Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy bài truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc việt nam cho học sinh khối 10 ở trường THPT bá thước 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.56 KB, 14 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY
BÀI “TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA DÂN
TỘC VIỆT NAM” CHO HỌC SINH KHỐI 10 Ở TRƯỜNG
THPT BÁ THƯỚC 3

Người thực hiện: Lê Văn Sâm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THPT Bá Thước 3
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Quốc phòng-An ninh

THANH HÓA NĂM 2016
1


MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................2

A - PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục quốc phòng - An ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân,
nhằm thống nhất nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người
mới XHCN có sự phát triển toàn diện. Việc GDQP - AN cho học sinh là nhiệm
vụ hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần bồi dưỡng
cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, quốc phòng của
Đảng ta và kỹ năng quân sự để sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang khi cần


thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. GDQP AN cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến lược đào tạo con
người mới XHCN, nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng
lòng yêu nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, tư duy và
kiến thức quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc là một trong những nội dung giáo dục toàn diện trong nhà trường, góp
phần hình thành nhân cách con người mới XHCN. Mặt khác, GDQP - AN còn
trang bị kiến thức, ý thức xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Chính vì tầm quan trọng như trên trong những năm qua công tác GDQP - AN
cho học sinh ở các trường THPT đã được sự quan tâm đầu tư thoả đáng của
nhiều ban nghành đặc biệt là Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa. Tuy nhiên vì
nhiều lí do khác nhau như khó khăn về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, chất
lượng học sinh.... nên chất lượng môn học chưa cao.
Chính vì vậy để góp phần tăng cường hơn nữa chất lượng môn học tôi đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy bài
“Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam” cho học sinh khối
10 ở trường THPT Bá Thước 3. Hi vọng sẽ góp phần nhỏ trong việc nâng cao
chất lượng môn học tạo hứng thú cho học sinh trong học tập.
II. Mục tiêu nghiên cứu:
Khắc phục những hạn chế và tồn tại dẫn đến hiệu quả chưa cao trong giảng dạy
môn học GDQP - AN nói chung và bài học: Truyền thống đánh giặc giữ nước
của dân tộc Việt Nam nói riêng. Đưa ra những phương pháp và tổ chức hữu
hiệu nhất của bài giảng. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như chuyển
tải về kiến thức, kỹ năng. Giúp học sinh nắm chắc và thực hiện cũng như vận
dụng tốt trong quá trình học tập và trong cuộc sống.
III. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh khối 10 trường THPT Bá Thước 3.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
2



1. Phương pháp phân tích tổng hợp:
- Phương pháp này nhằm nghiên cứu các văn bản của Bộ, Sở GD&ĐT Thanh
Hóa cũng như kế hoạch triển khai công tác thực hiện giảng dạy môn học GDQP
- AN của Ban giám hiệu nhà trường.
- Nghiên cứu phân phối chương trình, số tiết qui định của bài giảng đó. Xây
dựng giáo án và phương pháp, tổ chức bài giảng.
2. Phương pháp quan sát:
- Tôi sử dụng phương pháp này đánh giá cơ sở vật chất, kiểm tra thực địa hiện
có để từ đó xây dựng giáo án, kế hoạch bài giảng sao cho phù hợp.
3. Phương pháp thực nghiệm:
- Nhằm mục đích đưa ra các nhân tố mới cần nghiên cứu vào thực tiễn bài giảng
sao cho thật sinh động, gây hứng thú đến cho người học. Qua thực nghiệm làm
sáng tỏ nhiệm vụ nghiên cứu.
B - PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Cơ sở lý luận:
1.1. Vị trí:
- Giáo dục Quốc phòng - An ninh là một bộ phận của nền quốc dân, một nội
dung cơ bản trong xây dựng nền Quốc phòng toàn dân, An ninh nhân dân, là
môn học chính khóa trong trương trình giáo dục của cấp THPT.
- Môn GDQP - AN góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh về lòng yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội và niềm tự hào dân tộc của các lực lượng vũ trang nhân
dân Việt nam; có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù
địch; có kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng,
củng cố Quốc phòng toàn dân, An ninh nhân dân.
1.2. Mục tiêu:
- Về kiến thức: Có những hiểu biết ban đầu về nền Quốc phòng toàn dân - An
ninh nhân dân, về truyền thống chống ngoại xâm vẻ vang của dân tộc, của quân
đội, công an và nghệ thuật đánh giặc giữ nước của ông cha. Có những kiến thức

tối thiểu về phòng thủ dân sự, tính năng kĩ thuật, chiến thuật, một số loại vũ khí
bộ binh, lựu đạn.
- Về kĩ năng: Có kĩ năng tối thiểu về điều lệnh đội ngũ, kỹ thuật chiến thuật bộ
binh, biết sử dụng súng Tiểu liên AK hoặc súng Trường CKC, lựu đạn, thực
hành bắn mục tiêu cố định ban ngày. Làm được động tác từng người trong chiến
đấu, có khả năng tự bảo vệ mình.
- Về thái độ: Xây dựng niềm tự hào và sự trân trọng đối với truyền thống dựng
nước và giữ nước của dân tộc, của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của học sinh tham gia vào các hoạt động, về
công tác Quốc phòng - An ninh ở nhà trường, địa phương trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần hình thành lối sống có ý thức tổ chức kỉ luật
của thế hệ trẻ học sinh.

3


- Hệ thống kiến thức trong chương trình môn học được cấu trúc theo hệ thống
hình bậc thang từ thấp đến cao luôn có sự kế thừa và phát triển những kiến thức
và kỹ năng ở lớp dưới, là tiền đề để nhận thức tốt hơn những kiến thức và kỹ
năng ở lớp trên. Mặc dù ở trong mạch nội dung kiến thức và thực hành đều có
tính độc lập tương đối song tổ hợp của mỗi lớp sẽ tạo cho học sinh một mảng
kiến thức tương đối cơ bản về Quốc phòng - An ninh.
- Môn Giáo dục Quốc phòng - An ninh ở cấp THPT trong giai hiện nay cần coi
trọng việc giáo dục nhận thức về Quốc phòng - An ninh cho học sinh giáo dục
lịch sử, truyền thống của dân tộc gắn với lịch sử, truyền thống của địa phương,
gắn liền với phần thực hành các kĩ năng quân sự, an ninh và tổ chức hội thao
Giáo dục Quốc phòng - An ninh theo quy định
2. Cơ sở pháp lý:
- Dựa trên các văn bản chỉ đạo của Bộ giáo dục tăng cường GDQP - AN trong
ngành giáo dục ban hành ngày 04/07/2007 số 57/2007/CT - BGDĐT.

- Tăng cường GDQP - AN ra ngày 31/03/2010 số 417/CT-TTG.
- Dựa trên các văn bản chỉ đạo của Sở GD&ĐT Thanh Hóa về việc thực hiện
nhiệm vụ GDQP - AN năm học 2014 - 2015, 2015 - 2016.
II. Thực trạng:
1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo của Bộ giáo dục, Sở giáo dục và kế hoạch tổ
chức dạy rải môn học GDQP - AN và xác định đây là môn học chính khóa.
- Trang thiết bị, cơ sở vật chất, tài liệu, sân bãi cho môn học đáp ứng theo yêu
cầu của môn học.
- Môn học luôn đòi hỏi có sức khỏe, thể lực tốt, tính kiên trì. Đối với học
sinh nhà trường cơ bản 100% học sinh có sức khỏe tốt chính vì vậy đáp ứng khá
tốt yêu cầu của môn học.
- Bản thân tôi là giáo viên chuyên trách và thường xuyên tham gia các lớp tập
huấn chuyên môn do Bộ giáo dục đào tạo và Sở giáo dục đào tạo tổ chức hàng
năm. Chính vì vậy ít nhiều có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy môn học
GDQP - AN.
- Đồng nghiệp trong tổ luôn hòa đồng có tinh thần tương trợ, trao đổi lẫn nhau
trong công tác chuyên môn cũng như công tác tổ chức và phương pháp giảng
dạy.
2. Khó khăn:
2. 1. Đối với giáo viên:
Cả trường chỉ có một giáo viên bộ môn GDQP - AN nên việc trao đổi kinh
nghiệm chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Giáo viên phải tự lực cánh sinh rất
nhiều trong việc nghiên cứu phương pháp, hình thức để đạt hiệu quả trong giảng
dạy. Một khó khăn nữa của giáo viên là tài liệu tham khảo, trang thiết bị đồ dùng
dạy học cũng còn hạn chế, kinh nghiệm thì còn khiêm tốn mà những bài viết,
những chuyên đề về vấn đề này còn quá ít ỏi.
2.2. Đối với học sinh:

4



Hầu hêt các em học sinh đều là con em bố mẹ làm nông, gia đình khó khăn nên
còn thiếu sự tự tin và tính chủ động. Việc tự học còn rất hạn chế, ngoài giờ học
các em phải phụ giúp gia đình làm việc. Các em phải đến trường trong điều kiên
địa hình khó khăn, vất vả, nhà xa lại phải đi qua nhiều đèo, dốc, chất lượng đầu
vào của các em và nhà trường rất thấp.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1. Xây dựng bài giảng khoa học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm:
- Bài soạn thể hiện rõ tiến trình hoạt động của giáo viên và học sinh, dự kiến sử
dụng phương pháp và kỹ thuật dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung, đối
tượng học sinh.
- Xác định rõ mục tiêu đạt được của bài học (mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái
độ). Nội dung bài dạy đầy đủ, chính xác, khoa học, lôgic, xác định rõ kiến thức
trọng tâm, đảm bảo 04 mức độ phân hóa kiến thức (nhận biết, thông hiểu, vận
dụng, vận dụng cao), liên hệ kiến thức với thực tiễn, nêu rõ sản phẩm cần đạt
của mỗi nhiệm vụ học tập.
- Chuẩn bị thiết bị dạy học và học liệu (bao gồm cả đồ dùng dạy học tự làm,
băng, đĩa và ứng dụng công nghệ thông tin) đầy đủ (đối với trường chưa có đầy
đủ trang thiết bị dạy học thì giáo viên phải tự làm một số đồ dùng dạy học), phù
hợp với mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học.
- Giáo viên xây dựng được hệ thống câu hỏi/bài tập có tính phân hóa (theo 04
mức độ phân hóa kiến thức nêu trên) phù hợp với các nhóm đối tượng học sinh,
tạo cho học sinh tích cực hóa hoạt động tư duy sáng tạo trong học tập và vận
dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn.
2. Sử dụng các câu hỏi gợi mở hướng người học phải suy nghĩ làm việc tích
cực:
Đây là bài nội dung kiến thức khá phong phú liên quan nhiều đến bộ môn lịch sử
và truyền thống của dân tộc nếu như phương pháp giảng dạy trước đây giáo viên
chỉ đơn thuần là đọc cho học sinh chép các sự kiện lịch sử chính thì chắc chắn sẽ

không tạo hứng thú cho học sinh học tập theo tôi với những bài này nên làm thế
nào phát huy tính hoạt động tích cực của học sinh bằng cách.
Ví dụ:
Câu hỏi 1: Từ những sự kiện lịch sử sau hãy làm rõ nội dung của giai đoạn lịch
sử đó?
- Học sinh trả lời sẽ rút ra được nội dung giai đoạn này đó là “Những cuộc chiến
tranh giữ nước đầu tiên”.
Sự kiện lịch sử
- Văn hoá Đông Sơn.
- Nước Văn Lang - Vua Hùng.
- Thục Phán.
- Chống Tần - Triệu Đà.
- Mị Châu - Trọng Thuỷ.

Nội Dung
- Sự hình thành nhà nước Văn Lang - Âu
Lạc. Cuộc đấu tranh chống Ngoại xâm của
dân tộc, bài học về sự cảnh giác trước hoạ
xâm lăng, 179 TCN dân tộc ta bị phong
kiến Phương Bắc đô hộ 1000 năm (Thời kì
5


- Năm 179 TCN.

Bắc Thuộc).

Câu hỏi 2: Từ những cuộc chiến tranh giữ nước từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ
XVIII hãy rút ra những nét đặc sắc về Nghệ thuật quân sự?
Sự kiện lịch sử


Nội Dung

- Kháng chiến chống Tống
- Cuộc kháng chiến chông
quân Mông - Nguyên.
- Cuộc kháng chiến chông
quân Minh.
- Cuộc kháng chiến chông
quân Xiêm - Thanh.

- Chủ động đánh trước, phá kế hoạch của
địch; lấy chỗ mạnh của ta đánh vào chỗ yếu
của địch; lấy yếu chống mạnh hay đánh bất
ngờ, lấy ít địch nhiều dùng mai phục; rút lui
chiến lược, bảo toàn lực lượng tạo thế và lực
cho phản công đánh đòn quyết định tiêu diệt
địch.

3. Vận dụng kiến thức liên môn để giúp học sinh dễ nhớ, dễ tiếp thu bài:
Kiến thức Quốc phòng, An ninh mang tính nội dung chính trị, trừu tượng là
chính học sinh tếp thu bài rất khó dẫn đến chán nản dẫn đến không ưa thích môn
học.
Để làm sinh động thêm nội bài dạy giáo viên có thể vận dụng thêm kiến thức
một số môn học như Lịch sử, Văn học, hay trích dẫn một số quan niệm, một số
câu nói nổi tiếng của các vị anh hùng dân tộc.
Ví Dụ:
- Khi nói về cuộc chiến chống quân Triệu Đà giáo viên nói thêm về mối tình Mị
Châu - Trọng Thuỷ
Em rút ra bài học gì? (Bài học về sự cảnh giác)

“Tôi kể người nghe chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để lên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”
Tố Hữu.
- Khi nói về cuộc chiến chống quân Tống có thể dẫn chứng về bài thơ “Thần”
của Lý Thường Kiệt:

6


- Khi giảng về hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc
Mỹ với những chiến thắng vang dội như Điện Biên Phủ, đai thắng Mùa
xuân 1975, sự chiến đấu hi sinh anh dũng của quân và dân ta, tôi trích
dẫn một số câu của nhà thơ Tó Hữu:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Trí không mòn!..."
(Trích - Hoan Hô chiến sĩ Điện Biên)
- Khi giảng về “Truyền thống cả nước chung sức đánh giặc, toàn dân đánh giặc,
đánh giặc toàn diện”, để học sinh hiểu rõ hơn về truyền thống này tôi dẫn chứng
bằng các gương anh hùng của dân tộc: hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Quốc Tuấn,
Nguyễn Huệ, La Văn Cầu, Phan Đình Giót, Nguyễn Viết Xuân... Trích dẫn
những câu nói, quan niệm nổi tiếng của các anh hùng: “Bao giờ người Tây nhổ
hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây” của Nguyễn Trung Trực;
“Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù” của Lê Mã Lương....

Tuy nhiên quá trình giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải biết chọn lọc những
tư liệu chọn lọc nhất để đưa vào bài giảng của mình tránh tình trạng tràn lan,
không dạy theo kiểu thông sử dễ làm cho tiết học nhàm chán và học sinh không
nắm được nội dung vì quá nhiều dẫn chứng.
4. Ứng dụng Công nghệ thông tin:
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy có hiệu quả rất nhiều trong
việc tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp cận nội dung bài học. Từ chổ giáo viên
chỉ hướng dẫn học sinh qua sách giáo khoa đến nay nhờ sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin bài học trở nên vô cùng phong phú và đa dạng. Học sinh có thể khai

7


thác thông tin trên mạng Internet để tìm hiểu trước kiến thức. Giáo viên lấy
thông tin để làm cho bài dạy sinh động hơn.
Ví dụ: Khi giảng phần 3: Các cuộc chiến tranh giữ nước từ thế kỷ 10 đến thế kỷ
19.
Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 19 là thời phong kiến độc lập, nhân dân ta tiến
hành xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên nhân dân ta cũng phải liên tục
đứng lên kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc, viết nên những trang
sử hào hùng của dân tộc. Để giúp học sinh hiểu rõ phần này, thấy được những
chiến công lẫy lừng của cha ông ta tôi sử dụng bản đồ Địa lý với nguồn tài
liệu từ mạng Internet kết hợp với trình chiếu để học sinh quan sát hình
dung rõ hơn về các trận đánh:

Chiến thắng Bạch Đằng năm 981
Bản đồ cuộc kháng chiến chống Tống (1075 – 1077)

Bản đồ cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên (1287-1288)
5. Chiếu phim tư liệu:


8


Chúng ta biết một phần không thể thiếu khi giảng dạy các bài học về truyền
thống và lịch sử đó là việc ghi nhớ và hiểu về các sự kiện lịch sử vốn rất phong
phú với một dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử như dân tộc Việt Nam.
Có rất nhiều cách khác nhau như đọc sách báo, xem phim... nhưng để có thể
phát huy được tính tự giác tham gia của tất cả các học sinh thì nên có những
buổi chiếu phim tập thể tại trường. Theo tôi đó là một biện pháp trực quan nhất
tác động đến nhận thức của học sinh vì theo triết học Mác - Lênin đã khẳng định
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng là con đường biện chứng của sự
nhận thức hiện thực khách quan”.
Thực tế cho thấy dù người giáo viên có mô tả sự kiện lịch sử hấp dẫn đến đâu
chăng nữa thì nhận thức của người học chỉ dừng lại ở mức hình dung sự kiện đó
mà thôi chứ không thể có những biểu tượng về nó. Nhưng nếu như học sinh
được xem trực tiếp nội dung của sự kiện đó thì hình ảnh đó sẽ khắc sâu trong
học sinh.
Ví Dụ: Khi giảng về Chiến dịch Điện Biên Phủ giáo viên kết hợp với
chiếu phim về chiến dịch các đợt quân ta tấn công, câu chuyện về các tấm gương
anh hùng như Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót.....chắc chắn sẽ thu hút được sự
quan tâm rất lớn của học sinh.
6. Hướng dẫn học sinh viết chuyên đề:
Trong chương trình môn học Giáo dục quốc phòng - An ninh nội dung rất đa
dạng:
- Liên quan đến Địa lý có bài: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia,
thường thức phòng tránh một số loại bom đạn và thiên tai.
- Liên quan đến Giáo Dục Công Dân có bài: Tác hại của Ma túy và trách nhiệm
của học sinh trong phòng chống ma túy.
- Liên quan đến Sinh học có bài: Cấp cứu ban đầu các tai nạn thông thường và

Băng bó vết thương, kỹ thuật cấp cứu và chuyển thương.
- Liên quan đến lịch sử có các bài: Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc
Việt Nam, Lịch sử và truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an
nhân dân Việt Nam.
- Liên quan đến hướng nghiệp như bài: hệ thống nhà trường quân đội, công an
và chế độ tuyển sinh vào các trường quân sự, công.
Liên quan đến bài học này tôi đã hướng dẫn cho học sinh khối 10 tự
nghiên cứu viết chuyên đề “Lịch sử, truyền thống của dân tộc và lực lượng vũ
trang trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc”
Mỗi lớp chia thành 3 nhóm cụ thể (mỗi nhóm từ 10 - 15 học sinh tùy vào sĩ số
của lớp). Nhóm trưởng sẽ phân công các thành viên khác trong nhóm thu thập
thông tin, các em có thể lấy thông tin từ nhiều kênh khoác nhau: trên mạng, trên
sách, báo, tạp chí…trong nhóm chọn ra em nào giỏi vi tính nhất sẽ chịu trách
nhiệm thiết kế chuyên đề, và mỗi em đều bắt buộc phải nêu ý kiến cá nhân về
chuyên đề mà mình chọn, trong quá trình lấy thông tin các em sẽ chọn lọc thông
tin cho phù hợp với chuyên đề và nhóm trưởng sẽ cùng các thành viên nhóm đưa
ra ý kiến cuối cùng để làm bản phác thảo mẫu của chuyên đề và đưa cho giáo
9


viên xem thử nội dung của chuyên đề, nếu giáo viên đồng ý các em sẽ hoàn
thiện chuyên đề, cuối cùng chuyên đề được đóng thành cuốn (kèm theo đĩa CD
nếu có). Giáo viên chấm điểm chuyên đề có thể lấy điểm 15 phút hoặc 1 tiết…
Với việc viết chuyên đề đã giúp học sinh phát huy tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận
dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực
tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập. Làm cho “HỌC” là quá
trình kiến tạo học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lý
thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Tổ chức hoạt động
nhận thức cho học sinh, dạy học sinh cách tìm ra chân lí. Chú trọng hình thành

các năng lực (tự học, sáng tạo, hợp tác).
Từ những việc nắm vững công nghệ thông tin, kiến thức, giáo viên hướng dẫn
học sinh tự tìm tòi học hỏi và nghiên cứu chuyên đề của môn học, học sinh sẽ
thấm nhuần bài học hơn bởi nguồn thông tin mà học sinh tìm tòi từ các trang
web, báo chí và các mạng lưới thông tin khác … góp phần tạo cho nội dung
chuyên đề càng phong phú hơn, thực tế hơn và sinh động hơn… từ những cuốn
chuyên đề học sinh tự làm, tự tìm tòi sáng tạo và dưới sự hướng dẫn của giáo
viên bộ môn nhưng không đi quá xa nội dung của bài học… trong các chuyên đề
mỗi em đều thể hiện, bày tỏ những ưu tư, cảm xúc, và những ý kiến chân thành
được rút ra từ việc nhận thức sâu sắc trong quá trình viết chuyên đề.
7. Tham quan thực tế
Hình thức tham quan thực tế là một phương pháp giáo dục trực quan giúp cung
cấp cho học sinh những bằng chứng “Sống”.Việc này được triển khai cho những
trường gần các di tích lịch sử, các đơn vị quân đội, các bảo tàng....
Vì vậy Nhà trường đã tổ chức cho học sinh tham quan và tham gia hội trại “Về
nguồn” do Huyện đoàn tổ chức tại đây. Qua buổi tham quan học sinh tỏ ra rất
thích thú, hào hứng và quan trọng hơn đã giúp học sinh hiểu rõ về lịch sử, truyền
thống của địa phương.
Tôi nghĩ đây là một biện pháp khá hay vì qua đó học sinh sẽ biết được rõ hơn
về lịch sử của địa phương về quá trình đấu tranh giữ nước của cha ông ta.
Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà
trường và chính quyền địa phương.
8. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình môn GDQP - AN và
tăng cường đầu tư cho cơ sở vật chất - kỹ thuật, các trang thiết bị, phương
tiện hỗ trợ công tác dạy và học môn giáo dục quốc phòng.
Bên cạnh những mặt tích cực của giáo trình, thì nội dung chương trình, giáo
trình môn giáo dục quốc phòng an ninh nói riêng, cũng như của tất cả các bộ
môn khác nói chung có phần thiên về các kiến thức khoa học xã hội và nhân
văn, nhiều khi nặng về quan điểm chính trị, đôi chỗ còn hạn chế về hàm lượng
khoa học. Chính vì vậy, môn Giáo dục quốc phòng - An ninh còn chưa có sức

thuyết phục cao đối với những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Các nội
dung truyền tải đôi khi còn mang tính kinh viện, trích dẫn.

10


Đổi mới nội dung, chương trình môn học giáo dục quốc phòng thời gian tới phải
khắc phục được tối đa những hạn chế kể trên. Cần phải lồng ghép một số nội
dung môn GDQP - AN vào các môn học khác như Lịch sử, Địa lí, Giáo dục
công dân v.v.. để tránh chồng chéo về nội dung. Một trong những vấn đề quan
trọng, ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học môn Giáo dục quốc phòng - An
ninh là cơ sở vật chất, các phương tiện hỗ trợ cho quá trình dạy và học. Hiện
nay, những điều kiện nêu trên mới chỉ dừng lại ở mức độ đáp ứng được một
phần yêu cầu. Do vậy, cần trang bị thêm những phương tiện cần thiết nhất, bổ
sung các loại giáo trình, sách báo, tài liệu tham khảo trong hệ thống thư viện là
vô cùng cần thiết. Đặc biệt là các loại tài liệu tham khảo phải được cập nhật
thường xuyên, đảm bảo việc khai thác thông tin từ Internet.
Trên đây là những kết quả nghiên cứu bước đầu để việc áp dụng vào công tác
giảng dạy thực sự đem lại hiệu quả đòi hỏi sự phối hợp của nhiều ban nghành
trong và ngoài nhà trường mà điều quan trọng nhất là bản thân giáo viên giảng
dạy môn học đó.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Trải qua thời gian giảng dạy với việc áp dụng các phương pháp giảng dạy do
bản thân tự tìm tòi và học hỏi trong quá trình công tác tôi nhận thấy kết quả học
tập của học sinh có sự chuyển biến tích cực.
Điều dễ nhận thấy nhất đó là chuyển biến trong nhận thức của học sinh. Nếu như
trước đây đa phần học sinh cảm thấy chán nản không hứng thú có thái độ thờ ơ
xem nhẹ dẫn đến tác động không nhỏ đến kết quả học tập thì hiện nay phần lớn
các em đều xác định ý thức học tập tốt mà biểu hiện cụ thể nhất đó là số lượng
học sinh tham gia học tập đầy đủ, cả về số lượng lẫn công tác chuẩn bị nhất là

với những nội dung thực hành, tác phong học tập nghiêm túc thể hiện rõ vai trò
trách nhiệm với môn học.
Trong các bài học lí thuyết học sinh cảm thấy hứng thú học tập đặc biệt
khi được nghe giáo viên kể các câu chuyện về các tấm gương anh hùng của dân
tộc như Hai Bà Trưng, Lê Lợi..... các cách đánh giặc của cha ông ta điều đó tạo
cho các em có sự hứng thú nhất. Đặc biệt khi được giao bài tập về nhà hầu hết
các em đã tìm tòi tài liệu nghiên cứu để hoàn thành các bài tập do giáo viên đặt
ra ví dụ như về tác hại của Ma tuý, chủ quyền biển đảo Việt Nam, các mẩu
chuyện về các nhân vật lịch sử...
Với những kết quả bước đầu đạt được như vậy là rất tích cực tạo tiền đề
cho những bước phát triển về sau.
Sau nhiều năm áp dụng phương pháp này, tôi thấy có sự phân hóa học sinh như
sau: học sinh giỏi, khá nắm vững, vận dụng tốt kiến thức, kỹ năng, học bài, làm
bài rất tốt; Học sinh trung bình nắm được kiến thức cơ bản, học bài, làm bài
tương đối tốt; Một số học sinh chưa chăm chỉ, chưa chú ý, lười suy nghĩ kết quả
học tập chưa cao.
Kết quả xếp loại học lực môn Quốc phòng-An ninh các năm gần đây ( chỉ
tính riêng học sinh khối 10) như sau:

11


TT
1
2
3

Năm học
20132014
20142015

20152016

Tổng
số học
Giỏi
sinh SL %

Khá
SL %

146

16 11% 85

139

23

132

27 20% 86

17

89

Học lực
T.Bình
SL %


Yếu
SL %

Kém
SL %

58%

45

31%

0

0

0

0

64

27

19%

0

0


0

0

65%

19

14%

0

0

0

0

* Những bài học kinh nghiệm:
Trước hết, người thầy phải luôn có lòng yêu nghề, tâm huyết với công việc, có ý
thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi và mạnh dạn áp
dụng những cái mới vào trong thực tiễn giảng dạy. Phải thường xuyên nghiên
cứu, chủ động dự giờ của đồng nghiệp để tích luỹ thêm kinh nghiệm, phương
pháp; tham dự đầy đủ các lớp tập huấn chuyên môn…để nắm bắt những thông
tin về nội dung, chương trình. Từ đó, giáo viên mới có thể lập một kế hoạch bài
học cho mình một cách khoa học, có sự tích hợp giữa kiến thức các môn học với
nhau.
Giáo viên cần nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho bản thân. Cần đổi mới phương pháp dạy học bằng việc lồng ghép
với các môn khác như Lịch sử, Địa lí, GDCD… để truyền thụ kiến thức cho học

sinh tránh sự nhàm chán, khô cứng của bộ môn.
Cần tích cực áp dụng CNTT và sử dụng các loại tranh ảnh, các đoạn phim tư
liệu vào trong quá trình giảng dạy, nhằm thu hút sự chú ý, tạo ra hứng thú học
tập của học sinh giúp các em hiểu bài nhanh hơn. Đặc biệt Giáo viên cần tạo ra
một không gian vui nhộn trong các tiết học sẽ thu hút được tất cả các em tham
gia, các em sẽ có hứng thú học hơn và góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Dạy học nói chung và dạy học GDQP - AN nói riêng yêu cầu người giáo viên
phải biết linh hoạt sử dụng các phương pháp trong tiết dạy thì mới giúp cho học
sinh khắc sâu kiến thức một cách chủ động. Do đó yêu cầu người giáo viên phải
có nghệ thuật sư phạm và nắm được những nội dung cơ bản. Trong quá trình
giảng dạy, sưu tầm bổ sung tư liệu phục vụ cho việc dạy, tiếp tục học hỏi kinh
nghiệm và tìm cách truyền đạt để có được sự vững chắc trong kiến thức, nhằm
lôi cuốn học sinh. Ngoài ra, hình thành cho học sinh tính độc lập, sáng tạo và
năng động để tiếp thu và lĩnh hội kiến thức trong quá trình học.
C - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN:
Tóm lại để nâng cao chất lượng môn học GDQP - AN cần phải thực hiện
đồng bộ nhiều vấn đề như xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng đảm bảo
về chất lượng, nghiệp vụ được coi là trọng tâm cơ bản. Nghiên cứu về thực trạng
và giải pháp nâng cao chất lượng môn học GDQP - AN là một vấn đề lớn, khó
12


khăn và phức tạp, đòi hỏi nhiều công sức và trí tuệ tập thể. Đây không chỉ là yêu
cầu với tất cả các trường THPT trên địa bàn tỉnh mà còn là của tất cả các trường
trên địa bàn cả nước. Vì vậy cần có sự phối hợp của nhiều ban nghành, cơ quan.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, những vấn đề mà tôi đưa ra mới chỉ
là những nghiên cứu bước đầu với hi vọng sẽ nhận được sự đóng góp của quý
thầy cô giáo trong nhà trường cùng các nhà quản lí và những giáo viên trực tiếp
làm công tác GDQP - AN, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học môn

GDQP - AN ở các trường THPT góp phần vào mục tiêu đào tạo con người toàn
diện trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
II. KIẾN NGHỊ:
1. Đối với tổ chuyên môn:
Cần tăng cường tổ chức các giờ ngoại khóa, các chuyên đề GDQP - AN để học
sinh và giáo viên có thể thông qua đó thảo luận góp ý để có phương pháp dạy tốt
hơn bộ môn GDQP - AN. Đồng thời mỗi một thành viên trong tổ có thể có
những sáng kiến hoặc sáng tạo trong việc tự làm các đồ dùng trực quan dạy học
phù hợp với đối tượng học sinh của mình
2. Đối với nhà trường:
Cần tạo điều kiện về sân bãi, phòng học, máy chiếu để phục vụ giảng dạy. Tăng
cường hơn nữa trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các tiết dạy GDQP - AN.
Cần mua các tư liệu GDQP - AN có liên quan trong chương trình học để giáo
viên và học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính hiệu quả
của bộ môn. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá giờ dạy GDQP AN.
3. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
Cần cung cấp thêm nữa các đồ dùng trực quan: như mô hình học cụ, tranh ảnh,
các băng đĩa, phim tài liệu nhằm phục vụ nhu cầu dạy - học của giáo viên, học
sinh ở trường trung học phổ thông.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày10 tháng 6 năm2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Lê Văn Sâm


13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình GDQP tập 1, NXB Giáo dục, 2004
2. Tài liệu tập huấn giáo viên GDQP-AN năm 2011, Vụ GDQP Bộ GDĐT.
3. Sách giáo khoa GDQPAN lớp 11, NXBGD, 2011.
4. Chương trình GDQP - AN cấp trung học phổ thông, Bộ GDĐT năm 2007.

14



×