Tải bản đầy đủ (.pdf) (217 trang)

luận án Giáo phận Thái Bình Lịch sử, thực trạng và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 217 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ XUÂN BÀN

GIÁO PHẬN THÁI BÌNH: LỊCH SỬ, THỰC
TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Ngành : Tôn giáo học
Mã số: 62 22 03 09

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
2. PGS.TS Chu Văn Tuấn

Hà Nội, 2017


LỜI CAM ĐOAN
*
*

*

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Trên cơ sở kế
thừa, phát triển những công trình nghiên cứu đi trước, những tư liệu điền giã, khảo sát của
tác giả luận án đưa ra bức tranh tổng quát về giáo phận Thái Bình trong lịch sử và hiện tại,
Đồng thời rút ra đặc điểm của giáo phận Thái Bình, nêu lên những vấn đề đang đặt ra và
đề xuất một số khuyến nghị đối với người đứng đầu giáo phận và các nhà quản lý của


chính quyền địa phương. Kết quả nghiên cứu này là trung thực và không trùng lặp
hoặc sao chép của công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2017
Nghiên cứu sinh

Hà Xuân Bàn


LỜI CẢM ƠN
*
*

*

Tôi xin được cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Phòng Quản
lý đào tạo, Khoa Tôn giáo học cùng các quý thầy, cô của Học viện Khoa học xã hội
đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành chương trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận án.
Tôi xin được cảm ơn Tạp chí Công an nhân dân - Tổng cục Chính trị Công
an Nhân dân, Bộ Công an - nơi tôi đang công tác, đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi
học tập và hoàn thành luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Hồng
Dương và PGS.TS Chu Văn Tuấn đã hết lòng dìu dắt, tận tình chỉ bảo, hướng dẫn
để tôi hoàn thành luận án này.
Xin được cảm ơn Ban Tôn giáo, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Bình, Ủy ban
Nhân dân tỉnh Hưng Yên, các giáo sĩ và giáo dân Công giáo ở giáo phận Thái Bình
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian điền dã và nghiên cứu luận án.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã khích lệ, động viên
tôi trong suốt quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn./.

Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2017
Nghiên cứu sinh

Hà Xuân Bàn


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BC/BCĐ

Báo cáo/ Ban Chỉ đạo

Caritas

Caritas International (Hiệp hội của 164 tổ chức quốc tế cứu trợ
nhân đạo và phục vụ phát triển xã hội của Giáo hội Công giáo
Rôma hoạt động tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn
thế giới).

Quốc tế

Caritas
Việt Nam

Ủy ban Bác ái xã hội của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, trực
thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam điều hành, thành viên của
Caritas Quốc tế

CT/BNV


Chỉ thị/ Bộ Nội vụ

CT-TTg

Chỉ thị - Thủ tướng

HĐGX

Hội đồng Giáo xứ

HĐGH

Hội đồng Giáo họ

Nxb

Nhà xuất bản

NĐ-CP

Nghị định - Chính phủ

HHĐGMVN Hội đồng Giám mục Việt Nam
HĐTV

Hội đồng Tư vấn

HĐLM

Hội đồng Linh mục


HĐKT

Hội đồng Kinh tế

HĐMV

Hội đồng Mục vụ

LM

Linh mục


DANH MỤC SƠ ĐỒ TRONG LUẬN ÁN

STT

TÊN SƠ ĐỒ

Trang

1

Sơ đồ 2.1: Quá trình hình thành phát triển giáo xứ, họ đạo

33

2


Sơ đồ 2.2: Cơ cấu tổ chức giáo hội cơ sở

39


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN

7

1.1- LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

7

1.2- KHUNG LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM

17

Chương 2: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO

25

PHẬN THÁI BÌNH
2.1- THỜI KỲ TỪ BUỔI ĐẦU ĐẾN THỜI ĐIỂM THÀNH LẬP THÀNH

25


LẬP GIÁO PHẬN (1638-1936)
2.2- THỜI KỲ TỪ THỜI ĐIỂM THÀNH LẬP GIÁO PHẬN (1936) ĐẾN

50

NĂM 1954
2.3- THỜI KỲ TỪ NĂM 1954 ĐẾN NAY

56

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

67

Chương 3: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO Ở GIÁO PHẬN THÁI

69

BÌNH
3.1- THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH ĐẠO VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC

69

GIÁO HỘI
3.2- THỰC TRẠNG HÀNG GIÁO SĨ, GIÁO DÂN, TU SĨ

81

3.3- THỰC TRẠNG NIỀM TIN, THỰC HÀNH NIỀM TIN TÔN GIÁO VÀ


96

HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

110

Chương 4: ĐẶC ĐIỂM GIÁO PHẬN THÁI BÌNH, NHỮNG VẤN ĐỀ

111

ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
4.1- ĐẶC ĐIỂM GIÁO PHẬN THÁI BÌNH

111

4.2- NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

122

4.2- MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

126

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

140

KẾT LUẬN


143

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Giáo phận có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức giáo hội
chặt chẽ có tính toàn cầu từ trung ương (Tòa Thánh) đến giáo hội địa phương (giáo
phận) và giáo hội cơ sở (giáo xứ) của Công giáo. Giám mục có toàn quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp quyết định mọi mặt hoạt động của Công giáo trong phạm vi giáo
phận phụ trách dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo hoàng và trên cơ sở giáo luật. Vì vậy,
xu hướng hoạt động hay sự thịnh, suy của Giáo hội Công giáo phụ thuộc vào từng giáo
phận, nhất là người đứng đầu tổ chức này. Để hiểu rõ về Công giáo, cần đi sâu nghiên
cứu kỹ từng giáo phận.
Công giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ XVI, đến nay đã là tôn giáo có số
lượng tín đồ đứng thứ hai (sau Phật giáo) ở nước ta với trên 6,5 triệu tín đồ, chiếm gần
7% dân số cả nước, thiết lập được một hệ thống tổ chức chặt chẽ dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Toà thánh Vatican, với 26 giáo phận, khoảng 3.000 giáo xứ, trên 4.000 linh mục,
gần 20.000 tu sĩ nam, nữ, 8 đại chủng viện và hơn 5.500 cơ sở thờ tự. Lịch sử truyền giáo
ở Việt Nam diễn ra lâu dài và phức tạp. Do đó, việc nghiên cứu để có hướng tác động
làm cho Công giáo ở Việt Nam thực sự gắn bó, đồng hành với dân tộc, giúp cho công tác
quản lý nhà nước vừa bảo đảm được quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân vừa
làm cho hoạt động của giáo hội tuân thủ pháp luật Nhà nước, góp phần củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc để tập trung xây dựng, phát triển đất nước càng có ý nghĩa cấp thiết hơn
bao giờ hết.
Là một trong 26 giáo phận của Giáo hội Công giáo Việt Nam, giáo phận
Thái Bình tập trung chủ yếu ở địa giới hành chính của tỉnh Thái Bình và một phần

tỉnh Hưng Yên. Đây là những địa bàn có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, văn
hóa của Bắc Bộ. Được thành lập từ năm 1936 đến nay, giáo phận Thái Bình nhìn
chung theo xu hướng hoà đồng với cộng đồng dân cư và đã góp phần tô thắm thêm
lịch sử của địa phương. Tuy nhiên, quá trình du nhập và phát triển, do nhiều nguyên
nhân khác nhau hoạt động Công giáo ở giáo phận Thái Bình cũng nảy sinh những
vấn đề phức tạp. Thậm chí đã có thời kỳ gây xung đột, dẫn đến sự mặc cảm, kỳ thị
khá nặng nề của những người không theo Công giáo đối với Công giáo. Hiện nay,

1


hoạt động tôn giáo ở giáo phận Thái Bình cũng đang xuất hiện nhiều vấn đề phức
tạp liên quan đến công tác quản lý nhà nước. Để hiểu được nguồn gốc, bản chất
nhằm đưa ra những kiến giải về những mâu thuẫn phát sinh từ Công giáo và đề xuất
hướng giải quyết có cơ sở khoa học, cần thiết phải có sự nghiên cứu, nhìn nhận
dưới góc độ tôn giáo học.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay Đảng, Nhà nước ta cũng như các địa phương
Thái Bình, Hưng Yên đang đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng vào khu vực và trên phạm vi thế giới, phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, theo đó việc quản lý tôn giáo nói chung và đối
với hoạt động tôn giáo của giáo phận Thái Bình nói riêng cũng cần có sự đổi mới cho
phù hợp.
Nghiên cứu về giáo phận Thái Bình một mặt chỉ ra những đặc tính chung của một
giáo phận về tổ chức, về thành phần Dân Chúa về đời sống tôn giáo, mặt khác qua
nghiên cứu về một giáo phận cụ thể sẽ thấy được tính đặc thù về lịch sử hình thành, về
đời sống tôn giáo, về hội nhập văn hóa… của mỗi giáo phận, mặc dù đó là tôn giáo độc
thần với hệ thống tổ chức chặt chẽ, được điều hành bởi một giáo luật chung.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Giáo phận Thái Bình:
Lịch sử, thực trạng và những vấn đề đặt ra” cho đề tài luận án tiến sĩ Tôn giáo học
của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích làm rõ lịch sử hình thành, thực trạng hoạt động tôn giáo
và những vấn đề đặt ra của giáo phận Thái Bình hiện nay, luận án đề xuất một số
khuyến nghị góp phần phát huy mặt tích cực, hạn chế những bất cập của Công giáo
ở địa phương.
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu làm rõ khái quát lịch sử hình thành và phát triển của giáo phận
Thái Bình

2


- Làm rõ thực trạng Công giáo ở giáo phận Thái Bình trên các phương diện
cộng đồng (giáo dân, giáo sĩ, nhà tu hành, tổ chức giáo hội), niềm tin tôn giáo và
thực hành niềm tin tôn giáo, các hoạt động xã hội, văn hóa, …
- Nêu lên những vấn đề đặt ra, từ đó đề xuất một số khuyến nghị đối với giáo
hội và chính quyền địa phương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lịch sử và thực trạng giáo phận Thái
Bình, tập trung vào một số vấn đề cơ bản là: cộng đồng tôn giáo, niềm tin tôn giáo
và thực hành niềm tin tôn giáo cũng như mối quan hệ tương tác đối với các thiết chế
văn hóa, chính trị đương thời.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, trong phạm vi địa giới hành chính của hai tỉnh Thái Bình và
Hưng Yên mà giáo phận Thái Bình đang hiện diện.
Về thời gian, nghiên cứu giáo phận Thái Bình từ khi hình thành và phát triển
cho đến nay, đặc biệt là từ khi có chính sách đổi mới về công tác tôn giáo của Đảng,
Nhà nước ta đánh dấu bằng sự ra đời của Nghị quyết số 24 - NQ/TW, ngày

16/10/1990 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình
mới” đến năm 2014 (khi được Giám đốc Học viện Khoa học xã hội giao đề tài luận
án), đồng thời có sự cập nhật một số số liệu năm 2015, 2016 trong quá trình thực
hiện luận án.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được tiến hành nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về
công tác tôn giáo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, chú trọng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của tôn giáo

3


học, nghiên cứu liên ngành. Trong đó, chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu (phân loại và hệ thống hóa)
Phân loại là sắp xếp các tài liệu khoa học theo từng mặt, từng đơn vị, từng vấn đề
có cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triển của giáo phận Thái Bình.
Hệ thống hóa là sắp xếp tri thức thành một hệ thống theo logic trên cơ sở một mô
hình lý thuyết để hiểu biết về Công giáo ở giáo phận Thái Bình.
Với phương pháp này, luận án có thể khai thác được nguồn tài liệu phong phú từ
phía giáo hội và Nhà nước về những vấn đề liên quan đến đề tài. Trên cơ sở đó, có thể hệ
thống hóa, xây dựng luận cứ khoa học cho việc bổ sung, hoàn thiện khung lý thuyết
nghiên cứu và làm cơ sở khoa học cho các cơ quan chức năng tham khảo trong hoạch
định chính sách.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát khoa học: là dùng tri giác trực tiếp hoặc gián tiếp một
cách có hệ thống để thu thập thông tin về giáo phận Thái Bình.

Phương pháp điều tra: là tiến hành khảo sát thực địa, tọa đàm, phỏng vấn,
trao đổi với tín đồ và cán bộ làm công tác tôn giáo tại địa phương để thu thập thông
tin nhằm củng cố cho những nhận định, đánh giá về giáo phận Thái Bình. Luận án
sử dụng kết quả điều tra xã hội học với 1.500 phiếu bảng hỏi người Công giáo do
Ban Dân vận tỉnh Thái Bình thực hiện năm 2000. Ngoài ra, tác giả luận án tiến hành
điều tra xã hội học với 376 phiếu tại 3 giáo xứ có tính điển hình và coi đó như là tài
liệu tham khảo gồm: (1) Giáo xứ Chính tòa, là giáo xứ trung tâm giáo phận Thái
Bình tại thành phố Thái Bình; (2) Giáo xứ Hợp Châu là giáo xứ thuộc khu vực có
đông đồng bào Công giáo thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; (3) Giáo xứ Võng
Phan là giáo xứ giáo dân sống đan xen với những người không theo Công giáo thuộc
tỉnh Hưng Yên.
Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm: là tiến hành nghiên cứu và
xem xét lại những thành quả thực tiễn trong quá khứ từ những công trình đã nghiên
cứu đề cập tới các vấn đề của giáo phận Thái Bình.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp

4


Đây là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ, quy định và bổ sung cho nhau trong
nghiên cứu đề tài luận án. Phân tích là nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng
cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về giáo phận Thái Bình.
Tổng hợp là liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích tạo
thành một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc hơn về giáo phận Thái Bình. Từ
việc phân tích lịch sử truyền giáo qua từng giai đoạn, có thể rút ra đặc điểm cơ bản của
giáo phận Thái Bình. Từ việc phân tích thực trạng hoạt động tôn giáo ở giáo phận Thái
Bình, có thể tổng hợp và rút ra những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo của giáo phận. Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng
khá phổ biến trong luận án, nhằm đạt được hiệu quả cao, có sức thuyết phục trong
nghiên cứu.

- Phương pháp lịch sử
Là phương pháp hồi cố, kết hợp giữa lịch đại và đồng đại đi tìm nguồn gốc
phát sinh, phát triển của Công giáo ở giáo phận Thái Bình, từ đó rút ra bản chất và
quy luật của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh
Việc sử dụng phương pháp này, giúp cho luận án có thể tiến hành đối chiếu
và so sánh Công giáo ở giáo phận Thái Bình, từ đó rút ra những vấn đề nảy sinh và
khuyến nghị đối với các cơ quan chức năng.
- Phương pháp chuyên gia
Phương pháp lấy ý kiến của chuyên gia là những nhà nghiên cứu, quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng… sẽ giúp tác giả luận án xây dựng được cơ sở lý luận
cho đề tài luận án một cách sâu sắc và toàn diện hơn.
5. Đóng góp mới của đề tài luận án
- Đưa ra những đánh giá có tính khái quát về sự hình thành, phát triển của
giáo phận Thái Bình.
- Khắc họa bức tranh toàn cảnh về đời sống đạo, vai trò của Công giáo đối
với đời sống cộng đồng và xã hội, cũng như đánh giá tác động của việc quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo của giáo phận Thái Bình.
- Từ góc nhìn tôn giáo học, cung cấp thêm những bằng chứng khoa học cho

5


những người đứng đầu giáo phận có sự điều chỉnh hoạt động để phù hợp với xã hội.
Đồng thời, để các nhà hoạch định chính sách tham khảo trong việc giải quyết vấn đề
phức tạp liên quan đến giáo phận Thái Bình, nhằm góp phần vào sự ổn định và phát
triển bền vững của địa phương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận án
Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ về hoạt động của giáo

sĩ, tu sĩ, giáo dân giáo phận Thái Bình; sự biến đổi đời sống tôn giáo của giáo phận,
chỉ ra những nét đặc thù của giáo phận, qua đó làm phong phú thêm những nét riêng
biệt về đời sống tôn giáo của Công giáo ở Việt Nam. Đồng thời, kết quả nghiên cứu
đóng góp thêm vào việc hoàn thiện lý luận quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo của giáo phận Thái Bình và trên phạm vi cả nước nói chung.
Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy tôn giáo học.
- Làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và những
người làm công tác tôn giáo ở các địa phương.
- Cung cấp thêm những luận điểm khoa học có tính hệ thống cho các nhà
hoạch định chính sách về quản lý tôn giáo, khuyến nghị đối với những người có
trách nhiệm của giáo phận Thái Bình về các hoạt động tôn giáo.
7. Kết cấu nội dung đề tài luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung đề tài luận án chia làm 4 chương, 10
tiết:
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Lịch sử hình thành và phát triển của giáo phận Thái Bình
Chương 3: Thực trạng đời sống tôn giáo ở giáo phận Thái Bình
Chương 4: Đặc điểm giáo phận Thái Bình, những vấn đề đặt ra và một số
khuyến nghị

6


Chương 1
TỔNG QUAN
1.1- LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1- Những công trình nghiên cứu về Công giáo ở Việt Nam liên quan
đến lịch sử và đời sống tôn giáo của giáo phận Thái Bình
1.1.1.1- Những công trình nghiên cứu về Công giáo ở Việt Nam liên quan

đến lịch sử giáo phận Thái Bình
Từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX đến nay, nhiều công trình nghiên cứu về lịch
sử truyền giáo ở Việt Nam, trong đó có đề cập đến Công giáo ở giáo phận Thái Bình,
như cuốn “Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hồng (quyển I), năm
1959 nhưng chỉ trình bày đến cuối thời các giáo sĩ dòng Tên. Cuốn “Việt Nam giáo sử”
của tác giả Phan Phát Huồn (2 tập), trình bày khá hệ thống về Công giáo ở Việt Nam,
trong đó có giới thiệu sơ lược về giáo phận Thái Bình với hơn 1 trang (278 - 279) ở
chương 5, quyển II [87; tr. 278-279].
“Thập giá và lưỡi gươm” (Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh 1988) của linh mục
Trần Tam Tỉnh đã đề cập đến những vấn đề lớn, cơ bản và phức tạp của Công giáo
ở Việt Nam từ thế kỷ XVIII đến năm 1975, như: mối quan hệ giữa truyền giáo và
chủ nghĩa thực dân; chế độ phong kiến trong giáo hội; Công giáo trong kháng chiến
chống Pháp, Hồ Chí Minh với giám mục Lê Hữu Từ; cuộc di cư năm 1954; Công
giáo dưới chế độ cũ Sài Gòn và với vấn đề chiến tranh ở miền Nam; phong trào yêu
nước của người Công giáo; Công giáo ở miền Bắc; Công giáo miền Nam trước và
sau ngày giải phóng (30/4/1975)... Tác giả kết luận: “Muốn thật sự là Việt Nam,
giáo hội cần cởi bỏ hết những biểu thức tôn giáo và văn hóa phát xuất từ não trạng
ngoại lai và Tây phương, sáng tạo ra một nền thần học riêng của mình căn cứ trên
cuộc sống và văn hóa dân tộc, đồng thời canh tân theo tinh thần Vatican II, hầu có
thể đưa chứng từ về một đấng Kitô giải phóng và hòa giải” [174; tr. 253].
Trong những năm gần đây, việc tìm hiểu Công giáo Việt Nam nói chung, các
giáo phận nói riêng đã được các học giả Công giáo quan tâm hơn. Tác giả Trương Bá
Cần có cuốn “Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm (1945-1995)”, phát hành năm
1996 và chủ biên cuốn “Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam” gồm 2 tập, phát

7


hành năm 2008. Đây là hai công trình được biên soạn khá công phu, nghiêm túc đề cập
đến giáo phận Thái Bình. Cuốn “Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm (19451954)”, tác giả đã giành chương 10 giới thiệu về giáo phận Thái Bình. Ngoài phần khái

quát lịch sử, số liệu, danh sách giám mục và các linh mục, tác giả giới thiệu 48 giáo xứ
trên địa bàn tỉnh Thái Bình và 16 giáo xứ ở tỉnh Hưng Yên.
Cuốn “Giáo hội Công giáo ở Việt Nam” (4 quyển, năm 1998), tác giả Bùi Đức
Sinh giới thiệu về sự truyền giáo ở Việt Nam, từ đầu đến năm 2000. Trong tập một,
giới thiệu hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ dòng Tên ở Đàng Ngoài (từ năm 16271665) và giáo phận Đông Đàng Ngoài dưới sự cai quản của dòng Đa Minh (từ năm
1676 đến giữa thế kỷ XIX), trong đó có giáo phận Thái Bình. Quyển hai giới thiệu giáo
phận Thái Bình từ thời vua Minh Mạng đến Tự Đức. Quyển ba, giới thiệu giáo phận
Thái Bình từ khi thành lập (năm 1936), đến năm 1954 (từ trang 281 - 285); từ năm
1954 đến năm 1974 (từ trang 432 - 436), và quyển bốn giới thiệu giáo phận Thái Bình
từ năm 1975 đến năm 1999, dưới thời các giám mục: Đinh Đức Trụ, Đinh Bỉnh và
Nguyễn Văn Sang (từ trang 174-180), tuy vậy vẫn còn sơ lược dưới dạng biên niên.
Tác giả Cao Thế Dung với tác phẩm “Việt Nam Công giáo sử tân biên” (3 quyển,
2002), đã đề cập tới Công giáo ở giáo phận Thái Bình, nhưng tản mát và sơ lược. Nhìn
chung, các công trình trên đã cung cấp được nguồn tư liệu phong phú, đa dạng nhưng
sơ lược và tản mát về giáo phận Thái Bình.
Cuốn “Giáo hội Công giáo Việt Nam - Niên giám 2004”, chương 3 về giáo
phận Thái Bình, ngoài trình bày về lịch sử truyền giáo, liệt kê 64 giáo xứ, còn giới
thiệu về tổ chức điều hành giáo phận, số liệu thống kê, một số điểm đặc sắc của
giáo phận, các cơ sở tu trì và danh sách 40 linh mục [78; tr. 592-600].
Cuốn: “Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam” (năm 2008), chương 23, Tập
II, trình bày về lịch sử truyền giáo ở giáo phận Thái Bình từ đầu đến năm 1939, đã viết:
“Địa phận Thái Bình mới được thành lập năm 1936, nhưng Công giáo đã có mặt trong
hai tỉnh Thái Bình và Hưng Yên hơn 300 năm trước đó, lúc phần đất của hai tỉnh Thái
Bình và Hưng Yên ngày nay còn nằm trong địa phận Đàng Ngoài (1659-1679), rồi
Đông Đàng Ngoài (1679-1848) và giáo phận Trung - Bùi Chu (1848-1936) [15; tr.
705]. Đến khi được thành lập, giáo phận Thái Bình có 64 xứ, trong đó: “có 6 giáo xứ

8



được thành lập thời kỳ khai phá của các thừa sai dòng Tên (1627-1663), 8 giáo xứ
được thành lập thời địa phận Đông (1679-1848) và 50 giáo xứ được thành lập thời giáo
phận Trung - Bùi Chu (1848-1936); sau năm 1936 có xứ được lập nhưng cũng là
những họ lẻ có từ thời Pháp thuộc được nâng lên thành giáo xứ” [15; tr. 713]. Ngoài
ra, còn giới thiệu về cơ cấu nhân sự (các giám mục, linh mục), các dòng tu, cơ sở vật
chất, giáo dục từ thiện xã hội của giáo phận cho đến cuối thời Pháp thuộc.
1.1.1.2- Những công trình nghiên cứu về Công giáo ở Việt Nam liên quan
đến đời sống đạo của giáo phận Thái Bình
Trên phương diện giáo luật Công giáo: Đáng chú ý có bộ sách “Giải thích
giáo luật 1983” của linh mục Phan Tấn Thành (Rôma, 1995), gồm có 6 tập. Phần
Nhập môn giáo luật (quyển một), tổng tắc nêu định nghĩa giáo luật theo quan điểm
thần học; phân loại giáo luật; tục lệ, sắc luật và huấn thị; hành vi hành chính cá biệt;
quy chế và điều lệ; thể nhân và pháp nhân; các hành vi pháp lý; quyền cai trị; các
chức vụ trong giáo hội; thời hiệu và cách tính thời hiệu. Quyển hai với tên gọi: Dân
Thiên Chúa, gồm bốn tập, Các thành phần Kitô hữu (tập 1), đề cập đến giáo dân,
giáo sĩ (nghĩa vụ và quyền lợi). Tập 2: Cơ cấu phẩm trật của giáo hội, giải thích
nguồn gốc, tên gọi, bản chất, sự hình thành và biến đổi của Giáo hội hoàn vũ (Giáo
hoàng, tập đoàn giám mục, Hồng y đoàn, giáo triều Rôma, các phái viên của Giáo
hoàng); Giáo hội địa phương (giám mục, giám mục giáo phận, giám mục phó và
giám mục phụ tá; tổng giám mục và giáo tỉnh; hội đồng giám mục; các cộng đoàn
toàn quốc; các hội đồng giám mục liên quốc gia); Tổ chức nội bộ giáo phận (công
nghị giáo phận; phủ giáo phận; các cơ quan tư vấn); Giáo xứ và linh mục quản xứ
(giáo xứ, linh mục chính xứ và các dạng thức; các cộng tác viên của linh mục chính
xứ; giáo hạt, nhà thờ và tuyên úy). Tập 3 và 4: Các hội dòng tận hiến và các tu đoàn
tông đồ, giải thích nguồn gốc, bản chất, tính chất, sự ra đời, phát triển, các loại hình
hội dòng tận hiến (tu hội dòng và tu hội đời), tu đoàn tông đồ và các hình thức tu
tập khác cũng như các hiệp hội tín hữu (hội đoàn Công giáo). Quyển bốn Nhiệm vụ
thánh hóa của giáo hội, giải thích bản chất thần học, việc cử hành, thừa tác viên,
người lĩnh nhận các bí tích và các việc phụng tự khác (á bí tích, phụng vụ giờ kinh,
nghi lễ an táng, việc tôn kính các thánh, ảnh tượng, hài cốt, lời khấn và lời thề); nơi


9


thánh và thời gian thánh. Có thể nói, bộ sách này đã cung cấp những tri thức căn
bản về Công giáo, nhất là về cơ cấu tổ chức, phẩm trật, đời sống tu trì, nghi lễ
phụng tự giúp tác giả luận án nghiên cứu sâu hơn về Công giáo ở giáo phận Thái
Bình.
Trên phương diện tôn giáo học: có tác phẩm: “Sinh hoạt Họ nhà thờ Việt
Nam thời xưa” của tác giả Đỗ Quang Chính (Bản tin Hiệp thông, số 5/1999), đã giải
thích thuật ngữ xứ, họ đạo, các yếu tố cấu thành, ban chức việc đến giáo dân, vấn đề
sinh hoạt tôn giáo và hội đoàn Công giáo.
“Sống đạo theo cung cách Việt Nam” kỷ yếu hội thảo khoa học do Ủy ban
Giáo dân của Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức (năm 2004), thu hút cả các học
giả ngoài Công giáo tham gia, đề cập đến lối sống đạo của giáo dân Việt Nam trong
lịch sử cũng như hiện đại. Phần lớn các bài viết đều khẳng định, giáo dân Việt Nam
có “lòng sùng đạo, tổ chức giáo xứ, hội đoàn, kinh lễ, rước sách sầm uất” [206;
tr.131], nhưng đó là “Một đời sống đạo gắn với nếp sinh hoạt và nặng về lề luật”,
“đời sống đức tin có tính chất cá vị hình như yếu kém”, nhà thờ thường đông người
dự lễ, tổ chức giáo xứ có ban bệ vững chắc, nhưng cách sống thấm nhuần Tin mừng
lại không thể hiện được bao” [206; tr. 34].
Trên phương diện hội nhập văn hóa: Các tập kỷ yếu: “Vấn đề tôn kính tổ tiên
nơi người Công giáo qua các thời kỳ lịch sử” (năm 1999); “Một số vấn đề văn hóa
Công giáo Việt Nam từ khởi thuỷ đến thế kỷ XX” (tháng 10/2000), các bài viết đều
khẳng định tiến trình hội nhập Công giáo với văn hóa dân tộc gặp khó khăn là do hệ
lụy của một thời gian dài giáo hội áp đặt lối truyền giáo bất khoan dung, phủ nhận
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Dẫu vậy, văn hóa Công giáo cũng đã từng bước hội
nhập vào văn hóa dân tộc trên nhiều phương diện, từ ngôn ngữ, chữ viết đến văn
học, nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc và đến cả lối sống đạo đã tạo nên một “lòng đạo
đức bình dân trong lối sống đạo” theo cung cách Việt Nam.

Cuốn “Nghi lễ và lối sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam” (năm 2001)
của tác giả Nguyễn Hồng Dương là một chuyên khảo về lễ nghi và lối sống đạo
Công giáo trong văn hóa Việt Nam. Phần một, nghi lễ Kitô giáo trong văn hóa Việt
Nam đã phân tích khá chi tiết về nghi lễ Rôma, quá trình hội nhập văn hóa Kitô,

10


nhất là những biểu hiện của sự hội nhập nghi lễ Công giáo với văn hóa Việt Nam
trong hình thức hát kinh, đọc sách, đọc kinh, múa hát dâng hoa, các hình thức diễn
xướng trong tuần Thánh; nghi lễ sùng kính Mình Thánh Chúa Giêsu; lễ thánh quan
thầy xứ, họ đạo; nghi lễ trong tết nguyên đán, đặc biệt là vấn đề nhìn nhận và ứng
xử với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Công giáo. Tác giả nhận xét: “So với
các dòng truyền giáo hoạt động ở Việt Nam như dòng Tên, dòng Phanxicô, hội
Thừa sai Pari thì dòng Đa Minh là dòng có cái nhìn và ứng xử tiêu cực nhất đối với
vấn đề thờ cúng tổ tiên” [35; tr. 205]. Phần hai, lối sống Công giáo trong văn hóa
Việt Nam thể hiện ở niềm tin và thực hành niềm tin Công giáo, trong các mối quan
hệ giữa giáo dân với giáo sĩ, với người đồng đạo, với người khác đạo và trong gia
đình thân tộc. Tác giả nhận xét: “Cùng với quá trình hình thành nghi lễ trong văn
hóa Việt Nam, một lối sống đạo được hình thành, dựa trên nền tảng của kinh thánh,
của triết lý Công giáo, giáo luật, giới răn; mặt khác, còn bị chi phối bởi lối sống,
phong tục, tập quán và tâm linh tôn giáo - văn hóa truyền thống của người Việt”
[35; tr. 374].
Trong tác phẩm “Kỷ yếu tọa đàm khoa học Từ Công đồng Vatican II đến thư
chung 1980”, Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2005, khi đánh giá về Công đồng Vatican II
(1962-1965); Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam và việc ứng dụng
trong thực tế đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam, linh mục Nguyễn Tấn Khóa
khẳng định: “Những văn kiện của Công đồng chung Vatican II và bức Thư chung 1980
là những thông điệp vô cùng quan trọng không chỉ với giáo hội mà còn có ý nghĩa xã
hội vô cùng to lớn, đặc biệt đã tháo gỡ cho người Công giáo không còn phải băn khoăn

khi phải lựa chọn giữa bổn phận người tín hữu và nghĩa vụ của người công dân. Đối
với phong trào yêu nước của người Công giáo Việt Nam thì các văn kiện trên chính là
cẩm nang, là tấm bảng chỉ đường. Không có những văn kiện này thì tổ chức và phong
trào yêu nước của người Công giáo Việt Nam không thể có điểm tựa và bệ đỡ để vượt
qua những khó khăn thử thách và đạt được những kết quả to lớn như ngày hôm nay”
[214; tr. 12-13].
Cuốn “Ảnh hưởng qua lại giữa Công giáo và văn hóa Việt Nam” (Nxb Tôn
giáo Hà Nội 2012) của tác giả Phạm Huy Thông đã phân tích làm rõ mối quan hệ

11


tác động ảnh hưởng qua lại (cả tích cực và bất cập) giữa Công giáo và văn hóa Việt
Nam trên nhiều phương diện. Trình bày về dấu ấn Công giáo trong văn hóa Việt
Nam, tác giả nhận xét: “Dù trải qua nhiều biến động lịch sử phức tạp nhưng khi du
nhập vào Việt Nam, đạo Công giáo đã thẩm thấu và trở nên một thành tố trong văn
hóa nước nhà, đồng thời có những đóng góp tích cực với xã hội nước ta” [183; tr.
121-122]. Đến lượt nó: “Chính văn hóa Việt Nam là nhân tố thúc đẩy tiến trình hội
nhập văn hóa và đồng hành cùng dân tộc của Công giáo Việt Nam” [183; tr. 209].
1.1.2- Những công trình nghiên cứu về giáo phận Thái Bình
1.1.2.1- Những công trình nghiên cứu về lịch sử giáo phận Thái Bình
Cuốn “Sử ký địa phận Trung” (năm 1916) do thừa sai Manuel Moreno dòng Đa
Minh Tây Ban Nha biên soạn, trình bày khá rõ về lịch sử truyền giáo ở khu vực dòng
Đa Minh, nhất là tại giáo phận Bùi Chu và Thái Bình. Phần một, trình bày về lịch sử
truyền giáo ở giáo phận Trung từ buổi đầu đến năm 1916; về các giám mục coi sóc
giáo phận; tên các tu sĩ, linh mục, số lượng người trong Nhà đức Chúa Trời. Phần hai,
giới thiệu về xứ, họ đạo, tác giả viết: “Giáo phận Trung này chia ra làm 52 xứ: 27 xứ
thuộc về tỉnh Nam Định; 19 xứ thuộc về tỉnh Thái Bình; còn 6 xứ thuộc về tỉnh Hưng
Yên. Mỗi xứ gồm lại nhiều họ, mà họ nào cũng có nhà thờ riêng. Bằng về tên các xứ,
thì xứ nào cũng lấy tên bởi họ đầu nhất, là nơi các thầy cả thường ở; nhưng mà xứ nào

to rộng lắm, thì thường thường lại chia ra làm hai ba khu, mà mỗi khu thường có một
thầy cả ở cho được dễ coi sóc. Trong các xứ ấy, có xứ thì các đấng coi sóc, có xứ thì
các cụ coi sóc; song các xứ ấy chẳng rộng bằng nhau, vì có xứ thì gồm lại ba bốn tổng,
có xứ thì một tổng, có xứ thì chỉ một xã mà thôi” [135; tr. 129]. Phần này còn viết về
ban hành giáo xứ, họ đạo mà tác giả gọi là hội “Hàng phủ hay Hàng xứ, tùy nơi” [135;
tr. 210]; về các hội đoàn, sinh hoạt tôn giáo, tổ chức Nhà Đức Chúa Trời (Nhà Chung),
dòng tu (nữ Đa Minh), chủng viện và các cơ sở xã hội, y tế, giáo dục. Tuy vậy, cuốn
sách này viết khá sơ lược và mới dừng lại năm 1916.
Năm 1928, Marcos công bố cuốn “Lịch sử truyền giáo của dòng Đa Minh ở
Đàng Ngoài” giới thiệu Công giáo ở các giáo phận do dòng Đa Minh cai quản như Hải
Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh, trong đó có đề cập đến Công giáo ở Thái Bình, Hưng Yên
dạng sơ lược, mới đến những năm 20 của thế kỷ XX. Năm 1927, Adrien Launy - học giả

12


thừa sai người Pháp có công trình nghiên cứu: “Lịch sử truyền giáo Đàng Ngoài”, viết
về quá trình truyền giáo của giáo phận thuộc hội Thừa sai Nước ngoài Paris (MEP),
trong đó có đề cập đến Công giáo ở Thái Bình, Hưng Yên đến đầu thế kỷ XX.
Cuốn “Kỷ yếu năm Thánh giáo phận Thái Bình” (năm 1996), giới thiệu những
mốc chính lịch sử giáo phận Thái Bình từ năm 1633 đến năm 1995; số liệu về giáo dân,
giáo sĩ, tu sĩ, chủng sinh, giáo xứ, giáo họ, hội đoàn, cơ sở vật chất của giáo phận tính
đến năm 1995 (phần hai); về các Thánh tử đạo của giáo phận (phần ba); về các giám
mục chủ chăn (phần bốn); về một số văn kiện của giáo phận (phần năm); về lịch sử nhà
thờ Chính tòa (phần sáu); lịch sử 64 giáo xứ, 436 họ đạo của giáo phận (phần bảy) và
danh sách các linh mục của giáo phận từ năm 1939-1995 (phần tám). Nhìn chung, tập
kỷ yếu được biên soạn dưới dạng biên niên, có tính khái lược, như lời nhận xét của
người biên soạn: “Tập kỷ yếu này ra mắt bạn đọc với mong ước khiêm tốn là giúp bạn
đọc có được thoáng nhìn tổng quát về lịch sử của giáo phận Thái Bình từ ngày khai
sinh giáo phận, qua những chặng đường dài phát triển” [191; tr. 5].

Trên cơ sở cuốn kỷ yếu năm 1996, năm 2011 Tòa giám mục biên soạn cuốn kỷ
yếu: “75 năm thành lập giáo phận Thái Bình” (1936-2011), gồm sáu phần, trình bày
khái lược về quá trình hình thành, phát triển của giáo phận, nhất là từ khi được thành
lập (năm 1936), qua 7 vị giám mục (phần 2); phần 3, giới thiệu về cơ sở giáo phận và
tổ chức điều hành; phần 4, giới thiệu 6 giáo hạt, 102 giáo xứ, là phần có dung lượng
nhiều nhất, mỗi xứ đều được giới thiệu theo cấu trúc: vị trí, quá trình thành lập và phát
triển, tổ chức và hoạt động; phần 5, giới thiệu các dòng tu (11 dòng) và các tu đoàn
tông đồ (3 tu đoàn). Tập kỷ yếu nêu trên cung cấp những tư liệu phong phú, cập nhật,
có độ tin cậy cao để nghiên cứu về giáo phận Thái Bình, tuy nhiên còn dưới dạng: “một
tài liệu lịch sử ghi lại những mốc quan trọng liên quan đến lịch sử hình thành và phát
triển của gia đình giáo phận” [192].
Liên quan đến việc nghiên cứu về lịch sử giáo phận Thái Bình còn phải kể đến
một số công trình nghiên cứu về lịch sử các giáo xứ cụ thể như: Lịch sử giáo xứ Bồ
Ngọc, Lịch sử giáo xứ Ninh Cù, Lịch sử giáo xứ Lai Ổn, Lịch sử giáo xứ Lương
Đống… Đúng như tên của đầu đề, mỗi công trình nghiên cứu về một xứ đạo cụ thể.
Các công trình nghiên cứu trên nhìn chung được bố cục theo các nội dung: Lịch sử

13


hình thành và phát triển của giáo xứ, hiện trạng của các linh mục cai quản giáo xứ, đời
sống đạo của giáo dân, vai trò của Ban Hàng phủ, hội đoàn.
1.1.2.2- Những công trình nghiên cứu về đời sống đạo của giáo phận Thái
Bình
Trước hết, phải kể đến công trình: “Sử ký địa phận Trung” (năm 1916), ngoài
nội dung đề cập đến lịch sử địa phận Trung mà Giáo phận Thái Bình vào thời điểm đó
(năm 1916) phụ thuộc, tác phẩm còn đề cập đến đời sống đạo của địa phận (trong đó có
giáo phận Thái Bình) như giáo dân đọc kinh, lần hạt Mân Côi chia thành các bè [135;
tr. 25].
Cuốn “Dòng Đa Minh trên đất Việt”, Calgary - Canada, 1943, quyển I; và

“Dòng Đa Minh trên đất Việt”, Calgary - Canada, 1943, quyển II của tác giả Bùi Đức
Sinh, cùng với việc nghiên cứu về lịch sử của dòng Đa Minh, về quá trình truyền giáo,
phát triển Công giáo ở Việt Nam của dòng, hai tác phẩm còn đề cập đến đời sống đạo
của các giáo phận thuộc dòng cai quản, trong đó có giáo phận Thái Bình. Chẳng hạn
như việc đề cập đến việc giáo dân tham dự Thánh lễ, một số kinh được dịch ra tiếng
Việt như: 15 kinh Mân Côi, nhiều kinh về Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Đời sống đạo của giáo phận Thái Bình được thể hiện qua một số hương ước
làng Công giáo thuộc giáo phận, hiện vẫn còn lưu giữ như:
Hương ước xã Tăng Bồng, tổng Thuận Vi, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình, lập
tháng Giêng năm Duy Tân thứ 2 (1908);
Hương ước xã Bác Trạch, tổng Cai Mại, huyện Trực Định, tỉnh Thái Bình lập
Thu năm Canh Tuất (1910);
Hương ước làng Ngọc Đồng (Ngọc Đường) huyện Kim Thi, tỉnh Hải Dương,
lập năm Duy Tân thứ 7 (1913);
Hương ước làng Đông Châu, tổng Đồng Trực, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái
Bình (không ghi thời gian thành lập).
Các hương ước trên quy định những ngày lễ trọng trong năm giáo dân phải
tham dự, hình thức, thái độ tham dự; quy định về tang chế, về lối sống đời cũng như lối
sống đạo.

14


Hương ước xã Thuận Nghiệp, quy định về việc cấm hút thuốc phiện hay đánh
cờ bạc: “Một điều, người nào trộm ăn (hút) nha phiến hay đánh cờ bạc, phép cấm rất
nghiêm, vì sẽ dẫn đến phá sản, phá nhà chẳng cứu được. Nếu bắt được, không phân
biệt (trên dưới, giàu, nghèo) nhà chứa chấp thì phạt 10 quan, người tham gia bị phạt
mỗi người 1 quan. Nhưng thưởng cho người tố giác 6 quan. Nếu biết sự tình mà không
tố giác thì phạt đến 3 quan để răn đe.
Một điều, cấm trộm cắp. Sở dĩ là để an dân. Hoặc có người nào trộm đồ vật từ 3

mạch trở lên thì phạt tiền 3 quan. Nếu trèo tường, khoét vách thì tùy nặng nhẹ mà phạt
tiền, nhưng thưởng cho người bắt được kẻ trộm 1 quan 2 mạch. Hạng dân bên ngoài
(người làng khác) mà ăn trộm thì phạt tiền 5 quan để đẹp thêm phong tục”.
Nghiên cứu về đời sống đạo của giáo phận Thái Bình còn phải kể đến hai tác
phẩm lưu hành nội bộ của giám mục Giáo phận Thái Bình - Nguyễn Văn Sang là
“Giáo huấn phục vụ nói với giới trẻ” (xuất bản năm 2004) và “Giáo huấn phục vụ nói
với giáo dân” (xuất bản năm 2005).
Tác phẩm: “Giáo huấn phục vụ nói với giới trẻ”, tập hợp những bài viết, bài
giảng của giám mục Nguyễn Văn Sang với các nội dung như: Lịch sử ngày giới trẻ
thế giới; Ngày giới trẻ châu Á; Đại hội giới trẻ Thái Bình. Nhưng quan trọng hơn là
những bài giảng giáo lý của giám mục giáo phận đối với giới trẻ về tình yêu đối với
Thiên Chúa, về lẽ sống, lối sống của tuổi trẻ theo tinh thần Phúc âm.
Tác phẩm: “Giáo huấn phục vụ nói với giáo dân”, đó là những bức thư, những
thông cáo, những chỉ dẫn xuất phát từ đáy lòng “Mục tử hướng dẫn đoàn chiên qua
các nẻo đường và hoàn cảnh thế trần, không phải chỉ có đồng xanh, suối mát, mà
còn qua bao núi cao vực thẳm, nhưng luôn can trường, nhẫn nại” [162; tr. 5-6]. Nội
dung các thông cáo đề cập đến rất nhiều vấn đề trong đời sống đạo của giáo phận
như: Phải làm gì trong Năm Thánh; Giáo dân tham dự các ngày lễ trọng như thế
nào; Giáo dân sống Mùa Chay, Mùa Phục sinh…
1.1.3- Những vấn đề nghiên cứu đặt ra
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập và giải quyết được
một số vấn đề:

15


Một là, giới thiệu khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Công giáo
ở Việt Nam; về các mối quan hệ giữa Công giáo với đời sống chính trị, xã hội,
(trong đó có giáo phận Thái Bình) trong lịch sử dân tộc;
Hai là, nêu lên những vấn đề cơ bản về cơ cấu tổ chức giáo hội, hội đoàn,

dòng tu; nhân sự truyền giáo; cơ sở vật chất của Công giáo (mà giáo phận Thái Bình
là một bộ phận);
Ba là, phân tích về sự hội nhập giữa Công giáo với văn hóa Việt Nam thể
hiện qua lối sống đạo, sinh hoạt tôn giáo, văn hóa và kiến trúc, nghệ thuật; sự thích
nghi của Công giáo với văn hóa, tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam;
Bốn là, đánh giá sự tác động, ảnh hưởng của Công giáo, các khuynh hướng
chính trị và phong trào yêu nước của người Công giáo ở Việt Nam và của giáo phận
Thái Bình trong lịch sử và hiện tại.
Những công trình này là nguồn tài liệu quý báu, có giá trị khoa học lớn cho
việc nghiên cứu đề tài luận án. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cho đến nay vẫn
chưa có công trình nghiên cứu tổng thể về lịch sử, hiện trạng giáo phận Thái Bình.
Phần lớn các công trình mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu giáo phận Thái Bình
trong từng giai đoạn lịch sử nhất định dưới dạng biên niên. Một số công trình mới chỉ
đề cập đến những vấn đề cụ thể của Công giáo ở giáo phận Thái Bình. Nhiều vấn đề
liên quan đến giáo phận cũng mới chỉ được đề cập ở một mức độ hạn chế.
Do vậy, trên cơ ở tiếp thu những công trình nghiên cứu đi trước, luận án mong
muốn đưa ra được một bức tranh tổng quát về giáo phận Thái Bình trong lịch sử và hiện
tại, từ đó rút ra những vấn đề đặt ra hiện nay. Luận án tập trung giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất là, khái quát quá trình hình thành, phát triển của giáo phận Thái
Bình từ buổi đầu cho đến nay; sự hình thành cộng đồng Công giáo; mối quan hệ
giữa lịch sử truyền giáo với các vấn đề chính trị, xã hội ở địa phương.
Thứ hai là, làm rõ thực trạng hệ thống tổ chức hành chính đạo, hội đoàn,
dòng tu; hoạt động của giáo hội; các hoạt động chính trị, xã hội của giáo phận Thái
Bình; đời sống tôn giáo của Công giáo ở giáo phận (chủ yếu trên 3 phương diện là cộng
đồng tôn giáo; niềm tin tôn giáo, thực hành tôn giáo và hoạt động xã hội).

16


Thứ ba là, nêu lên những vấn đề đặt ra hiện nay của giáo phận Thái Bình.

Trên cơ sở đó, đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
những bất cập của Công giáo ở giáo phận.
Luận án là công trình khoa học tương đối hệ thống và toàn diện về giáo phận
Thái Bình được triển khai dưới góc độ Tôn giáo học.
1.2- KHUNG LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.2.1- Khung lý thuyết nghiên cứu
1.2.1.1- Câu hỏi nghiên cứu
- Sự hình thành giáo phận Thái Bình diễn ra trong điều kiện lịch sử giáo hội và
lịch sử dân tộc như thế nào? Giáo phận Thái Bình có những đặc điểm gì so với các giáo
phận khác?
- Niềm tin tôn giáo và thực hành niềm tin tôn giáo như thế nào? Thiết chế tổ
chức và sự vận hành của chúng? Mối quan hệ giữa Công giáo với các thực thể khác
ra sao? Công giáo có ảnh hưởng gì đến đời sống tôn giáo, chính trị, xã hội ở địa
phương trong lịch sử?
- Thực trạng đời sống đạo ở giáo phận Thái Bình như thế nào? Nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo, cách thức tổ chức nghi lễ sinh hoạt tôn giáo hiện nay? Vị trí, vai trò,
ảnh hưởng của Công giáo đối với đời sống kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của
khu vực? Những đóng góp và bất cập của giáo phận Thái Bình đối với dân tộc trong
hiện tại?
- Hoạt động tôn giáo của giáo phận Thái Bình đang đặt ra những vấn đề gì
cho công tác quản lý nhà nước? Từ thực tiễn của giáo phận có khuyến nghị gì đối
với giáo hội cũng như với các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo nhằm hạn chế
những bất cập, phát huy các điểm tích cực của Công giáo góp phần vào công cuộc
đổi mới, phát triển bền vững của địa phương và đất nước?
1.2.1.2- Giả thuyết nghiên cứu
- Công giáo do các giáo sĩ dòng Tên du nhập vào các tỉnh Thái Bình, Hưng
Yên từ thế kỷ XVII, tiếp đó được các giáo sĩ hội Thừa sai Paris (MEP), đặc biệt là
các giáo sĩ dòng Đa Minh, dòng Ausgustine, dòng Phanxicô củng cố và phát triển.
Trong thế kỷ XVIII, mặc dù có sự tranh chấp giữa các giáo đoàn truyền giáo, song


17


công cuộc truyền giáo vẫn tiến triển, số lượng tín đồ gia tăng, các xứ, họ đạo được
thành lập, đội ngũ thầy giảng, kẻ giảng, trương trùm, nữ tu dòng Đa Minh ra đời trợ
giúp cho công cuộc truyền giáo phát triển đạo.
- Từ thế kỷ XIX dưới thời nhà Nguyễn, công cuộc truyền giáo phát triển đạo ở
tỉnh Thái Bình và Hưng Yên do các thừa sai dòng Đa Minh đảm nhận, mặc dù bị chính
sách cấm đạo của triều đình, nhưng Công giáo vẫn được duy trì khá vững chắc.
- Công giáo chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
đặc biệt dưới thời Pháp thuộc (từ năm 1885 - 1945). Số lượng giáo dân gia tăng, nhiều
xứ, họ đạo được thành lập, tổ chức giáo hội được xây dựng hoàn chỉnh từ tòa giám mục
đến các xứ, họ đạo; cơ sở vật chất, nhà thờ, nhà nguyện được thiết lập; cơ sở đào tạo,
dòng tu ra đời, đội ngũ tu sĩ, giáo sĩ tăng nhanh; nhiều cơ sở từ thiện xã hội được hình
thành; đời sống sinh hoạt tôn giáo sôi động.
- Trong lịch sử, Công giáo ở giáo phận Thái Bình có mối quan hệ chính trị
phức tạp; cộng đồng Công giáo bị phân hóa theo các khuynh hướng khác nhau: một
bộ phận lớn bị lợi dụng, đứng về phía thực dân, phản động chống lại phong trào
kháng chiến do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; một số ít khác vẫn thể hiện
được tinh thần dân tộc, tích cực tham gia phong trào kháng chiến.
- Công giáo đã đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; có ảnh
hưởng lớn đến đời sống xã hội, từng bước hội nhập vào nền văn hóa dân tộc; sinh hoạt
tôn giáo diễn ra sôi động. Giáo hội Công giáo ở địa phương đang đẩy mạnh công cuộc
canh tân, đổi mới theo xu hướng đồng hành cùng dân tộc; tăng cường củng cố đức tin,
phát triển đạo tạo ảnh hưởng xã hội. Sự phát triển hội đoàn, dòng tu, xây sửa cơ sở thờ tự
cũng đặt ra những vấn đề khó khăn cho công tác quản lý nhà nước…
1.2.1.3- Lý thuyết nghiên cứu của đề tài
Lý thuyết thực thể tôn giáo: Đây là lý thuyết do một số học giả phương Tây sử
dụng trong nghiên cứu xã hội học tôn giáo, xem tôn giáo là một thực thể xã hội đặc
biệt. Thực thể đó, bao gồm niềm tin vào cái thiêng, việc thực hành gắn với niềm tin đó

và cộng đồng người có cùng niềm tin vào cái thiêng. Vận dụng lý thuyết này, luận án
sẽ triển khai nghiên cứu Công giáo ở giáo phận Thái Bình trên ba phương diện là:
Niềm tin tôn giáo, thực hành niềm tin tôn giáo và cộng đồng tôn giáo. Nói cách khác,

18


lý thuyết này cho phép luận án nghiên cứu giáo phận Thái Bình với tư cách là một thực
thể tôn giáo sống động bao gồm một cộng đồng Công giáo được hình thành trong lịch
sử với những thực hành tôn giáo (hành đạo, truyền đạo và quản đạo) do một hệ thống
tổ chức hành chính đạo điều hành. Lý thuyết này, được áp dụng trong chương hai và
chương ba để nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của Công giáo ở giáo phận
Thái Bình trong lịch sử và hiện tại.
Lý thuyết cấu trúc - chức năng: Lý thuyết này do Durkheim, Weber, tiếp đó là
E. Tylor, B. Malinowski phát triển, được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu xã hội học
tôn giáo. Lý thuyết cấu trúc, cho phép luận án nghiên cứu tôn giáo là một thực thể xã
hội đặc biệt, có hệ thống cấu trúc gồm nhiều bộ phận, thiết chế cấu thành và chúng có
mối quan hệ tương tác lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể. Thuyết cấu trúc nghiên cứu
Công giáo ở giáo phận Thái Bình thấy được các bộ phận, các chi tiết, cũng như sự
tương tác giữa chúng trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Nó cũng cho thấy mỗi yếu tố
hay bộ phận thuộc cấu trúc của tổng thể đều đảm nhiệm một hoặc nhiều chức năng.
Cùng với thuyết cấu trúc là thuyết chức năng, nghĩa là nghiên cứu về chức năng
của mỗi bộ phận trong hệ thống cấu trúc. Mỗi bộ phận trong hệ thống cấu trúc có chức
năng khác nhau, song chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, tương tác và bổ
sung cho nhau làm cho tôn giáo tồn tại như một chỉnh thể. Ngoài những chức năng
chung, mỗi tôn giáo lại có các chức năng riêng trong từng cộng đồng cụ thể và phụ
thuộc vào bối cảnh văn hóa, xã hội, kinh tế, môi trường và thể chế chính trị của xã hội
vào thời điểm đó. Chức năng xã hội cơ bản của tôn giáo là liên kết cá nhân và nhóm xã
hội tạo nên một cộng đồng dựa trên nền tảng của niềm tin và sự thực hành niềm tin tôn
giáo. Tiếp cận lý thuyết chức năng khi nghiên cứu Công giáo ở giáo phận Thái Bình

giúp thấy được quá trình truyền giáo, tiếp nhận đức tin và thực hành đức tin tạo thành
các cộng đồng Công giáo, cùng với các thiết chế của nó hình thành các họ đạo, chúng
liên kết với nhau tạo thành các xứ đạo, để rồi khi hội đủ các điều kiện cần thiết giáo hội
thiết lập thành giáo phận. Mỗi bộ phận trong giáo phận (họ đạo, xứ đạo và các bộ phận
cấu thành của nó), có chức năng riêng, tương tác lẫn nhau và phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.

19


×