và là website chia sẻ miễn phí luận văn,
đồ án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất
cả mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng góp
của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu xin quý
khách gửi về
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Tình hình thực hiện các giải pháp thực hiện nhằm tăng khả năng cạnh tranh của Công ty
bánh kẹo Hải Châu
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />LỜI NÓI ĐẦU
Ở nước ta, trong cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp trước đây, cạnh tranh thị trường được
hiểu một cách méo mó. Suốt một thời gian dài chúng ta coi cạnh tranh thị trường là cá
lớn nuốt cá bé và chỉ thấy mặt tiêu cực của nó. Thật ra cạnh tranh thị trường là cơ chế
hai đầu. Một mặt, nó đẩy các Doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả đến chỗ phá sản,
mặt khác, nó lại tạo môi trường tốt cho các doanh nghiệp nắm vững “luật chơi” phát
triển. Vì thế đừng lấy làm lạ khi một ngày kia sẽ có những chủ Doanh nghiệp mà tên
tuổi của họ ngời chói trong làng kinh doanh cho dù hôm nay ta còn chưa biết họ ở đâu.
Và cũng một ngày, sẽ có những cơ sở bị tiêu vong cho dù những cơ sở này đã từng một
thời cung cấp phần lớn các hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cho xã hội. Đó cũng là lý do giải
thích vì sao có người cho rằng thị trường và cạnh tranh là con dao hai lươĩ. Thị trường
với DN này là cái “nôi” nhưng với Doanh nghiệp kia là “ nghĩa địa”, và cạnh tranh, với
DN này là động lực, là niềm phấn khởi để phát triển, trong khi với Doanh nghiệp khác
lại như một hành động tự sát, là con đường dẫn đến diệt vong.
Thực tế cho thấy, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều Doanh
nghiệp đã và đang khẳng định khả năng, vị trí của mình, đứng vững trong cơ chế mới và
bắt đầu vươn lên. Bên cạnh đó, một số Doanh nghiệp khác do làm ăn kém hiệu quả đã phải
sát nhập hoặc phá sản.
Là một Doanh nghiệp Nhà nước, Công ty bánh kẹo Hải châu đã nhanh chóng thích ứng
với cơ chế, từng bước tạo lập và dần nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thương
trường, sản phẩm của Công ty đã được nhiều người tiêu dùng chấp nhận. Tuy nhiên, do
mức độ cạnh tranh của ngành sản xuất kinh doanh bánh kẹo ngày càng gay gắt. Công ty
Hải châu sẽ phải đối đầu với rất nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh. Bởi vậy những gì đã đạt
được của Công ty sẽ luôn luôn bị đe doạ trong tương lai. Do đó việc năng cao khả năng
cạnh tranh của công ty bánh kẹo Hải châu là một tất yếu.
Qua thời gian thực tập tìm hiểu thực tế tại Công ty bánh kẹo Hải châu, với tâm
huyết của mình, em xin chọn và trình bày chuyên đề với đề tài: “ Một số biện pháp nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải châu”, với hy vọng sẽ đóng góp
phần nào vào sự phát triển của công ty trong thơi gian tới.
BẢN CHUYÊN ĐỀ GỒM BA PHẦN CHÍNH
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />PHẦN I : Một số nội dung cơ bản về nâng cao khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường.
PHẦN II: Tình hình thực hiện các giải pháp thực hiện nhằm tăng khả năng cạnh tranh
của Công ty bánh kẹo Hải Châu.
PHẦN III: Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹo
Hải Châu
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />PHẦN I
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
I-/ CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Cạnh tranh là đặc trưng cơ bản của thị trường và vì thề có thể nói, thị trường là vũ đài
cạnh tranh là nơi gặp gỡ của các đấu thủ,
Vậy cạnh tranh là gì?
1-/ Khái niệm.
- Cạnh tranh đặc biệt phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Theo Mác:” cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua,sự đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá để thu được lợi nhuận siêu gạch”. Nghiên cứu về sản xuất hàng hoá TBCN và cạnh
tranh tư bản chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh TBCN là quy
luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành. Nếu ngành nào, lĩnh vực nào có tỷ suất
lợi nhuận cao sẽ có nhiều người để ý và tham gia, ngược lại những ngành, lĩnh vực mà
tỷ suất lợi nhuận thấp thì sẽ có sự thu hẹp về quy mô hoặc rút lui của các nhà đầu tư. Tuy
nhiên, sự tham gia hay rút lui của các nhà đầu tư không dễ dàng một sớm, một chiều mà
là một chiến lược lâu dài, đó không phải là sự “né tránh cạnh tranh”, nói cách khác, cạnh
tranh là tất yếu.
- Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và yếu tố kích thích
kinh doanh, là môi trường động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động
vàa tạo đà cho sự phát triển của xã hội nói chung.
Như vậy cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là nội dung
cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng
nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh ngày càng gay gắt. Kết quả cạnh
tranh sẽ là sự loại bỏ những DN làm ăn kém hiệu quả và sự tồn tại phát triển của các DN
làm ăn tốt. Đó là quy luật của sự phát triển, là cơ sở tiền đề cho sự thành công của môĩ quốc
gia trong vấn đề thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
Tóm lại, cạnh tranh là sự tranh giành những điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất
kinh doanh của các chủ thể tham gia nền kinh tế nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển
cho mình. Mức độ tranh giành trong cạnh tranh tuỳ thuộc vào thời điểm lịch sử, lĩnh vực
sản xuất kinh doanh, mỗi nơi, mỗi khu vực và cơ chề của mỗi quốc gia.
2-/ Các loại hình cạnh tranh.
Dựa vào những tiêu thức khác nhau người ta có thể phân loại thành những loại hình cạnh
tranh khác nhau.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />2.1-/
Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường, có 3 loại
Cạnh tranh hoàn hảo
Cạnh tranh không hoàn hảo
Cạnh tranh độc quyền.
a-/ Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người
bán, họ đều quá nhỏ bé nên không ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường. Điều đó có nghĩa
là không cần biết sản xuất được bao nhiêu, họ đều có thể bán tất cả sản phẩm của mình
tại mức giá thị trường hiện hành. Vì vậy, một hãng trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo
không có lý do gì để bán rẻ hơn mức giá thị trường. Hơn nữa, nó sẽ không tăng giá của
mình lên cao hơn giá thị trường vìnếu thế thì hãng sẽ chẳng bán được gì- người tiêu
dùng sẽ đi mua hàng với mức giá rẻ hơn từ các đối thủ cạnh tranh của hãng. Các hãng sản
xuất luôn tìm biện pháp giảm chi phí và sản xuất một số lượng sản phẩm ở mức giới hạn mà
tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên. Đối với thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ
không có những hiện tượng cung cầu giả tạo, không bị hạn chế chế bởi các biện pháp hành
chính Nhà nước. Vì vậy, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo giá cả thị trường sẽ dần tới
mức chi phí sản xuất.
b-/ Cạnh tranh không hoàn hảo: Nếu một hãng có thể tác động đáng kể đến giá cả
thị trường đối với đầu ra của hãng thì hãng ấy đuực liệt vào “ hãng cạnh tranh không
hoàn hảo”. Như vậy, cạnh tranh không hoàn hảo làa cạnh tranh trên thị trường không
đồng nhất với nhau. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau, mặc dù sự
khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Chẳng hạn như: các loại thuốc lá, dầu
nhờn, nước giải khát, bánh kẹo... thậm chí cùng loại nhưng lại có nhãn hiệu khác nhau.
Mỗi loại nhãn hiệu lại có uy tín, hình ảnh khác nhau. Mặc dù sự khác biệt giữa các sản
phẩm là không đáng kể. Các điều kiện mua bán hàng rất khác nhau. Người bán có thể có
uy tín độc đáo khác nhau đối với người mua cho nhiều lý do khác nhau, như khách hàng
quen, gây được lòng tin từ trước... Người bàn lôi kéo khách về phía mình bằng nhiều
cách: quảng cáo, khuyến mại, phương thức bán hàng, cung cấp dịch vụ, tín dụng, chiết
khấu giá..., loại cạnh tranh không hoàn hảo này rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
c-/ Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó có một số người bán
một số sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không đồng nhất.
Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra thị trường.
Thị trường này có pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh được gọi là thị trường cạnh
tranh độc quyền. Ở đây xảy ra cạnh tranh giữa các nhà độc quyền. Điều kiện gia nhập
hoặc rút lui khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hoặc do độc quyền về bí quyết công nghệ. Thị trường này không có cạnh tranh về giá cả
mà một số người bán toàn quyền quyết định giá cả. Họ có thể định giá cao hơn tuỳ thuộc
vào đặc điểm tiêu dùng của từng sản phẩm, cốt sao cuối cùng họ thu được lợi nhuận tối
đa. Những nhà Doanh nghiệp nhỏ tham gia thị trường này phải chấp nhận bán hàng theo
giá cả của nhà độc quyền.
Trong thực tế có thể có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào
thay thế sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với nhau. Độc quyền gây
trở ngại cho phát triển sản xuất và làm phương hại đến người tiêu dùng. Vì vậy, ở một số
nước có luật chống độc quyền nhằm chống lại sự liên minh độc quyền giữa các nhà
kinh doanh.
2.2-/
Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, người ta chia cạnh tranh làm 3 loại:
-Cạnh tranh giữa người bán với người mua.
-Cạnh tranh giữa những người mua với nhau
-Cạnh tranh giữa những người bán (cạnh tranh giữa các doanh nghiệp)
a-/ Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo
“luật” mua rẻ-bán đắt. Người mua luôn muốn mua được rẻ, ngược lại, người bán luôn có
tham vọng bán đắt. Sự cạnh tranh này được thực hiện trong quá trình “ mặc cả” và cuối
cùng giá cả được hình thành và hành động bán, mua được thực hiện.
b-/ Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật
cung cầu. Khi một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó mà mức cung cấp nhỏ hơn như cầu tiêu
dùng thì cuộc cạnh tranh càng trở nên quyết liệt và giá hàng hoá, dịch vụ đó sẽ càng
tăng. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao, còn người mua thì phải
mất thêm một số tiền. Đây là cuộc cạnh tranh mà những người mua tự làm hại chính
mình.
c-/ Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh chính trên vũ đài thị
trường, đồng thời cũng là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất, có ý nghĩa sống còn đối với các
chủ Doanh nghiệp.Tất cả các Doanh nghiệp đều muốn giành giật lấy lợi thế cạnh tranh,
chiếm lĩnh thị phần của đối thủ. Kết quả để đánh giá Doanh nghiệp nào chiến thắng
trong cuộc cạnh tranh này là việc tăng doanh số tiêu thụ, tăng tỉ lệ thị phần. Cùng với nó
là tăng lợi nhuận, tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường,
cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, bởi thế, đã bước vào kinh doanh thì bắt buộc phải
chấp nhận.
Thực tế cho thấy, khi sản xuất hàng hoá càng phát triển, số người bán càng tăng lên thì
cạnh thì cạnh tranh càng quyết liệt. Trong quá trình ấy, một mặt sản xuất hàng hoá với
qui luật cạnh tranh sẽ lần lượt gạt ra khỏi thị trường những chủ Doanh nghiệp không có
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />chiến lược cạnh tranh thích hợp. Nhưng mặt khác, nó lại mở đường cho những Doanh
nghiệp nắm chắc “ vũ khí” cạnh tranh thị trường và dám chấp nhận “luật chơi” phát
triển.
2.3-/
Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế, người ta chia cạnh tranh thành 2 loại:
cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
a-/ Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp cùng sản
xuất và tiêu thu một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các
chủ Doanh nghiệp thôn tính nhau. Những Doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm
vi hoạt động của mình trên thị trường; những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp
kinh doanh, thậm chí bị phá sản.
b-/ Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các chủ Doanh nghiệp, hay đồng
minh các chủ Doanh nghiệp trong ngành kinh tế khác nhau, nhằm giành lấy lợi nhuận
lớn nhất. Trong quá trình cạnh tranh này, các chủ Doanh nghiệp luôn say mê với những
ngành đầu tư có lợi nhuận nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành nhiều lợi
nhuận. Sự điều chuyển tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này sau một thời gian nhất
định, vô hình chung hình thành nên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản xuất,
để rồi kết quả cuối cùng là, các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số
vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như nhau, tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình
quân cho tất cả các ngành.
3-/ Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp có thể dựa vào một số chỉ tiêu sau:
3.1-/
Thị phần của Doanh nghiệp / thị phần của các đối thủ cạnh tranh.
Là một chỉ tiêu hay được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Khi xem xét người ta thường xem xét các loại thị phần sau:
- Thị phần của công ty so với toàn bộ thị trường. Đó chính là tỷ lệ % giữa các doanh số
của công ty so với doanh số của toàn ngành.
- Thị phần của công ty so với phân khúc mà nó phục vụ.Đó là tỷ lệ % giữa doanh số của
công ty so với doanh số của toàn phân khúc.
- Thị phần tương đối: Đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của công ty với đối thủ cạnh tranh
mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của sản phẩm trong cạnh tranh trên thị trường như thế
nào?
Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà Doanh nghiệp biết mình đang đứng ở vị
trí nào, và cần phải vạch ra chiến lược hành động như thế nào.
Ưu điểm: Chỉ tiêu này đơn giản và dễ tính
Nhược điểm: Phương pháp này khó đảm bảo tính chính xác.
Do khó thu thập được doanh số chính xác của các Doanh nghiệp.
3.2-/
Doanh thu/doanh thu của các đối thủ mạnh nhất.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Nếu sử dụng chỉ tiêu này người ta có thể chọn từ 2 đến 5 doanh nghiệp mạnh nhất tuỳ
theo lĩnh vực cạnh tranh khác nhau mà chọn khác nhau.
-Chỉ tiêu này có ưu điểm: Đơn giản, dễ tính.
Nhược điểm: Chưa chính xác, khó lựa chọn các Doanh nghiệp mạnh nhất vì trong mỗi
lĩnh vực có doanh nghiệp đứng đầu khác nhau.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />3.3-/
Tỷ lệ chi phí Marketing/tổng doanh thu.
Đây là chỉ tiêu mà hiện nay đang được sử dụng nhiều để đánh giá khả năng cạnh tranh
cũng như hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các Doanh nghiệp.
Thông qua chỉ tiêu này mà Doanh nghiệp thấy được hiệu quả hoạt động của mình. Nếu
chỉ tiêu này cao có nghĩa là Doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào chi phí cho công tác
Marketing mà hiệu quả không cao.
Xem xét tỷ lệ: Chi phí Mar/tổng chi phí ta thấy:
Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ việc đầu tư cho khâu Mar là tương đối lớn đòi hỏi
Doanh nghiệp phải xem xét lại cơ cấu chi tiêu. Có thể thay vì quảng cáo rầm rộ công ty
có thể đầu tư chiều sâu để tăng lợi ích lâu dài như đầu tư cho chi phí nghiên cứu và phát
triển.
3.4-/
Tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng cạnh tranh
của Doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của Doanh nghiệp ấy. Đó chính là: Chênh lệch (giá bán- giá thành)/giá bán. Nếu chỉ tiêu
này thấp thì chứng tỏ khả năng cạnh tranh trên thị trường là rất gay gắt. Ngược lại, nếu
chỉ tiêu này cao thì điều đó có nghĩa là Doanh nghiệp đanh kinh doanh rất thuận lợi.
II-/ MỘT SỐ YẾU TỐ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP .
1-/ Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp có phạm vi rất rộng.
Nếu xem xét theo cấp độ tác động thì các yếu tố tác động này bao gồm các yếu tố bên
ngoài Doanh nghiệp ( các yếu tố khách quan), các yếu tố bên trong Doanh nghiệp (yếu
tố chủ quan).Các nhân tố bên ngoài Doanh nghiệp.
1.1-/
Nhóm các nhân tố thuộc môi trường kinh tế quốc dân.
a-/ Các nhân tố về mặt kinh tế : Các nhân tố này tác động đến khả năng cạnh
tranh của Doanh nghiệp theo các hướng.
+ Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán
của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đây là cơ hội tốt
cho các Doanh nghiệp. Nếu Doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng
đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số lượng, giá bán, chất lượng, mẫu mã...) thì chắc
chắn Doanh nghiệp đó sẽ thành công và có khả năng cạnh tranh cao.
+ Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh chóng và
sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng Doanh nghiệp nói riêng nhất là trong
điều kiện nến kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các DN trong nước sẽ giảm khả năng
cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích
nhập khẩu, vì giá hàng nhập khẩu giảm, và như vậy khả năng cạnh tranh của các DN
trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại, khi đồng nội tệ giảm
giá, khả năng cạnh tranh của các DN tăng cả trên thị trường trong nước và thị trường
ngoài nước, vì khi đó giá bán của các DN giảm hơn so với các đối thủ cạnh tranh kinh
doanh hàng hoá do nước khác sản xuất.
+ Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh
tranh của các DN, nhất là đói với các DN thiếu vốn phải vay ngân hàng. Khi lãi suất cho
vay của Ngân hàng cao, chi phí của các DN tăng lên do phải trả lãi tiền vay lớn, khả
năng cạnh tranh của DN sẽ kém đi, nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn về vốn.
b-/ Các nhân tố về chính trị, pháp luật:
Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo
sự thuận lợi, bình đẳng cho các DN tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả.
Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự
cạnh tranh bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính
sách của Chính phủ về xuất nhập khẩu, về thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh của DN sản xuất trong nước.
c-/ Trình độ về khoa học về công nghệ.
Nhóm nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh .
Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng giá bán. Khoa học
công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của DN, qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của
DN nói chung. Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý
nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh
tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có
hàm lượng khoa học công nghệ cao.
Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước tạo ra được những
thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị toàn bộ cơ sở sản
xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đây là tiền đề để các DN ổn định và
nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
1.2-/
Nhóm các nhân tố thuộc môi trường ngành.
Theo Michael Poter, môi trường ngành được hình thành bởi các nhân tố chủ yếu mà ông
gọi là năm lực lượng cạnh tranh trên thị trường ngành. Bất cứ một DN nào cũng phải
tính toán cân nhắc tới trước khi có những quyết định lựa chọn phương hướng, nhiệm vụ
phát triển của mình. Năm lực lượng đó được thể hiện trên hình 2.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Hình 2. Sơ đồ: các lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành
CÁC ĐỐI THỦ TIỀM
NĂNG
Người
cung
ứng
Quyền lực
Thương
Nguy cơ đe doạ từ
Những người mới vào
cuộc
CÁC ĐỐI THỦ CẠNH
TRANH TRONG NGÀNH
Quyền lực
Thương lượng
lượng
Của
người
cung ứng
CUỘC CANH TRANH GIỮA
CÁC ĐỐI THỦ HIỆN TẠI
Người
mua
Của người
mua
Nguy cơ đe doạ từ các
sản phẩm thay thế
a-/ Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành:
Cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp Sản
hiệnphẩm
có trong
ngành là một trong những yếu tố phản
thay thế
ánh đơn chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh chính trên thị
trường và tình hình hoạt động của chúng là lực lượng tác động trực tiếp mạnh mẽ, tức thì
tới quá trình hoạt động của các Doanh nghiệp. Trong một ngành bao gồmn nhiều Doanh
nghiệp khác nhau, nhưng thường trong đó chỉ có một số đóng vai trò chủ chốt như
những đối thủ cạnh tranh chính có khả năng chi phối, khống chế thị trường. Nhiệm vụ
của mỗi Doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của
những đối thủ cạnh tranh chính này để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích
hợp với môi trường chung của ngành.
b-/ Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ gia nhập thị trường.
Những Doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính chất quy mô
cạnh tranh trên thị trường ngành do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản xuất trong
ngành. Trong quá trình vận động của lực lượng thị trường, trong từng giai đoạn, thường
có những đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra
khỏi thị trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn các Doanh nghiệp thường
thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ sung những
đặc điểm mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm cho
sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị trường, hoặc
phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ...
Sức ép cạnh tranh của các Doanh nghiệp mới gia nhập thị trường ngành phụ
thuộc chặt chẽ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành và mức độ hấp dẫn của thị
trường đó.
c-/ Sức ép của nhà cung ứng:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Những người cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Có rất nhiều cách khác
nhau mà người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận của ngành.
Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn nhằm giảm khả năng cạnh tranh
của Doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
Nguồn cung cấp Doanh nghiệp chỉ cần có một hoặc vài công ty độc quyền cung cấp.
Nếu các nhà cung cấp có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có hệ thống
màng lưới phân phối hoặc màng lưới bán lẻ thì họ sẽ có thế lực đáng kể đối với Doanh
nghiệp là khách hàng.
d-/ Sức ép của khách hàng:
Sức mạnh của khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá
bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản
phẩm cao hơn. Nếu khách hàng mua với khối lượng lớn, tính tập trung của khách hàng
cao hơn so với các Doanh nghiệp trong ngành.
e-/ Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế.
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức ép cạnh tranh
lớn đối với các Doanh nghiệp trong ngành.
Mức độ sẵn có của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm
trong ngành. Khi giá của một sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng
những sản phẩm thay thế. Hoặc do mùa vụ, thời tiết mà khách hàng chuyển sang sử
dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay thế trên thị trường là một
mối đe doạ trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng cạnh tranh và mức độ lợi nhuận
của các Doanh nghiệp.
2-/ Các nhân tố bên trong Doanh nghiệp
2.1-/
Nguồn nhân lực.
Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh bao gồm:
Ban Giám đốc Doanh nghiệp
Cán bộ quản lý ở cấp Doanh nghiệp.
Cán bộ quản lý ở cấp trung gian, đốc công và công nhân.
Ban Giám đốc DN. Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong Doanh nghiệp , những
người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của
Doanh nghiệp. Những công ty cổ phần, những tổng công ty lớn ngoài Ban Giám đốc còn
có hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu Doanh nghiệp.
Các thành viên Ban Giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết qủa kinh doanh của Doanh
nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có
mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại cho Doanh nghiệp không những lợi ích
trước mắt, như tăng doanh thu, lợi nhuận, mà còn cả uy tín-lợi ích lâu dài của Doanh
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nghiệp và đây mới là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của Doanh
nghiệp.
* Đội ngũ cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân:
Nguồn cán bộ của một doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này không chỉ xuất phát
từ thực tế là đội ngũ lao động của Doanh nghiệp mà còn xuất phát từ yêu cầu kết hợp
nguồn nhân lực với các nguồn lực về tổ chức và vật chất.
Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là một yêú tố tác
động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, lại
cộng thêm lòng hăng say nhiệt tình lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu. Đây
là tiền đề để Doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
2.2-/
Nguồn lực vật chất và tài chính.
* Máy móc thiết bị và công nghệ:
Tình trạng trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới
khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể
hiện năng lực sản xuất của một Doanh nghiệp và tác động trực tiếp tới chất lượng sản
phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và
giá bán sản phẩm. Một Doanh nghiệp có trang thiết bị máy móc hiện đại thì sản phẩm
của họ nhất định có chất lượng cao. Ngược lại không có một Doanh nghiệp nào có thể
nói là có khả năng cạnh tranh cao khi mà trong tay họ là cả hệ thống máy móc cũ kỹ với
công nghệ sản xuất lạc hậu.
* Tiềm lực tài chính của Doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xét, tính toán
trên tiềm lực tài chính của Doanh nghiệp. Một Doanh nghiệp có tiềm nặng lớn về tài
chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị,
đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, để duy trì và nâng cao sức cạnh
tranh, cung cấp tín dụng thương mại, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh
thu, lợi nhuận và củng cố vị trí của mình trên thương trường.
Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một Doanh nghiệp và thậm chí kể cả
khả năng cạnh tranh của các đối thủ, Doanh nghiệp đều phải xem xét đầy đủ các yếu tố
tác động, từ đó “ gạn đục, khơi trong” tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh của Doanh nghiệp.
III-/ CÁC BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP.
1-/ Chiến lược sản phẩm.
Sản phẩm là những hàng hoá hay dịch vụ nhằm thoả mẵn nhu cầu khách hàng và thực
hiện mục tiêu kiếm lời của Doanh nghiệp qua việc bán hàng.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Hiện nay, yếu tố quyết định đến thị trường của Doanh nghiệp được thể hiện trước hết ở
chỗ: Sản phẩm của Doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh được hay không. Điều này
chỉ thực hiện được nếu Doanh nghiệp có chiến lược sản phẩm đúng đắn, tạo ra được
những sản phẩm phù hợp, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường với chất lượng tốt.
Chiến lược sản phẩm có thể phát triển theo các hướng sau:
1.1-/
Đa dạng hoá sản phẩm:
Thực chất đa dạng hoá sản phẩm là quá trình mở rộng danh mục sản phẩm, tạo nên một
cơ cấu sản phẩm có hiệu quả của Doanh nghiệp. Đa dạng hoá sản phẩm là cần thiết và
khách quan đối với mỗi Doanh nghiệp bởi vì:
Sự tiến bộ nhanh chóng, không ngừng của khoa học công nghệ cùng với sự phát triển
ngày càng cao của nhu cầu thị trường làm cho vòng đời sản phẩm bị rút ngắn, doanh
nghiệp cần có nhiều chủng loại sản phẩm hàng hoá để hỗ trợ lẫn nhau, thay thế nhau. Đa
dạng hoá sản phẩm sử dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị, thực hiện khấu hao
nhanh để đẩy nhanh quá trình đổi m ới công nghệ.
Nhu cầu của thị trường rất đa dạng phong phú, và phức tạp, đa dạng hoá sản phẩm nhằm
đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường và như vậy Doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận
hơn.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt thì đa dạng hoá sản phẩm là một
biện pháp nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh.
Đa dạng hoá sản phẩm cho phép tận dụng đầy đủ hơn những nguồn lực sản xuất dư thừa
của Doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp.
Trong quá trình mở rộng kinh doanh, các Doanh nghiệp có thể thực hiện đa dạng hoá sản
phẩm với những hình thức khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại các hình thức
đa dạng hoá sản phẩm.
a-/ Xét theo sự biến đổi danh mục sản phẩm, có các hình thức đa dạng hoá sau:
Biến đổi chủng loại: Đó là quá trình hoàn thiện và cải tiến các loại sản phẩm đang sản
xuất để giữ vững thị trường hiện tại và thâm nhập thị trường mới, nhờ sự đa dạng về
kiểu cách, cấp độ hoàn thiện của sản phẩm thoả mãn thị hiếu của sản phẩm điều kiện sử
dụng và khả năng thanh toán của những khách hàng khác nhau.
Đổi mới chủng loại: Loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, những sản phẩm khó tiêu thụ và
bổ xung những sản phẩm mới vào danh mục sản phẩm của Doanh nghiệp. Những sản
phẩm được bổ xung này có thể là là sản phẩm mới tuyệt đối, hoặc sản phẩm mới tương
đối.
b-/ Xét theo tính chất của nhu cầu sản phẩm, có các hình thức đa dạng hoá sản phẩm
sau đây:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Đa dạng hoá theo chiều sâu của mỗi loại sản phẩm: Đó là việc tăng thêm kiểu cách, mẫu
mã của cùng một loại sản phẩm để đáp ứng toàn diện nhu cầu của các đối tượng khác
nhau về cùng một loại sản phẩm. Việc thực hiện hình thức đa dạng hoá sản phẩm này
gắn liền với việc phân khúc nhu cầu thị trường.
Đa dạng hoá theo bề rộng nhu cầu các loại sản phẩm, thể hiện ở việc Doanh nghiệp chế
tạo một số loại sản phẩm có kết cấu,công nghệ sản xuất và giá trị sử dụng cụ thể khác
nhau, để thoả mãn đồng bộ một số nhu cầu có liên quan với nhau của một đối tượng tiêu
dùng.
c-/ Xét theo mối quan hệ với sử dụng nguyên liệu chế tạo sản phẩm, có các hình thức đa
dạng hoá sản phẩm sau:
Sản xuất những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có chung chủng loại
nguyên liệu gốc.
Sử dụng tổng hợp các chất có ích chứa đựng trong một loại nguyên liệu để sản xuất một
số sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau.
Để thực hiện mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm, Doanh nghiệp có thể có các phương thức
thực hiện sau:
Một là: Đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở các nguồn lực hiện có của Doanh nghiệp. Bằng
việc áp dụng hình thức này, Doanh nghiệp có thể tiết kiệm được đầu tư, giảm bớt thiệt
hại do rủi ro khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tận dụng được khả năng sản xuất hiện
có.
Hai là: Đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở nguồn lực hiện có kết hợp với đầu tư bổ sung.
Nghĩa là, việc mở rộng danh mục sản phẩm đòi hỏi phải có đầu tư, nhưng đầu tư này chỉ
giữ vị trí bổ xung, nhằm khắc phục khâu yếu hoặc các khâu sản xuất mà Doanh nghiệp
còn thiếu.
Ba là: Đa dạng hoá sản phẩm bằng đầu tư mới. Hình thức này thường được áp dụng khi
Doanh nghiệp triển khai sản xuất những sản phẩm mới, mà khả năng sản xuất hiện tại
không thể đáp ứng được. Trong trường hợp này nhu cầu đầu tư thường lớn và sác xuất
rủi ro sẽ cao hơn, nhưng khả năng sản xuất được mở rộng hơn.
1.2-/
Kết hợp đa dạng hoá với việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nhu cầu tiêu dụng ngày càng phát triển thì thị trường càng đòi hỏi, phải có loại
sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo sự thoả mãn cao nhất cho người tiêu dùng. Vì vậy,
cạnh tranh về giá sẽ dịch chuyển sang cạnh tranh về chất lượng. Nếu Doanh nghiệp thực
hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh
tranh mà chất lượng vượt trội về mọi mặt hơn chất lượng sản phẩm của đối thủ cạnh
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tranh thì lúc đó Doanh nghiệp sản phẩm là khác biệt hoá. ởphần này chúng ta chỉ nhấn
mạnh đến nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng cường sức cạnh tranh.
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó,
thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dụng xác định, phù hợp
với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn. Theo khái niệm này thì
chất lượng của sản phẩm được hiểu theo hai nghĩa, chất lượng với các tiêu chuẩn kinh tế
kỹ thuật và chất lượng sản phẩm với sự phù hợp nhu cầu thị trường. Nâng cao chất
lượng sản phẩm phải xem xét cả hai khía cạnh trên. Chất lượng sản phẩm được hình
thành từ khi thiết kế sản phẩm cho đến khi sản xuất xong sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm.
Có nhiều yếu tố tác động đến chất lượng sản phẩm: Khâu thiết bị sản xuất, chất lượng
nguyên vật liệu, chất lượng máy móc thiết bị và tình trạng công nghệ chế tạo, đặc biệt là
chất lượng lao động. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, trong quát trình sản xuất kinh
doanh, cán bộ quản lý chất lượng phải chú ý tất cả các khâu trên, đồng thời phải có chế
độ kiểm tra chất lượng sản phẩm ở tất các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh do
các nhân viên kiểm tra chất lượng thực hiện. Để nâng cao chất lượng sản phẩm ,viêc
đảm bảo chất lượng với tiêu chuẩn thiết kế, đảm bảo chất lượng với sự phù hợp nhu cầu
thị trường cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ phận nghiên cứu thiết kế sản phẩm
với bộ phận Marketing. Bộ phận Marketing phải cung cấp cho bộ phận thiết kế các
thông tin về nhu cầu thị trường như : kiểu dáng, màu sắc, kích thước, các yếu tố về thị
hiếu thu nhập... Từ đó, sản phẩm chế tạo đúng với tiêu chuẩn thiết kế, đảm bảo chất
lượng về mặt kỹ thuật, phù hợp với nhu cầu thị trường.
Việc kiểm tra chất lượng là hết sức cần thiết, kiểm tra chất lượng không chỉ đơn thuần là
việc xác định xem sản phẩm đạt chất lượng hay không mà còn phải phát hiện ra nguyên
nhân các yếu tố gây ra sản phẩm kém phẩm chất, để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục.
Mặc dù vậy, Doanh nghiệp cũng phải lựa chọn phương pháp kiểm tra chất lượng ít tốn
kém nhưng đảm bảo hiệu quả cao.
Để các chuyên viên kiểm tra chất lượng sản phẩm có căn cứ đánh giá chát lượng, Doanh
nghiệp phải xác định hệ thống tiêu chuẩn chất lượng: Các chỉ tiêu về hình dáng, màu
sắc, kích thược, trọng lượng, tính chất cơ lý, hoá độ bền, độ an toàn, tính thời trang và
các chỉ tiêu khác.
Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghiã quan trọng đối với việc nâng cao khả năng cạnh
tranh của Doanh nghiệp, thể hiện ở các khía cạnh:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Chất lượng sản phẩm tăng lên nhờ đó thu hút khách hàng, tăng khối lượng hàng hoá bán
ra, tăng được uy tín của sản phẩm, mở rộng được thị trường,
Nâng cao chất lượng sản phẩm có nghĩa là nâng cao được hiệu quả sản xuất.
2-/ Chiến lược cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm.
Giá cả là công cụ của Marketing, xác định mức độ phương hướng của Marketing và phối
hợp một cách chính xác các điều kiện sản xuất và thị trường, là đòn bẩy hoạt động có ý
thức đối với thị trường.
Trong Doanh nghiệp, chiến lược giá cả là thành viên thực sự của chiến lược sản
phẩm và cả hai chiến lược này lại phụ thuộc vào mục tiêu chiến lược chung của Doanh
nghiệp. Một trong những nội dung cơ bản của chiến lược giá cả là việc định giá. Định giá
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì nó là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Doanh
nghiệp.
2.1-/
Căn cứ để định giá:
Giá cả được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua chính sách định giá bán
mà Doanh nghiệp áp dụng đối với thị trường và có sự kết hợp với một số điều kiện khác.
Định giá là việc ấn định có hệ thống giá cả cho đúng với hàng hoá hay dịch vụ bán cho
khách hàng. Việc định giá căn cứ vào các mặt sau:
Lượng cầu đối với sản phẩm. Doanh nghiệp cần tính toán nhiều phương án giá ứng với
mỗi loại giá là một lượng cầu, từ đó chọn ra phương án có nhiều thuận lợi nhất dựa trên
tính quy luật: giá cao thì ít người mua và ngược lại. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng với
loại hàng hoá có nhu cầu có giãn.
Chi phí sản xuất và giá thành đơn vị sản phẩm. Giá bán là tổng giá thành và lợi nhuận
mục tiêu. Bởi vậy với một mức giá nhất định thì để tăng lợi nhuận mục tiêu cần có biện
pháp giảm giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, không phải bao giờ giá bán cũng cao hơn giá
thành, nhất là trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt.
Phải nhận dạng đúng thị trường cạnh tranh và từ đó ta có cách định giá cho mỗi loại thị
trường.
2.2-/
Một số chính sách định giá hợp lý.
a-/ Chính sách bán với giá thị trường:
Đây là chính sách định giá phổ biến, tức là định giá với giá bán sản phẩm xoay quanh
mức giá bán trên thị trường. Với chính sách này Doanh nghiệp phải tăng cường công tác
tiếp thị, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để đứng vững trên thị
trường.
b-/ Chính sách giá phân biệt.
Nếu các đối thủ cạnh tranh chưa có chính sách giá phân biệt thì đây cũng là một thứ vũ
khí cạnh tranh không kém phần lợi hại của Doanh nghiệp. Chính sách giá phân biệt của
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Doanh nghiệp được thể hiện là với cùng một loại sản phẩm nhưng có nhiều mức giá
khác nhau và các mức giá đó được phân biệt theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Phân biệt theo lượng mua: Người mua nhiều phải được ưu đãi giá hơn so với người mua
ít.
Phân biệt theo chất lượng sản phẩm cùng mặt hàng: Chất lượng loại 1, chất lượng loại 2
..
Phân biệt theo phương thức thanh toán: Mức giá với người thanh toán ngay phải ưu đãi
hơn so với người trả chậm.
Phân biệt theo thời gian: Giá bán có thể thay đổi theo thời gian, tuỳ thuộc vào tình hình
giá cả trên thị trường, cách phân biệt này hay áp dụng với các loại sản phẩm có tính mùa
vụ.
c-/ Chính sách định giá thấp
Là chính sách định giá thấp hơn giá thị trường để thu hút ngưới tiêu dùng về phía mình.
Chính sách này đòi hỏi Doanh nghiệp phải có tiềm lực vốn lớn, phải tính toán chắc chắn
và đầy đủ mọi tình huống rủi ro. Chính sách này giúp các Doanh nghiệp thâm nhập vào
thị trường mới, bán được khối lượng sản phẩm lớn.
Ngoài ba chính sách định giá cơ bản trên, tuỳ từng điều kiện, tình hình thị trường, mức
độ cạnh tranh và mục tiêu trong từng thời kỳ mà Doanh nghiệp có thể định giá cao, bán
phá giá.
3-/ Hoàn thiện công tác tổ chức và tiêu thụ sản phẩm
3.1-/
Lựa chọn hệ thống kênh phân phối.
Trước hết về tiêu thụ sản phẩm, Doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường, lựa chọn thị
trường và lựa chọn kênh phân phối để sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nhanh chóng,
hợp lý và đạt hiệu quả cao. Tiêu thụ nhanh với số lượng nhiều sẽ tăng nhanh vòng quay
của vốn, tăng lợi nhuận,thúc đẩy sản xuất. Nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh của
Doanh nghiệp. Thông thường có 4 kiểu kênh phân phối sau:
* Người sản xuất- Người tiêu dùng cuối cùng.
* Người sản xuất- Người bán lẻ- Người tiêu dùng cuối cùng
* Người sản xuất-Người bán buôn- Người bán lẻ-Người tiêu dùng cuối cùng.
* Người sản xuất-Người bán buôn- Người đầu cơ môi giới- Người bán lẻ-Người tiêu
dùng cuối cùng.
Việc lựa chọn kênh phân phối phải dựa trên đặc điểm sản xuất kinh doanh của Doanh
nghiệp cũng như đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản phẩm cần tiêu thụ. Đồng thời việc lựa
chọn kênh phân phối cũng như lựa chọn trên đặc điểm thị trường cần tiêu thụ, đặc điểm về
khoảng cách đến thị trường, địa hình và hệ thống giao thông của thị trường và khả năng tiêu
thụ của thị trường. Từ việc phân tích các đặc điểm trên Doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình
một hệ thống kênh phân phối hợp lý, đạt hiệu quả cao.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />3.2-/
Một số biện pháp yểm trợ bán hàng.
Nếu trong nền kinh tế kế hoạch hiện vật tập trung cao độ với đặc trưng là cấp phát ở đầu
vào và giao nộp ở đầu ra, người sản xuất không cần quan tâm đến kỹ thuật yểm trợ bán
hàng thì trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kỹ thuật yểm trợ bán hàng trở
thành một phượng tiện thông tin cần thiết bảo đảm sự gắn bó giữa sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm. Sau đây là một số biện pháp yểm trợ bán hàng mà Doanh nghiệp thường sử
dụng:
a-/ Chính sách quảng cáo.
Quảng cáo là nghệ thuật sử dụng các phương tiện truyền đưa thông tin về hàng hoá, dịch
vụ của Doanh nghiệp cho người tiêu dùng.
Mục tiêu quảng cáo: Là để thu hút sự chú ý của khách hàng đối với sự có mặt của Doanh
nghiệp nhằm nêu bật tiếng tăm của Doanh nghiệp hoặc cung cấp cho khách hàng biết rõ
ưu thế hàng hoá hay dịch vụ của mình sẽ hoặc đang cung cấp ra thị trường.
Cách quảng cáo: Trước hết quảng cáo phải có quy mô xác định về không gian và thời
gian. Nếu quảng cáo với không gian hẹp và số lần ít thì sẽ kém hiệu quả. Tuy nhiên phải
tính toán kỹ chi phí. Đối với những loại sản phẩm đã nổi tiếng hoặc bán với giá hạ thì
không cần phải quảng cáo nhiều lần để tiết kiệm chi phí. Quảng cáo phải tác động mạnh
vào tâm lý khách hàng làm cho họ ngạc nhiên vui thích đối với sản phẩm của Doanh
nghiệp.
Quảng cáo phải thành thật, không được lừa dối khách hàng nhưng đồng thời phải tạo ra
được sự ham muốn của khách hàng đối vơí sản phẩm của Doanh nghiệp.
Phương tiện và hình thức quảng cáo: Phương tiện quảng cáo rất vô tuyến truyền hình, phim
ảnh, quảng cáo trên các phương tiện xe giao thông, trên sân vận động, ở giao lộ hoặc làm
lịch quảng cáo; quảng cáo trên bao bì sản phẩm; trình diễn, giới thiệu hàng hoá qua việc
biểu diễn mốt, thi hoa hậu, thời trang, sử dụng các hình thức văn nghệ: thơ, ca, kịch..
Nói chung việc lựa chọn và hình thức quảng cáo phụ thuộc vào các loại hàng hoá dịch
vụ, khuynh hướng của khách hàng và phương tiện hiện có của Doanh nghiệp hoặc khả
năng chi phí của Doanh nghiệp .
b-/ Chào hàng:
Chào hàng là một phương pháp chiêu thị qua các nhân viên của Doanh nghiệp đi tìm
khách hàng để bán hàng. Qua việc chào hàng cần nêu rõ được ưu điểm của sản phẩm so
với sản phẩm cạnh tranh, tìm hiểu sở thích và nhu cầu của khách hàng để thoả mãn nhu
cầu đó. Trong việc chào hàng, nhân viên chào hàng có vai trò rất lớn nên Doanh nghiệp
phải biết tuyển chọn, phải biết bồi dưỡng và đãi ngộ nhân viên chào hàng.
c-/ Chiêu hàng:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Chiêu hàng được các Doanh nghiệp sử dụng để khuyến khích các trung giang phân phối
sản phẩm của mình. Chiêu hàng cũng được các nhà bán buôn dùng đối với người bán lẻ
hoặc người bán lẻ dùng với khách hàng, các Doanh nghiệp có thể sử dụng các phương
tiện sau:
Tặng quà cho khách hàng.
Trưng bày hàng hoá để khách hàng có thể nhìn thấy và có điều kiện tìm hiểu, hỏi han về
hàng hoá đó.
Trong hoạt động chiêu thị, ngoài việc chào hàng, quảng cáo, chiêu hàng người ta còn sử
dụng các hình thức khác như: gửi biếu mẫu hàng, bán với giá đặc biệt một lô hàng cho
khách hàng một phiếu lô hàng được giảm tiền mua..
d-/ Tham gia hội trợ:
Hội trợ là nơi trưng bày sản phẩm của nhiều Doanh nghiệp trong khu vực hoặc trong và
ngoài nước. Hội nhập là nơi gặp gỡ của các nhà sản xuất kinh doanh với nhau, gặp gỡ
giữa các nhà sản xuất với khách hàng. Hội trợ cũng là nơi Doanh nghiệp tham quan để
tìm kiếm mặt hàng mới, ký hợp đồng mua bán kỹ thuật.
Tham gia hội trợ phải hướng tới hiệu quả, do đó nó là một nghệ thuật yểm trợ bán hàng.
Khi tham gia cần phải chú ý:
Chọn đúng sản phẩm để tham gia hội trợ.
Tham gia đúng hội trợ
Chuẩn bị tốt các điều kiện tham gia hội trợ.
Ngoài các biện pháp yểm trợ bán hàng trên có các hoạt động khác như xúc tiến bán
hàng, xuất bản các tài liệu nhằm đẩy mạnh và xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ hỗ trợ
sản phẩm như bán kèm theo phụ tùng thay thế cho khách hàng mua sản phẩm của Doanh
nghiệp mình. Đây là những hoạt động cần thiết để đẩy mạnh bán hàng trên thị trường
trong và ngoài nước, là con đường đi tới sự thành đạt và chiến thắng trong cạnh tranh .
Quy mô hoạt động của Doanh nghiệp càng lớn thì chi phí này càng cao và càng trở
thành yếu tố quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp trong cuộc đua
tranh trên thương trường.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
PHẦN II
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI CHÂU
I-/ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO
HẢI CHÂU.
Công ty bánh kẹo Hải châu là một doanh nghiệp Nhà nước, thành viên của tổng công ty
mía đường I- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, được thành lập từ năm 1965.
Công ty chuyên sản xuất, kinh doanh các mặt hàng bánh kẹo, thực phẩm với hơn 30 năm
không ngứng phát triển, liên tục đổi mới công nghệ, đầu tư thiết bị hiện đại nhất của
CHLB Đức, Hà lan, Đài loan, Trung Quốc...
Trụ sở đặt tại: Phố Minh Khai-Q. Hai Bà Trưng- Hà nội.
Điện thoại: 8.624.826-6.360.669; Fax: 8.621.520.
Diện tích mặt bằng: Hiện nay (tính cả phần mở rộng): 55.000 m2
Trong đó: - Nhà xưởng: 23.000 m2
Văn phòng: 3.000m2
Kho bãi:5.000 m2
Phục vụ công cộng: 24.000 m2
Quy mô sản xuất kinh doanh của công ty được tăng lên hàng năm với tốc độ tăng trưởng
bình quân là 20% năm. Hiện nay tổng vốn pháp định của công thực hiện là trên 20 tỷ
đồng, tổng sản phẩm các loại đạt trên 10.000 tấn/năm, doanh thu sản phẩm hàng hoá
bình quân trên dưới 100 tỷ đồng/ năm.
Quá trình hình thành và phát triển của công ty Bánh kẹo Hải châu được tóm tắt như sau:
1-/ Thời kỳ đầu thành lập (1965-1975).
Vốn đầu tư: Do chiến tranh đánh phá của Đế quốc Mỹ nên công ty không lưu giữ được
số liệu vốn đầu tư ban đầu.
Năng lực sản xuất : Gồm 3 phân xưởng.
+ Phân xưởng sản xuất mì sợi: Gồm 6 dây chuyền máy bán cơ giới công suất 2,5-3
tấn/ca.
Sản phẩm chính: Mì sợi lương thực, mì thanh, mì hoa.
+ Phân xưởng Bánh: Gồm 1 dây chuyền máy cơ giới công suất 2,5 tấn/ca.
Sản phẩm chính: Bánh quy (Hương thảo, quy dứa, quy bơ, quit), bánh lương khô ( phục
vụ Quốc phòng).
+ Phân xưởng kẹo: Gồm 2 dây chuyền bán cơ giới công suất mỗi dây chuyền là 1,5
tấn/ca.
Sản phẩm chính: kẹo cứng, kẹo mềm (chanh, cam, cà phê).
Số cán bộ công nhân viên : Bình quân 850 người/năm.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Trong thời kỳ này do chiến tranh phá hoại của Đế Quốc Mỹ (1972) nên một phần nhà
xưởng, máy móc thiết bị bị hư hỏng. Công ty được Bộ tách Hải Hà (nay là Công ty bánh
kẹo Hải hà-Bộ công nghiệp).
2-/ Thời kỳ1976-1985.
Sang thời kỳ Công ty đã khắc phục những thiệt hại sau chiến tranh và đi vào hoạt động
bình thường.
Năm 1976 Bộ công nghiệp thực phẩm cho nhập Nhà máy sữa Mẫu sơn (Lạng sơn) thành
lập phân xưởng sấy phun. Phân xưởng này sản xuất hai mặt hàng:
Sữa đậu nành: công suất 2,4-2,5 tấn/ngày
Bột canh: công suất 3,5-4 tấn/ ngày
Năm 1978 Bộ công nghiệp thực phẩm cho điều động 4 dây chuyền mì ăn liền từ công ty
Sam hoa (Thành phố Hồ Chí M inh) thành lập phân xưởng mì ăn liền. Công suất mỗi
dây chuyền: 2,5 tấn/ca.
Do nhu cầu thị trường và tình trạng thiết bị, Công ty đã thanh lý 2 dây chuyền. Hiện tại
Công ty đã nâng cấp và đưa vào hoạt động 1 dây chuyền.
Năm 1982. Do khó khăn về bột mỳ và Nhà nước bỏ chế độ độn mì sợi thay lương thực.
Công ty được Bộ Công nghiệp thực phẩm cho ngừng hoạt động phân xưởng mì lương
thực.
Công ty đã tận dụng mặt bằng và lao động đồng thời đầu tư 12 lò sản xuất bánh kem xốp
công suất 240 kg/ca. Đây là sản phẩm đầu tiên ở phía Bắc.
3-/ Thời kỳ 1986-1991.
Năm 1989-1990: Tận dụng nhà xưởng của phân xưởng sấy phun, Công ty lắp đặt dây
chuyền sản xuất Bia với công suất 200 lít/ngày.
Năm 1990-1991: Công ty lắp đặt thêm một dây chuyền sản xuất bánh quy Đài loan
nướng bằng lò điện tại khu nhà xưởng cũ. Công suất 2,5-2,8 tấn/ca.
Số cán bộ công nhân viên: Bình quân 950 người/năm.
4-/ Thời kỳ 1992 đến nay:
Công ty đẩy mạnh sản xuất đi sâu vào các mặt hàng truyền thống (Bánh, kẹo) mua sắm
thêm thiết bị mới, thay đổi mẫu mã mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù
hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Năm 1993 Công ty mua thêm dây chuyền sản xuất
Bánh kem xốp của CHLB Đức, công suất 1 tấn/ca. Đây là 1 dây chuyền sản xuất Bánh
hiện đại nhất ở Việt nam.
Năm 1994, Công ty mua thêm 1 dây chuyền phủ Sô cô la của CHLB Đức, công suất 0,5
tấn/ ca. Đây là 1 dây chuyền sản xuất Bánh hiện đại nhất ở Việt nam.
Năm 1996, Công ty liên doanh với Bỉ thành lập một công ty liên doanh sản xuất Sôcôla.
Sản phẩm này chủ yếu là xuất khẩu (70%) cũng trong năm này, công ty đã mua và lắp
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />đặt thêm 2 dây chuyền sản xuất kẹo của Cộng hoà Liên bang Đức: Dây chuyền sản xuất
kẹo cứng công suất: 2,4tấn/ca; dây chuyền sản xuất kẹo mềm: công suất 3tấn/ca.
Số cán bộ công nhân viên: Bình quân hiện nay là 720 người/năm.
5-/ Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Hải Châu
Mặc dù gặp bao khó khăn do thiếu vốn, thiết bị công nghệ, vật tư... bao thử thách bởi
những cơn lốc cạnh tranh, Hải châu vẫn liên tục phát triển. Trong nền kinh tế thị trường,
Công ty Bánh kẹo hải châu đã phát huy mọi khả năng sản xuất kinh doanh của mình để
đứng vững trên thị trường và nâng cao uy tín của công ty. Công ty gắn công tác tiêu thụ
với thị trường, sản xuất ra nhiều mặt hàng, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng từ chất lượng, số
lượng, mẫu mã đến giá cả. Chất lượng bánh kẹo ngon, rẻ hơn so với bánh kẹo ngoại và
đối thủ cạnh tranh chính ( Hải hà) nên sản phẩm của công ty đã chiếm lĩnh được thị
trường. Hiện nay sản phẩm của công ty đã có mặt ở khắp nơi trong nước. Tính đến nay
Công ty đã có 5 phân xưởng có tổng số cán bộ công nhân viên là 720 người, với thu
nhập bình quân hàng tháng là 750 ngàn đồng/người.
Công ty cũng đồng thời là công ty có quy mô lớn và trang bị khá nhất trong ngành sản
xuất bánh keọ ( chỉ sau Công ty bánh kẹo Hải hà).
Dưới đây là kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải châu trong 3 năm
gần đây:
Bảng 1 - Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Hải châu qua một số năm.
TT
Chỉ tiêu
ĐV
tính
Thực hiện
97/96
98/97
1
Giá trị tổng SL
Tr.đ
58.930,58 80.211,87 106.032,07 136,11
132,19
2
Tổng doanh thu
Tr.đ
3
Các khoản nộp NS
Tr.đ
4
Lợi nhuận
5
1996
73.861,7
So sánh (%)
1997
1998
93.252,9
116.286,4
126,3
124,7
7.150
9.675
13.661
135,3
141,2
Tr.đ
2.641
2.151
2.695
81,5
125,3
Lao động
Người
645
665
700
111,6
105,5
6
Thu nhập bình quân
1000đ
600
750
820
125
109,3
7
Sản lượng SP chính
a. Kẹo các loại
Tấn
101,59
976,32
1.319,98
961,04
135,2
b. Bánh các loại
Tấn
3.456,0
3.592,75
4.038,25
103,95
112,4
c. Bột canh
Tấn
3.284,77
4.818,00
7.414,90
146,68
153,9
3
Qua bảng trên ta có nhận xét :
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Lợi nhuận năm 1997 giảm so với năm 96 là: 100-81,5 = 18,5% là do ảnh hưởng của nền
kinh tế (6 tháng cuối năm). Nhưng bước sang năm 1998 thì so với năm 96 lợi nhuận tăng
không đáng kể, còn nếu so với năm 97 thì lợi nhuận tăng 25,3%.
Giá trị tổng sản lượng năm 97 so với năm 96 tăng 36,11%, năm 98 so với năm 97 tăng
32,19%.
Doanh thu tăng bình quân qua các năm là 25%.
Sản lượng kẹo các loại từ năm 96 sang năm 97 tăng đột biến ( gấp 9 lần), bột canh tăng
46,68%, bánh các loại tăng không đáng kể (3,95%).
Các khoản nộp Ngân sách tăng bình quân gần 40%/năm.
II-/ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI CHÂU
1-/ Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải Châu.
1.1-/
Các yếu tố ngoài Công ty.
a. Môi trường kinh tế quốc dân:
*Các nhân tố về mặt kinh tế: Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta tăng trưởng
với tốc độ cao đã làm cho thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng trưởng dẫn đến khả
năng thanh toán của họ cũng tăng lên, và do đó sức mua cũng lớn hơn. Đây chính là cơ
hội cho các doanh nghiệp, trong đó có Công ty bánh kẹo Hải Châu. Một khi thị trường
tiêu thụ tăng, Công ty có điều kiện đẩy mạnh sản xuất, mở rộng danh mục sản phẩm,
tăng doanh thu, tăng lợi nhuận.
Bảng 2 - Mức tiêu thụ bánh kẹo bình quân đầu người và sản lượng của Hải Châu
STT Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1996 Năm 1997
Năm 1998
1
Mức tiêu thụ bánh kẹo bình quân
kg/người
1,2
1,25
1,31
2
Sản lượng bánh kẹo của Hải Châu
Tấn
3.557,59
4.569,07
5.358,23
Nhìn vào bảng ta thấy mức tiêu dùng bánh kẹo của dân cư ngày càng tăng và tương ứng
với nó, sản lượng bánh kẹo của Hải Châu cũng ngày một tăng.
Rõ ràng, tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân tăng qua đó làm mức tiêu dùng của dân cư
tăng theo đã ảnh hưởng tới phát triển của doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát giảm đi rất nhiều
đã làm cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư sản xuất, mua thêm máy móc thiết bị. Mặt
khác việc đổi mới chính sách ngân hàng tài chính cắt bỏ bớt hàng rào khắc nghiệt đã tạo
thuận lợi cho Công ty được vay vốn được quyền tính toán huy động sử dụng vốn một
cách hợp lý, giúp cho Công ty có điều kiện tăng cường đổi mới công nghệ, kỹ thuật, cải
tạo cơ sở vật chất.
* Các nhân tố về chính trị và luật pháp.
Thể chế chính trị ổn định cùng với mức tăng trưởng cao và chính sách mở cửa nền kinh
tế đã làm cho số lượng các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp liên doanh tăng
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />lên nhanh chóng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Công ty Hải Châu. Ngoài ra
một số Công ty khác khi liên doanh với nước ngoài đã được tăng khả năng cạnh tranh.
Ví dụ: Công ty Hải Hà, Công ty bánh kẹo Biên Hoà, Quảng Ngãi...
Luật pháp chưa thực sự được áp dụng một cách triệt để, chính trong hệ thống luật pháp
còn nhiều bất bình đẳng. Nhà nước còn một số ưu đãi quá lớn cho các doanh nghiệp liên
doanh dẫn đến gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực cạnh tranh
chiếm lĩnh thị trường.
* Khoa học, công nghệ.
Nhờ áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mà chất lượng sản phẩm của Công ty được
nâng cao, giá thành sản phẩm hạ xuống. Đây chính là hai công cụ cạnh tranh chủ yếu mà
Công ty Hải Châu áp dụng.
Cũng nhờ áp dụng tiến bộ của công nghệ thông tin mà việc thu nhập, xử lý thông tin
nhanh hơn, chính xác hơn, Công ty đã nắm bắt các nhu cầu từ phía thị trường cũng như
các biến động của môi trường kinh doanh từ đó vạch ra được những kế hoạch và đưa ra
những quyết định đúng đắn phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên,
ở lĩnh vực này Công ty Hải Châu còn chưa thực sự áp dụng có hiệu quả.
Ngoài ra trong môi trường kinh tế, Công ty còn chịu ảnh hưởng của một số nhân tố khác như:
thị hiếu và thói quen tiêu dùng; các yếu tố tự nhiên...
b. Nhóm các yếu tố thuộc môi trường ngành (môi trường vi mô)
* Các đối thủ cạnh tranh trong ngành
Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp cùng tham gia sản xuất bánh kẹo: Hải Hà, Tràng An,
Biên Hoà... và một số xí nghiệp bánh kẹo khác như: kẹo dừa Bến Tre, bánh đậu xanh
Hải Dương. Ngoài ra bánh kẹo nhập ngoại chiếm tỷ lệ khá lớn. Như vậy, Hải Châu có
quá nhiều đối thủ cạnh tranh, hầu hết là các Công ty sản xuất đường, họ có lợi thế về
nguyên vật liệu: giá bán, tiến độ và thời điểm cung cấp... Do đó họ có thể hạ được giá
thành, giảm giá bán sản phẩm và cạnh tranh quyết liệt với Hải Châu, vì đường là nguyên
liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Ngoài ra, các Công ty còn đưa ra các đợt quảng cáo khuyến mại rầm rộ như Biên Hoà,
Kinh Đô. Thực tế này cho thấy cường độ cạnh tranh của ngành sản xuất bánh kẹo là
tương đối cao, gây khó khăn cho việc giữ vững và nâng cao khả năng cạnh tranh của Hải
Châu. Đó là chưa kể đến các doanh nghiệp tiềm ẩn có thể tham gia vào ngành trong một
tương lai gần. Khi đó cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn, gay gắt hơn và Công ty sẽ gặp hàng
loạt khó khăn mới.
* Sức ép của nhà cung ứng.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />