 1049, Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), dựng cột đá ở giữa ao, làm tòa sen
của Phật Quan Âm đặt trên cột đá. Năm 1105, Lý Nhân Tông cho sửa lại, vét hồ Liên Hoa đài, gọi là
hồ Linh Chiểu, ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy xung quanh, ngoài hồ có hành lang lại đào hồ
Bích Trì có cầu bắc qua để đi lại…
Thời Lý có nhiều quần thể chùa – tháp lớn. Kiến trúc chùa thời Lý thường có nhiều tầng nền giật
cấp, bạt sâu vào sườn núi, cao dần lên đỉnh, chỉ một tầng nền đã có chiều dài 120 mét và rộng 70
mét, tất cả được kè đá và bố cục đối xứng qua trục chính tâm và quy hoạch tổng thể, kết hợp hài
hòa giữa chùa và tháp. Trong chùa đặt tượng thờ, đồ thờ với nhiều chất liệu khác nhau, kết hợp cả 3
yếu tố thiền, tịnh, mật của các tông phái Phật giáo[5].
Các chùa thường có tháp lớn như tháp Báo Thiên 12 tầng – vài chục mét, tháp Phổ Minh cao 14
tầng – 21 mét, tháp Chiêu Ân 9 tầng, tháp Phật Tích 10 tầng, tháp Sùng Thiện Diên Linh 13 tầng,
tháp Vạn Phong Thành Thiện… Các tháp được trang trí tượng tròn, phù điêu bằng đá, đất nung đẹp
và nhiều tranh vẽ Phật trên tường và các bức chạm lộng bằng gỗ với chủ đề động vật, thực vật tươi
vui[4]
Ngoài chùa, nhà Lý còn xây dựng nhiều công trình khác như đền Đồng Cổ, lầu gác trên núi Cung
vua, Văn Miếu - Quốc Tử Giám... Việc xây dựng thời Lý được tuân thủ theo một nguyên tắc quy
hoạch của phương thuật địa lý thời cổ cho phù hợp với quy luật tự nhiên, hài hòa cao với cảnh quan
xung quanh, tận dụng tối đa lợi thế của môi trường. Hệ quả là tạo ra sự hòa hợp lâu dài giữa con
người với công trình và thiên nhiên[6]. Chùa thời Lý được đặt trong một quần thể kiến trúc, tại những
nơi có cảnh thiên nhiên tươi đẹp và có liên hệ cộng đồng dân cư, gần làng sát nước [5].
[sửa]Điêu

khắc, đúc tượng


Đầu rồng trang trí mái cung điện thời nhà Lý.


Nghệ thuật điêu khắc thời Lý là một thành tố hiện diện thường trực ngay cả ở những công trình
không có tên trong sử sách hay bia cổ cũng được trang hoàng uy nghiêm, bài trí lộng lẫy.[7]
Những công trình điêu khắc tinh tế với những tấm phù điêu mô típ hoa văn hoa cúc nhiều cánh, hoa
sen, lá cây và đặc biệt là rồng giun mình trơn nằm gọn trong chiếc lá đề. Đặc điểm chung là chân
thực, đơn giản, khỏe mạnh.[8]
Nghệ thuật đúc chuông – tô tượng rất phổ biến. Nước Đại Việt có 4 công trình nghệ thuật bằng đồng
nổi tiếng được gọi là “An Nam tứ đại khí” thì 3 trong số đó được tạo ra thời Lý:[9][10][8][11][12][13]

1. Tháp Báo Thiên còn gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, được xây trên một quả gò cạnh hồ
Lục Thủy vào tháng ba năm 1057 đời vua Lý Thánh Tông, trong phạm vi chùa Báo Thiên.
Tháp xây 12 tầng, cao mấy chục trượng

2. Chuông Quy Điền (chùa Một Cột – Hà Nội) đúc năm 1080 thời Lý Nhân Tông.
3. Tượng Phật Di Lặc chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh) do nhà sư Dương Không
Lộ đúc, cao 6 trượng (khoảng 20 mét).
Ngoài 3 tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao trên, các tác phẩm khác được xem là tiêu biểu gồm có: [14]


Tượng Phật A Di Đà ở chùa Phật Tích - Bắc Ninh. Tượng được tạc năm 1057, cao 2,77 mét, liền
với bệ. Nét mặt tượng trầm tư nhưng vẫn rạng rỡ



Các tượng linh điểu (Garuda)



Tượng người có cánh đánh trống (Kinnari) mang phong cách nghệ thuật Cham Pa, nét mặt đẹp
dịu dàng, trầm tư




Tượng sư tử chùa Hương Lãng dài gần 3 mét, rộng 1,5 mét có vẻ dũng mãnh



Dãy 10 con thú nằm ở cửa tiền đường chùa Phật Tích




Tượng rồng nằm dài theo bậc thềm, tượng người, voi, ngựa…

Các tượng người hay vật đều sinh động và có hồn; đường cong lớn và dày đặc, nét uyển chuyển
mềm mại, dù làm bằng chất liệu nào. Bố cục các tác phẩm điêu khắc đẹp cân xứng, hài hòa. [15]
[sửa]Âm

nhạc

Chạm khắc miêu tả dàn nhạc bát âm thời Lý

Ban đầu nhạc Việt thời Lý chịu ảnh hưởng ít nhiều từ nhạc Chiêm Thành (mà nguồn gốc xa từ Tây
Thiên tức Ấn Độ) qua những tù binh người Chiêm (cả nam lẫn nữ) bị bắt trong các cuộc nam
chinh của nhà Lý[16][8]. Năm 1060, Lý Thánh Tông đã cho dịch các khúc nhạc Chiêm Thành và cho
nhạc công ca hát.
Sau đó, ảnh hưởng của nhạc Trung Quốc tăng dần, các điệu nhạc du nhập từ phương bắc có “Nam
thiên nhạc”, “Ngọc lâu xuân”, “Mộng du tiên”, các bài hát có “Trang Chu nằm mộng hóa con bướm”,
“Bạch Lạc Thiên mẹ biệt ly con”… Nhạc cụ các nhạc công sử dụng thời Lý gồm có trống
cơm, tiêu, não, sáo trúc, đàn hồ, đàn cầm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn 7 dây, đàn 2 dây, đàn bầu…[8][17].
Phạm Đình Hổ thời Hậu Lê cho rằng nền ca kịch Đại Việt bắt đầu từ thời Lý, do những người

Hoa theo Đạo giáo sang dạy cho người Việt[18]. Nhảy múa thường xuyên được tổ chức trong cung
đình và trong dân gian. Ngoài ra nghệ thuật chèo cũng phổ biến, được giới quý tộc ham thích[8].
[sửa]Đánh

giá khái quát

Thành tựu kiến trúc thời Lý là kết quả của sự phối hợp giữa 2 yếu tố để phù hợp với điều kiện tự
nhiên, xã hội và tín ngưỡng đương thời [7]:

1. Sự kế thừa truyền thống người Việt: cân xứng, gọn gàng dung dị; tượng tròn, phù điêu sống
động.

2. Tiếp thu những yếu tố văn hóa ngoại sinh từ Chăm Pa, Ấn Độ, Trung Quốc như hình uyên
ương, sư tử, tiên nữ Apsara, thao thiết, makara, chim thần Garuda, nữ thần đầu người mình
chim Kinnari, Kim Cương, nhạc công Gandhavar…
Nghệ thuật điêu khắc thời Lý được đánh giá là đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình dân tộc
Việt[15].


Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu trong giới sử học, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời
Lý góp phần to lớn để sáng tạo ra giá trị của đỉnh cao văn hóa, văn minh thứ hai của người Việt phục
hưng[19].



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×