Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Các giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học phần công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học môn GDCD lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.19 KB, 19 trang )

`

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT NGUYỄN XUÂN NGUYÊN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC PHẦN
“CÔNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH THẾ GIỚI QUAN,
PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC” MÔN GDCD LỚP 10

Người thực hiện: Phùng Thanh Loan
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: GDCD

THANH HOÁ - NĂM 2016

1


`
MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề.


2.1.1 Lý luận chung về TGQ, PPL khoa học.
2.1.2 Vai trò của TGQ, PPL khoa học.
2.1.3 Một số yêu cầu khi dạy học phần “Công dân với việc
hình thành TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp 10.
2.2. Thực trạng việc dạy học phần “Công dân với việc
hình thành TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp 10.
2.3 Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phần
“CD với việc hình thành TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp 10.
2.3.1 Sử dụng câu chuyện Triết học.
2.3.2 Sử dụng kiến thức liên môn.
2.3.3 Liên hệ với thực tiễn.
2.4 Kết quả
3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận.
3.2 Kiến nghị.

Trang
1
1
2
2
2
2
2
2
4
5
7
8
8

10
13
14
16
16
16

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Giáo dục phổ thông là giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc
phát triển tư duy, nhân cách học sinh. Đúng như GS Võ Tòng Xuân đã từng
nhận định : “Cái gốc của hệ thống giáo dục mỗi quốc gia là giáo dục phổ
thông, nơi mà những kiến thức cơ bản, cần thiết về Khoa học Tự nhiên và Khoa
2


`
học Xã hội được giới thiệu cho mỗi người... Cái gốc này có vững thì con người
mới tự lập trong suốt cuộc đời.”
Mặt khác, trong luật Giáo dục năm 2005 cũng đã xác định: “Mục tiêu của
giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân.” (Điều
23).
Đáp ứng mục tiêu trên, môn Giáo dục công dân (GDCD) ở trường Trung
học Phổ thông (THPT) có ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc giáo dục, đào
tạo những chủ nhân tương lai của đất nước. Bởi lẽ, bộ môn không chỉ cung cấp
cho các em những kiến thức cơ bản nhất về Đạo đức, Pháp luật, các vấn đề
Chính trị - xã hội có tính thời sự cao, mà còn trang bị thế giới quan (TGQ),
phương pháp luận (PPL) khoa học, tư duy biện chứng duy vật cho học sinh. Đây

là việc làm quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng học tập, góp phần
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho xã hội, đáp ứng những đòi hỏi của thực
tiễn và xu thế hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để giảng dạy hiệu quả những tri thức triết học
cho học sinh, mà đặc biệt là học sinh lớp 10 phổ thông hiện nay không phải là
một việc làm đơn giản. Đối với các em, kiến thức về triết học là mới mẻ, trừu
tượng, khó hiểu. Do vậy, việc tiếp thu, lĩnh hội là vô cùng khó khăn. Ngay cả
sinh viên các trường đại học, cao đẳng hiện nay vẫn rất “sợ” triết học. Với đặc
thù kiến thức như vậy đã dẫn đến tình trạng học sinh không có hứng thú học tập,
đa số chỉ học vẹt, học qua loa mà không hiểu được cái hay của triết học, cái giá
trị cải tạo thực tiễn, cải tạo bản thân của triết học.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, bản thân tôi là một giáo viên, đang
trực tiếp giảng dạy môn GDCD ở trường THPT, tôi luôn trăn trở làm sao để học
sinh tiếp nhận tri thức bộ môn một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu nhất. Chính vì vậy,
tôi đã mạnh dạn áp dụng một số phương pháp mới khi giảng dạy các bài học về
triết học. Qua thực tế dạy học, tôi nhận thấy việc áp dụng những phương pháp
mới đã mang lại hiệu quả đáng kể. Cũng chính vì lý do đó, hôm nay, tôi xin
phép được trình bày những kinh nghiệm của bản thân mình trong quá trình giảng
dạy phần “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa
học” môn GDCD lớp 10.
Tôi chọn đề tài “ Các giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học phần Công
dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa học môn GDCD lớp 10 ” cho sáng
kiến kinh nghiệm của mình, nhưng đó chỉ là những kinh nghiệm chủ quan của
cá nhân tôi. Vì thế không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự ủng
hộ và góp ý chân thành từ đồng nghiệp.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Kiến thức ở phần thứ nhất môn GDCD lớp 10 (Công dân với việc hình
thành TGQ, PPL khoa học) là những kiến thức về Triết học. Đó là những nội
dung trừu tượng, có tính tổng hợp, khái quát cao…, do đó chất lượng của quá
3



`
trình dạy học phụ thuộc rất lớn vào khả năng tiếp nhận và xử lý tri thức của
người thầy. Nếu người thầy biết “mềm hóa” kiến thức, linh hoạt trong dạy học,
gắn tri thức với thực tế cuộc sống… học sinh sẽ dễ dàng biết, hiểu và vận dụng
tri thức. Ngược lại, nếu người thầy cứng nhắc, truyền đạt theo sách vở, hạn chế
tính thực tế… thì quá trình học tập của học sinh sẽ bị xơ cúng, khó khăn, thụ
động, thậm chí là không có hiệu quả. Vì vậy, việc đưa ra những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả khi dạy – học phần “Công dân với việc hình thành TGQ, PPL
khoa học” là vô cùng quan trọng.
Nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ đạt được hai mục đích cơ bản:
+ Thứ nhất, góp phần nâng cao nhận thức về việc áp dụng một số phương
pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phần “Công dân với việc hình thành
TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp 10.
+ Thứ hai, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hứng thú học tập
trong học sinh.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài, tôi tổng kết vấn đề vận dụng một số phương pháp để
nhằm nâng cao hiệu quả dạy – học phần “ Công dân với việc hình thành TGQ,
PPL khoa học ” môn GDCD lớp 10. Đối tượng cụ thể đó là các em học sinh lớp
10 trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: đọc, phân tích, so sánh, tổng hợp,
khái quát hóa,… nhằm thu thập thông tin về lý luận.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: dự giờ, thăm lớp, thiết kế bài thực
nghiệm, trực tiếp lên lớp, phân tích các số liệu thống kê.
- Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn: xây dựng câu hỏi, bảng
biểu, xử lý số liệu nhằm tìm hiểu thực trạng của quá trình dạy học môn GDCD ở

trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
- Phương pháp thống kê toán học: xử lý kết quả thu được qua thực nghiệm
sư phạm nhằm đánh giá chất lượng và hiệu quả của quá trình thực nghiệm.
2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lý luận của vấn đê
2.1.1 Lý luận chung về TGQ, PPL khoa học
Để nhận thức và cải tạo thế giới, nhân loại đã xây dựng nên nhiều môn
khoa học, trong đó có Triết học. Mỗi môn khoa học cụ thể sẽ đi sâu nghiên cứu
một lĩnh vực, một bộ phận cụ thể, còn Triết học lại nghiên cứu những vấn đề
chung nhất, phổ biến nhất của thế giới. Do vậy, có thể hiểu Triết học là hệ thống
các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người t rong thế
giới đó.
Do đối tượng nghiên cứu của Triết học là những quy luật chung nhất, phổ
biến nhất về sự vận động, phát triển của giới tự nhiên, đời sống xã hội và lĩnh
4


`
vực tư duy nên Triết học có vai trò là TGQ, PPL chung cho mọi hoạt động thực
tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
Vậy thế nào là TGQ? Thế nào là PPL? TGQ, PPL nào là khoa học, đúng
đắn?
Theo cách hiểu thông thường, TGQ là quan niệm của con người về thế
giới. Những quan niệm này luôn luôn phát triển, biểu hiện sự hiểu biết ngày
càng sâu sắc, đầy đủ về thế giới xung quanh. Dựa vào tri thức của các ngành
khoa học cụ thể, Triết học diễn tả thế giới quan của con người dưới dạng một hệ
thống các phạm trù, quy luật chung nhất, cắt nghĩa về mặt lý luận các hiện tượng
xung quanh, tạo niềm tin và định hướng cho con người trong hoạt động.
Vì vậy, có thể hiểu thế giới quan là toàn bộ những quan điểm và niềm tin
định hướng hoạt động của con người trong cuộc sống.

Dù là thế giới quan nào cũng đều quan tâm giải quyết những câu hỏi như:
Thế giới quanh ta là gì, có thật hay không? Con người có nguồn gốc từ
đâu? Con người có nhận thức được thế giới xung quanh hay không?... Những
câu hỏi này đều có liên quan đến mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tư
duy và tồn tại… Đây cũng chính là vấn đề cơ bản của các hệ thống TGQ cũng
như vấn đề cơ bản của Triết học.
Trả lời những câu hỏi trên, lịch sử Triết học đã chỉ ra hai hệ thống TGQ
đối lập nhau là TGQ duy vật và TGQ duy tâm.
TGQ duy vật cho rằng, giữa vật chất và ý thức thì vật chất là cái có
trước, cái quyết định ý thức. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức của con người, không do ai sáng tạo ra và không ai có thể tiêu diệt được.
Ngược lại, TGQ duy tâm lại cho rằng, ý thức là cái có trước và là cái sản sinh
ra giới tự nhiên.
Với hai hệ thống TGQ đối lập nhau như vậy, vậy TGQ nào là đúng, là
khoa học? Thực tế đã chứng minh và khẳng định rằng, TGQ duy vật là đúng
đắn. Nó có vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, nâng cao vai trò của
con người đối với giới tự nhiên và sự tiến bộ xã hội, định hướng cho mọi hoạt
động của con người. Ngược lại, TGQ duy tâm thường là chỗ dựa về lý luận cho
các lực lượng xã hội lỗi thời, kìm hãm sự phát triển xã hội. Do vậy, được trang
bị một TGQ khoa học đúng đắn là hết sức cần thiết đối với mỗi chúng ta. Tuy
nhiên, chỉ với một TGQ khoa học, đúng đắn thôi thì chưa đủ, TGQ ấy chỉ giúp
chúng ta đạt được kết quả tốt nhất trong mọi hoạt động khi nó được kết hợp với
một PPL khoa học. Vậy thế nào là PPL? PPL nào là khoa học, đúng đắn?
Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (methodos) có nghĩa
là con đường, cách thức, phương tiện để đạt đến mục đích. Tuy nhiên, trong quá
trình phát triển khoa học loài người đã không dừng lại ở những phương pháp,
cách thức cụ thể. Những cách thức cụ thể đó dần dần được khái quát, xây dựng
thành những hệ thống lý luận chặt chẽ và đó chính là PPL.

5



`
Vì vậy, có thể hiểu, PPL là học thuyết về phương pháp nhận thức khoa
học và cải tạo thế giới.
Lịch sử Triết học cũng đã chỉ ra, có hai PPL cơ bản đối lập nhau đó là PPL
biện chứng và PPL siêu hình. PPL siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng một cách
phiến diện, chỉ thấy chúng tồn tại ở trạng thái cô lập, không vận động, không
phát triển, áp dụng một cách máy móc đặc tính của sự vật này vào sự vật khác.
PPL siêu hình làm cho con người “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà
không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giũa những sự vật ấy… giống như việc chỉ
nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng”. Còn PPL biện chứng là phương pháp
xem xét sự vật, hiện tượng trong sự ràng buộc lẫn nhau giữa chúng, trong sự
vận động và phát triển không ngừng giữa chúng. Như vậy, PPL biện chứng thể
hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết
thì bên cạnh cái “hoặc là…hoặc là…” còn có cả cái “vừa là…vừa là…” nữa. Nó
thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó vừa không phải là nó, vừa loại trừ
lại vừa gắn bó với nhau. PPL biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn
tại. Nhờ vậy, phương pháp này trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận
thức và cải tạo thế giới.
Nói tóm lại, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến, mỗi người
nói chung, mỗi học sinh nói riêng cần phải trang bị cho mình một TGQ, một
PPL khoa học, đúng đắn và TGQ, PPL đó không thể khác ngoài TGQ duy vật và
PPL biện chứng. TGQ duy vật, PPL biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau tạo
thành chủ nghĩa duy vật biện chứng trong triết học Mác – Lê nin. Hệ thống các
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, do tính đúng đắn và triệt để của nó
đem lại, đã trở thành nhân tố định hướng cho mọi hoạt động của mỗi người.
2.1.2 Vai trò của TGQ, PPL khoa học
Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những
vấn đề thuộc về TGQ. TGQ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống

của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới, dù muốn hay không
con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri
thức này dần dần hình thành nên TGQ. Khi đã hình thành, TGQ lại trở thành
nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới. Có thể
ví TGQ như một “thấu kính”, qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh
cũng như tự xem xét chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý
nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động để đạt được mục đích, ý nghĩa
đó.
Như vậy, TGQ đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và
trình độ phát triển của TGQ là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá
nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
PPL là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc
tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Tuy không phải là
một ngành khoa học độc lập nhưng PPL là một bộ phận không thể thiếu trong

6


`
bất cứ một ngành khoa học nào. PPL được chia làm ba loại: PPL ngành; PPL
chung và PPL chung nhất.
+ PPL ngành là PPL của một ngành khoa học cụ thể nào đó.
+ PPL chung là PPL được sử dụng cho một số ngành khoa học.
+ PPL chung nhất là PPL được dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định
các PPL chung, các PPL ngành và các PPL khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và
vai trò của con người trong thế giới đó. Mặt khác, với việc nghiên cứu những
quy luật chung nhất về tự nhiên, xã hội, tư duy thì PPL chung nhất là PPL của
triết học. Mỗi PPL sẽ thực hiện ở mỗi ngành khoa học khác nhau nhưng đều tạo
nên khả năng cải tạo thế giới, trở thành công cụ hữu hiệu trong hoạt động chế

ngự giới tự nhiên và sự nghiệp giải phóng con người. Tuy nhiên, cũng cần phải
khắng định rằng, chỉ có một PPL khoa học, đúng đắn nhất mới mang lại hiệu
quả cao nhất cho việc cải tạo tự nhiên và xã hội loài người. Một PPL khoa học,
đúng đắn sẽ là “kim chỉ nam” cho hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực
tiễn của con người.
Tóm lại, với tất cả những lý luận trên, một lần nữa có thể khẳng định,
TGQ, PPL khoa học, đúng đắn (chủ nghĩa duy vật biện chứng) có vai trò vô
cùng quan trọng. Nó không chỉ làm cho sự phát triển của khoa học không mất
phương hướng và đạt được những thành quả cao nhất mà nó có thể đạt được.
Mặt khác, nó còn giúp con người tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất
chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo. đáp ứng những đòi hỏi cấp bách
của công cuộc đổi mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.
2.1.3 Một số yêu cầu khi dạy học phần “Công dân với việc hình thành
TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp 10.
Môn GDCD ở trường THPT là một hệ thống các kiến thức liên quan đến
nhiều lĩnh vực, trong đó có triết học (phần thứ nhất - GDCD lớp 10). Tuy kiến
thức của triết học là những nội dung trừu tượng, khó hiểu, mang tính khái quát
nhưng nó lại có vai trò hình thành TGQ, PPL khoa học cho học sinh. Vì vậy,
việc giảng dạy hiệu quả kiến thức ở phần này có ý nghĩa to lớn đối với người
giáo viên. Để làm được điều này, đòi hỏi người giáo viên cần phải thực hiện một
số yêu cầu sau:
Thứ nhất, giáo viên phải thực sự nắm vững các kiến thức về chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác – Lê nin.
Phải có phông kiến thức sâu rộng về triết học (hai nguyên lý, ba quy luật, sáu
cặp phạm trù, lý luận nhận thức, hình thái kinh tế - xã hội…vv).
Để có kiến thức rộng, sâu giáo viên cần phải có sự đầu tư, luôn trau dồi
kiến thức, học tập, nghiên cứu nhiều tài liệu liên quan đến triết học.

7



`
Mặc dù yêu cầu cần có kiến thức sâu rộng nhưng trong quá trình giảng
dạy người giáo viên cũng không nên ôm đồm kiến thức. Điều này sẽ dễ đẫn đến
việc truyền thụ mang tính hàn lâm.
Thứ hai, khi giảng dạy kiến thức về triết học, nhất thiết giáo viên phải liên
hệ với thực tiễn, phải gắn lý luận với thực tiễn. Những tri thức môn GDCD nói
chung và phần triết học nói riêng luôn gắn chặt với tình hình thực tế của đời
sống xã hội, sự phát triển của thế giới, của đất nước, của con người Việt Nam.
Trong khi đó thế giới khách quan và cuộc sống luôn luôn vận động, biến đổi
hàng ngày, hàng giờ. Đó chính là thực tế sinh động góp phần đắc lực vào việc
làm sáng tỏ, chứng minh cho lý thuyết khoa học của bộ môn và đó cũng là quá
trình rèn luyện tư duy lý luận cho từng học sinh, từng bước giúp các em tiếp cận
với phương pháp nhận thức, phương pháp nghiên cứu và rèn luyện cho mình
cách suy nghĩ độc lập, sáng tạo.
Tuy nhiên, thực tế rất đa dạng và phong phú, đòi hỏi khi giảng dạy giáo
viên phải lựa chọn sao cho sát với nội dung bài giảng và phù hợp với đặc điểm
tâm, sinh lý, trình độ hiểu biết, nhận thức và tư duy của học sinh.
Thứ ba, khi giảng dạy phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản và hiện đại.
Tri thức phổ thông là những tri thức thiết yếu đối với cuộc sống, cần phải phổ
cập với mọi người. Tri thức cơ bản là hệ thống những tri thức và kỹ năng quan
trọng được lựa chọn từ các lĩnh vực khoa học, làm cơ sở vững chắc cho mọi
người học tập suốt đời. Tri thức hiện đại là những kiến thức mang tính chuẩn
mực, có khả năng ứng dụng và phù hợp với xu thế giáo dục của thế giới.
Đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, hiện đại trong dạy học triết học chính là
trang bị cho học sinh những kiến thức mà các em có thể vận dụng vào cuộc sống
của bản thân. Đó là những tri thức phù hợp với trình độ nhận thức, phù hợp với
đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh, sát với mục tiêu giáo dục của trường THPT.
Mặt khác, việc đảm bảo truyền thụ những tri thức mang tính phổ thông, cơ

bản, hiện đại còn giúp giáo viên tránh được khuynh hướng giảng dạy vượt quá
khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin của học sinh hoặc đơn giản hóa những tri
thức mang tính khái quát hóa, trừu tượng hóa.
Thứ tư, cần sử dụng triệt để các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại
như: máy vi tính, radio, máy chiếu, video… nhằm hỗ trợ đắc lực cho việc truyền
tải kiến thức. Các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại sẽ làm phong phú thêm
tiết dạy, thay đổi cách học, phương pháp học, tạo sự hứng thú, kích thích sự tìm
tòi, khám phá của học sinh. Đồng thời, giúp các em phát huy được tính chủ
động, sáng tạo trong học tập.
Tóm lại, kiến thức phần “Công dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa
học” trong môn GDCD lớp 10 có vị trí quan trọng trong toàn bộ cấu trúc chương
trình GDCD bậc THPT. Vì thế, khi giảng dạy người giáo viên cần phải thực hiện
tốt các yêu cầu trên. Điều đó giúp giáo viên truyền thụ tri thức cho học sinh một
cách hiệu quả. Đồng thời, giúp học sinh củng cố được niềm tin, định hướng phát

8


`
triển và hoàn thiện nhân cách, góp phần tích cực vào việc giáo dục học sinh
thành những công dân mới phát triển toàn diện.
2.2 Thực trạng việc dạy học phần “Công dân với việc hình thành TGQ,
PPL khoa học” môn GDCD lớp 10.
Như chúng ta đã biết, môn GDCD có vai trò giáo dục và giáo dưỡng. Nó
bao gồm một hệ thống các tri thức khoa học phù hợp với từng đối tượng nhận
thức. Nó góp phần hình thành TGQ khoa học và phương pháp tư duy biện chứng
cho học sinh. Nếu như kiến thức của các môn khoa học cơ bản khác cung cấp
cho học sinh những nguyên liệu để xây dựng nên lâu đài của tương lai thì kiến
thức môn GDCD sẽ là một kiến trúc sư thiết kế toàn bộ lâu đài đó. Nó chỉ cho
chúng ta thấy cần phải làm gì và làm như thế nào để đạt được mục đích.

Tuy nhiên, trên thực tế học sinh lại có tâm lý coi môn GDCD là môn học
phụ, không thích học và không cần học. Các em chỉ dành nhiều thời gian cho
những môn học mà sẽ thi Tốt nghiệp và xét vào Đại học, Cao đẳng. Vì thế, đã
thiếu đi sự quan tâm và đầu tư cho môn học này. Bên cạnh đó, kiến thức môn
học liên quan đến triết học cho nên rất khô khan, trừu tượng, khó hiểu… Đây
cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không có
hứng thú học tập bộ môn.
Theo kết quả điều tra việc học tập phần “Công dân với việc hình thành
TGQ, PPL khoa học” của học sinh lớp 10 trường THPT Nguyễn Xuân Nguyên
cho thấy: Có tới 58,6% học sinh không thích học; 22,3% học sinh thích học và
19,1% học sinh không có ý kiến. Mặt khác, qua thực tế sáu năm giảng dạy, tôi
nhận thấy tình trạng học sinh không học bài cũ, không xem trước bài mới còn
khá phổ biến. Khi yêu cầu học sinh làm bài tập về nhà, một số học sinh không
làm, số học sinh làm bài thì cũng là miễn cưỡng, bắt buộc, làm kiểu đối phó…
Vì vậy mà hiệu qủa học tập mang lại không cao.
Đặc thù của học sinh THPT nói chung và học sinh lớp 10 nói riêng là ham
học, thích tìm hiểu, khám phá những cái chưa biết, nhưng các em lại không nhận
thấy rằng môn GDCD, đặc biệt là phần triết học rất sát với đời sống, cung cấp
phương tiện khám phá thế giới vô cùng vô tận. Từ đó, có thể cải tạo thế giới một
cách hiệu quả. Nhìn chung, học sinh chưa thấy được ý nghĩa môn học và chưa
biết vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc
sống.
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Song, có thể phân tích cụ
thể một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, xuất phát từ nội dung chương trinh môn GDCD lớp 10. Phần
thứ nhất “Công dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa học” là phần có kiến
thức mới mẻ mà trước đó ở trung học cơ sở, các em chưa từng được làm quen
nên rất bỡ ngỡ khi chưa có phương pháp học tập, nghiên cứu bộ môn. Từ đó,
ảnh hưởng đến việc tiếp thu có hiệu quả tri thức mới này. Mặt khác, nhiều bài,
nhiều mục nội dung kiến thức quá cao, quá rộng đối với nhận thức của học sinh

lớp 10. Điều này tạo ra cái quá khó đối với việc tự đọc Sách giáo khoa (SGK),
9


`
cũng như nghe giảng của học sinh. Một khi không đủ trình độ tiếp nhận kiến
thức ở mức độ cao sẽ sinh ra tâm trạng chán nản, không thich học.
Thứ hai, vấn đề tiếp theo nằm ở phương pháp dạy học. Có thể nói, với
mỗi môn học, học sinh tiếp thu kiến thức như thế nào, có thích học môn học đó
hay không phụ thuộc rất lớn vào phương pháp giảng dạy của giáo viên. Để dạy
tốt phần “Công dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp
10 đòi hỏi người giáo viên không những phải vững vàng về trình độ chuyên
môn, mà còn biết đổi mới phương pháp dạy học. Biết biến cái khó, cái phức tạp
thành cái đơn giản, biết khơi dậy niềm hứng thú, ham học hỏi và nắm bắt kiến
thức của học sinh. Thế nhưng, đa số giáo viên dạy môn GDCD ở trường THPT
chưa đầu tư xứng đáng cho môn học, không ít giáo viên trình độ còn hạn chế,
đặc biệt là khi giảng dạy về phần triết học. Nhiều giáo viên khi giảng dạy chỉ tập
trung nhắc lại các kiến thức trong SGK, vẫn còn chú trọng truyền thụ kiến thức
theo kiểu thuyết trình, giảng giải, không phát huy được tính tích cực, chủ động,
phát triển tư duy cho học sinh.
Thứ ba, đó là việc đầu tư cơ sở vật chất phục vụ bộ môn. Với tâm lý là bộ
môn không thi tốt nghiệp hay xét Đại học, Cao đẳng nên kể cả các cấp lãnh đạo,
quản lý cũng coi nhẹ việc đầu tư trang thiết bị dạy học cho bộ môn này. Lâu nay,
khi giáo viên giảng dạy bộ môn muốn có những công cụ, thiết bị để hỗ trợ quá
trình dạy học thì thường phải tự tìm tòi, tự thiết kế, rất tốn thời gian, công sức và
tiền bạc. Phòng lưu trữ phương tiện, thiết bị dạy học phục vụ bộ môn GDCD của
các trường THPT nói chung thường rất “nghèo nàn”.
Thứ tư, một nguyên nhân mang tính khách quan cũng ảnh hưởng không
nhỏ tới chất lượng dạy và học phần kiến thức này đó là sự tồn tại của niềm tin
tôn giáo. Những tri thức triết học các em được học trong nhà trường luôn trái

ngược với những điều mà kinh sách đã dạy các em. Từ đó, phần nào làm cho các
em giảm lòng tin vào các tri thức khoa học. Như vậy, vấn đề đặt ra là làm sao để
những tri thức khoa học thắng được niềm tin tôn giáo, điều này đòi hỏi sự nỗ lực
rất lớn của giáo viên trong công tác giảng dạy của mình.
Trên đây là một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng việc dạy và
học phần “Công dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp
10 còn nhiều hạn chế. Từ thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng một số
phương pháp mới khi giảng dạy phần kiến thức này, nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả, chất lượng dạy và học phần triết học nói riêng và môn GDCD nói
chung.
2.3 Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phần “Công dân
với việc hình thành TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp 10.
2.3.1 Sử dụng câu chuyện Triết học.
Khi giảng dạy phần “Công dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa học”
môn GDCD lớp 10, tùy vào nội dung từng bài, từng mục mà việc sử dụng các
câu chuyện Triết học, hoặc mang ý nghĩa triết học sẽ là công cụ hữu hiệu giúp
học sinh hiểu bài một cách nhanh nhất. Sau đây là một số ví dụ cụ thể:
10


`
Khi giảng dạy bài 1: “TGQ duy vật và PPL biện chứng”, muốn giảng giải
cho học sinh hiểu về TGQ duy vật, TGQ duy tâm và làm rõ vai trò của TGQ duy
vật là khoa học, đúng đắn. Đồng thời, giáo dục học sinh có những hành động
tích cực trong hoạt động thưc tiễn, giáo viên có thể sử dụng câu chuyện “Hai hạt
giống” .
(Có hai thanh niên nghèo khổ đi tìm hạnh phúc. Sứ giả Hạnh phúc ban
cho mỗi người một hạt giống hạnh phúc. Sau đó, một người thanh niên trở về
đem hạt giống đó gieo trên mảnh đất của mình, ngày ngày chăm bón cho cây.
Rồi anh lại ươm cây, chăm sóc…nên cả mảnh vườn đầy cây xanh tốt, sai trữu

quả, anh bán những quả ngon lành ấy và dần dần trở nên giàu có. Anh lấy vợ, có
hai con, sống cuộc đời sung sướng hạnh phúc. Người thanh niên kia sau khi trở
về lập miếu tế thần, đem hạt giống hạnh phúc tế thần, hàng ngày chân thành
cúng bái, cầu nguyện, đến nỗi tóc bạc đi nhưng vẫn nghèo khổ xơ xác. Anh lặn
lội đi tìm sứ giả vì cho rằng sứ giả đã lừa anh. Sứ giả mỉm cười bảo anh đến tìm
người thanh niên kia xem. Khi anh đến, thấy vườn cây ăn quả xanh tốt, người
kia giàu có, sung sướng thì bừng tỉnh, vội về nhà tìm hạt giống, nhưng hạt giống
đã bị mọt ăn rỗng hết rồi…)
Qua câu chuyện, giáo viên cho học sinh thảo luận và chốt vấn đề: Con
người sinh ra ai cũng muốn giàu sang, hạnh phúc. Nhưng muốn có được điều đó
thì phải lao động để làm ra của cải vật chất, chính con người là chủ nhân của số
phận, chứ không phải một lực lượng thần bí nào đó. Chúng ta phải biết đấu tranh
chống lại tư tưởng duy tâm làm cho con người lười biếng, chỉ muốn hưởng thụ,
hoặc “há miệng chờ sung”…
Hoặc, khi muốn làm rõ khái niệm PPL siêu hình, PPL biện chứng và ý
nghĩa của chúng, giáo viên có thể sử dụng câu chuyện “Khỉ nhân đạo, cá vô ơn”.
(Khỉ cứu một con cá bị dòng nước lũ hất văng lên mắc vào một khe đá.
Khỉ đặt con cá đã rất yếu ớt lên một phiến đá cao, lấy lá cây che cho cá khỏi bị
nắng, mưa rồi bỏ đi hái quả. Một lúc sau, khi quay trở lại khỉ thấy cá đã chết
khô. Khỉ bực mực mình: Đúng là đồ vô ơn.)
Qua câu chuyện, giúp học sinh hiểu con cá chết xuất phát từ phương pháp
nhận thức siêu hình của khỉ, khỉ nghĩ con vật nào cũng giống như nó, có thể
sống trên cạn mà không thấy được sự sống của cá gắn liền với nước, (áp đặt một
cách máy móc đặc tính của sự vật, hiện tượng này vào sự vật, hiện tượng khác).
Khỉ cứ nghĩ mình cứu cá nhưng chính hành động thiếu hiểu biết của khỉ đã
khiến khỉ chính là kẻ hại cá.
Đối với bài 3: “Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất”, khi cần
làm rõ nội dung “Vận động là phương thức tồn tại của thế giới vật chất”, giáo
viên có thể kể cho học sinh nghe câu chuyện sau:
(Giờ kiểm tra môn Triết học, giáo viên đọc câu hỏi: Bằng kiến thức đã

học, anh/chị hãy chứng minh : “chiếc ghế không vận động”. Sinh viên mải miết
làm bài, ai cũng viết được khá nhiều. Nhưng, duy nhất chỉ có một nam sinh viên

11


`
được điểm tuyệt đối, 10 điểm. Điều đặc biệt là bài làm của cậu chỉ vỏn vẹn hai
từ: “ghế nào?”…)
Qua câu chuyện, giáo viên nhấn mạnh cho học sinh hiểu: Mọi sự vật, hiện
tượng đều vận động. Không có bất kỳ sự vật, hiện tượng nào lại không vận
động. Thông qua vận động mà sự vật, hiện tượng thể hiện sự tồn tại của mình.
Vì thế không có cái gì đã tồn tại mà lại không vận động. Bài làm của nam sinh
viên thể hiện sự uyên thâm, sâu sắc về kiến thức.
Vẫn áp dụng phương pháp này, với bài 6: “Khuynh hướng phát triển của
sự vật, hiện tượng”, khi cần làm rõ nội dung kiến thức: thế nào là phủ định của
phủ định; có cái mới cuối cùng hay không?..., giáo viên có thể sử dụng câu
chuyện về quả trứng và con gà, cái nào có trước?...vv
Tóm lại, với việc sử dụng các câu chuyện Triết học, hay mang ý nghĩa
triết học trong dạy học sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh với bài giảng, kích
thích các em tư duy, động não, suy nghĩ để giải quyết vấn đề. Từ đó, sẽ làm cho
học sinh tích cực học tập – một trong những nhân tố cơ bản làm nên sự thành
công của tiết dạy.
2.3.2 Sử dụng kiến thức liên môn.
Cũng giống như việc sử dụng các câu chuyện Triết học, việc sử dụng kiến
thức của các môn khoa học khác (kiến thức liên môn) vào việc lý giải một số
khái niệm, phạm trù, nội dung của các bài triết học cũng góp phần không nhỏ
đến sự thành công của bài học. Điều đáng nói hơn là, việc sử dụng giải pháp này
sẽ làm cho học sinh vô cùng hứng thú với môn học. Bởi lẽ, khi sử dụng các kiến
thức liên môn, đó là thêm một lần các em hiểu sâu sắc kiến thức của các môn

khoa học khác. Từ đó sẽ thấy được mối liên hệ giữa Triết học với chúng và thấy
cái hay, cái lạ của triết học như thế nào.
Một số ví dụ cụ thể:
Với bài 1: “TGQ duy vật và PPL biện chứng”, khi cần làm rõ TGQ duy
vật, TGQ duy tâm, giáo viên có thể tích hợp môn Ngữ văn 10 bằng cách sử dụng
truyện thần thoại “Thần Trụ trời” để chỉ ra yếu tố duy vật, yếu tố duy tâm. Hoặc
dùng ca dao, tục ngữ, thành ngữ (phần văn học dân gian lớp 10) để xác định yếu
tố biện chứng, siêu hình. Chẳng hạn:
“Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng lưu đưu.”
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa”
“Tre già măng mọc”; “Môi hở răng lạnh”; “Nước chảy đá mòn”…vv
Đối với bài 3: “Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất”, phần câu
hỏi và bài tập, cụ thể ở bài tập 6, giáo viên tích hợp kiến thức của môn Sinh học,
Vật lý, Hóa học để lý giải chính xác các hình thức vận động của thế giới vật
chất.

12


`
Ví dụ (tích hợp môn Vật lý): Theo nguyên lý, lực ma sát làm chuyển hóa
động năng giữa các bề mặt thành năng lượng ở dạng khác. Việc chuyển hóa
năng lượng là do va chạm giữa phân tử của hai bề mặt gây ra chuyển động nhiệt.
Do đó ma sát sinh ra nhiệt là vận động vật lý.
Ví dụ (tích hợp môn Sinh học): Môi trường cung cấp cho cơ thể thức ăn,
nước và muối. Quá trình tiêu hóa biến thức ăn thành các chất dinh dưỡng để cơ
thể hấp thụ, đồng thời thải các sản phẩm thừa ra ngoài cơ thể. Nhờ có quá trình
hô hấp, quá trình trao đổi khí ở tế bào và phổi, qua đó cơ thể nhận ô xy từ môi

trường, đồng thời thải CO2 ra ngoài môi trường. Do đó, sự trao đổi chất của cơ
thể với môi trường là vận động sinh học.
Hay, ở bài 4: “Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng”, khi
giảng nội dung “Mặt đối lập của mâu thuẫn” giáo viên có thể tích hợp kiến thức
môn Sinh học, Vật lý.
Ví dụ (tích hợp môn Sinh học): Đồng hóa là quá trình tổng hợp các chất,
tích lũy năng lượng; còn dị hóa là quá trình phân giải các chất, giải phóng năng
lượng. Do đó, mặt đồng hóa và dị hóa trong mỗi sinh vật được coi là hai mặt đối
lập.
Ví dụ (tích hợp môn Vật lý): Điện tích âm (-) và điện tích dương (+) trong
cùng một nguyên tử được coi là hai mặt đối lập.
Đối với bài 5: “Cách thức vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng”. Để
giảng dạy nội dung: Quan hệ giữa sự biến đổi về lượng và sự biến đổi về chất,
giáo viên có thể sử dụng kiến thức môn Ngữ văn 10, Lịch sử 12, Vật lý 10, Hóa
học 10, Sinh học 10.
Ví dụ: Giảng dạy kiến thức “Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về
chất” (tích hợp môn Vật lý 10)
- GV nêu thí nghiệm:
Đun nóng thiếc (kim loại). Sau khi theo dõi ghi và vẽ đường biểu diễn sự
biến thiên nhiệt độ của thiếc theo thời gian, ta thu được đồ thị:
Nhiệt độ
Thiếc lỏng

232oC -----------

----------

Thiếc rắn
GV hỏi: Hãy xác định đâu là chất, đâu là lượng trong ví dụ trên? Sự biến
đổi của thiếc bắt đầu từ mặt chất hay mặt lượng? Quá trình biến đổi đó diễn ra

như thế nào?
13


`
- Trả lời:
Trong ví dụ trên:
+ Mặt chất của thiếc: Thể lỏng; thể rắn
+ Mặt lượng của thiếc: Nhiệt độ của thiếc thay đổi theo thời gian nung
nóng.
+ Sự biến đổi của thiếc bắt đầu từ mặt lượng, quá trình biến đổi đó diễn ra
dần dần, đến một giới hạn nhất định thì chất biến đổi theo.
Sự biến đổi về lượng đẫn đến sự biến đổi về chất của thiếc

>0oC 10oC

50oC

150oC

200oC 232oC

Độ
Điểm nút

- GV hỏi:
Em hiểu Độ là gì? Điểm nút là gì?
Sau khi học sinh trả lời, GV nhận xét, củng cố và kết luận:
+ Sự biến đổi về chất của các sự vật và hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu
từ sự biến đổi về lượng.

+ Sự biến đổi này diễn ra một cách dần dần.
+ Giới hạn mà trong đó sự biến đổi về lượng chưa làm thay đổi chất của
sự vật, hiện tượng gọi là “Độ”
+ Khi sự biến đổi về lượng đạt đến một giới hạn nhất định, phá vỡ sự
thống nhất giữa chất và lượng thì chất mới ra đời thay thế chất cũ, sự vật mới ra
đời thay thế sự vật cũ.
+ Điểm giới hạn mà tại đó sựu biến đổi của lượng làm thay đổi chất của
sự vật, hiện tượng được gọi là “Điểm nút”.
Ví dụ (tích hợp môn Lịch sử 12): Trong bảng tổng hợp về công cuộc
chuẩn bị và cuộc tổng khởi nghĩa Tháng 8 năm 1945 của Đảng ta, em hãy chỉ
rõ sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất? Độ? Điểm nút?
Trả lời:
- Sự biến đổi về lượng: Công cuộc chuẩn bị lực lượng trên các lĩnh vực:
lực lượng chính trị; lực lượng vũ trang; căn cứ địa cách mạng.
- Sự biến đổi về chất: C/M Tháng 8 đã phá tan xiềng xích nô lệ của thực
dân Pháp, ách thống trị của phát xít Nhật, lật nhào ngai vàng phong kiến ở nước
ta, lập nên nước VNDCCH – Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
- Độ: Giai đoạn chuẩn bị, xây dựng lực lượng về mọi mặt đến trước ngày
14 tháng 8 năm 1945.
- Điểm nút: Cuộc tổng khởi nghĩa từ 14/8 đến 28/8/1945, Bác Hồ đọc
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2/9/1945)

14


`
Trên đây là một số ví dụ về sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học các
bài triết học. Nếu giáo viên biết sử dụng một cách khéo léo, phù hợp, không
“tham” kiến thức, chắc chắn giờ học sẽ đạt hiệu quả cao.
2.3.3 Liên hệ với thực tiễn.

Khi giảng dạy bài 1: Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng, sách giáo khoa khẳng định: Thế giới quan là toàn bộ các quan điểm,
niềm tin định hướng hoạt động của con người trong cuộc sống. Nếu thế giới
quan khoa học, tiến bộ thì hoạt động của con người sẽ sáng suốt, đúng đắn.
Ngược lại, nếu thế giới quan lạc hậu, phản khoa học thì hoạt động của con người
sẽ mù quáng, u mê…Để làm rõ vấn đề này chúng ta có thể liên hệ với thực tiễn:
Tại sao ngày nay y học đã phát triển, có nhiều căn bệnh nan y có thể cứu chữa
được, nhưng nhiều gia đình vẫn không đưa người thân bị ốm đau đến các bệnh
viện để chữa trị mà mời thầy mo cúng tế? Theo các em , lí do tại sao?...
Giải quyết được các vấn đề trên, học sinh sẽ nhận thức được nguyên nhân
chung của tình huống đó là do TGQ chi phối. Khi TGQ lạc hậu, phản khoa học
thì hành động của mọi người sẽ thiếu sáng suốt, do đó, TGQ khoa học, đúng đắn
đặc biệt có ý nghĩa đối với cuộc sống con người.
Tương tự, khi giảng bài 3: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất,
học sinh phải phân biệt được: giữa vận động và phát triển khác nhau như thế
nào? Thực tế, có rất nhiều học sinh chưa tìm ra được những điểm khác giữa
chúng.
Để học sinh nắm rõ vấn đề này, giáo viên có thể liên hệ thực tiễn:
(1) Hiện tại, em thấy sức khỏe của bản thân em như thế nào? (tốt hay
xấu); (2) Có khi nào em thấy tình trạng sức khỏe của mình bị giảm sút không?
Nếu có phải làm gì?; (3) Xét toàn cục thì sức khỏe của em luôn ở trong trạng
thái nào?
Tổng hợp kết quả thảo luận chúng ta sẽ thấy: tình trạng sức khỏe của mỗi
người có lúc yếu, lúc khỏe, nếu có ốm đau thì phải điều trị để khôi phục lại là ví
dụ cho sự “vận động”. Còn xét toàn cục bản thân luôn ở trong tình trạng khỏe
mạnh hoặc bình thường đó chính là “sự phát triển”. Để có sức khỏe tốt, cá nhân
phải không ngừng rèn luyện. Do đó biết giữ gìn để có sức khỏe cũng là nghĩa vụ
quan trọng của học sinh.
Hay, đối với bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Về lí thuyết, không khó để học sinh biết được thực chất của nhận thức cảm tính,

nhận thức lí tính là gì, chúng có mối quan hệ như thế nào. Tuy vậy, để học sinh
vận dụng tri thức vào giải đáp các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống lại là điều
không dễ. Do vậy, giáo viên có thể lấy ví dụ từ thực tiễn để học sinh thảo luận:
Giả sử khi phát hiện thể trạng của mình không được tốt, hay mỏi mệt, da
vàng, kém ăn…buộc phải đến các trung tâm y tế để khám, em thấy các y bác sỹ
đã làm gì?
Kết quả thảo luận thường là: Bước 1. Các Bác sỹ sẽ: Bắt mạch, đo huyết
áp; Quan sát màu da, màu mắt; Nắn bóp vùng bụng… Sau đó đi đến kết luận:
Bệnh nhân có thể bị viêm gan, đề nghị cho xét nghiệm, siêu âm. Bước 2. Các
15


`
Bác sỹ sẽ: Lấy mẫu máu, nước tiểu để xét nghiệm; Siêu âm vùng bụng; Đọc
thông tin, ghi lại các kết quả vào phiếu xét nghiệm. Bước 3: Bác sỹ khám kết
luận: Bệnh nhân có dương tính (+) với vi rút viêm gan B. Kê đơn thuốc điều
trị…
Tiếp theo, tiếp tục thảo luận: Tại bước 1, công cụ chủ yếu để các Bác sỹ
khám bệnh là gì? Tại sao trong kết luận lại có từ “có thể”? Vì sao không kê đơn
thuốc ngay sau bước 1? Tại bước 2, để có được kết luận, các bác sỹ đã căn cứ
vào các kết quả nào? Tại sao lúc này mới có kết luận chính thức? Liệu Bác sỹ
thực hiện bước 1 mà không qua bước 2 và ngược lại có được không? Tại sao? Thực chất, bước 1, bước 2 là biểu hiện gì trong quá trình nhận thức?
Trả lời được những câu hỏi trên học sinh sẽ hiểu được thế nào là nhận cảm
tính, nhận thức lí tính. Giữa chúng có quan hệ hữu cơ, bổ sung, không tách rời
nhau…
Các tri thức Triết học hoàn toàn không xa lạ với cuộc sống nhưng lại rất
trừu tượng, mơ hồ với người học. Chính vì vậy, giờ học hứng thú, có hiệu quả
không, học sinh có biết, hiểu và vận dụng được tri thức vào cuộc sống hay
không phụ thuộc rất lớn vào sự linh hoạt, sáng tạo của người giáo viên. Thực tế
cho thấy, càng có nhiều ví dụ sát thực, bài học càng trở nên sinh động, giúp học

sinh dễ nhớ, dễ hiểu. Từ đó, góp phần hình thành cho các em TGQ, nhân sinh
quan đúng đắn, lành mạnh như mục tiêu đã đề ra.
2.4 Kết quả
Sau 2 năm thực nghiệm dạy học phần “Công dân với việc hình thành
TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp 10 với một số phương pháp mới như trên
tôi nhận thấy:
- Bài giảng của mình đã thu hút được sự chú ý của học sinh.
- Học sinh có hứng thú học tập và yêu thích bộ môn hơn. Có tinh thần
tham gia học tập tích cực.
- Học sinh lĩnh hội và nắm được kiến thức bài học dễ dàng hơn, nhớ lâu
các kiến thức đã học.
- Kết quả các bài kiểm tra thường xuyên, định kỳ của học sinh cao hơn.
- Học sinh có năng lực phân tích, lý giải một cách đúng đắn những hiện
tượng, vấn đề diễn ra trong đời sống xã hội.
- Học sinh biết vận dụng kiến thức bài học vào hoạt động nhận thức cũng
như hoạt động thực tiễn của mình.
Sau đây là các bảng số liệu tổng hợp kết quả điều tra, thăm dò ý kiến học
sinh.
Bảng 1 : Kết quả thăm dò ý kiến học sinh khi chưa áp dụng các
phương pháp mới vào dạy học phần “Công dân với việc hình thành TGQ,
PPL khoa học” môn GDCD lớp 10.
Lớp

Sĩ số

Hứng thú

Bình thường

Không

16


`
Rất hứng thú
10B1
10B2
10B3
10B4
10B5
10B6
10B7
10B8
10B9

40
42
38
44
47
44
45
45
43

9,2%
6%
10,7%
8%
4%

6,5%
6%
8,4%
3,5%

hứng thú
8%
8%
12%
12%
7,7%
4,5%
6,5%
10%
7%

37%
32%
47%
52%
45%
38%
52%
35%
42%

45,8%
54%
30,3%
28%

43,3%
51%
35,5%
46,6%
47,5%

Bảng 2: Kết quả thăm dò ý kiến học sinh sau khi áp dụng các phương
pháp mới vào dạy học phần “Công dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa
học” môn GDCD lớp 10.

Lớp

Sĩ số

Rất hứng thú

Hứng thú

Bình thường

Không
hứng thú

10B1
10B2
10B3
10B4
10B5
10B6
10B7

10B8
10B9

40
42
38
44
47
44
45
45
43

45%
53%
56%
45%
33%
32%
35%
45,6%
35%

42%
34%
42%
49,5%
45%
42,7%
39%

30,2%
37%

5,7%
9,5%
2%
2,8%
12%
17%
10%
13%
17%

7,3%
3,5%
0%
2,7%
10%
8,3%
16%
11,2%
11%

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Phần thứ nhất “Công dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa học” môn
GDCD lớp 10 đó là những kiến thức về triết học. Có thể nói loại kiến thức này
trừu tượng, khô khan, khó hiểu. Do đó để học sinh có hứng thú học phần kiến
17



`
thức này và lĩnh hội chúng có hiệu quả không phải là vấn đề đơn giản. Nó đòi
hỏi người giáo viên không những vững vàng về trình độ chuyên môn mà còn
phải am hiểu nhiều kiến thức xã hội khác. Ngoài ra, cũng đòi hỏi người giáo
viên phải có những phương pháp mới và vận dụng sao cho phù hợp với nội dung
từng bài học.
Với việc giảng dạy những bài triết học theo một số phương pháp mới như
trên học sinh sẽ tiếp nhận kiến thức một cách nhanh chóng và có sức bền hơn.
Không những vậy, nó còn phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo
trong học sinh. Từ đó, sẽ là động lực để thúc đẩy hoạt động dạy và học có hiệu
quả hơn.
* Bài học kinh nghiệm:
Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, kiểm nghiệm kết quả, tôi đã đúc rút
được những kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, để giảng dạy có hiệu quả phần “Công dân với việc hình thành
TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp 10 không phải là vấn đề đơn giản. Tuy
nhiên, phần kiến thức này lại vô cùng quan trọng đối với học sinh vì nó giúp các
em hình thành một TGQ, PPL khoa học, đúng đắn trong các hoạt động nhận
thức và thực tiễn của mình.
Thứ hai, nếu giáo viên biết sử dụng tốt các phương pháp mới khi giảng
dạy các kiến thức về triết học sẽ làm cho học sinh yêu thích môn học, hứng thú
với giờ học và tham gia nhiệt tình vào các hình thức học tập do giáo viên tổ
chức.
Thứ ba, đa số giáo viên không còn ngại dạy phần “Công dân với việc hình
thành TGQ, PPL khoa học” môn GDCD lớp 10 nữa.
Thứ tư, nên sử dụng đa dạng các phương pháp trong một tiết dạy để tạo
nên hiệu quả học tập cho học sinh. Tuy nhiên, cũng cần phải đảm bảo tính khoa
học, tính thực tiễn và tính vừa sức đối với học sinh.
Thứ năm, dạy học theo những phương pháp mới như trên sẽ phù hợp với

điều kiện cơ sở vật chất của các trường THPT trên địa bàn huyện Quảng Xương
nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung, đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
3.2 Kiến nghị
- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
+ Cần tiếp tục thực hiện và nâng cao chất lượng các đợt tập huấn chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên GDCD trong tỉnh. Đặc biệt, cần tăng
cường tập huấn cho giáo viên những kiến thức về triết học.
+ Các chuyên viên cần tập trung nghiên cứu thành chuyên đề để vận dụng
vào việc giảng dạy phần triết học, làm tư liệu tham khảo cho giáo viên các
trường THPT trong tỉnh.
- Đối với nhà trường, tổ bộ môn:
+ Cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ bộ môn GDCD.
+ Nên tổ chức kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm cho các giờ học để thấy
được hiệu quả của nó. Từ đó, tuyên dương, khen thưởng kịp thời để khích lệ tinh
thần giáo viên và học sinh.
18


`
- Đối với giáo viên:
+ Để tạo hứng thú cho học sinh khi học môn GDCD, trước hết người giáo
viên phải là người yêu nghề, nhiệt huyết với nghề. Vì khi giáo viên yêu công
việc của mình mới dồn hết sự say mê, tâm huyết vào công việc ấy. Từ đó, sẽ nảy
sinh được nhiều ý tưởng sáng tạo.
+ Để dạy tốt phần kiến thức về triết học, giáo viên cần bồi dưỡng, học hỏi
để nâng cao trình độ. Ngoài ra, cần phải tìm hiểu, trau dồi kiến thức từ thực tiễn
đời sống xã hội.
+ Giáo viên cũng cần kết hợp một cách khéo léo các phương pháp dạy
học khác để tạo nên sự cộng hưởng và đạt hiệu quả cao.
+ Giúp đỡ học sinh trong quá trình sưu tầm, tìm kiếm tài liệu, thiết bị,

phương tiện… phục vụ cho quá trình học tập.
Quá trình thực hiện đề tài là sự đúc rút kinh nghiệm trong thực tế giảng
dạy của bản thân cũng như đồng nghiệp. Tôi mong muốn sẽ góp một phần nhỏ
bé của mình vào quá trình đổi mới môn học, giúp học sinh phát triển về nhân
cách, có khả năng xử lý nhanh nhẹn, chính xác những tình huống trong cuộc
sống, trở thành con người phát triển toàn diện.
Tuy nhiên, do tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều nên
chắc chắn đề tài của tôi sẽ còn phải bổ sung. Rất mong nhận được sự góp ý chân
thành từ các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là Sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Người thực hiện đề tài

Phùng Thanh Loan.

19



×