KIẾN TRÚC THỜI LÝ –
TRẦN Ở TỈNH VĨNH
PHÚ
Từ đầu công nguyên, đạo Phật, đạo Giáo và sau đó là đạo Nho đã thâm nhập nước
ta. Đến thời Đinh - Lê, đặt biệt là thời Lý - Trần, đạo Phật rất thịnh hành, được coi
như quốc giáo và chiếm địa vị độc tôn trong tín ngưỡng của nhân dân. Bấy giờ Nhà
nước xuất nhiều tiền bạc để xây dựng chùa chiền. Nhân dân tin sùng đạo Phật.
Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" đã tả quang cảnh nước ta thời đó: "nhân dân quá
nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa". Ở Vĩnh Phú có rất nhiều chùa làm
từ thời Lý - Trần: Chùa Cói, chùa Hà Thạch, chùa Hương Nộ, chùa Hữu Đô, chùa
Xuân Lũng, chùa Then, chùa Yên Phương
Rất tiếc là do thời gian, khí hậu khắc nghiệt và chiến tranh liên miên, cả "rưỡng"
chùa tháp, đình đền ở Vĩnh Phú đến nay chỉ còn xót lại một số nhỏ. Cả tỉnh có 153
ngôi đình, 79 ngôi chùa, 54 ngôi đền, 31 ngôi miếu và một số am nhỏ.
Những đình, chùa, đền, miếu kể trên đều được xây dựng theo những công thức
nhất định.
Về mặt bằng, thường được bố trí theo các kiểu: hình chữ "nhất", chữ "nhị", chữ
"tam", chữ "vương", chữ "đình", chữ "nhi", chữ "công", lớn hơn nữa thì "nội công
ngoại quốc". Hiện nay, trong số các kiến trúc cổ còn lại, loại "nội công ngoại quốc"
không còn ngôi nào, vì phần tạo thành chữ "quốc" ở ngoài thường đã bị đổ nát
hoặc bị thu hẹp qua các lần trùng tu. Phổ biến ở Vĩnh Phú là kiểu chữ "đinh" và
ch
ữ "công". Trong số kiến trúc c
òn l
ại th
ì ki
ểu chữ "đinh" chiếm tới 115 ngôi.
Về địa thế, thường được lựa chọn cẩn thận. Người xưa hay đặt công trình ở vị trí
cao ráo, thoáng mát, bên cạnh thường có hồ, ao, khe suối cho "sơn thủy hữu tình".
Chùa thời Lý - Trần thường làm trên đồi cao hay trên núi, xa nơi dân cư để chốn
thiếu tôn được tịch mịch, thanh nghiêm. Về sau, khi đạo Phật được đạo Nho bài
bác rồi suy yếu, chùa chiền bị lợi dụng làm nơi hành nghề mê tín dị đoan, bói toán
quàng xiên nên được chuyển về trong thôn xóm.
Về hướng, các kiến trúc tôn giáo thường quay về hướng nam hay đông nam mát
mẻ. Riêng các ngôi đình lại quay về hướng tây, vì quan niệm hướng tây là hướng
mặt trời lặn, là thế giới của người chết, của thần thánh. Mặt khác, rất có thể là do
đòi hỏi chống ẩm của kiến trúc vì bản thân mái đình thấp và rất dày đã làm cho
đình luôn luôn mát mẻ, nếu thêm gió nam thì sẽ làm tăng độ ẩm trong đình, làm
kiến trúc chóng hư hỏng. Đình quay hướng tây, buổi chiều đón được ánh nắng mặt
trời chiếu rọi vào khiến lòng đình luôn khô ráo.
Ở chùa, phần kiến trúc mang tính nghệ thuật nhiều nhất là tam quan và tháp. Tam
quan tức là cổng vào chùa có 3 cửa, ứng với thuyết Tam không cửóa nhà Phật,
thường cửa giữa to, hai cửa hai bên nhỏ hơn. Ơở tam quan thường có gác treo
chùa, khánh, trống. Ơở Vĩnh Phú, hiện nay chỉ còn tam quan chùa Xuân Lũng
(Phong Châu) là giữ được nguyên vẹn. Tam quan này làm khoảng thể kỷ XVII
g
ồm 2 tầng, 8 mái, lợp ngói mũi hai, tr
ên nóc đ
ắp rồng chầu, các góc mái đều có
đao cong vút lên trông rất đẹp. Tầng dưới gồm 3 gian, gian giữa rộng 3,30m, hai
gian cạnh rộng 1,70m. Cả 3 gian có 16 cột. Sau này, bốn góc có xây thêm 4 cột để
đổ mái. Hiện nay, địa phương lại xây thêm cả tường xung quanh nữa. Tầng trên có
treo một chuông và một khánh. Sân gác được lát gỗ kín, chỉ để một lỗ vuông bắc
thang cho người lên, xuống.
Từ thời Lý - Trần, ở Vĩnh Phú đã có nhiều tháp. Tháp là một bộ phận, một công
trình nghệ thuật quan trọng của chùa. Cùng với chùa tháp là nơi thờ Phật có tính
chất tưởng niệm và là nơi để hài cốt của các nhà sư. Các tầng của tháp tượng trưng
cho từng bước tu hành để lên cõi Niết Bàn của các Phật tử. Tháp có nhiều loại cao
thấp, to nhỏ, màu sắc khác nhau. Có tháp màu xanh như tháp Thiên Tôn (Lập
Thạch), tháp màu đỏ (tức là để nguyên màu đất nung) như tháp Bình Sơn, có tháp
lại tráng men rất đẹp như tháp chùa Trò (Vĩnh Lạc ) có tháp gạch được xây bằng
thứ đất đặc biệt, ngoài trát một lớp vôi vừa làm áo như tháp chùa Cói (Tam
Đảo).v.v
Thời xưa có tháp rất nhiều tầng, cao vài chục mét, như tháp chùa Gia Lăng (Gia
Lăng Thiền Trị) xã Hà Thạnh (Phong Châu). Tương truyền trong tháp chứa nhiều
đồ quý giá. Về sau tháp đổ là do dã tâm của một tên khách trú. Tên này đến đây
mở trường dạy chữ nho, học trò rất đông. Hàng ngày, hắn bắt mỗi học trò lấy vồ
đập mạnh vaò tháp 3 vồ, cứ thế trong 3 năm liền, tháp đỗ, hắn ta lấy hết đồ quý giá
trong tháp, trốn đi. Tháp mất hẳn, nhưng tên tháp vẫn còn. Để ghi nhớ hình ảnh
hùng v
ĩ, kiến trúc đồ sộ của tháp Gia Lăng ấy, nhân dân lấy t
ên "Ng
ọc Tháp", l
àm
địa danh cho vùng này.
Lúc đầu, tháp là một phần kiến trúc của chùa, nên tháp được xây dựng công phu và
có giá trị nghệ thuật. Về sau - từ khoảng thời Hậu - Lê trở đi - tháp chỉ còn là ngôi
mộ của nhà sư, nên xây đơn giản hơn. Tháp thấp, chỉ gồm hai, ba tầng. Đỉnh tháp,
đắp một nụ sen đang nở, có khi là một nậm rượu. Kiểu mộ tháp này còn tương đối
nhiều.
Một trong những thành công lớn nhất của các công trình kiến trúc cổ dân gian là
tính mỹ thuật và độ bền vững.
Bí quyết làm cho các kiến trúc cổ xưa vừa đẹp lại vừa khỏe, không chỉ là vật liệu -
là gỗ to, gỗ tốt, đá cứng hay gạch già - mà chính là sự tính toán giỏi giang (theo
cách tính dân gian của các nghệ nhân đời xưa) cả về hình học, vật lý, cả về mỹ
thuật và cả về kỹ thuật thi công xây dựng. Đó là cái tài về tính lực nén của bộ mái
nặng hàng chục tấn và các lực khác tác dụng vào như gió, bão để rồi phân phối
đều cho toàn bộ kiến trúc. Từ đó tạo cho kiến trúc một thế cân bằng. Ngoài chân
móng (nếu là tháp) và các cột (nếu là đình, chùa, đền) các trọng tâm phải chịu lực
nhiều hơn, các bộ phận khác phải chịu một lực nhất định, tương xứng với chức
năng của nó. Các xà ngang, dọc giằng lấy nhau hút lực đưa về ngọn cột, để cột
chịu lực là chính.
Cứ tưởng tượng quang cảnh ngày xưa khi hình học và đại số học chưa ra đời (hoặc
chưa được phổ biến) chưa có thước đo độ, chưa có bản tra sin hay cosin và các
phương tiện hiện đại như ngày nay, các nghệ nhân ngành kiến trúc tôn giáo (và dân
dụng) chỉ có gang bàn tay của mình với một cây sào dài, một mẫu than hay tí mực
nho mà đã tính toán, thiết kế và xây dựng một cách chính xác các công trình, đình,
chùa, tháp, miếu để các thế kỷ sau người đời chiêm ngưỡng, đúng là kỳ tài.