Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận triết học: Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế xã hôi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.98 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, khi loài người đã bước sang cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 3 thì khoa học kỹ thuật đã thực sự trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp như lời Mác đã tiên đoán. Với sự phát
triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công nghệ hiện đại, với hàm
lượng chất xám chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các sản phẩm làm ra,
con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong tiến trình phát
triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Biện chứng của sự phát triển
trong thời đại ngày nay đòi hỏi con người phải bộc lộ đầy đủ hơn nữa
"sức mạnh của bản chất con người" của mình một cách hiện thực và sinh
động hơn, phong phú và đa dạng hơn, văn hoá và trí tuệ với những cá
tính độc đáo và những phẩm chất năng động, sáng tạo của con người
hiện đại. Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất, có tính chất quyết
định đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay, luôn chăm lo phát
triển nguồn nhân lực, nhất là trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng ta xác định rất rõ rằng: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển. Bởi vì, mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước suy cho cùng là phải hướng tới phục vụ con người, vì con
người và giải phóng con người. Trong cơng cuộc cơng nghiệp hố - hiện
đại hoá đất nước mục tiêu quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta thì nguồn nhân lực chính là chìa khố của sự
thành công. Xây dựng nguồn nhân lực cao là nhân tố đẩy nhanh q
trình cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước.
Vì tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài: Phát triển
và sự dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta làm tiểu luận nghiên cứu.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN
NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.



1. Biện chứng của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự phát
triển kinh tế xã hội.
a. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài
người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và
sản xuất ra bản thân con người. Ba q trình đó gắn bó chặt chẽ với
1

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


nhau, tác động qua lại với nhau trong đó sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại
và phát triển của xã hội. Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương
thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người
thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định
của xã hội loài người. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức
sản xuất nhất định. Cho đến nay, lịch sử loài người đã trải qua năm
phương thức sản xuất đó là cơng xã ngun thủy, nơ lệ phong kiến, tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phương thức sản xuất đóng vai trị
quyết định đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất
trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến
cao.
Trong quá trình lao động sản xuất, một mặt là quan hệ giữa con
người với tự nhiên - lực lượng sản xuất, mặt khác là quan hệ giữa với
người người tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là, sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ
sản xuất tương ứng. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính

chất, trình độ của lực lượng sản xuất đây là quy luật cơ bản nhất của
toàn bộ lịch sử loài người, là quy luật biến đổi phát triển của các phương
thức sản xuất. Trước hết ta tìm hiểu về lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
- Lực lượng sản xuất đó là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật
mà trong mối quan hệ với nhau tạo thành sức sản xuất của xã hội. Như
Mác đã nói lực lượng sản xuất bao gồm nhân tố vật chất đó là tư liệu sản
xuất (bao gồm tư liệu lao động. Trong quá trình sản xuất sức lao động
của con người và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động kết hợp
với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Người lao động chính là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất tác
động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất, đồng thời cũng
chính họ là người sáng tạo ra cơng cụ lao động. Công cụ lao động là
nhân tố quan trọng trong lực lượng sản xuất. Nó là khí quan vật chất
"nối dài" nhân lên sức mạnh của con người trong quá trình lao động biến
đổi thế giới tự nhiên.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đang ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được ứng dụng
nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất tri thức khoa học cũng là một bộ
phận quan trọng trong kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động. Các
yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau,
trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu.

2

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


Trong q trình sản xuất vật chất, ngồi quan hệ giữa con người
với tự nhiên còn là mối quan hệ giữa người với người. Đó chính là quan

hệ sản xuất. Quan hệ này được phân tích theo hai giác độ:
Xét trong q trình tái sản xuất xã hội đó là mối quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất phân phối trao đổi và tiêu dùng.
Nếu phân tích trên 3 lớp quan hệ đó là quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý sản xuất quan hệ trong
phân phối sản phẩm lao động. Ba quan hệ này có tư liệu sản xuất giữ vai
trò quyết định.
Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời
sống vật chất của đời sống xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể
hiện ở chỗ, chúng tồn tại khách quan độc lập với ý muốn chủ quan của
con người.
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất
biện chứng trong mỗi quá trình sản xuất. Trong mối quan hệ đó vai trị
quyết định thuộc về lực lượng sản xuất bởi vì nó là nội dung vật chất của
q trình đó. Tính quyết định đó thể hiện là tương ứng với một trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất hiện có thì cũng cần có một hệ thống
quan hệ sản xuất phù hợp nhằm bảo tồn, khai thác, sử dụng và phát triển
lực lượng sản xuất. Đồng thời những biến đổi trong nội dung vật chất
của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến khả năng biến đổi của các quan
hệ sản xuất.
Với tư cách hình thức kinh tế của quá trình sản xuất thì quan hệ
sản xuất lại có vai trị ảnh hưởng trở lại với lực lượng sản xuất. Sự tác
động này biểu hiện trên hai khả năng với nhu cầu khách quan của việc
bảo tồn, sử dụng và khai thác có hiệu quả các lực lượng sản xuất và do
đó có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trong trường hợp
ngược lại thì nó lại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố như sự tích lũy dần kinh
nghiệm mà trong thời đại ngày nay với sự tác động trực tiếp và nhanh
chóng của các tri thức khoa học kỹ thuật và cơng nghệ vào q trình sản
xuất thì lực lượng sản xuất khơng ngừng biến đổi và phát triển. Nhưng

sự biến đổi và phát triển đó trong một giới hạn nhất định thì chưa tạo ra
nhu cầu khách quan của sự biến đổi các quan hệ sản xuất. Khi sự biến
đổi đó tới một giới hạn nhất định cả về số lượng và chất thì tất yếu sẽ đặt
ra nhu cầu khách quan là cải cách, cải tổ và cao hơn là một cuộc cách
mạng tới tận cơ sở quan hệ sản xuất tư liệu chủ yếu.
Tuy nhiên những quan hệ sản xuất khơng tự nó biến đổi mà nó cần
đến những cuộc cải cách; cách mạng trên phương diện chính trị và thể
3

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


chế Nhà nước, cơ chế Nhà nước vì rằng những quan hệ sản xuất bao giờ
cũng mang một hình thức pháp lý, chính trị văn hóa.
Như vậy một u cầu khách quan được đặt ra có tính ngun tắc
đối với các q trình xác lập, hồn thiện những quan hệ sản xuất phải
dựa trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có.
Ở nước ta đổi mới đã có những biểu hiện vận dụng chưa đúng quy
luật này biểu hiện ở việc chủ quan, nóng vội trong việc xây dựng quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà khơng tính tới trình độ của lực lượng
sản xuất nước ta. Một quan hệ sản xuất tiên tiến không phù hợp với trình
độ thấp kém của lực lượng sản xuất, nó đã kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất nước ta trong một thời gian dài. Từ đổi mới 1986 đến
nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nước ta đã lựa chọn
con đường phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, bởi lẽ trình độ lực lượng sản xuất nước ta cịn thấp kém, khơng
đồng đều. Sự khơng đồng đều về trình độ của lực lượng sản xuất địi hỏi
phải có sự đa dạng phong phú của các quan hệ sản xuất.

b. Lực lượng sản xuất xã hội là yếu tố tiêu biểu cho các thời đại
lịch sử xã hội.
Trong những hang đá lâu đời nhất, người ta đã tìm thấy những
cơng cụ và những vũ khí bằng đá. Việc sử dụng và sáng tạo những tư
liệu lao động tuy đã có mầm mống ở một vài lồi vật nào đó nhưng vẫn
là đặc trưng nổi bật nhất của lao động con người. Con người đã phát
triển tư liệu lao động lên một trình độ cao hơn, ngày càng đáp ứng tốt
hơn quá trình sản xuất. Sản xuất phát triển trong tất cả các ngành làm
cho sức lao động của con người có khả năng sản xuất được nhiều tư liệu
hơn số tư liệu cần thiết cho sinh hoạt của họ, làm tăng sản lượng lao
động hàng ngày mà mỗi thành viên của thị tộc, của cơng xã gia đình
hoặc 1 vợ 1 chồng.
Trong lúc của cải làm ra nhiều, mở rộng phạm vi sản xuất, tư hữu
xuất hiện thì ở những điều kiện lịch sử nhất định sự phân công lao động
xã hội lớn đầu tiên tất nhiên sẽ đưa đến chế độ nô lệ. Trong xã hội chiếm
hữu nơ lệ hình thành 2 giai cấp chủ nơ và nô lệ. Kiểu sản xuất tập thể
hay hợp tác theo lối nguyên thủy rõ ràng là sự tất yếu của từng cá nhân
riêng lẻ chứ khơng do xã hội hóa tư liệu sản xuất.
Sự phát triển phi thường của công nghiệp và q trình tập trung
cực kỳ nhanh chóng của sản xuất trong các xí nghiệp ngày càng lớn, là
một trong những đặc tính đặc sắc nhất của chủ nghĩa tư bản.Giai cấp tư
sản trong quá trình thống nhất giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra
4

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


một lực lượng sản xuất bằng tất cả những lực lượng sản xuất của các thế
hệ trước cộng lại. Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên đã cho chúng
ta thấy hoạt động của lồi người có khả năng đến mức nào. Nó tạo ra các

kỳ quan khác hẳn thời kỳ cổ đại. Giai cấp tư sản không thể tồn tại nếu
khơng ln ln cánh mạng hóa cơng cụ sản xuất do đó cách mạng hóa
quan hệ sản xuất. Điều này trái với tất cả các giai cấp thống trị trước kia
thì việc duy trì nguyên vẹn phát triển sản xuất cũ là điều kiện đầu tiên
cho sự tồn tại của họ.
Chủ nghĩa xã hội là hình thái kinh tế xã hội cao nhất trong lịch sử.
Giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến giữa vai trò
lãnh đạo xã hội. Khi lực lượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hóa cao
thì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trở lên lỗi thời kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Do đó, nó phải được thay thế bằng một
quan hệ sản xuất tiến bộ hơn đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội là lực lượng sản xuất tiên tiến,
có tính xã hội hóa cao mà đỉnh cao là chủ nghĩa cộng sản khi đó con
người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.
Mỗi thời đại lịch sử được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất
nhất định mà trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố tiêu biểu cho các thời
đại lịch sử xã hội. Xã hội phát triển từ thấp đến cao xét đến cùng cũng là
do lực lượng sản xuất quyết định.
2. Lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất
Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự thay đổi, phát
triển của phương thức sản xuất.
Dù hình thức xã hội của sản xuất như thế nào, người lao động và
tư liệu sản xuất bao giờ cũng vẫn là những nhân tố của sản xuất. Muốn
có sản xuất nói chung thì người lao động và tư liệu sản xuất phải kết hợp
với nhau. Con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng
lao động để tạo ra sản phẩm cho xã hội. Lực lượng sản xuất là yếu tộ
động, luôn luôn biến đổi dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Nếu
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thích hợp thì sẽ
thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy có thể nói rằng lực lượng sản xuất
là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất. Trong thực tế lịch sử xã hội loài

người, sự phát triển của sản xuất đều được đánh dấu bằng sự tiến bộ
không ngừng của lực lượng sản xuất. Các cuộc cách mạng kỹ thuật đã
mang lại sự thay đổi vượt bậc của quá trình sản xuất xã hội về cách thức
sản xuất, phương thức tổ chức quản lý..
Sự khác nhau giữa một thời đại này với một thời đại kinh tế khác
là phương thức chế tạo,là những tư liệu lao động dùng để chế tạo chứ
không phải là cái người ta chế tạo ra. Những tư liệu lao động là thước đo
5

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


sự phát triển của người lao động và là những chỉ số của những quan hệ
xã hội trong đó người lao động làm việc. Nguồn gốc sâu xa của sự vận
động phát triển của xã hội chính là ở sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay
đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm
cho kiến trúc thượng tầng thay đổi và do đó phương thức sản xuất cũ
được thay thế bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, hình thái kinh
tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn,
tiến bộ hơn. Quá trình này diễn ra một cách khách quan không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan.
3. Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
a. Khái niệm
Hiện nay nhiều khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Ngân
hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực, trí
lực, kỹ năng, nghề nghiệp…) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động
được trong q trình sản xuất, kinh doanh, hay trong một hoạt động nào
đó.

Chúng ta có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể những yếu
tố thuộc về chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức vị thế xã
hội… tạo nên năng lực của người, của cộng đồng người có thể sử dụng,
phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong
những hoạt động xã hội.
Khi ta nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư
cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến
đổi xã hội.
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên,
nguồn lực khoa học - cơng nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con
người là quyết định nhất, bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai
thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy. Những nguồn
lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng
đa dạng và phong phú. Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải
quan tâm đào tạo nguồn lực con người và có chất lượng ngày càng cao.
Muốn thực hiện được điều đó, cần có sự quan tâm ngay trong quá trình
đào tạo, trong quá trình sử dụng và phân công lao động xã hội.
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đây là giai đoạn xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở
các nước có điểm xuất phát thấp từ một nền nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu của nước ta trong thời kỳ quá độ là
6

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


"Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh".
Để thực hiện được mục tiêu này, việc phát triển và sử dụng nguồn
nhân lực để phát triển kinh tế phải được đặt lên hàng đầu.

b. Nhân tố người lao động là nhân tố quyết định trong lực lượng
sản xuất
Lực lượng sản xuất đó là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động
của con người và tư liệu sản xuất.Trong đó "lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là cơng nhân, là người lao động" [V.I.Lênin: Tồn
tập, Nxb Tiến bộ, Matxơcơva, 1977, t.38, tr.430] chính người lao động là
chủ thể của quá trình lịch sử sản xuất, với sức cạnh tranh và kĩ năng lao
động của mình, sử dụng tư liệu lao động mà trước hết là công cụ lao
động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của
con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người
khơng ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao.
Cùng với người lao động thì cơng cụ thì cơng cụ lao động cũng là
một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trị quyết định trong
tư liệu sản xuất. Cơng cụ lao động cũng là sản phẩm do trí tuệ của con
người sáng tạo ra. Với q trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát
minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến
và hồn thiện và nó đã làm biến đổi tồn bộ tư liệu sản xuất.
Từ sự biến đổi và phát triển của hai yếu tố tư liệu lao động và sức
lao động mà lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Suy đến cùng
nhân tố người lao động chính là nhân tố quyết định nhất trong lực lượng
sản xuất. Ngày nay trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học
đóng vai trị ngày càng to lớn. Lao động trí tuệ ngày càng đó vai trị chủ
yếu, nó thúc đẩy sản xuất phát triển bằng những ứng dụng thành tựu
khoa học vào sản xuất. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho
lao động hiện đại khơng cịn là thói quan, kinh nghiệm của họ và là tri
thức khoa học.
Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành cơng hay khơng, tùy
thuộc vào chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không? Khi
Việt Nam bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh

đã khẳng định "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa".
[Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000,
t.10, tr.310]. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xây dựng trên lĩnh vực
kinh tế, người lao động đã trở thành người làm chủ đất nước làm chủ
trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất, từ việc xây dựng kế hoạch sản
7

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


xuất kinh doanh tới tổ chức sản xuất kinh doanh và làm chủ trong quá
trình phân phối sản phẩm. Điều đó tạo ra điều kiện để phát huy nguồn
lực con người, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất
nước ngày càng giàu đẹp.
II. VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ
NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA - HIỆN ĐẠI HĨA CỦA VIỆT NAM HIỆN
NAY

1. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước
a. Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm suốt thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Theo quan điểm của Đảng ta xác định công nghiệp hóa là q trình
chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ
và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng khoa học công nghệ tiên tiến
hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Công nghiệp hóa ở nước ta có đặc điểm phải gắn liền với hiện đại
hóa bởi vì cuộc cách mạng khoa học hiện đại đã và đang diễn ra một số

nước phát triển bắt đầu nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Do đó chúng ta cần phải tranh thủ ứng dụng các thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại, tiếp cận với nền kinh tế tri thức để hiện đại hóa
những ngành, những khâu những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
Ở nước ta cơng nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội; tăng cường sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc.
Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp cơng nghiệp hóa của nước ta được
Đảng cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thức VIII và tiếp tục
khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại hóa"
b. Vai trị của nguồn nhân lực đối với q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc đến nay đã có tới 30 nước hồn
thành cơng nghiệp hóa. Một lợi thế cho những người đi sau là có sẵn vơ
vàn bài học thành công và thất bại của những người đi trước. Người ta
đã tổng kết và kể ra rất nhiều con đường cơng nghiệp hóa khác nhau:
Cơng nghiệp hóa cổ điển và phi cổ điển.
Cơng nghiệp hóa cổ điển đây là kiểu cơng nghiệp hóa mà các nước
Tây Âu và Mỹ đã thực hiện ở thế kỷ 18, 19.
8

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


- Công nghiệp loại 2: phi cổ điển là của các nước đi sau tiến hành
cơng nghiệp hóa một cách chủ động theo định hướng của Chính phủ.
Nước ta đi theo con đường này, và con đường này có xu hướng rút ngắn
thời gian hồn thành.
Nói tới cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa người ta đến vốn và cơng

nghệ hiện đại. Nhưng điều đó chỉ hồn tồn đúng với con đường cơng
nghiệp hóa cổ điển, kinh nghiệm của các nước cơng nghiệp hóa con
đường thứ hai cho thấy hồn tồn khơng phải như vậy mà nhân tố quan
trọng nhất chính là con người
Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là con đường duy nhất để phát
triển nền kinh tế - xã hội đối với bất cứ quốc gia nào nhất là các nước
chậm phát triển và đang phát triển. Trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, con người - nguồn nhân lực với tư cách là lực lượng sản
xuất hàng đầu của xã hội. Chính là yếu tố quyết định nhất, động lực cơ
bản nhất. Thực tế đã chứng minh nguyên nhân dẫn đến sự thành công
của các quốc gia vùng lãnh thổ có nền cơng nghiệp phát triển ở Châu Á.
Họ đã có chính sách ưu tiên phát triển giáo dục hợp lý tạo ra nguồn nhân
lực có tay nghề, chun mơn kỹ thuật cao đáp ứng tốt cho cơng nghiệp
hóa. Nếu như cơng nghiệp hóa của các nước Châu Âu kéo dài gần 100
năm thì các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo
chỉ mất hai ba mươi năm đã xây dựng được một nền cơng nghiệp hiện
đại. Rị ràng nguồn nhân lực trở thành yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng
mang tính quyết định nhất đối với sự phồn thịnh của quốc gia.
ở nước ta, Đại hội XI (2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa
và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân lực từ các đại hội trước,
đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó
Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng
định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá phù hợp với
hoàn cảnh nguồn nhân lực nước ta hiện nay khi hội nhập kinh tế quốc tế,
với sự cạnh tranh diễn ra vô cùng quyết liệt và cuộc cách mạng khoa
học, công nghệ. Đó vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức đòi hỏi chúng
ta buộc phải nâng cao chất lượng nhân tố con người. Đại hội XI của
Đảng đồng thời cũng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”.

Tầm quan trọng của nhân tố con người ngày càng được thể hiện
rõ, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức như hiện nay. Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, với quan điểm chỉ đạo
rằng : “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
9

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát
triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội”.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9
khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước lại tiếp tục được Đảng quan tâm
nhấn mạnh với mục tiêu lớn lao “Xây dựng nền văn hóa và con người
Việt Nam phát triển tồn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần
tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, với những chiến lược về phát huy nhân tố con người của
Đảng ta trong suốt chặng đường phát triển đất nước rõ ràng đã phát huy
hiệu quả và đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trình độ dân trí
ngày càng cao, kinh tế cũng ngày càng khởi sắc và trên đà phát triển ổn
định, đời sống của người dân được cải biến rõ nét, con người được tạo
điều kiện phát triển toàn diện, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng.
2. Tính tất yếu khách quan phải phát triển và sử dụng nguồn
nhân lực có hiệu quả ở nước ta hiện nay

a. Yêu cầu ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điều kiện một nền kinh tế thấp
kém, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Bên cạnh thành tựu to lớn phục vụ cho công cuộc kháng chiến và bước
đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thì chúng ta cũng mắc phải những
khuyết điểm nghiêm trọng trong tổ chức quản lý, những năm 80 lâm vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sau gần 30 năm đổi mới, nền
kinh tế đã có những thay đổi quan trọng, đã tương đối ổn định và phát
triển tạo nên thế và lực mới của cách mạng nước ta, nâng cao vị thế
nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, trình độ lực lượng sản xuất kém
phát triển đang còn là cản trở chủ yếu của việc xây dựng quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa mà quan hệ sản xuất này vốn mang bản chất xây
dựng hoá nền sản xuất xã hội. Người lao động yếu tố động nhất, quyết
định nhất của lực lượng sản xuất vẫn cịn hạn chế, chưa đáp ứng được
cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ, tốc độ gia tăng dân số cao, số
người trong độ tuổi lao động lớn tạo nên sức ép trên thị trường lao
động. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, đến cuối năm 2013,
10

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


cả nước có 53,65 triệu người trong độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên).
Lực lượng lao động tăng 864,3 nghìn người so với cùng thời điểm của
năm trước, đồng thời tỷ lệ thất nghiệp cũng không giảm so với năm
2012. Năm 2013, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ước tính là
2,2%. Trong đó, khu vực thành thị là 3,58%, và khu vực nông thôn là
1,58%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của ta còn thấp chủ yếu vẫn là lao

động giản đơn. Thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề và lành nghề cao;
chưa có tác phong cơng nghiệp, cơ cấu cấp trình độ chun mơn kỹ thuật
của lao động qua đào tạo cịn bất hợp lý.
Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực còn nhiều yếu kém, chương
trình học khơng phù hợp với thực tế của thị trường lao động. Sinh viên
học thụ động, thiếu tính sáng tạo. Các trường đào tạo nghề sử dụng các
máy móc đã lỗi thời, lạc hậu mà thực tế đã khơng cịn sử dụng….
Chất lượng thì đã vậy, lại kết hợp thêm việc phân bổ, sử dụng
nguồn nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ càng tăng thêm mâu thuẫn về
cung cầu nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng ở các vùng miền
núi, vùng sâu, vùng xa thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu nghiêm
trọng lao động có trình độ, gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển về
nhiều mặt ở vùng này. Với quy mô đào tạo đại học hiện nay, một năm có
khoảng 400.000 lao động qua đào tạo đại học và trên đại học, trong đó
có khoảng 170.000 lao động nhóm này khơng có việc làm. Cụ thể là tỷ
lệ thất nghiệp của lao động tốt nghiệp cao đẳng và cao đẳng nghề vẫn ở
mức cao, lần lượt là 7,2% và 6,69%,
Trước thực trạng đó việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực có
hiệu quả cao là một vấn đề bức thiết. Nguồn nhân lực chính là yếu tố
quyết định thành cơng của cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, nhất
là trong thời đại của khoa học công nghệ hiện nay. Người lao động nước
ta có động lực học tập tốt, thông minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành
giỏi nếu được giáo dục, tự tin và cần có một mơi trường thuận lợi để
phát huy.
b. Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực cũng là yêu cầu và xu thế
chung của thế giới.
Ngày nay khi loài người đã bước vào cuộc cách mạng khoa học
công nghệ lần thứ 3 thì nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh
tế đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Các nước công nghiệp phát triển đã
chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hàm lượng

chất xám trong các sản phẩm làm ra ngày càng tăng lên. Khoa học công
nghệ phát triển như vũ bão, nhanh chóng được ứng dụng vào q trình
sản xuất tạo ra khối lượng sản phẩm đồ sộ. Các sản phẩm này ngày càng
tiến tới phục vụ tối đa cho nhu cầu của con người. Nhiều ngành sản xuất
mới, máy móc thiết bị, cơng nghệ mới, các nguồn năng lượng mới… ra
11

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


đời tạo bước phát triển nhảy vọt cho lực lượng sản xuất. Suy đến cùng
những thành tựu ấy đều ra con người sáng tạo ra, con người đóng vai trị
chủ thể.
Chính vì thế xu thế phát huy yếu tố, nguồn nhân lực là xu thế
chung toàn cầu. Nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ và tay nghề
ngày càng trở thành một lợi thế cạnh tranh cho mỗi quốc gia. Nếu nguồn
nhân lực chỉ hàm chứa lao động giản đơn thì sẽ là một sức ép đối với
quá trình tăng trưởng và phát triển ở các nước chậm phát triển.
Nguồn nhân lực có dồi dào hay khơng là do chính sách đào tạo.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, những chuẩn mực về kĩ năng và năng
suất lao động, về hiệu quả kinh tế, chất lượng sản phẩm và khả năng
cạnh tranh ngày càng phụ thuộc vào việc vận dụng những tiến bộ công
nghệ và tri thức khoa học. Chỉ có con người làm chủ được tiến bộ cơng
nghệ và tri thức khoa học mới.
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi mới trở thành
quốc sách hàng đầu với các quốc gia. Các nước phát triển lợi dụng ưu
thế về vốn, kỹ thuật, đẩy nhanh đào tạo nhân tài, tranh giành người tài
với các nước khác. Các nước đang phát triển tăng cường đầu tư kinh phí
cho khoa học cơng nghệ giáo dục đào tạo nhân tài, đồng thời ngăn ngừa
chảy máu chất xám bằng những chính sách ưu đãi thích hợp. Chính phủ

Ấn Độ đầu tư 1,1% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân, 87% tổng đầu tư
khoa học công nghệ cho đào tạo [Định hướng phát triển đội ngũ tri thức
Việt Nam - tr.57].
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản là nước bại trận bị chiến
tranh tàn phá nặng nề nhưng quốc gia này vẫn khẳng định sự lựa chọn
truyền thống trong giáo dục. Hệ thống giáo dục Nhật Bản được ưu tiên
trên nhiều khía cạnh, được sự quan tâm tạo điều kiện của gia đình và xã
hội. Hàn Quốc bị ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa Nho học Trung Hoa
nên rất chú trọng phát triển giáo dục. Nhờ đó đầu tư trong giáo dục của
Hàn Quốc không ngừng tăng lên trong 50 năm qua. Đối với Trung Quốc,
họ có chính sách mạnh dạn tìm người tài. Trước mắt Trung Quốc đang
thực hiện việc phát hành "thẻ xanh", một loại thẻ dành cho những kỹ
thuật viên, các nhà đầu tư, các nhà doanh nghiệp với đặc quyền vào
Trung Quốc không cần visa.
Trong xu thế tồn cầu hóa, chúng ta khơng thể đứng ngồi cuộc.
Trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển kinh tế đất
nước chúng ta cần hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nước ta tham gia
vào rất nhiều các tổ chức kinh tế như ASEAN, APEC và đặc biệt khi gia
nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO và Hiệp định Đối tác xun
Thái Bình Dương TPP thì tính cạnh tranh của nền kinh tế phải được
12

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


nâng cao. Do đó việc nắm được khoa học kỹ thuật cơng nghệ hiện đại để
chủ động trong q trình sản xuất, kinh tế đối ngoại… rất quan trọng,
chúng ta phải xác định rõ ràng những chính sách thích hợp để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực.
3. Những giải pháp để phát triển và sử dụng nguồn nhân lực

nước ta hiện nay
a. Giảm tỷ lệ gia tăng dân số tạo điều kiện để nguồn nhân lực phát
huy tốt
Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
nhận định "Gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân
quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn
cho việc cải thiện đời sống, hạn chế phát triển về trí tuệ, văn hóa và thể
lực của giống nịi. Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương
lai khơng xa đất nước ta sẽ đứng trước những khó khăn rất lớn, thậm chí
những nguy cơ về nhiều mặt".
Trong những năm qua tốc độ gia tăng dân số ở nước ta đã giảm chỉ
còn dưới 2%. Nhà nước thực hiện kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình
chỉ có 1-2 con để nuôi dạy cho tốt. Thế nhưng từ năm 2003 dân số nước
ta lại có dấu hiệu tăng nhanh trở lại, vì vậy trong giai đoạn tới chúng ta
vẫn phải tiếp tục thực hiện chính sách kế hoạch hóa dân số và gia đình
để trong tương lai đảm bảo tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động
hàng năm hợp lý, hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, tiến tới cân
bằng cung và cầu lao động.
b. Nâng cao hiệu quả của hệ thống giáo dụcđào tạo
Phát triển giáo dục, đào tạo lao động giải pháp có tính chiến lược
lâu dài để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển cung lao
động chuyên môn kỹ thuật trên thị trường lao động. Giáo dục đào tạo
phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Các giải pháp cụ thể là:
Đối với các trường Cao đẳng, Đại học, trung học chuyên nghiệp
cần hoàn thiện chuẩn mực quốc gia về trường, lớp, đội ngũ giáo viên, cơ
sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy, nội dung, chương trình và phương
pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo trong toàn hệ thống.
Phân bố hợp lý các trường đào tạo, các cấp trình độ trên các vùng trong
phạm vi cả nước.
- Mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3

cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và liên thơng
giữa các trình độ, đồng thời chuyển sang đào tạo theo định hướng cầu
lao động, đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất, cung
cấp lao động có chất lượng về tay nghề, sức khỏe, kỷ luật lao động, tác
13

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


phong công nghiệp và các phẩm chất khác để đáp ứng được thị trường
trong nước và nước ngoài.
- Đa dạng hóa các loại hình trường, lớp, dạy nghề của Nhà nước,
của tư nhân và quốc tế, hình thành thị trường dạy nghề phù hợp với pháp
luật.
- Thực hiện quy hoạch, đầu tư tập trung vào hệ thống dạy nghề kỹ
thuật thực hành. Quan tâm xây dựng hệ thống trường dạy nghề trọng
điểm quốc gia, trường cao đẳng dạy nghề, trong đó có các trường đạt
tiêu chuẩn khu vực; các tỉnh, thành phố đều có trung tâm dạy nghề, phát
triển cơ sở dạy nghề ngồi cơng lập.
Bằng nhiều hình thức đa dạng đảm bảo cho mọi người được học
nhất là người nghèo và con em các gia đình thuộc diện chính sách. Động
viên phong trào tồn dân thi đua xóa mù chữ, hoàn thành phổ cập trung
học cơ sở, trung học phổ thông. Cùng với đổi mới nội dung giáo dục
theo hướng cơ bản, hiện đại, phải tăng cường giáo dục cơng dân, giáo
dục thế giới quan khoa học, lịng u nước, ý chí vươn lên vì tương lai
của bản thân và tiền đồ của đất nước.
c. Nhà nước quan tâm đến chính sách quốc gia về việc làm, nâng
cao đời sống cho người lao động, tránh tình trạng chảy máu chất xám.
Nhà nước tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật kinh doanh,
tạo môi trường thuận lợi cho các khu vực kinh tế phát triển, khuyến

khích khu vực kinh tế tư nhân làm giàu chính đáng. Đặc biệt là tạo môi
trường đầu tư, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế để phát triển một
bộ phận lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ hiện đại.
Tiếp tục cải cách khu vực kinh tế Nhà nước, tạo môi trường kinh
doanh bình đẳng, thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu
quả, tạo mở thêm việc làm cho người lao động, phát triển các tập đoàn
kinh tế Nhà nước trong những ngành sản xuất, dịch vụ quan trọng, kinh
doanh ở phạm vi tồn cầu như: hàng khơng, dầu khí, điện lực, viễn
thơng vận tải viễn dương, ngân hàng, bảo hiểm,.. để tạo sự thu hút lao
động chuyên môn kỹ thuật.
Đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngồi (FDI,
ODA…) để đổi mới cơng nghệ, tạo ra thêm nhiều việc làm nâng cao
trình độ tay nghề của người lao động. Khuyến khích Việt kiều chuyển
tiền về nước để tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo mở
thêm việc làm cho người lao động. Thực tế đã cho thấy rằng nguồn vốn
này khá lớn, năm 2004 số tiền việt kiều chuyển về nước gần ngang bằng
vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta.
Bên cạnh việc tạo mở thêm việc làm cho người lao động, đồng
thời cũng đi đôi với nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
14

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


Người lao động được quan tâm đến cả đời sống vật chất và tinh thần. Họ
cần được quan tâm chăm lo cho việc ăn, việc ở ngày càng tốt hơn, các
doanh nghiệp khám bệnh cho người lao động định kỳ để đảm bảo tốt sức
khỏe có thể lao động tốt. Người lao động có thời gian vui chơi, giải trí
để tái sản xuất sức lao động. Khi mà những nhu cầu về chất, tinh thần
của họ được đảm bảo thì họ có thể chuyên tâm vào hoạt động sáng tạo,

đảm nhiệm tốt cơng việc của mình.
Hiện nay tình trạng chảy máu chất xám ở nước ta rất đáng lo ngại.
Nhân tài đang có xu hướng muốn làm việc ở các nước có nền kinh tế
phát triển, ở đó họ được đáp ứng tốt về điều kiện làm việc cũng như sinh
hoạt gấp hàng chục lần trong nước. Mất mát về người tài có nguy cơ làm
cho nền kinh tế nước ta khó mà phát triển nhanh chóng. Chúng ta cần có
chính sách khuyến khích họ như tạo điều kiện về nhà ở, trả lương cao
với đúng năng lực của họ và cung cấp mọi cơ sở vật chất tốt nhất để họ
có thể phát huy năng lực cống hiến cho cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước. Chính sách này đã được áp dụng ở một số tỉnh, thành phố và
thu được những tín hiệu đáng mừng, tuy nhiên cần phải được đẩy mạnh
hơn nữa.

15

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


KẾT LUẬN
Chưa bao giờ trong lịch sử, nhân tố con người lại đóng vai trị
quan trọng trong phát triển kinh tế như thời đại ngày nay. "Máy móc
khơng chỉ thay thế lao động cơ bắp mà còn nhân lên sức mạnh trí tuệ
con người, lực lượng sản xuất chuyển từ dựa vào vật chất sang dựa
nhiều hơn vào trí lực và sức sáng tạo của con người, sức sáng tạo của
con người là vô hạn, tài nguyên là hữu hạn. Cho nên kinh tế dựa vào tri
thức mở ra những triển vọng to lớn, những khả năng vô hạn của con
người, giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách mà mình đang phải
đối mặt". [Đặng Hữu - Phát triển bền vững dựa trên tri thức - Tạp chí lý
luận chính trị/số 11 - 2004. tr 9 - 10]. Việc phát triển và sử dụng nguồn
nhân lực trong phát triển kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ đã được

Đảng và Nhà nước ta xác định đúng hướng. Trong điều kiện nước ta
hiện nay để chiến lược phát triển theo hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa đến thắng lợi, chúng ta phải lấy nguồn nhân lực con người Việt Nam
- nguồn nhân lực quan trọng nhất làm động lực cho sự phát triển lâu bền.
Để bồi dưỡng và phát h
Tuy nguồn lực con người Việt Nam với tư cách đó, chúng ta cần
tạo ra mối quan hệ hài hóa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội tạo
ra mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, lợi ích
quốc gia, dân tộc và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân khơng ngừng nâng
cao trình độ học vấn cho người lao động mang tầm quốc tế, xây dựng
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiên tiến nhưng vẫn ln coi trọng
những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, khơng đánh mất mình. Từ đó
xây dựng và phát triển Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tạo
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.

16

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng, Bài giảng triết học.
2. C.Mác - Angghen, (năm 1976), một số thư về chủ nghĩa duy vật
lịch sử,NXB sự thật, Hà Nội.
3. Lênin (1978, toàn tập, NXB tiến bộ, Maxcova).
4. C.Mác, Angghen (năm 1995) tồn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà
Nội.
5. Hồ Chí Minh: tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
6. Văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI.
7. Định hướng phát triển đội ngũ tri thức Việt Nam.

8. Đặng Hữu - Phát triển bền vững dựa trên tri thức.

17

Nguyễn Anh Văn – Triết học 3 – Cao học 23 – Kinh tế chính trị



×