Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học môn GDCD ở trường THPT hà văn mao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.96 KB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT HÀ VĂN MAO
_______________________________________

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HÀ VĂN MAO

Người thực hiện: Lê Quang Định
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: GD Công dân

THANH HOÁ, NĂM 2016


MỤC LỤC
A - MỞ ĐẦU………………………………………………………..
1.1- Lý do chọn đề tài…………………………………………...
1.2- Mục đích nghiên cứu……………………………………….
1.3- Đối tượng nghiên cứu………………………………………
1.4- Phương pháp nghiên cứu…………………………………...
B - NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM…………………..
2.1. Cơ sở lý luận về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo
hướng phát triển năng lực của học sinh trong dạy học môn Giáo

Trang
1
1


2
2
2
3
`3

dục công dân ở trường Trung học phổ thông……………………
2.2. Thực trạng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ

8

thông Hà Văn Mao…………………………………....................
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập theo hướng phát triển năng lực của học sinh trong dạy học
môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông Hà Văn

11

Mao…………………………………………………………….
2.4. Hiệu quả của đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập theo hướng phát triển năng lực của học sinh trong
dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông
Hà Văn Mao……………………………………………………..
C - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………
3.1- Kết luận……………………………………………………
3.2- Kiến nghị…………………………………………………..
D - DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………..
E - PHỤ LỤC……………………………………………………….


17

19
19
20
21
23


A - MỞ ĐẦU
1.1 - Lí do chọn đề tài
Đổi mới giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực của người
học, phải đổi mới một cách sâu sắc, đồng bộ, từ tất cả các khâu của quá trình
giáo dục. Trong hệ thống các môn học, môn Giáo Dục Công dân (GDCD) giữ
vai trò trực tiếp trong việc giáo dục học sinh ý thức và hành vi người công dân,
phát triển tâm lực và nhân cách con người. Do đó quá trình dạy học, đánh giá
kết quả học tập của học sinh là khâu cơ bản, tác động trực tiếp đến thái độ cũng
như phương pháp hoạt động của cả thầy và trò.
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ban hành các
Chỉ thị, Nghị quyết, Công văn về đổi mới giáo dục các cấp và đổi mới kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh như: Công văn số 4718/BGD&ĐT Trung
học ngày 11/8/2010 của Bộ giáo dục và đào tạo về Hướng dẫn thực hiện nhiệm
vụ Giáo dục trung học năm học 2010-2011; nhằm tiếp tục đổi mới công tác thi,
kiểm tra đánh giá, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện thống nhất
trong tất cả các trường Trung học Cơ sở, trường Trung học Phổ thông, các trung
tâm Giáo dục Thường xuyên về quy trình và kĩ thuật biên soạn đề thi, đề kiểm
tra kết quả học tập của học sinh theo ma trận đề; Thông tư 58/2011/Thông tư Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 12/12/2011 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo;
Nghị quyết số 29/NQ-TU ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Cùng với việc đẩy mạnh đổi nội dung, phương pháp dạy học, thì đổi mới

phương thức đánh giá kết quả học tập là một vấn đề đang đặt ra, thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của các nhà giáo, nhà khoa học. Những kết quả nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này được thể hiện qua các công trình tiêu biểu như: Đánh giá
trong giáo dục của Trần Bá Hoành, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội; “Vấn đề đặt
câu hỏi của giáo viên đứng lớp - kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh” của Nguyễn Đình Chỉnh, Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội. Các công trình
này đã chỉ ra mục đích, yêu cầu của kiểm tra, đánh giá, cũng như những quan
điểm về đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá trong dạy học hiện nay.
Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo tổ chức hội thảo về
kiểm tra, đánh giá nhằm tìm ra những giải pháp giúp kiểm tra, đánh giá thực
hiện đúng vai trò của mình trong quá trình dạy học. Nhiều nhà khoa học giáo
dục đã có các bài viết tham gia hội thảo tiêu biểu như:
TS. Nguyễn Phú Tuấn - Viện chiến lược và Chương trình Giáo dục với
bài viết Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo hướng phát huy tính tích cực
của học sinh trung học phổ thông”, đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của kiểm
tra, đánh giá, và đề ra một số giải pháp để kiểm tra đánh giá góp phần phát
huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
TS. Nguyễn Thị Ngọc và Phan Hoàng Yến - Trung tâm Đánh giá Giáo
dục, với bài viết “Thử đề xuất cách thức đánh giá, kiểm tra giúp học sinh trung
học phổ thông chủ động trong học tập”, đã cho rằng tiêu chí kiểm tra, đánh giá
1


phải có tác dụng “phân loại trình độ học sinh một cách khách quan”, giúp người
thầy “điều chỉnh lại kiến thức, phương pháp truyền đạt của chính mình”…
Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo biên soạn tài liệu bồi
dưỡng cho giáo viên dạy học môn GDCD các khối lớp 10, 11, 12 trong đó có
hướng dẫn những nội dung cơ bản nhất về đổi mới kiểm tra, đánh giá. Trong
phạm vi hẹp hơn, một số trường Trung học Phổ thông cũng đã tiến hành
nghiên cứu thực nghiệm đổi mới kiểm tra ở các trường cụ thể và báo cáo kết

quả tại các kỳ tập huấn, hội thảo do Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức.
Trường Trung học Phổ thông Hà Văn Mao, dạy và học môn GDCD đã có
những chuyển biến tích cực, song sự chuyển biến đó chưa đồng bộ ở các khâu.
Trong đó, khâu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh còn chậm đổi
mới hoặc đổi mới còn hình thức. Cách đánh giá vẫn nặng về kiểm tra kiến thức
sách vở, chủ yếu là ở mức nhớ và tái hiện lại nội dung bài học; chu kỳ đánh giá
chỉ chú trọng ở thi học kỳ, xét lên lớp. Cách đánh giá này đã làm cho người học
rơi vào thế bị động, không phát huy được tính sáng tạo của học sinh trong học
tập.
Để góp phần vào quá trình đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
nhằm phát triển năng lực của học sinh trong dạy học môn GDCD trường THPT
Hà Văn Mao, từ kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, tác giả chọn vấn đề: “Đổi
mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo hướng phát triển năng lực học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học Phổ thông Hà Văn Mao”
làm đề tài Sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1.2- Mục đích nghiên cứu
Sáng kiến đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm đổi mới phương thức
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo hướng phát triển năng lực học sinh trong
dạy học môn GDCD ở trường Trung học phổ thông Hà Văn Mao.
1.3- Đối tượng nghiên cứu
Sáng kiến đề cập vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả của học sinh theo
hướng phát triển năng lực trong dạy học môn GDCD.
1.4- Phương pháp nghiên cứu
+ Tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, các nguyên tắc cơ bản của lôgíc biện chứng.
+ Quá trình nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân
tích, tổng hợp, điều tra, khảo sát, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra các
phương thức đánh giá phù hợp theo hướng phát triển năng lực học sinh.

2



B - NÔI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
HỌC TẬP THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG
2.1.1. Các khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Khái niệm kiểm tra, đánh giá
- Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra được hiểu là: Xem xét tình hình thực
tế để đánh giá, nhận xét. Như vậy, việc kiểm tra sẽ cung cấp những dữ kiện,
những thông tin cần thiết làm cơ sở cho việc đánh giá học sinh. Còn theo Trần
Bá Hoành “Kiểm tra là cung cấp những dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho
việc đánh giá” [15, tr.339].
Như vậy, kiểm tra nghĩa là nhằm thu thập số liệu, chứng cứ, xem xét, soát
xét lại công việc thực tế để đánh giá và nhận xét.
- Theo Từ điển Tiếng Việt (1997), đánh giá được hiểu là: Nhận định giá
trị, các kết quả kiểm tra thành tích học tập, rèn luyện của học sinh được thể hiện
trong việc đánh giá những thành tích học tập, rèn luyện đó. Dựa vào sự phân tích
những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm
đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao
chất lượng và hiệu qủa công việc.
- Kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh là hai khâu có quan hệ
mật thiết với nhau. Kiểm tra nhằm cung cấp thông tin để đánh giá và đánh giá
thông qua kết quả của kiểm tra. Hai khâu đó hợp thành một quá trình thống nhất
là kiểm tra - đánh giá.
- Mục đích của quá trình này: làm sáng tỏ mức độ đạt được và chưa đạt
được về mục tiêu dạy học, trình độ kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng và thái độ của học
sinh, tìm ra những sai sót, lệch lạc trong nhận thức của học sinh, giúp các em
điều chỉnh hoạt động, giúp giáo viên có những thông tin ngược để kịp thời điều

chỉnh hoạt động dạy. Tạo cơ sở cho những dự đoán phát triển trong tương lai;
điều chỉnh mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học.
2.1.1.2. Khái niệm kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực
của học sinh
Là hoạt động kiểm tra, đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ trong bối
cảnh có ý nghĩa. Tức là phải tạo cơ hội cho học sinh được giải quyết vấn đề
trong tình huống có tính thực tiễn. Đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm
tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá
kết quả học tập theo năng lực cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức
trong những tình huống ứng dụng khác nhau.

3


2.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh theo hướng phát triển năng lực
2.1.2.1. Mục đích của việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo
hướng phát triển năng lực
Theo Trần Bá Hoành, việc đánh giá học sinh trong quá trình học tập nhằm
những mục đích như: “Làm sáng tỏ mức độ đạt được và chưa đạt được về các
mục tiêu dạy học, tình trạng kiến thức, kỹ năng, thái độ của học sinh đối với các
yêu cầu của chương trình; phát hiện những nguyên nhân sai sót, giúp học sinh
điều chỉnh hoạt động học. Công khai hóa các nhận định về năng lực và kết quả
học tập của mỗi học sinh và của tập thể lớp, tạo cơ hội cho học sinh phát triển
kỹ năng tự đánh giá, giúp học sinh nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích,
động viên, thúc đẩy việc học tập. Giúp cho giáo viên có cơ sở thực tế để nhận ra
những điểm mạnh, điểm yếu của mình, tự điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động dạy,
phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học” [15, tr.7]
Như vậy, đánh giá không chỉ đơn thuần là để biết kết quả của học sinh mà
qua đó còn giúp học sinh và giáo viên nhận định thực trạng và định hướng điều

chỉnh hoạt động dạy và học cho giai đoạn tiếp theo.
Việc đánh giá học sinh có nhiều mục đích khác nhau, nhưng ở đây chúng
ta đề cập đến khía cạnh nâng cao chất lượng dạy học, phát huy tính tích cực,
sáng tạo của học sinh.
2.1.2.2. Ý nghĩa của việc đánh giá kết quả học tập theo hướng phát triển
năng lực
- Đối với giáo viên:
Công tác đánh giá cung cấp cho giáo viên những thông tin “liên hệ ngược
ngoài” (từ người học đến người dạy thông qua kiểm tra đánh giá), từ đó giáo
viên có thể điều chỉnh hoạt động dạy của mình cho phù hợp. Đánh giá kết quả
học tập kết hợp với theo dõi thường xuyên giúp giáo viên nắm được năng lực và
trình độ thực sự của học sinh cũng như thái độ của học sinh trong học tập, từ đó
có biện pháp thích hợp để giúp đỡ học sinh kém đồng thời bồi dưỡng học sinh
giỏi để nâng cao chất lượng học tập của lớp.
- Đối với học sinh:
Việc kiểm tra, đánh giá thường xuyên, có hệ thống sẽ cung cấp kịp thời
những thông tin “liên hệ ngược trong” (Học sinh tự đánh giá mình thông qua
kiểm tra, đánh giá) giúp người học tự điều chỉnh hoạt động học của mình.
- Đối với cán bộ quản lý giáo dục:
Ngoài ý nghĩa đối với giáo viên và giáo viên, đánh giá còn có tác động
quan trọng đến cán bộ quản lý giáo dục, qua đó nó cung cấp cho cán bộ quản lý
giáo dục những thông tin cơ bản về việc dạy và học để có những chỉ đạo kịp
thời, uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích những sáng kiến để thực hiện tốt
mục tiêu giáo dục.
- Đối với cha mẹ học sinh và cộng đồng:

4


Cha mẹ thường xuyên nắm bắt được tình hình học tập, rèn luyện ở trường,

lớp của con; trên cơ sở đó hỗ trợ con em phát huy các điểm tốt hoặc kịp thời
ngăn chặn, điều chỉnh, sửa chữa các điểm hạn chế.
Cộng đồng xã hội nhận thấy vai trò trách nhiệm của mình, từ đó tích cực
hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho nhà trường, gia đình giúp đỡ các em học tập,
rèn luyện.
2.1.3. Tính tất yếu của việc đổi mới phương thức đánh giá kết quả học
tập theo hướng phát triển năng lực của học sinh trong dạy học môn Giáo dục
công dân
2.1.3.1. Các phương thức kiểm tra, đánh giá chủ yếu dùng trong dạy học
môn Giáo dục công dân
- Theo Thông tư 58 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày về Quy chế đánh
giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông thì có ba
hình thức kiểm ta là: kiểm tra miệng (kiểm tra bằng hỏi đáp), kiểm tra viết, kiểm
tra thực hành. (Thông Tư 58 của Bộ Giáo dục và đào tạo…)
- Đối với môn GDCD ở trường THPT, thông thường sử dụng các kiểu
đánh giá sau:
+ Đánh giá đầu vào:
Loại đánh giá này được tiến hành khi bắt đầu năm học (phân loại học
sinh) hoặc bắt đầu một đơn vị học tập (chương, bài, môn học) nhằm để kiểm tra
kiến thức, năng lực xuất phát của học sinh.
+ Đánh giá định kỳ:
Đánh giá định kỳ được tiến hành nhằm theo dõi quá trình học tập và mức
độ tiếp thu kiến thức của học sinh qua những nội dung nhất định, cung cấp
những thông tin ngược cần thiết để giáo viên và học sinh kịp thời điều chỉnh
cách dạy và cách học. Thực hiện kiểu đánh giá này bằng các bài kiểm tra 15
phút hoặc 45 phút (1 tiết).
+ Đánh giá chẩn đoán:
Loại đánh giá này được tổ chức trong tiến trình dạy học với mục đích
chính là phát hiện những sai sót về kiến thức, kỹ năng của học sinh hoặc những
khó khăn trong việc học mà học sinh gặp phải để có biện pháp khắc phục kịp

thời, qua đó cũng tìm ra những mặt mạnh của học sinh. Những bài hoặc câu
kiểm tra chẩn đoán này thường ngắn, gọn, yêu cầu rõ ràng và cụ thể, học sinh
phải viết ra giấy. Thời lượng cho mỗi bài kiểm tra để chẩn đoán thường từ mười
phút trở lại.
+ Đánh giá tổng kết:
Đánh giá tổng kết được tiến hành khi kết thúc chương trình học tập nhằm
xác định mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh so với những mục tiêu học tập
của toàn bộ chương trình đã đề ra ban đầu. Các bài thi học kỳ, thi tốt nghiệp là
những ví dụ của loại đánh giá này
Những thay đổi căn bản cả về triết lý, quan điểm, phương pháp và các
hoạt động cụ thể theo xu hướng mới (Xem phụ lục 3, bảng 2.1)

5


Những thay đổi trong kiểm tra đánh giá phản ánh những quan điểm mới
về giáo dục, trong đó người học và quá trình học tập bao gồm cả hoạt động kiểm
tra, đánh giá là trung tâm của toàn bộ các hoạt động giáo dục.
2.1.3.2. Khung đánh giá kết quả học tập áp dụng đối với môn giáo dục
công dân
- Đánh giá được chia thành nhiều loại hình khác nhau, có thể đánh giá
bằng quan sát, nhận xét các hoạt động học tập của học sinh hoặc có thể bằng các
bài kiểm tra, hiện nay điểm của các bài kiểm tra thường được xem là kết quả
quyết định năng lực học tập của học sinh. Khung của hình thức kiểm tra thông
qua đánh giá thường được xác định như sau:
+ Thang điểm kiểm tra: thang điểm 10
+ Đề kiểm tra: Khi soạn đề kiểm tra cần xác định được phạm vi kiến thức
cần kiểm tra.
+ Mục tiêu cần đạt của bài kiểm tra: trên cả ba mặt về kiến thức, về kỹ
năng và về thái độ.

+ Đáp án và biểu điểm đánh giá: Khi xây dựng đáp án và biểu điểm cho
đề kiểm tra, đánh giá cần chú ý có thể có nhiều phương án trả lời khác nhau cho
một câu hỏi.
- Phân tích kết quả: Việc phân tích kết quả kiểm tra, đánh giá nhằm phát
hiện kịp thời những ưu điểm, nhược điểm trong quá trình nhận thức, kỹ năng,
biểu hiện thái độ tình cảm của học sinh để kịp thời uốn nắn, điều chỉnh. Trên cơ
sở phân tích kết quả, giáo viên cho điểm theo thang điểm đã quy định. Ngoài
việc cho điểm cần lưu ý: Nhận xét học sinh trên cả ba mục tiêu dạy học của môn
giáo dục công dân đó là nhận thức, kỹ năng vận dụng lý thuyết, khả năng giải
quyết tình huống thực tế và ý thức thái độ trong học tập, rèn luyện của học sinh.
2.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc đánh giá kết quả học tập đối với việc
phát triển năng lực của học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân
2.1.4.1. Đánh giá kết quả học tập tác động đến tinh thần, thái độ học tập
của học sinh
Để tạo được động lực học tập cho học sinh trách nhiệm là của giáo viên.
Trong đánh giá phải đảm bảo nguyên tắc tính vừa sức và bám sát yêu cầu của
chương trình. Nếu đề kiểm tra quá dễ hoặc quá khó đối với học sinh đều không
tạo được động lực học tập cho các em; đề quá dễ học sinh sẽ ỷ lại, chủ quan
không cố gắng phấn đấu nhưng đề quá khó thì tạo cho các em tâm lý chán nản,
chính vì vậy đề kiểm tra phải đảm bảo tính vừa sức; tuy nhiên cũng phải đảm
bảo tính phân loại học sinh, đó cũng là cách để tạo động lực phấn đấu cho học
sinh.
Bên cạnh đó, việc đánh giá kết quả học tập chính xác, công bằng. Vì khi
đánh giá đúng thực chất khả năng của học sinh và tạo được công bằng trong
đánh giá thì những học sinh nào được điểm cao trong các kỳ kiểm tra hoặc thi,
có thể được khuyến khích bằng cách cho điểm thưởng thì các em sẽ cố gắng ít
nhất là để giữ vững thành tích mà mình đã đạt được; còn học sinh nào đạt kết
quả chưa cao thì sẽ cố gắng nhiều hơn để đạt được kết quả cao hơn. Ngoài ra, để
6



tạo được tinh thần, thái độ tốt cho các em trong quá trình học tập môn giáo dục
công dân, thông qua kiểm tra, đánh giá giáo viên phải tỏ thái độ thiện chí và tế
nhị, động viên những bước tiến bộ nhỏ, tin tưởng vào thành tích, cố gắng sắp tới
của mỗi học sinh nhất là các em học sinh yếu, có như vậy mới tạo được tâm lý
thoải mái, tạo được động lực để các em cố gắng.
2.1.4.2. Đánh giá kết quả học tập tác động đến phương pháp học tập của
học sinh
Qua tác động của phương pháp, hình thức kiểm tra, đánh giá mà học sinh
sẽ thay đổi phương pháp học tập của mình cho phù hợp. Nếu đánh giá được giáo
viên thực hiện trong suốt quá trình dạy học, đánh giá thường xuyên chứ không
chỉ chú trọng vào các lần kiểm tra, thi và việc kiểm tra, đánh giá không chỉ đơn
thuần là tái hiện lại kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa một cách máy móc mà
đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo bài học vào thực tiễn và đòi hỏi học sinh phải tư
duy như vậy sẽ khuyến khích, giúp học sinh hình thành thói quen chủ động
trong học tập, thể hiện suy nghĩ, sự sáng tạo của mình chứ không rập khuôn theo
kiến thức sách vở. Đối với môn giáo dục công dân với tính thực tiễn và giáo dục
cao; nếu làm được điều đó sẽ góp phần làm giảm áp lực trong thi cử, tạo động
lực cho phấn học sinh đấu trong suốt quá trình học tập, góp phần thực hiện thắng
lợi các cuộc vận động mà Bộ giáo dục và đào tạo phát động.
2.1.4.3. Đánh giá kết quả học tập tác động đến cách dạy của giáo viên
Việc đánh giá chú trọng đến cả quá trình học của học sinh, mục tiêu đánh
giá chú trọng cả về kiến thức, kỹ năng, thái độ đặc biệt là sự vận dụng kiến thức
đã học vào thực tiễn đời sống thì đòi hỏi giáo viên cũng phải thay đổi cách dạy
của mình, ngoài việc cung cấp những kiến thức có sẵn thì giáo viên phải mở
rộng, liên hệ nhiều đến thực tiễn làm cho nội dung bài học thêm phong phú, sinh
động với sự kết hợp nhiều phương pháp chứ không chỉ đơn thuần là thuyết trình
và đọc chép như trước đây qua đó sự tích cực, sáng tạo của học sinh cũng dần
dần được phát huy.
Đánh giá kết quả học tập có ý nghĩa rất quan trọng, nó không chỉ đơn

thuần là nhận định thực trạng của học sinh, định hướng điều chỉnh hoạt động của
học sinh mà qua đó còn cung cấp những thông tin cần thiết giúp người giáo viên
nhận định thực trạng và định hướng điều chỉnh hoạt động dạy của mình.
Tóm lại: kiểm tra, đánh giá kết quả học tập tác động trực tiếp đến các chủ
thể tham gia vào quá trình dạy học bao gồm cả người dạy, người học và những
người làm công tác quản lý giáo dục. Đối với người dạy, rút ra được mặt tích
cực để tiếp tục phát huy và những gì chưa làm được cần được điều chỉnh. Đối
với người học, thông qua quá trình đánh giá họ sẽ biết được mức độ về kiến
thức, kỹ năng của mình đạt được đến đâu, thể hiện bằng điểm số hoặc xếp loại.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập cũng có vai trò cung cấp những thông tin cần
thiết cho những người quản lý giáo dục, giúp họ có được cơ sở để định hướng,
chỉ đạo quá trình đổi mới dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh.

7


2.2. THỰC TRẠNG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HÀ VĂN MAO HUYỆN BÁ
THƯỚC, TỈNH THANH HOÁ
2.2.1. Tình hình dạy và học môn Giáo dục công dân trường Trung học
Phổ thông Hà Văn Mao huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá
2.2.1.1. Những thuận lợi cơ bản
Căn cứ vào đặc điểm riêng biệt của từng môn và tình hình cụ thể của từng
trường, đối tượng học sinh từng địa bàn mà việc áp dụng phương pháp, cách
thức đánh giá cũng khác nhau. Theo quy định của Bộ giáo dục và đào tạo, tài
liệu Chuẩn kiến thức, kỹ năng là cơ sở quan trọng để thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá, Trên cơ sở chỉ đạo trực tiếp của Sở Giáo dục
và Đào tạo Thanh Hoá, trường Trung học Phổ thông Hà Văn Mao cũng đã thực
hiện các phương pháp kiểm tra đánh giá và khung đánh giá theo quy định, phù

hợp với đặc thù từng bộ môn.
Trong những năm qua cùng với việc đổi mới chương trình, nội dung sách
giáo khoa thì một yêu cầu bắt buộc đặt ra cho tất cả các giáo viên nói chung và
giáo viên dạy học bộ môn GDCD nói riêng là phải đổi mới phương pháp dạy
học và điều chỉnh nội dung theo hướng phát huy tính tích cực, sáng tạo của học
sinh; phải lấy người học làm trung tâm phù hợp với thực tế địa phương. Trên
tinh thần đó, qua khảo sát cho thấy giáo viên dạy học môn GDCD trong nhà
trường đã luôn ý thức cao trong việc không ngừng đổi mới phương pháp và kỹ
thuật dạy học nhằm mang lại hiệu quả cao, việc thực hiện các phương pháp mới
như thảo luận nhóm, nêu vấn đề… vận dụng linh hoạt giữa các phương pháp dạy
học mới với phương pháp dạy học truyền thống được giáo viên rất quan tâm;
dần dần khắc phục tình trạng đọc - chép; quá trình dạy học đã từng bước cho các
em thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học, qua đó giáo dục ý thức cho
các em, khuyến khích các em vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn nhất là
liên hệ những vấn đề gắn liền với cuộc sống hang ngày.
Kết quả thể hiện ở chất lượng bộ môn ngày càng được nâng lên qua các
năm, theo khảo sát như sau: (Xem phụ lục 4, bảng 2.2)
Những thống kê trên cho thấy, tỷ lệ học sinh đạt từ trung bình trở lên
ngày càng được nâng cao, dần dần khắc phục tình trạng học sinh yếu, kém.
Trên cơ sở đó Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hoá cũng đã có những hướng
dẫn, cùng với các buổi tập huấn cho giáo viên, đó là cơ sở quan trọng để thực
hiện đồng bộ việc đổi mới phương pháp dạy học; đặc biệt là sự quan tâm chỉ
đạo, sâu sát của Ban giám hiệu trường để việc thực hiện đổi mới phương pháp
dạy học được áp dụng phù hợp với đặc điểm học sinh, tình hình địa phương.
2.2.1.2. Những khó khăn chủ yếu
Bên cạnh những thuận lợi vừa nêu thì công tác dạy và học đối với môn
GDCD cũng gặp không ít những khó khăn, trở ngại. Từ trước đến nay tâm lý
chung của các em học sinh và cả phụ huynh học sinh đều cho rằng đây là môn
8



học phụ vì nó ít tiết (chỉ có 1 tiết/tuần) và không nằm trong các môn thi tốt
nghiệp, khối thi Đại học nào nên việc học tập đối với môn GDCD là mang tính
đối phó, chỉ cần đủ điểm đậu là được nhất là đối với học sinh khối 12; trang thiết
bị phục vụ quá trình dạy học bộ môn còn hạn chế chưa có sự quan tâm đầu tư
cũng góp phần làm cho việc đổi mới phương pháp dạy của giáo viên ở các
trường không được như ý muốn… Đó cũng chính là những nguyên nhân làm
mất dần đi vai trò của môn học trong trường Phổ thông.
2.2.2. Phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học Phổ thông Hà
Văn Mao, huyện Bá Thước hiện nay
2.2.2.1. Kiểm tra thường xuyên trong dạy học môn Giáo dục công dân
trường Trung học Phổ thông Hà Văn Mao huyện Bá Thước
Hiện nay các giáo viên dạy học bộ môn GDCD ở trường THPT Hà Văn
Mao vận dụng hình thức kiểm tra thường xuyên để kiểm tra bài cũ vào đầu mỗi
tiết học là chủ yếu, ngoài ra để đánh giá học sinh trong suốt quá trình dạy học
với hình thức đa dạng, phong phú hơn giáo viên dạy bộ môn này đã áp dụng
phương pháp: cho điểm cộng (+) hoặc điểm trừ (-) khi tham gia nhiệt tình, tích
cực trong tiết học để tìm hiểu kiến thức mới hoặc học sinh thông qua việc thực
hiện tốt nhiệm vụ được phân công trong thảo luận nhóm, đóng tiểu phẩm.
Trong phân phối chương trình, mỗi tuần có một tiết GDCD,
vì vậy, để đánh giá kết quả học sinh, cần tăng cường kiểm tra
miệng và kiểm tra 15 phút hoặc chấm thực hành. Câu hỏi kiểm
tra cần rõ ràng, chủ yếu cho học sinh thể hiện sự rèn luyện bản
thân. Giáo viên nên chấm thực hành thường xuyên để buộc học
sinh phải thường xuyên ghi chép và động viên sự tiến bộ của
các em.
2.2.2.2. Kiểm tra định kỳ trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường
Trung học Phổ thông Hà Văn Mao
Kiểm tra định kỳ là các bài kiểm tra 1 tiết giữa học kỳ và bài kiểm tra

cuối học kỳ. Hình thức tự luận cộng với trắc nghiệm khách quan.
Kiểm tra 1 tiết vào giữa học kỳ: Bài kiểm tra tra này được thực hiện sau
khi đã hoàn thành chương trình học nửa học kỳ tùy theo từng bộ môn, loại kiểm
tra này được thực hiện nhằm kiểm tra việc nắm vững kiến thức, phát triển kỹ
năng, thái độ trên một phạm vi kiến thức tương đối rộng, có ý nghĩa quan trọng
trong việc đánh giá kết quả học tập của học sinh
Thời điểm thực hiện bài kiểm tra này ở trường trung học phổ thông Hà
Văn Mao được tổ chức theo đúng kế hoạch phân phối chương trình đã được
duyệt từ ban giám hiệu.
Kiểm tra cuối học kỳ: Được thực hiện sau khi học sinh đã học xong mỗi
học kỳ, phạm vi đánh giá rộng hơn so với kiểm tra giữa học kỳ, cho đến thời
điểm hiện nay, đây là bài kiểm tra rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong
việc đánh giá chất lượng học tập bộ môn.

9


Hiện nay nhà trường vẫn thực hiện đúng quy định là dàn trãi ở các nội
dung học sinh đã được học trong học kỳ nhưng không phải bao gồm tất cả kiến
thức đã được học mà có thể giới hạn lại các bài hoặc xây dựng ngân hàng câu
hỏi nhưng bằng hình thức nào thì cũng đều căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ năng
và thái độ đối với học sinh.
2.2.3. Hạn chế trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học Phổ thông Hà
Văn Mao, huyện Bá Thước, Thanh Hoá
2.2.3.1. Một số hạn chế trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông Hà
Văn Mao
Thực hiện công tác đánh giá ở trường THPT Hà Văn Mao cũng còn nhiều
hạn chế , cụ thể như sau:

Giáo viên dạy học môn GDCD chưa thực sự quan tâm đầu tư cho việc
thực hiện đổi mới công tác đánh giá, còn chậm trong việc thực hiện đổi mới cả
về nội dung lẫn hình thức, hình thức kiểm tra chủ yếu là những kiến thức trong
sách giáo khoa; câu hỏi với yêu cần vận dụng thấp chứ chưa chú trọng các câu
hỏi liên hệ thực tiễn để các em thể hiện thái độ của mình đối với các vấn đề xảy
ra xung quanh (vận dụng bậc cao).
Trong quá trình kiểm tra, giáo viên vẫn chưa thực sự chú ý đến việc cụ thể
hóa các yêu cầu kiểm tra về kiến thức, kỹ năng và thái độ học sinh thông qua các
câu hỏi trong các bài kiểm tra định kỳ; việc thực hiện các tiêu chí của kiểm tra,
đánh giá còn hạn chế.
Việc đánh giá thường xuyên đối với học sinh còn chưa thực sự được quan
tâm và công tác đánh giá chỉ mang tính một chiều do giáo viên thực hiện, qua
khảo sát tại trường thì có 2/3 giáo viên khẳng định kết quả của các bài kiểm tra
vẫn là yếu tố quyết định trong việc xác định năng lực học tập của học sinh và
theo quy định chung thì đối với môn GDCD mỗi học kỳ có 4 cột điểm trong đó
chỉ có một cột điểm là kiểm tra thường xuyên còn lại là kiểm tra định kỳ (thực
hiện thông qua các bài kiểm tra) không kể đôi khi việc thực hiện cột kiểm tra đó
đối với một số giáo viên chỉ là dùng để kiểm tra bài cũ, do vậy việc đánh giá chỉ
mới dừng lại ở định tính chứ chưa mang tính định lượng do vậy chưa phản ánh
một cách toàn diện, chính xác năng lực thực sự của học sinh.
Giáo viên chưa quan tâm nhiều đến việc thông qua các bài kiểm tra để chỉ
ra những điểm mạnh và hạn chế của học sinh để các em khắc phục và giúp các
em khắc phục. Do đó việc thực hiện cho lời phê đối với các bài kiểm tra của học
sinh là không có và việc trả bài, giải thích các đáp án đối với các bài kiểm tra để
thông qua đó nhận xét về khả năng của các em cũng chưa được thực hiện một
cách tốt nhất.
2.2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại
Đối với giáo viên: Công tác tập huấn chưa mang lại kết quả khả quang,
giáo viên chưa nắm vững những nội dung cơ bản nhất là vị trí, vai trò của đánh
giá trong việc phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh; Một số giáo viên

10


còn ngại đổi mới cách thức đánh giá vì mất thời gian và phải đầu tư nhiều
công; nhà trường chưa thực sự đầu tư cho bộ môn cả về đổi mới phương pháp
dạy học và cả về đổi mới kiểm tra, đánh giá.
Đối với học sinh các khối lớp nhất là khối lớp 12 vẫn cho rằng đây là môn
học phụ nên không cần đầu tư nhiều chỉ cần đủ điểm để đậu là được,
Ở nhà trường hiện nay để đảm bảo cho chất lượng các kỳ thi tốt nghiệp và
chuẩn bị ôn thi đại học, đều tổ chức các lớp tăng tiết, phụ đạo và ôn thi đại học
do vậy việc đầu tư thời gian để học các môn khác trong đó có GDCD rất hạn
chế…
Như vậy, vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, từ nội dung chương trình,
phương pháp dạy học đến kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh như:
chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo của người học. Tình trạng này do
nhiều nguyên nhân khác nhau, từ nhận thức đến tổ chức hoạt động; từ phía
người dạy lẫn từ phía người học; từ phía nhà trường lẫn từ phía các cấp quản lý
giáo dục.
Do vậy, cần đổi mới mạnh mẽ, tích cực hơn nữa phương thức kiểm tra
đánh giá kết quả học tập theo hướng phát triển năng lực của học sinh trong dạy
học môn GDCD.
2.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ HỌC TẬP THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA
HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HÀ VĂN MAO
2.3.1. Xác định những yêu cầu và tiêu chí cụ thể trong đánh giá kết quả
học tập theo hướng phát triển năng lực của học sinh trong dạy học môn Giáo
dục công dân
Hiện nay, ở cấp trung học phổ thông thì điểm của các bài kiểm tra vẫn
là yếu tố quyết định năng lực của học sinh do vậy trong quá trình xây dựng đề

kiểm tra cần đảm bảo yêu cầu về các cấp độ nhận thức mà học sinh cần đạt
bao gồm: nhận biết, thông hiểu, vận dụng bậc thấp và vận dụng bậc cao. Để
đảm bảo được các yêu cầu đó, giáo viên cần bám sát vào Chuẩn kiến thức và
kỹ năng; đối với môn GDCD ở Trung học phổ thông thì các yêu cầu đó được
cụ thể như sau:
Về kiến thức: Giúp học sinh có hiểu biết ban đầu về thế giới quan duy vật
và phương pháp luận biện chứng; biết được một số phạm trù cơ bản của đạo đức
học; hiểu một số yêu cầu đạo đức đối với người công dân hiện nay; biết được
một số phạm trù và quy luật kinh tế cơ bản, vai trò quản lý kinh tế của Nhà
nước; biết được bản chất Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiểu đường lối, quan điểm của Đảng; các chính sách quan trọng của Nhà nước
về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay; hiểu bản chất và vai
trò của pháp luật đối với sự phát triển của công dân, đất nước, nhân loại. Hiểu
quyền và nghĩa vụ công dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; hiểu trách
11


nhiệm của công dân trong việc thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, pháp
luật, chính sách của Nhà nước; hiểu trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tham gia
kinh tế của công dân.
Về kỹ năng:
Vận dụng được kiến thức đã học để phân tích, đánh giá các hiện tượng,
các sự kiện, các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống phù hợp với lứa tuổi; biết lựa
chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với các giá trị xã hội; biết bảo vệ
cái đúng, cái tốt, cái đẹp và đấu tranh, phê phán đối với các hành vi, hiện tượng
tiêu cực trong cuộc sống phù hợp với khả năng bản thân.
Về thái độ:
Yêu cái đúng, cái tốt, cái đẹp; không đồng tình với các hành vi, việc làm
tiêu cực; yêu quê hương, đất nước, trân trọng và phát huy các giá trị truyền
thống của dân tộc; tin tưởng vào các đường lối chủ trường của Đảng; tôn trọng

pháp luật, chính sách của nhà nước và các quy định của cộng đồng, của tập thể;
có hoài bão và mục đích sống cao đẹp.
Đó là những yêu cầu chung nhất cần đạt được đối với cả chương trình
môn học ở cấp trung học phổ thông, tùy theo từng loại bài kiểm tra cụ thể mà
giáo viên căn cứ vào Chuẩn kiến thức, kỹ năng để xác định những yêu cầu, nội
dung cần kiểm tra để đảm bảo kiểm tra được những kiến thức, kỹ năng cơ bản
nhất mà học sinh cần đạt và thái độ của các em với những vấn đề xảy ra trong
cuộc sống để kịp thời có hướng khắc phục, điều chỉnh, uốn nắn các em. Do vậy
việc xác định các yêu cầu và tiêu chí cụ thể là rất cần thiết, bài kiểm tra được coi
là có độ tin cậy nếu kết quả đánh giá phản ánh đúng năng lực học tập của học
sinh dựa theo các tiêu chí đánh giá đã được xác định cụ thể, phù hợp từ trước.
2.3.2. Thường xuyên bổ sung, điều chỉnh nội dung và kết hợp các hình
thức thi, kiểm tra theo hướng phát triển năng lực học sinh
Thường xuyên bổ sung, điều chỉnh nội dung thi, kiểm tra
Để đảm bảo tính chính xác và khoa học, nội dung kiểm tra phải căn cứ
vào Chuẩn kiến thức và kỹ năng, trên cơ sở đó xác định những nội dung tương
ứng với các cấp độ nhận thức: nhận biết, thông hiểu và vận dụng.
Đối với câu hỏi có nội dung nhận biết là loại câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh
nhớ lại những gì đã được học và trình bày lại giống như vậy.
Ví dụ: Em hãy cho biết có mấy hình thức thực hiện pháp luật?
Câu hỏi có nội dung ở mức độ thông hiểu là loại câu hỏi yêu cầu học sinh
dùng ngôn ngữ riêng để trình bày lại kiến thức đã học, tự rút ra kết luận hoặc
nhận xét, đánh giá, giải thích,… về một vấn đề nào đó.
Ví dụ: Em hãy cho biết trong bốn hình thức thực hiện pháp luật thì hình
thức sử dụng pháp luật khác với các hình thức còn lại ở chỗ nào?
Vận dụng chia thành hai cấp độ là vận dụng bậc thấp và vận dụng bậc
cao. Vận dụng bậc thấp là loại câu hỏi yêu cầu học sinh có thể hiểu được nội
dung bài học ở cấp độ cao hơn “thông hiểu” và có thể vận dụng chúng để tổ
chức lại các thông tin đã được trình bày giống với bài giảng của giáo viên hoặc


12


trong sách giáo khoa, hoặc có thể từ nội dung bài học liên hệ, đánh giá, lấy ví dụ
trong thực tế cho phù hợp với lứa tuổi.
Ví dụ: Quy luật cung - cầu ảnh hưởng như thế nào đến giá cả thị trường?
Em hãy lấy 1 ví dụ để chứng minh sự ảnh hưởng đó.
Câu hỏi tự luận có mức độ vận dụng bậc cao là loại câu hỏi yêu cầu
học sinh có thể hiểu nội dung đã học ở mức độ cao để có thể liên hệ, lý giải,
đánh giá một vấn đề trong thực tế và đưa ra cách ứng xử phù hợp trong một
tình huống cụ thể.
Ví dụ: Cho một tình huống sau:
Bình vừa tròn 17 tuổi thì nhận được giấy yêu cầu đến Ban chỉ huy quân
sự huyện để đăng ký nghĩa vụ quân sự.
Mẹ Bình không đồng ý cho Bình đi vì cho rằng: Bình chưa đủ 18 tuổi và
con trai mình còn đang đi học nên chưa phải đăng ký nghĩa vụ quân sự.
Hỏi:
1/ Theo em, mẹ Bình nói vậy là đúng hay sai? Vì sao?
2/ Nếu là Bình, em sẽ làm gì?
Ví dụ: Hiện nay, hiện tượng bạo lực học đường đang diễn ra rất phức tạp,
trong đó có rất nhiều vụ do nữ sinh tổ chức. Hiện tượng này đang ảnh hưởng xấu
đến nét đẹp của nữ sinh học đường, vi phạm nghiêm trọng chuẩn mực đạo đức,
phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam.
Theo em, cần phải làm gì để ngăn chặn kịp thời những hiện tượng trên và
giúp các bạn nữ hiểu ra điều sai trái, xấu xa đó?
Cho phép học sinh được lựa chọn sự kiện, nhân vật, vấn đề chính trị,
đạo đức, xã hội yêu thích hoặc nổi bật... để trình bày quan điểm, hiểu biết
của bản thân
Từ câu chuyện, tình huống, bài viết… học sinh cảm nhận và bộc lộ cảm
xúc, tình cảm, thái độ của mình:

Ví dụ: Ngày 08/3/2013, chùm ảnh “Mẹ ơi con bất hiếu” trên facebook của
thầy giáo Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu (Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh)
đã gây xúc động cho người đọc. Đây là lời dẫn của một số bức ảnh:
- Bạn xấu hổ: “Vì sao mẹ không đẹp, không sang bằng mẹ đứa khác”
Nhưng bạn có biết tóc mẹ bạc để tóc bạn được xanh, tay chân mẹ nứt nẻ để da
dẻ bạn được hồng hào trắng trẻo?
- Bạn chê đồ ăn của mẹ: “Nấu kiểu gì mà mặn quá, mất hết cả hứng”
Nhưng đã bao giờ bạn cảm ơn Người vì một bữa ăn ngon?
- Bạn bực bội: “Đi học quá cực khổ” Nhưng bạn có biết mẹ đang phải làm
gì ngoài kia để bạn được ngồi trên chiếc ghế sạch sẽ của nhà trường?
- Hãy thử tưởng tượng xem, một hôm đi học về, căn nhà của bạn im lìm
trống trải, mẹ không còn tồn tại nữa. Bạn sẽ cảm thấy thế nào?”
Hỏi: Cảm nghĩ của em khi đọc những nội dung trên?
Thông thường, đề kiểm tra phải phù hợp với số đông học sinh và dành
một số nội dung cho học sinh khá và giỏi (khoảng 25% tổng số điểm). Nhưng
bản thân thiết nghĩ nếu chỉ dành 25% tổng số điểm cho học sinh khá và giỏi thì
13


không thể khắc phục được tình trạng ỷ lại vào số điểm còn lại vì chỉ cần học nội
dung trong sách thì đã đảm bảo trên trung bình như vậy các em cũng sẽ không
chủ động tìm tòi, suy nghĩ để có thể hiểu rõ vấn đề, do vậy việc dành một phần
lớn số điểm cho việc trả lời câu hỏi theo cách hiểu và xử lý tình huống của học
sinh là một việc làm cần thiết góp phần phát huy tính tích cực, sáng tạo của học
sinh, khắc phục tình trạng học sinh “học vẹt” những nội dung có sẵn trong sách.
Kết hợp các hình thức thi, kiểm tra
Đối với hình thức kiểm tra miệng, hiện nay giáo viên dạy bộ môn giáo dục
công dân đã vận dụng linh hoạt hình thức kiểm tra này ở chỗ không chỉ được
dùng để kiểm tra bài cũ mà còn được sử dụng trong suốt quá trình dạy bài mới
để đánh giá kiến thức, mở rộng của học sinh và tất nhiên tất cả đều được quy về

thang điểm 10. Thông qua cách thực hiện đó cũng đã thúc đẩy học sinh xây
dựng bài tích cực hơn và suy nghĩ tìm tòi những vấn đề mới có liên quan đến nội
dung bài học nhưng nhìn chung cách thức thực hiện còn cứng nhắc. Bản thân
thiết nghĩ cần đa dạng trong cách thức thực hiện hình thức này để nó phát huy
hơn nữa vai trò của mình trong công tác đánh giá, chẳng hạn thay vì trước đây
giáo viên luôn là người chủ động thì chúng ta có thể tạo điều kiện cho học sinh
đánh giá lẫn nhau bằng cách khi kiểm tra bài cũ, có thể gọi hai học sinh để một
em đặt câu hỏi xung quanh nội dung bài học và một học sinh trả lời sau đó để
học sinh tự đánh giá cho điểm và cuối cùng giáo viên nhận xét và cho điểm nếu
điểm số mà các em tự cho không phù hợp; hoặc là trong quá trình dạy bài mới
thay vì giáo viên nêu vấn đề thì chúng ta khuyến khích học sinh tự tìm vấn đề
mới có liên quan và cho điểm đối với các phát hiện thú vị, như vậy sẽ làm cho
lớp học sinh chủ động hơn và đánh giá được khả năng của học sinh chính xác
hơn.
Đối với hình thức kiểm tra viết, đổi mới các hình thức đề kiểm tra, kết hợp
giữa hình thức trắc nghiệm khách quan và hình thức tự luận trong đó chú ý đến
sự kết hợp một cách hợp lý giữa câu hỏi tự luận và câu hỏi trắc nghiệm khách
quan trong đề kiểm tra vì bản thân mỗi hình thức đánh giá đều có những ưu
điểm và hạn chế riêng, nếu thực hiện đánh giá thông qua các bài kiểm tra là chủ
yếu thì việc kết hợp một cách hợp lý giữa hai hình thức trên là việc làm rất cần
thiết để chúng bổ sung cho nhau giúp cho đề kiểm tra được hoàn thiện hơn.
Ngoài ra, bản thân thiết nghĩ đối với môn GDCD vì nó là môn học gắn
liền với thực tiễn và có tính giáo dục cao nên việc kiểm tra, thi có thể thực hiện
các hình thức khác như sử dụng phổ biến hơn hình thức quan sát hoạt động của
học sinh; hình thức đánh giá thông qua các hoạt động ngoài lớp, rèn luyện trong
cuộc sống hàng ngày. Nếu thực hiện được các hình thức đánh giá đó sẽ góp phần
đánh giá học sinh một cách toàn diện đồng thời góp phần phát huy tốt vai trò của
GDCD trong việc giáo dục học sinh. Tuy nhiên để thực hiện được các hình thức
đánh giá đó là một vấn đề vô cùng khó khăn vì giáo viên sẽ rất mất thời gian để
thường xuyên liên hệ, kịp thời thu nhận những thông tin nhận xét, đánh giá của

các lực lượng khác. Do vậy, muốn thực hiện được các hình thức đánh giá đó cần
có sự chỉ đạo và thống nhất thực hiện giữa các tổ chức trong trường và ngoài xã
14


hội đặc biệt là sự quan tâm, hợp tác của phụ huynh học sinh, nếu được sự chỉ
đạo của cấp quản lý thì đối với môn học này có thể đánh giá bằng cách kết hợp
điểm số của các bài kiểm tra với nhận xét của giáo viên chủ nhiệm và đánh giá
của Đoàn trường và nhận xét của gia đình, như vậy sẽ phản ánh được toàn diện
học sinh hơn và tất nhiên để dễ quản lý thì tất cả các nhận xét, đánh giá sẽ được
lượng hóa bằng điểm số cụ thể theo thang điểm 10 như đã quy định; như vậy,
chúng ta cũng đã đánh giá học sinh bằng cách kết hợp cả định tính và định
lượng, tạo nên một môi trường giáo dục khép kín, tăng cường tính chính xác
trong đánh giá và nâng cao chất lượng dạy học.
2.3.3. Đổi mới cách nhận xét và chấm điểm trong dạy học môn Giáo
dục công dân
Đổi mới cách nhận xét:
Quá trình đánh giá gồm bốn bước: đo, lượng giá, đánh giá và ra quyết
định. Đối với tất cả các môn học hiện nay hầu như giáo viên chỉ mới thực hiện
lượng giá rồi ra quyết định chứ chưa tiến hành đánh giá. Để thực hiện đánh giá
kết quả học tập của học sinh thì việc phê nhận xét cho bài làm của học sinh là
một việc làm rất cần thiết và quan trọng. Nhưng qua khảo sát cho thấy tất cả
giáo viên dạy học môn GDCD ở trường THPT Hà Văn Mao đều ít phê nhận xét
đối với bài kiểm tra của học sinh, và trên thực tế đối với môn GDCD theo phân
phối chương trình không có tiết trả bài kiểm tra; do vậy, mặc dù giáo viên có trả
và sửa bài kiểm tra thì cũng không thể nhận xét hết về bài làm của học sinh, có
cũng là những nhận xét chung chung, không giúp các em tìm ra những ưu điểm
và hạn chế của mình. Điều này không chỉ riêng môn GDCD mà hầu hết tất cả
các môn học đều không thực hiện bước này của quy trình đánh giá. Đây là một
hạn chế lớn và cũng là một nguyên nhân làm cho việc tạo điều kiện để phát triển

năng lực tự đánh giá của học sinh gặp nhiều khó khăn.
Để góp phần phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện
để học sinh tự đánh giá kết quả học tập của mình, bản thân thiết nghĩ trong thời
gian tới chúng ta cần thực hiện các bước sau:
Trước hết cấp quản lý cần có sự hướng dẫn, chỉ đạo để thực hiện thống
nhất về việc quy định tiết trả bài và sửa bài kiểm tra. Cần có quy định về việc
phê nhận xét một cách cụ thể về bài làm của học sinh và sửa bài kiểm tra; việc
sắp xếp lại phân phối chương trình sao cho sau mỗi tiết kiểm tra giữa học kỳ và
kiểm tra cuối học kỳ có 01 tiết trả bài là việc hết sức cần thiết. Đồng thời, cần
phổ biến những kiến thức cơ bản và cách thức thực hiện về đánh giá kết quả học
tập theo hướng đổi mới cho giáo viên để giáo viên thực hiện đầy đủ những yêu
cầu theo quy định, trong đó có việc phê nhận xét đối với các bài kiểm tra.
Đối với giáo viên, bản thân mỗi giáo viên cần nghiêm túc trong việc
nhận xét bài làm của học sinh, chú trọng đến việc chỉ ra những hạn chế hoặc
thông qua các tiết kiểm tra giúp học sinh tự tìm ra những hạn chế của mình;
đồng thời, giúp học sinh dần dần khắc phục những hạn chế đó. Đây là việc làm
rất khó khăn với giáo viên dạy một số lượng lớn học sinh; nhưng nếu làm được
điều đó sẽ giúp học sinh chủ động, có trách nhiệm hơn đối với việc học tập của
15


bản thân. (Để là tốt việc này nên đưa quy định tính thừa giờ chấm bài kiểm tra
cho giáo viên)
Đổi mới cách chấm điểm:
Đổi mới cách chấm điểm là vấn đề quan trọng góp phần phát triển năng
lực của học sinh. Chúng ta sử dụng thang điểm 10 để đánh giá, nhưng để thuận
tiện trong việc xếp loại học sinh, điểm số không chỉ tập trung vào các bài kiểm
tra theo quy định (kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết giữa học kỳ
và kiểm tra cuối học kỳ). Thay vì theo quy định thì có 4 cột điểm dựa trên điểm
số các bài kiểm tra thì chúng ta có thể cũng chỉ lấy 4 cột điểm theo quy định

nhưng giáo viên có thể thay đổi cách chấm điểm bằng cách cho điểm cộng (+)
hoặc trừ (-) để đánh giá học sinh trong suốt quá trình học tập thông qua việc tích
cực phát biểu xây dựng bài của học sinh, việc chuẩn bị bài, việc phát hiện ra
những vấn đề mới,… Và số điểm này cũng được cộng hoặc trừ vào các cột điểm
miệng và điểm 15 phút.
Theo quy định của thông tư 58 của Bộ giáo dục và đào tạo thì số lần kiểm
tra thường xuyên đối với môn học có từ 01 tiết trở xuống là ít nhất 02 lần, quy
định đó tương ứng với số cột kiểm tra thường xuyên ít nhất là hai cột. Với đặc
thù của bộ môn, để có thể kết hợp được nhận xét của các lực lượng khác trong
đánh giá học sinh chúng ta có thể lượng hóa các nhận xét bằng điểm số cụ thể và
thêm một cột điểm kiểm tra thường xuyên nữa để ghi nhận số điểm này. Điều đó
hoàn toàn phù hợp với quy định của Bộ giáo dục và đào tạo, đồng thời cũng phù
hợp với đặc thù của bộ GDCD.
Nếu làm được điều đó, tin chắc rằng học sinh sẽ chủ động, sáng tạo hơn
trong học tập và có tâm lý thoải mái hơn vì nó giảm bớt áp lực thi cử và qua đó
cũng khắc phục được tình trạng học vẹt, quay cóp trong thi, kiểm tra.
2.3.4. Tăng cường bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ
giáo viên Giáo dục công dân
Nhằm đáp ứng được chương trình đổi mới giáo dục phổ thông và tiến tới
thay đổi sách giáo khoa và đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo
hướng phát triển năng lực của học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân ở
các trường Trung học phổ thông. Cần tăng cường bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên GDCD cụ thể là:
Một là, đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD.
Triển khai dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng phù hợp với từng đối
tượng học sinh khuyến khích tinh thần tự học và ý thức sáng tạo của học sinh,
dạy học cần gắn với thực tế của địa phương và điều kiện của nhà trường, phải
gắn với việc thực hành vận dụng kiến thức, dạy học theo hướng tích hợp.
Khuyến khích giáo viên thường xuyên sử dụng các hình thức dạy học
như: kể chuyện đạo đức, pháp luật, xây dựng tiểu phẩm, xem phim tư liệu, cho

học sinh thảo luận nhóm các vấn đề liên quan đến thực tế đời sống, gúp học sinh
nắm bắt vấn đề nhanh, hiểu và nhớ ngay tại lớp.
16


Hai là, tổ chức các hội nghị chuyên đề, hội thảo. Nhà trường định hướng
và khuyến khích giáo viên dạy GDCD tổ chức các tiết giảng chuyên đề liên quan
đến tình hình chấp hành pháp luật, đến hành vi đạo đức của học sinh. Mở rộng
giao lưu chuyên đề các cụm trường nhằm trao đổi kinh nghiệm về kiểm tra, đánh
giá theo hướng phát triển năng lực học sinh.
Ba là, tiến hành nhiều hình thức tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ cho
giáo viên đặc biệt là các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về kỹ năng sư phạm và phương
pháp dạy học. Cần có thêm nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên
GDCD.
Bốn là, có thêm các chính sách thiết thực và cụ thể để nâng cao đời sống
và điều kiện làm việc của đội ngũ giáo viên để tăng cường tình yêu nghề nghiệp,
quan tâm đến trao dồi phẩm chất và năng lực chuyên môn.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC KIỂM TRA
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG
LỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HÀ VĂN MAO
2.4.1. Một số kết quả đạt được trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
theo hướng phát triển năng lực của học sinh trong dạy học môn Giáo dục
công dân ở trường Trung học Phổ thông Hà Văn Mao những năm qua
Đánh giá kết quả học tập của học sinh được xem là khâu cuối cùng của
quá trình dạy học, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát huy tính
tích cực, sáng tạo của học sinh. Việc thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá trong
dạy học môn GDCD trường THPT Hà Văn Mao đã mang lại những kết quả như
sau.
Về nhận thức: Qua kết quả khảo sát 130 học sinh thì có 80 em có suy

nghĩ để chuẩn bị cho các bài kiểm tra không chỉ đơn thuần là học thuộc những
nội dung trong sách giáo khoa mà phải trên cơ sở đó để vận dụng liên hệ với
thực tiễn cuộc sống, những vấn đề có liên quan tới nội dung bài học diễn ra xung
quanh các em như nghĩa vụ của người thanh niên Việt Nam hiện nay, thị trường,
tiền tệ, hàng hóa, các quyền cơ bản của công dân… Còn 40 học sinh cho rằng
phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ nội dung trong sách là được, chỉ có 10 học sinh cho
rằng không cần nghiên cứu kỹ chỉ cần học thuộc nội dung trong sách thôi. Chính
vì vậy, theo các em việc chuẩn bị bài ở nhà trước khi lên lớp là cần thiết để bài
học mới được tốt hơn và đạt kết quả tốt hơn trong các bài kiểm tra.
Qua khảo sát các em học sinh cho thấy cứ 150 học sinh thì có 90 học sinh
cho rằng đó là việc làm cần thiết, 30 học sinh cho việc đó là rất cần thiết, 30 học
sinh có suy nghĩ đối với môn GDCD thì không cần thiết phải chuẩn bị bài trước
ở nhà chỉ cần đến lớp thầy dạy tới đầu thì theo dõi tới đó; trong số đó thì cũng có
90 học sinh đã chú trọng đến việc chuẩn bị bài trước ở nhà, 30 học sinh rất chú
trọng và 30 học sinh không chú trọng; đó là một dấu hiệu đáng mừng cho thấy
các em đã dần dần có ý thức về việc tự học, tích cực hơn trong học tập.

17


Về thái độ: thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá giúp các em đã ý thức
được rằng thông qua kết quả kiểm tra thì ngoài việc biết được điểm số của mình,
các em còn biết được mình yếu ở điểm nào như theo kết quả khảo sát thì trung
bình 150 học sinh thì có 60 học sinh chú trọng điểm số, 50 học sinh chú trọng
đến điểm hạn chế của mình qua bài kiểm tra và 40 học sinh còn lại thì chú trọng
cả hai yếu tố trên. Mặc dù số học sinh chú trọng điểm số còn nhiều nhưng kết
quả đó cũng cho thấy các em đang dần dần quan tâm đến việc hoàn thiện kiến
thức của mình thông qua các bài kiểm tra; cũng từ đó học sinh rất chú trọng đến
việc giáo viên cho lời phê vào các bài kiểm tra hay không để mình có thể biết
được điểm yếu cần khắc phục, kết quả khảo sát cho thấy cứ trung bình 150 học

sinh thì có 80 học sinh cho rằng đó là việc rất cần thiết, 50 học sinh xác định đó
là cần thiết và 20 học sinh thì nghĩ đó là việc không cần thiết. Đồng thời học
sinh hiện nay cũng có cách nhìn nhận mới hơn về kiểm tra, đánh giá chú trọng
đến vai trò của mình trong quá trình dạy học chứ không như trước đây tất cả đều
do giáo viên quyết định, chính vì vậy qua khảo sát thì trung bình 150 học sinh có
90 học sinh đề xuất để đánh giá chính xác năng lực của các em ngoài việc đánh
giá của giáo viên thì cũng cần tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá khả năng
của mình đây cũng chính là xu hướng đổi mới kiểm tra, đánh giá hiện nay; 40
học sinh cho rằng chỉ cần dựa vào điểm của các bài kiểm tra và 30 học sinh còn
lại thì cho rằng ngoài điểm của các bài kiểm tra, nhận xét của giáo viên còn phải
tham khảo ý kiến của Đoàn trường.
Về kiến thức: Kết quả đạt được trong các năm học gần đây (Xem phụ lục
4, bảng 2.2; 2.3)
Như vậy, vai trò của việc thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá đối với
việc phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh thể hiện rõ nét trong sự thay
đổi về ý thức học tập của học sinh và ý thức của các em đối với việc thực hiện
kiểm tra; nhìn chung các em đã có sự thay đổi nhất định trong nhận thức đối với
bộ môn và thấy được cái hay của môn GDCD, đặc điểm của môn GDCD làm
các em thích điều đó cho thấy các em đã chủ động, tích cực hơn đối với việc học
tập bộ môn. Qua đó chúng ta cũng thấy rõ mối quan hệ giữa đổi mới kiểm tra,
đánh giá và đổi mới phương pháp dạy học, chúng hỗ trợ cho nhau trong việc
phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh. Khi giáo viên đổi mới phương thức
đánh giá, không chỉ rập khuôn với yêu cầu học sinh tái hiện lại kiến thức trong
sách mà phải suy nghĩ và liên hệ với cuộc sống xung quanh thông qua các câu
hỏi giải thích, lấy ví dụ theo cách hiểu của học sinh và giải quyết những tình
huống xảy ra trong cuộc sống thì trong quá trình học tập các em sẽ không chỉ
học vẹt mà có thể phát huy tính sáng tạo của mình. Từ đó, kết quả học tập thể
hiện qua các bài kiểm tra cũng sẽ phản ánh được một các toàn diện, chính xác
hơn về năng lực của các em.
2.4.2. Một số kết quả đạt được đối với giáo viên trong kiểm tra, đánh

giá kết quả học tập theo hướng phát triển năng lực của học sinh trong dạy
học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học Phổ thông Hà Văn Mao
trong những năm qua
18


Yếu tố quan trọng có tính chất quyết định những thành công đó là tất cả
giáo viên dạy môn GDCD ở trường đều được đào tạo đúng chuyên môn, có trình
độ chuẩn và trên chuẩn nên có kiến thức vững vàng, năng lực sư phạm tốt tạo
được niềm tin cho các em trong quá trình dạy học; đội ngũ giáo viên năng động,
nhiệt huyết với công việc nên cũng nhanh chóng tiếp cận và thực hiện đổi mới
phương thức kiểm tra, đánh giá; giáo viên bước đầu đã nắm được những vấn đề
cơ bản liên quan đến công tác đánh giá và nghiêm túc thực hiện nhờ đó đã có sự
thay đổi cả về hình thức lẫn nội dung kiểm tra trong thời gian qua, cụ thể:
Về nội dung: nội dung kiểm tra hiện nay đối với bộ môn được các giáo
viên không chỉ tập trung vào nội dung có trong sách, không chỉ đơn giản là một
bài tái hiện lại kiến thức sẵn có mà đòi hỏi học sinh phải nâng lên một mức độ
cao hơn là hiểu, giải thích và lấy được ví dụ (vận dụng bậc thấp) cho những vấn
đề đã được học khi cần thiết; nội dung kiểm tra phong phú hơn ở chỗ không chỉ
tập trung vào những kiến thức đang học mà còn chú trọng đến những kiến thức
đã được học trước đó và kiến thức mở rộng.
Về hình thức: nhìn chung, bước đầu giáo viên đã sử dụng linh hoạt các
loại đánh giá phù hợp với đặc thù của bộ môn; thực hiện đánh giá thường xuyên
đối với học sinh được chú trọng hơn với nhiều hình thức khác nhau thông qua
thái độ học tập trên lớp và chuẩn bị bài trước ở nhà như đóng góp ý kiến xây
dựng bài, trả lời được những câu hỏi khó, căn cứ vào kết quả thảo luận nhóm.
Với những thay đổi bước đầu đó thì học sinh đã chủ động hơn trong quá
trình học tập đồng thời cũng luôn cố gắng phấn đấu trong suốt quá trình vì kết
quả học tập của các em không chỉ dựa trên điểm số của các lần kiểm tra.
C - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Kết Luận
Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện nay và trong hệ thống các
môn học, môn Giáo dục công dân giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc
giáo dục học sinh ý thức và hành vi người công dân, phát triển tâm lực và nhân
cách con người. Giáo dục công dân truyền tải cho người học những giá trị,
chuẩn mực của xã hội để họ trở thành những con người toàn diện, biết sống và
biết tôn trọng người khác, thành công dân có ích cho cộng đồng, xã hội.
Tuy nhiên, trong các trường Trung học Phổ thông hiện nay, môn học này
chưa được chú trọng đúng mức; còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là những hạn
chế về nội dung chương trình và phương pháp dạy học, trong đó có khâu kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Thời gian qua, giáo viên dạy học bộ môn Giáo dục công dân trường
THPT Hà Văn Mao đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học, chú trọng đổi
mới phương thức đánh giá kết quả học tập của học sinh. Việc đánh giá kết quả
học tập của học sinh phần nào được chú ý áp dụng phù hợp với đặc thù của bộ
môn, do đó bước đầu đã mang lại những kết quả nhất định, góp phần phát triển
năng lực học sinh. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc đánh giá kết quả học
tập của học sinh còn có những hạn chế nhất định, chưa phát triển năng lực người
19


học. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ nhận thức đến tổ chức
hoạt động; từ phía người dạy lẫn phía người học; từ phía nhà trường lẫn phía các
cấp quản lý giáo dục. Do vậy, cần đổi mới mạnh mẽ, toàn diện hơn nữa phương
thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo hướng phát triển năng lực của học
sinh.
Đổi mới phương thức kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực
học sinh, cần thực hiện các giải pháp chủ yếu như: nâng cao nhận thức về tính
tất yếu đổi mới phương thức đánh giá kết quả học tập của học sinh; xác định
những yêu cầu và tiêu chí cụ thể trong đánh giá; đổi mới nội dung thi, kiểm tra

cũng như kết hợp các hình thức thi, kiểm tra một cách hợp lý; đổi mới cách nhận
xét và chấm điểm.
Đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
không chỉ là trách nhiệm riêng của giáo viên trực tiếp dạy môn Giáo dục công
dân mà còn đòi hỏi sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hoạt động học
tập của bản thân học sinh cũng như sự quan tâm, tạo điều kiện của tất cả các lực
lượng giáo dục.
Những giải pháp sáng kiến đưa ra chưa phải là tất cả, song đó là những
giải pháp chủ yếu và cần được thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện. Có như
vậy mới đổi mới được phương thức kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển
năng lực học sinh ở trường Trung học Phổ thông Hà Văn Mao đồng thời có ý
nghĩa ứng dụng trên địa bàn huyện Bá Thước nói riêng cũng như cả khu vực
miền núi tỉnh Thanh Hoá nói chung.
3.2. Kiến nghị
- Đối với trường THPT Hà Văn Mao cần phải tăng cường hơn nữa hệ
thống cơ sở vật chất hỗ trợ đổi mới giáo dục trong dó có phương thực kiểm tra
đánh giá theo hướng phát triển năng lực của học sinh.
- Đối với Sở Giáo dục và đào tạo Thanh Hoá tăng cường công tác quản lý
chỉ đạo việc đổi mới phương thức kiểm tra đánh giá đồng bộ, thống nhất trong
toàn tỉnh.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2016
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết Sáng kiến

Lê Quang Định


20


21


D - DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].

Bộ Giáo dục và Đào tạo (05/08/2008), “Chí thị 46/2008/CT-BGD&ĐT về
việc tăng cường công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục”

[2].

Bộ Giáo dục và Đào tạo (05/05/2006), “Quyết định số 16/2006/BGDĐT
về việc ban hành chương trình giáo dục phổ thông”

[3].

Bộ Giáo dục và Đào tạo (15/05/2008), “Công văn số 7475/BGDĐT GDTrH về việc đưa ra các yêu cầu quan trọng về đổi mới kiểm tra đánh
giá”

[4].

Bộ Giáo dục và Đào tạo (12/12/2011), “Thông tư số 58/TT-BGDĐT, ngày
12/12/2011 của Bộ về đánh giá xếp loại học sinh…”

[5].

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), “Giáo dục công dân lớp 10” (Sách giáo

khoa), NXB Giáo dục, Hà Nội

[6].

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), “Giáo dục công dân lớp 11” (Sách giáo
khoa), NXB Giáo dục, Hà Nội

[7].

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), “Giáo dục công dân lớp 12” (Sách giáo
khoa), NXB Giáo dục, Hà Nội

[8].

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), “Giáo dục công dân lớp 10” (Sách giáo
viên), NXB Giáo dục, Hà Nội

[9].

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), “Giáo dục công dân lớp 11” (Sách giáo
viên), NXB Giáo dục, Hà Nội

[10]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), “Giáo dục công dân lớp 12” (Sách giáo
viên), NXB Giáo dục, Hà Nội
[11]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), “Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Giáo
dục công dân 11”, NXB Giáo dục, Hà Nội
[12]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), “Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Giáo
dục công dân 12”, NXB Giáo dục, Hà Nội
[13]. Nguyễn Đình Chỉnh (1995), “Vấn đề đặt câu hỏi của giáo viên dứng lớp
-kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh”, NXB Giáo dục, Hà Nội

22


[14]. Trần Văn Chương (chủ biên), (2007), “Tình huống Giáo dục công dân
lớp 10”, NXB Giáo dục, Hà Nội
[15]. Trần Bá Hoành (1996), “Đánh giá trong giáo dục, NXB Giáo dục, Hà
Nội
[16]. Nguyễn Hữu Khải (chủ biên), (2009), “Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến
thức, kỹ năng môn Giáo dục công dân trung học phổ thông”, NXB Giáo
dục
[17]. Nguyễn Lân (chỉnh lý và bổ sung - 1997), “Từ điển Tiếng Việt”, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội
[18]. Luật giáo dục (2005), NXB Lao động xã hội
[19]. Trần Viết Quang (2013) “Đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học
phổ thông” NXB Giáo Dục Việt Nam
[20]. Trần Văn Thắng (chủ biên), (2008), “Tình huống Giáo dục công dân 12”,
NXB Giáo dục
[21]. Trường THPT Hà Văn Mao, “Báo cáo tổng kết năm học 2013 - 2014”
[22]. Trường THPT Hà Văn Mao, “Báo cáo tổng kết năm học 2014 - 2015”
[23]. Vũ Hồng Tiến - Trần Văn Thắng (2008), “Tình huống Giáo dục công dân
11”, NXB Giáo dục
[24]. Nguyễn Phú Tuấn (2006), “Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh THPT” (kỷ yếu hội thảo), Viện
Chiến lược và Chương trình giáo dục, TP Hồ Chí Minh

23



×