Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

M t s gi i ph p nh m ho n thi n v ph t tri n c c c ng ty ch ng kho n Vi t Nam giai o n hi n nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 59 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
và là website chia sẻ miễn phí luận văn, đồ
án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất
cả mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng
góp của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu
xin quý khách gửi về

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt Nam giai
đoạn hiện nay

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />MỞ ĐẦU
Nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi một khối lượng vốn khổng lồ, nhất là
vốn dài hạn, mà trong giai đoạn hiện nay, thị trường tài chính mới chỉ đáp ứng được một
phần nhỏ nhu cầu về vốn ngắn hạn cho nền kinh tế.
Xuất phát từ đòi hỏi ấy, thị trường chứng khoán, với tư cách là kênh huy vốn quan trọng
cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá trở thành một nhu cầu cấp thiết, khách quan trong điều
kiện hiện nay.
Tuy nhiên thị trường chứng khoán muốn hoạt động hiệu quả cần phải có hàng hoá cho
nó (cổ phiếu, trái phiếu...) và đồng thời phải có các công ty chứng khoán chuyên mua bán,
giao dịch các loại hàng hoá đó.
Công ty chứng khoán sẽ là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà một
lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ những nguồn lẻ tẻ trong công chúng tập hợp
lại.
Như vậy, sự ra đời của các công ty chứng khoán trong giai đoạn hiện nay là một nhu cầu
khách quan. Tuy nhiên để nó đi vào hoạt động có hiệu quả cần tiếp tục có những điều chỉnh
hợp lý.
Đề xuất: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở
Việt Nam giai đoạn hiện nay" sẽ đưa ra những kiến nghị góp phần vào việc hoàn thiện các


công ty chứng khoán và những giải pháp thúc đẩy hình thành các công ty chứng khoán. Đề
tài nghiên cứu những lí luận cơ bản về công ty chứng khoán từ đó đề xuất các giải pháp
hoàn thiện công ty chứng khoán về cơ cấu tổ chức; đội ngũ cán bộ, nhân viên; mô hình
công ty; hệ thống tin học trong các công ty chứng khoán, đồng thời đưa ra những giải pháp,
kiến nghị nhằm mở rộng và phát triển các công ty chứng khoán.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Vai trò của công ty chứng khoán với hoạt động của thị trường chứng khoán.
Chương II: Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay.
Chương III: Các giải pháp hoàn thiện và phát triển các công ty chứng khoán ở Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo Th.s Đặng
Ngọc Đức và cán bộ, công nhân viên Vụ quản lý kinh doanh chứng khoán - UBCKNN đã
giúp em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Do hạn chế về lý luận, kinh nghiệm thực tế, điều kiện nghiên cứu nên bài viết này của
em còn nhiều thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của thầy cô, cán bộ, nhân viên Vụ quản
lý kinh doanh chứng khoán - UBCKNN và tất cả các bạn đọc để các bài viết sau của em
được tốt hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2003
Sinh viên TH: Lê Thanh Thái

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán.
1.1.1. Quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính, hoạt động
của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành những

nguồn vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Nhà nước để
phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán chứng khoán và các giấy
ghi nợ trung hoặc dài hạn thường từ 01 năm trở lên. Công cụ trao đổi trên thị trường chứng
khoán rất phong phú. Vậy thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán đã
được phát hành và đang lưu hành trên thị trường.
Hiện nay tồn tại hai quan điểm đối lập nhau:
Quan điểm một cho rằng: thị trường vốn và thị trường chứng khoán là khác nhau vì
công cụ của thị trường chứng khoán ngoài các chứng khoán dài hạn còn có các giấy ghi nợ
ngắn hạn (các tín phiếu kho bạc nhà nước có thời hạn 03 tháng hoặc 06 tháng).
Quan điểm thứ hai cho rằng: thị trường vốn và thị trường chứng khoán chỉ là các tên gọi
khác nhau của cùng một khái niệm: thị trường tư bản.
Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, thị trường chứng khoán được
quan niệm là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều kiện, là nơi diễn ra các hoạt
động mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn giữa những người phát hành chứng
khoán và mua chứng khoán hoặc kinh doanh chứng khoán.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau, nhưng nhìn chung
một thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi các hoạt động cơ bản sau.
1.1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán.
Trên thị trường chứng khoán các hoạt động giao dịch chứng khoán được thực hiện . Xét
về mặt hình thức, các hoạt động trao đổi mua bán chuyển nhượng các chứng khoán là việc
thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán; xét về thực chất đây chính là quá trình vận
động tư bản ở hình thái tiền tệ, tức là quá trình chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />doanh. Các quan hệ mua bán các chứng khoán trên thị trường chứng khoán phản ánh sự
thay đổi các chủ thể sở hữu về chứng khoán.
Xét về nội dung, thị trường vốn thể hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình
mua bán các chứng khoán. Thị trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức

giao dịch vốn cụ thể. Các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà nó là thống
nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Do đó hoạt động của thị trường chứng khoán (xét về bản chất) phản ánh quan hệ trao đổi
mua bán quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, vốn, tiền mặt. Các hoạt động này được thực hiện
thông qua các thành viên trên thị trường chứng khoán.
1.1.3. Các thành viên của thị trường chứng khoán.
- Người đầu tư chứng khoán: Là những người mua bán chứng khoán gồm có: các doanh
nghiệp, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí và lực lượng rộng rãi nhất là tầng lớp dân
chúng đầu tư vào.
- Người kinh doanh chứng khoán: Là người được pháp luật cho phép thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, bao gồm môi giới chứng khoán (nhận mua hộ và bán
hộ để hưởng hoa hồng), bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản
lý quỹ đầu tư chứng khoán, mua và bán chứng khoán cho chính mình để hưởng chênh lệch
giá.
- Người tổ chức thị trường: Là người tạo ra địa điểm và phương tiện để phục vụ cho việc
mua bán chứng khoán hay còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán.
- Người quản lý và giám sát các hoạt động của thị trường chứng khoán: Tức là Nhà
nước, người bảo đảm cho thị trường hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật nhằm
bảo vệ lợi ích của người đầu tư, bảo đảm việc mua bán chứng khoán được công bằng, công
khai, tránh những tình trạng tiêu cực có thể xảy ra.
Ngoài các đối tượng trên ra, còn có các đối tượng tương hỗ quan trọng khác như: Các tổ
chức thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán, tổ chức dịch vụ sang tên và đăng ký lại
quyền sở hữu chứng khoán, trung tâm đào tạo người hành nghề chứng khoán, hiệp hội các
nhà đầu tư, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Trong các đối tượng đó thì người kinh doanh chứng khoán (trong đó có các công ty
chứng khoán) giữ vai trò quan trọng đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động ổn
định và có hiệu quả.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />1.2. Công ty chứng khoán.
1.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán.
1.2.1.1. Các mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Vì công ty chứng khoán là một loại hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định
mô hình tổ chức kinh doanh của nó có nhiều điểm khác nhau ở các nước. Mỗi nước đều có
một mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán riêng, phù hợp với đặc điểm của hệ thống tài
chính và tuỳ thuộc vào sự cân nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý nhà
nước. Tuy nhiên, ta có thể khái quát lên ba mô hình cơ bản hiện nay là: mô hình công ty
chứng khoán ngân hàng hay mô hình ngân hàng đa năng (bao gồm: Ngân hàng đa năng
toàn phần, Ngân hàng đa năng một phần) và công ty chuyên doanh chứng khoán.
Trong mô hình ngân hàng đa năng toàn phần, một ngân hàng có thể tham gia tất cả các
hoạt động kinh doanh tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm mà không cần thông qua những pháp
nhân riêng biệt.
Khác với mô hình trên, trong mô hình ngân hàng đa năng một phần, một ngân hàng
muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thông qua công ty con là pháp
nhân riêng biệt.
Với mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ
do công ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng
không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
1.2.1.2. Những nét đặc trưng trong tổ chức của các công ty chứng khoán.
Do công ty chứng khoán là một hình thức định chế đặc biệt, có hoạt động nghiệp vụ đặc
thù nên về mặt tổ chức nó có nhiều điểm khác biệt so với các công ty thông thường. Các
công ty chứng khoán ở các nước khác nhau, thậm chí trong cùng một quốc gia cũng có tổ
chức rất khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất công việc của mỗi công ty và mức độ phát triển
của thị trường. Tuy vậy, chúng vẫn có một số đặc trưng cơ bản:
a. Chuyên môn hoá và phân cấp quản lí.
Công ty chứng khoán có trình độ chuyên môn hoá rất cao ở từng phòng ban, bộ phận,
đơn vị kinh doanh nhỏ.
Do chuyên môn hoá cao nên các bộ phận có quyền tự quyết.
Một số bộ phận trong công ty có thể không phụ thuộc lẫn nhau (chẳng hạn bộ phận môi

giới và tự doanh hay bảo lãnh phát hành...)
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />b. Nhân tố con người.
Trong công ty chứng khoán, quan hệ với khác hàng giữ vai trò rất quan trọng, đòi hỏi
nhân tố con người phải luôn được quan tâm, chú trọng.
Khác với các công ty sản xuất, ở công ty chứng khoán việc thăng tiến cất nhắc lên vị trí
cao hơn nhiều khi không quan trọng. Các chức vụ quản lí hay giám đốc của công ty nhiều
khi có thể nhận được ít thù lao hơn so với một số nhân viên cấp dưới.
c. Ảnh hưởng của thị trường tài chính.
Thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh hưởng lớn tới
sản phẩm, dịch vụ, khả năng thu lợi nhuận của công ty chứng khoán. Thị trường chứng
khoán càng phát triển thì công cụ tài chính càng đa dạng, hàng hoá dịch vụ phong phú, qua
đó công ty chứng khoán có thể mở rộng hoạt động thu nhiều lợi nhuận.
Với các trình độ phát triển khác nhau của thị trường, các công ty chứng khoán phải có
cơ cấu tổ chức đặc thù để đáp ứng những nhu cầu riêng. Thị trường càng phát triển thì cơ
cấu tổ chức của công ty chứng khoán càng phức tạp (chẳng hạn Mỹ, Nhật...). Trong khi đó,
thị trường chứng khoán mới hình thành thì cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán giản
đơn hơn nhiều (như Đông Âu, Trung Quốc...).
1.2.2 Hình thức pháp lý của các công ty chứng khoán.
Có ba loại hình tổ chức công ty chứng khoán cơ bản: công ty hợp danh, công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
a. Công ty hợp danh.
Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên.Thành viên tham gia vào quá trình đưa
ra các quyết định quản lý được gọi là thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải
chịu trách nhiệm vô hạn, tức là phải chịu trách nhiệm với các khoản nợ của công ty hợp
danh bằng toàn bộ tài sản của mình. Ngược lại thành viên không tham gia vào quá trình
điều hành quản lí công ty được gọi là thành viên góp vốn. Họ chỉ chịu trách nhiệm đối với
những khoản nợ của công ty trong giới hạn góp vốn của mình.
Thông thường khả năng huy động vốn góp của công ty hợp danh không lớn, nó chỉ giới

hạn trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp.
b. Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Đây là công ty chỉ đòi hỏi trách nhiệm của các thành viên đối với các khoản nợ của công
ty trong giới hạn số vốn góp của họ, do đó gây tâm lí nhẹ nhàng hơn đối với các nhà đầu
tư.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Về phương diện huy động vốn, nó đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty hợp danh.
Đồng thời vấn đề tuyển đội ngũ quản lí cũng năng động hơn, không bị bó hẹp trong một số
đối tác như công ty hợp danh.
Nhờ những ưu thế đó, hiện nay rất nhiều công ty chứng khoán hoạt động dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn.
c. Công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu là các cổ đông. Đại hội cổ
đông có quyền bầu ra hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ định ra các chính sách của công
ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý khác để điều hành công ty.
Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện món nợ của công ty, mà thể hiện quyền lợi
của chủ sở hữu đối với các tài sản của công ty.
* Ưu điểm của công ty cổ phần:
+ Nó tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông hoặc cổ đông nghỉ hưu
hay qua đời.
+ Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được giới hạn ở mức nhất định. Nếu công
ty thua lỗ, phá sản, cổ đông chỉ chịu thiệt hại ở mức vốn đã đóng góp.
+ Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ phiếu.
+ Ngoài ra, đối với công ty chứng khoán, nếu tổ chức theo hình thức công ty cổ phần và
được niêm yết tại sở giao dịch thì coi như họ đã được quảng cáo miễn phí.
+ Hình thức tổ chức quản lí, chế độ báo cáo và thông tin tốt hơn hai loại hình hợp danh
và trách nhiệm hữu hạn.
Do những ưu điểm này, ngày nay chủ yếu các công ty chứng khoán tồn tại dưới hình

thức công ty cổ phần thậm chí một số nước (như Hàn Quốc) còn bắt buộc các công ty
chứng khoán phải là công ty cổ phần.
1.2.3. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán có thể là những công ty chuyên kinh doanh một dịch vụ như
công ty chỉ chuyên môi giới, công ty chỉ chuyên thực hiện bảo lãnh phát hành... hoặc là
những công ty đa dịch vụ, hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Nhìn
chung có ba nghiệp vụ kinh doanh chính là:
- Nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
- Nghiệp vụ tự doanh.
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Ngày nay, do thị trường ngày càng phát triển và do nhu cầu của bản thân công ty chứng
khoán ngày càng mở rộng nên đã phát sinh nhiều nghiệp vụ như: cho vay kí quĩ, tư vấn đầu
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />tư, quản lí danh mục đầu tư, quản lí thu nhập chứng khoán. Đồng thời các công ty chứng
khoán ngày nay còn hoạt động trên cả lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, bảo hiểm.
1.2.3.1. Nghiệp vụ môi giới
Bản chất nghiệp vụ.
Công ty chứng khoán tiến hành nghiệp vụ môi giới sẽ đại diện cho khách hàng tiến hành
giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC.
Khách hàng sẽ phải chịu hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. Các nhà môi giới thường
gặp phải rủi ro khi khách hàng của mình hoặc nhà môi giới giao dịch khác không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn.
Qui trình giao dịch.
Quá trình môi giới của công ty chứng khoán thường qua các bước chủ yếu thể hiện ở sơ
đồ sau:
Bước 1: Mở tài khoản (1).
Bước 2: Nhận lệnh (2).
Bước 3: Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện lệnh (3).
Bước 4: Xác nhận kết quả thực hiện lệnh cho khách hàng (4).

Bước 5: Thanh toán và giao hàng.

(2)
Khách hàng

(1)
(5)

Công ty chứng
(3
khoán
)

(4)
Bước 1: Mở tài khoản.
Công ty chứng khoán yêu cầu khách hàng mở tài khoản giao dịch (tài khoản tiền mặt
hoặc tài khoản kí quĩ). Tài khoản kí quĩ dùng cho giao dịch kí quĩ còn tài khoản giao dịch
dùng cho các giao dịch thông thường.
Bước 2: Nhận đơn đặt hàng.
Khách hàng ra lệnh mua, bán cho công ty chứng khoán dưới nhiều hình thức: Điện
thoại, telex, phiếu lệnh...

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Nếu là lệnh bán, công ty chứng khoán sẽ yêu cầu khách hàng xuất trình số chứng khoán
muốn bán trước khi thực hiện đơn hàng hoặc đề nghị phải kí quĩ một phần số chứng khoán
cần bán theo một tỉ lệ do uỷ ban chứng khoán qui định.
Nếu là lệnh mua, công ty sẽ đề nghị khách hàng mức tiền kí quĩ nhất định trên tài khoản
kí quĩ của khách hàng tại công ty. Khoản tiền này thường bằng 40% trị giá mua theo lệnh.
Bước 3: Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện.

Trước đây, người đại diện của công ty gửi tất cả lệnh mua, bán của khách hàng tới bộ
phận thực hiện lệnh hoặc phòng kinh doanh giao dịch của công ty. Ở đây, một người thư kí
sẽ kiểm tra xem chứng khoán được mua bán ở thị trường nào (tập trung, phi tập trung...).
Sau đó, người thư kí sẽ gửi lệnh đến thị trường đó để thực hiện.
Ngày nay, các công ty chứng khoán có mạng lưới thông tin trực tiếp từ trụ sở chính tới
phòng giao dịch. Do vậy, các lệnh mua, bán được chuyển trực tiếp tới phòng giao dịch của
Sở giao dịch chứng khoán mà không cần chuyển qua phòng thực hiện lệnh.
Bước 4: Xác nhận cho khách hàng.
Sau khi thực hiện lệnh xong, công ty chứng khoán sẽ gửi cho khách hàng một phiếu xác
nhận đã thi hành xong lệnh.
Bước 5: Thanh toán bù trừ giao dịch.
Hoạt động này bao gồm việc đối chiếu giao dịch và bù trừ các kết quả giao dịch.
Hiện nay các nước áp dụng việc đối chiếu cố định: Sở giao dịch chứng khoán sẽ tiến
hành bù trừ trên cơ sở nội dung lệnh của các công ty chứng khoán chuyển vào hệ thống.
Những sai sót của công ty chứng khoán sẽ do công ty chứng khoán tự sửa chữa.
Việc bù trừ các kết quả giao dịch kết thúc bằng việc in ra các chứng từ thanh toán.
Chứng từ này được gửi cho công ty chứng khoán. Nó là cơ sở để thực hiện thanh toán và
giao chứng khoán.
Bước 6: Thanh toán và giao hàng.
Đến ngày thanh toán, người mua sẽ giao tiền thông qua ngân hàng chỉ định thanh toán;
người bán sẽ giao chứng khoán thông qua hình thức chuyển khoản tại trung tâm lưu kí
chứng khoán. Sau khi hoàn tất các thủ tục tại Sở, công ty sẽ thanh toán tiền và chứng khoán
cho khách hàng thông qua hệ thống tài khoản khách hàng mở tại công ty chứng khoán.
Phí môi giới.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Hoạt động với tư cách là nhà đại lí nên công ty chứng khoán được hưởng hoa hồng môi
giới. Số tiền hoa hồng thường được tính phần trăm trên tổng giá trị một giao dịch. Số tiền
mua bán càng nhỏ thì số phần trăm hoa hồng càng lớn.

Một số nước hiện nay duy trì tỉ lệ hoa hồng cố định như Thái Lan, Inđônêxia, Trung
Quốc, Ấn Độ, Pakistan. Theo đó mức hoa hồng cao, thấp tuỳ thuộc vào giá trị hợp đồng.
Thông thường, các công ty chứng khoán đều có chế độ hoa hồng của mình và thỉnh
thoảng lại điều chỉnh cho thích hợp. Các công ty nhỏ thường phải chờ xem các hãng lớn
cho biết tỉ suất hoa hồng rồi mới công bố tỉ suất của mình.
Thuế giao dịch chứng khoán.
Các công ty chứng khoán phải nộp thuế đối với hoạt động kinh doanh của mình. Doanh
thu chịu thuế tuỳ thuộc vào các nghiệp vụ mà công ty tiến hành.
Đối với hoạt động môi giới, bảo lãnh, thuế được tính trên mức hoa hồng hay chiết khấu
mà công ty chứng khoán nhận được. Đối với hoạt động tự doanh thuế được tính trên chênh
lệch giữa giá mua và giá bán chứng khoán. Ngoài ra, công ty chứng khoán còn phải chịu
thuế lợi tức trong trường hợp kinh doanh chứng khoán có lãi.
Để khuyến khích mọi người mua Trái phiếu Chính phủ, các nước thường không đánh
thuế các khoản lãi nhận được từ đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ.
1.2.3.2 Nghiệp vụ bảo lãnh.
Bản chất bảo lãnh.
Bảo lãnh phát hành là việc hỗ trợ đơn vị phát hành huy động vốn bằng cách bán chứng
khoán trên thị trường. Có ba hình thức bảo lãnh phát hành mà thế giới thường áp dụng:
Một là, bảo lãnh chắc chắn: công ty bảo lãnh phát hành nhận mua toàn bộ số chứng
khoán trong đợt phát hành của công ty phát hành và sau đó sẽ bán ra công chúng. Giá mua
của công ty bảo lãnh là giá đã được ấn định, thường là thấp hơn giá thị trường. Giá bán của
công ty bảo lãnh là giá thị trường. Đây là hình thức công ty bảo lãnh hoạt động cho chính
họ và sẵn sàng chịu mọi rủi ro.
Hai là, bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức mà công ty bảo lãnh phát hành hứa sẽ cố
gắng tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho công ty phát hành. Nếu không
bán hết, công ty bảo lãnh sẽ trả lại số chứng khoán không bán được cho công ty phát hành.
Người bảo lãnh được hưởng số hoa hồng trên số chứng khoán bán được.
Ba là, bảo lãnh bảo đảm tất cả hoặc không: trường hợp này được áp dụng khi công ty
phát hành chứng khoán cần một số vốn nhất định. Nếu huy động được đủ số vốn đó thì
thực hiện phát hành, còn không huy động đủ thì sẽ bị huỷ bỏ. Ví dụ, một công ty cố gắng

bán toàn bộ 100.000.000$ cổ phiếu nó yêu cầu công ty chứng khoán phải bán tối thiểu
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />60% giá trị của đợt phát hành, tức là công ty phải nhận được lượng tiền bán tối thiểu là
60.000.000 $ nếu không toàn bộ đợt phát hành sẽ bị loại bỏ.
Một số khâu quan trọng trong quy trình bảo lãnh .
+ Lập nghiệp đoàn bảo lãnh.
Khi số số chứng khoán phát hành vượt quá khả năng bảo lãnh của một công ty chứng
khoán thì một nghiệp đoàn bao gồm một số công ty chứng khoán và các tổ chức tài chính
sẽ được thành lập.
Nghiệp đoàn này có ý nghĩa phân tán rủi ro trong hình thức bảo lãnh chắc chắn. Trong
nghiệp đoàn có một công ty bảo lãnh chính, thường là người khởi đầu cho cuộc giao dịch
này, đứng ra ký kết và giải quyết các giấy tờ với công ty phát hành. Nó quyết định công ty
chứng khoán nào được mời tham gia nghiệp đoàn và sẽ trả chi phí bảo lãnh cho các công ty
khác trong nghiệp đoàn.
Nhóm bán:
Để việc bán nhanh hơn, nghiệp đoàn bảo lãnh có thể tổ chức thêm một "nhóm bán".
Nhóm này bao gồm một số công ty không nằm trong nghiệp đoàn bảo lãnh, họ chỉ giúp
bán chứng khoán mà không phải chịu trách nhiệm về số chứng khoán không bán được. Do
vậy, thù lao cho họ ít hơn các thành viên trong nghiệp đoàn bảo lãnh.
+ Phân tích, định giá chứng khoán.
Định giá cho cổ phiếu rất phức tạp. Ở đây bắt gặp vấn đề nan giải: một mặt, người phát
hành cổ phiếu muốn nhận được càng nhiều tiền càng tốt từ đợt phát hành này; mặt khác
người quản lý muốn định giá sao cho có thể bán được và bán càng nhanh càng tốt. Nếu giá
cao quá công chúng sẽ không mua, nếu giá thấp quá thì giá chứng khoán sẽ mau chóng
chuyển lên cao hơn ở thị trường thứ cấp và người phát hành sẽ chịu thiệt. Thông thường,
việc định giá cổ phiếu căn cứ vào nhiều yếu tố: lợi nhuận của công ty, dự kiến lợi tức cổ
phần, số lượng cổ phiếu chào bán, tỉ lệ giá cả - lợi tức so với những công ty tương tự, tình
hình thị trường lúc chào bán...
Đối với trái phiếu, việc định giá đơn giản hơn vì trên thị trường đã có sẵn lãi suất chuẩn

và yết giá của những người mua, bán chứng khoán cho những loại trái phiếu tương tự.
+ Ký hợp đồng bảo lãnh.
Sau khi thành lập nghiệp đoàn và tiến hành một số công việc như phân tích định giá
chứng khoán, chuẩn bị cho đợt phân phối chứng khoán ..., nghiệp đoàn bảo lãnh sẽ ký một
số hợp đồng với công ty phát hành trong đó xác định:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Phương thức bảo lãnh.
Phương thức thanh toán.
Khối lượng bảo lãnh phát hành.
+ Đăng kí phát hành chứng khoán.
Sau khi ký hợp đồng bảo lãnh, nghiệp đoàn bảo lãnh phải trình lên cơ quan quản lý đơn
xin đăng kí phát hành cùng một bản cáo bạch thị trường có đầy đủ chữ kí của công ty phát
hành, công ty luật, công ty bảo lãnh. Bản cáo bạch của công ty phát hành trình bày tình
hình tài chính, hoạt động kinh doanh và kế hoạch sử dụng tiền thu được từ việc phát hành
nhằm giúp công chúng đánh giá và đưa ra quyết định mua chứng khoán.
+ Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng kí.
Sau khi tiến hành các thủ tục cần thiết như phân phát bản cáo bạch và phiếu đăng kí mua
chứng khoán và đợi khi đăng kí phát hành chứng khoán có hiệu lực, công ty chứng khoán
hoặc nghiệp đoàn bảo lãnh sẽ tiến hành phân phối chứng khoán.
Phân phối chứng khoán ra công chúng có thể được thực hiện dưới các hình thức:
Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể (như các quĩ đầu tư, quĩ bảo hiểm, quĩ hưu
trí...).
Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức
phát hành.
Bán ra công chúng.
+ Thanh toán
Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán chứng
khoán cho công ty phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi thù
lao cho công ty bảo lãnh.

Thù lao cho công ty bảo lãnh có thể là khoản phí (đối với hình thức bảo lãnh chắc chắn)
hoặc hoa hồng (đối với các hình thức bảo lãnh khác).
Mức phí bảo lãnh tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát hành, tình hình thị trường và do
hai bên thoả thuận. Nếu là phát hành lần đầu thì phí bảo lãnh cao hơn lần phát hành bổ
sung. Đối với trái phiếu phí và hoa hồng còn tuỳ thuộc vào lãi suất trái phiếu (lãi suất cao
sẽ dễ bán, chi phi sẽ thấp và ngược lại).
Hoa hồng: là tỉ lệ (%) cố định đối với từng loại chứng khoán nhất định. Việc tính toán và
phân bổ hoa hồng do các thành viên trong nghiệp đoàn thương lượng với nhau.
Phí bảo lãnh: là chênh lệch giữa giá bán chứng khoán trên thị trường và số tiền công ty
phát hành nhận được.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />1.2.3.3 Nghiệp vụ tự doanh.
Đây là nghiệp vụ kinh doanh trong đó công ty chứng khoán dùng kinh phí của mình để
mua và bán chứng khoán, họ tự chịu mọi rủi ro và có thể làm thêm nhiệm vụ tạo thị trường
cho một loại chứng khoán nào đó.
Nhà giao dịch chịu lãi hay lỗ tuỳ thuộc vào chênh lệch giá mua và bán chứng khoán.
Hoạt động buôn bán chứng khoán có thể là:
Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt lệnh mua và bán của mình trên Sở giao
dịch, lệnh của họ được xác định đối với bất kì khách hàng nào không xác định trước.
Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch giữa hai công ty chứng khoán hay giữa công ty chứng
khoán với khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của giao dịch trực tiếp thường là
các trái phiếu và cổ phiếu giao dịch ở thị trường OTC.
Thông thường các công ty chứng khoán phải dành một tỉ lệ % nhất định cho hoạt động
bình ổn thị trường (ở Mỹ luật qui định là 60%). Các công ty có nghĩa vụ mua vào (khi giá
chứng khoán giảm) để giữ giá và phải bán ra khi giá chứng khoán lên để kìm giá chứng
khoán.
Ngoài các hoạt động kinh doanh chính: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, công ty
chứng khoán còn tiến hành các nghiệp vụ phụ trợ.

1.2.3.4. Các nghiệp vụ phụ trợ.
a. Nghiệp vụ tín dụng.
Ở các thị trường phát triển thì đây là một hoạt động thông dụng. Còn ở những thị trường
chưa phát triển thì hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định chế tài chính đặc biệt mới được
phép cấp vốn vay. Một số nước còn qui định không được phép cho vay kí quỹ.
Cho vay kí quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách hàng của
mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản
vay.
Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán phải dàn xếp với ngân hàng và phải
chịu trách nhiệm về khoản vay đó.
Trong tài khoản kí quỹ, tài sản thực của khách hàng chỉ chiếm một tỉ lệ nhất định (50%60% tuỳ từng nước), số còn lại là tiền vay của công ty chứng khoán. Đến hạn, khách hàng
phải trả vốn vay và lãi cho công ty chứng khoán. Nếu không trả được nợ, công ty chứng
khoán sẽ bán chứng khoán trên tài sản kí quỹ để thu hồi khoản vay.
Rủi ro đối với công ty chứng khoán xảy ra khi chứng khoán thế chấp giảm giá và giá trị
của chúng thấp hơn giá trị khoản vay kí quỹ. Vì vậy, công ty chứng khoán không nên tập
trung quá mức vào một khách hàng hay một loại chứng khoán.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />b. Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty.
Đây là việc cung cấp các thông tin về đối tượng chứng khoán, thời hạn, các vấn đề mang
tính quy luật của hoạt động đầu tư chứng khoán...Nó đòi hỏi nhiều kiến thức, chuyên môn
kỹ năng và yêu cầu vốn không cao. Tính trung thực của cá nhân hay công ty tư vấn có ý
nghĩa quan trọng.
c. Nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư.
Đây là một dạng tư vấn đầu tư nhưng ở mức độ cao hơn vì khách hàng uỷ thác cho công
ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo những nguyên tắc mà khách hàng
yêu cầu. Thông thường nghiệp vụ này tuân thủ theo bốn bước cơ bản:
Bước 1: Công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc tìm hiểu khả năng của nhau.
Bước 2: Công ty và khách hàng tiến hành kí hợp đồng quản lí.
Bước 3: Thực hiện hợp đồng quản lí. Khi có phát sinh ngoài hợp đồng, công ty chứng

khoán phải xin ý kiến của khách hàng rồi mới được phép quyết định. Công ty chứng khoán
phải tách rời hoạt động này với hoạt động môi giới và tự doanh để tránh mâu thuẫn lợi ích.
Bước 4: Khi đến hạn kết thúc hợp đồng công ty phải cùng khách hàng bàn bạc, quyết
định xem gia hạn hay thanh lí hợp đồng. Khi công ty bị phá sản, tài sản uỷ thác của khách
hàng phải được tách riêng và không được dùng để trả nghĩa vụ nợ cho công ty chứng
khoán.
Khoản phí mà công ty chứng khoán nhận được dựa trên số lợi nhuận thu về cho khách
hàng.
d. Nghiệp vụ quản lí thu nhập chứng khoán (quản lí cổ tức).
Nghiệp vụ này xuất phát từ nghiệp vụ lưu kí chứng khoán. Công ty phải thực hiện hoạt
động theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho
khách hàng. Trên thực tế, các công ty chứng khoán không trực tiếp quản lí mà sẽ lưu kí tại
trung tâm lưu giữ chứng khoán.
Ngoài các nghiệp vụ trên, công ty chứng khoán còn có thể tiến hành một số hoạt đông
khác như: cho vay chứng khoán, quản lí quỹ đầu tư, quản lí vốn, kinh doanh bảo hiểm...
Vì là một định chế tài chính đặc biệt nên công ty chứng khoán phải tuân thủ một số
nguyên tắc nhất định.
1.2.4. Nguyên tắc đạo đức và tài chính đối với công ty chứng khoán.
1.2.4.1. Nguyên tắc đạo đức.
Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán ảnh hưởng nhiều tới lợi ích công chúng
và biến động của thị trường tài chính. Vì vậy, luật pháp các nước qui định rất chặt chẽ đối
với hoạt động của công ty chứng khoán. Nhìn chung có một số nguyên tắc cơ bản sau:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />+ Công ty chứng khoán có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, chỉ được tiết lộ thông tin
khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
+ Công ty chứng khoán phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng, không được tiến hành
bất cứ hoạt động lừa đảo phi pháp nào.
+ Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để
kinh doanh.

+ Công ty chứng khoán phải tách biệt tài sản của mình với tài sản của khách hàng và tài
sản của khách hàng với nhau; không được dùng tài sản của khách hàng làm vật thế chấp,
trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản.
+ Công ty chứng khoán khi thực hiện tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin cho khách
hàng, đảm bảo thông tin chính xác, tin cậy.
+ Công ty chứng khoán không được nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù
lao thông thường cho hoạt động dịch vụ của mình.
+ Ở nhiều nước, công ty chứng khoán phải đóng tiền vào quĩ bảo vệ nhà đầu tư chứng
khoán để bảo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp công ty chứng khoán bị mất khả
năng thanh toán.
+ Ngoài ra, các nước còn có qui định chặt chẽ nhằm chống thao túng thị trường; cấm
mua bán khớp lệnh giả tạo với mục đích tạo ra trạng thái "tích cực bề ngoài"; cấm đưa ra
lời đồn đại, xúi dục hoặc lừa đảo trong giao dịch chứng khoán; cấm giao dịch nội gián sử
dụng thông tin nội bộ mua bán chứng khoán cho chính mình làm thiệt hại tới khách hàng.
1.2.4.2. Nguyên tắc tài chính.
a. Vốn.
Vốn của công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ. Nhìn chung, số vốn
cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác định bằng việc cân đối giữa vốn pháp
định và nhu cầu vốn kinh doanh của công ty.
b. Cơ cấu vốn: Nợ và Có.
Cơ cấu vốn là tỉ lệ các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn góp của các thành viên mà
công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc huy động vốn được
tiến hành thông qua việc góp vốn của các cổ đông, thông qua hệ thống ngân hàng, thị
trường vốn.
Việc huy động vốn và cơ cấu vốn của công ty chứng khoán có các đặc điểm chung:
♦ Các công ty phụ thuộc khá nhiều vào các khoản vay ngắn hạn.
♦ Các chứng khoán đem ra mua bán, trao đổi trên thị trường chiếm phần lớn tổng giá trị
tài sản của công ty chứng khoán (40%-60%).
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />♦ Ở các nước đang phát triển, thông thường các công ty chứng khoán không được vay
vốn của nước ngoài trong khi ở những nước phát triển điều này được phép thực hiện.
♦ Tỉ lệ nợ tuỳ thuộc vào công ty chứng khoán nhưng phải tuân theo qui định của các cấp
quản lí.
c. Quản lí vốn và hạn mức kinh doanh.
* Quản lí vốn khả dụng: các công ty chứng khoán thường phải duy trì một mức vốn khả
dụng để đảm bảo khả năng thanh toán.
* Quản lí quĩ bù đắp rủi ro: Các công ty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh
thường phải duy trì một tỉ lệ dự trữ trên mức lợi nhuận ròng, còn các công ty môi giới duy
trì tỉ lệ dự trữ tính trên tổng doanh thu với mục đích bù đắp các khoản lỗ kinh doanh trong
năm đó.
* Quản lí quĩ bổ sung vốn điều lệ: công ty chứng khoán phải trích tỉ lệ phần trăm lãi
ròng hàng năm để lập quĩ bổ sung vốn điều lệ cho tới khi đạt một tỉ lệ phần trăm nào đó
của vốn điều lệ. Quĩ này dùng bù đắp những thâm hụt trong tương lai.
* Quản lí hạn mức kinh doanh: hạn mức kinh doanh được qui định khác nhau tuỳ từng
quốc gia. Thông thường nó tuân theo một số qui định sau:
Hạn chế mua sắm tài sản cố định theo tỉ lệ % trên vốn điều lệ.
Đặt ra hạn mức đầu tư vào mỗi loại chứng khoán.
Qui định hạn mức đầu tư vào một số tài sản rủi ro cao.
d. Chế độ báo cáo.
Các thông tin tài chính được thể hiện qua các báo cáo. Các báo cáo này, theo qui định
một số nước, phải nộp cho Uỷ ban chứng khoán (hoặc cơ quan quản lý tương đương) và
một tổ chức tự quản làm cơ quan kiểm tra các báo cáo tài chính thường niên đã được kiểm
toán. Báo cáo tài chính được kiểm toán bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán.
- Báo cáo lỗ lãi.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Ngoài báo cáo thường niên, công ty chứng khoán phải gửi một báo cáo quản lý toàn
diện về tình hình tài chính theo quý như quy định của Uỷ ban chứng khoán.
Ngoài ra công ty phải gửi báo cáo hàng tháng cho tổ chức tự quản có thẩm quyền để

kiểm tra tình hình tài chính và việc tuân thủ các trách nhiệm tài chính.
Nếu công ty chứng khoán không đáp ứng được một số tiêu chuẩn kinh doanh và tài
chính thì có thể phải gửi nhiều báo cáo hơn (báo cáo tuần).

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />1.2.5. Điều kiện thành lập công ty chứng khoán.
Hoạt động của công ty chứng khoán có ảnh hưởng nhiều tới lợi ích của công chúng nên
nó phải đáp ứng một số điều kiện nhất định. Nhìn chung, qui định về điều kiện thành lập,
cấp phép hoạt động cho công ty chứng khoán được thể hiện ở hai khía cạnh sau:
Điều kiện về vốn: Công ty chứng khoán phải có vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp
định. Vốn pháp định được qui định cụ thể cho từng loại nghiệp vụ. Một công ty càng tham
gia vào nhiều loại hoạt động nghiệp vụ thì yêu cầu về vốn càng nhiều. Mức vốn qui định
cho hoạt động môi giới, tư vấn thường không nhiều. Trong khi đó, nghiệp vụ tự doanh hay
bảo lãnh phát hành đòi hỏi mức vốn pháp định tương đối cao.
Điều kiện nhân sự: Những người quản lí hay nhân viên của công ty chứng khoán phải có
đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm và độ tín nhiệm. Thông thường, các nhân viên của công ty
chứng khoán phải có giấy phép hành nghề. Muốn có giấy phép hành nghề, ngoài việc đáp
ứng một số qui định như tuổi tác, trình độ học vấn, lí lịch tốt phải trải qua những kì thi kiến
thức chuyên môn chứng khoán. Những người nắm giữ các chức năng quản lí trong công ty
chứng khoán phải có giấy phép đại diện. Yêu cầu để được cấp giấy phép đại diện cao hơn
so với giấy phép hành nghề về các mặt học vấn kinh nghiệm công tác.
Trong điều kiện thành lập công ty chứng khoán cần chú ý tới tính điều kiện và tính
đương nhiên. Tính điều kiện có nghĩa là giấy phép thực hiện hoạt động này có thể lại chính
là điều kiện xin cấp giấy phép hoạt động kia. Chẳng hạn muốn thực hiện hoạt động bảo
lãnh thì bắt buộc phải có giấy phép hoạt động tự doanh. Tính đương nhiên có nghĩa là được
thực hiện hoạt động này thì đương nhiên thực hiện hoạt động kia. Ví dụ: nếu đã có giấy
phép quản lí quĩ đầu tư thì đương nhiên được thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư.
Riêng đối với quản lí quĩ đầu tư ở một số nước trên thế giới có những điểm khác biệt.
Chẳng hạn một số nước như Thái Lan, Hàn Quốc cho phép công ty chứng khoán thành lập

và quả lí quĩ đầu tư trong khi điều này không được Inđônêxia chấp nhận.
Như vậy, điều kiện thành lập công ty chứng khoán có sự khác nhau ở các nước trên thế
giới. Tùy theo đặc thù mỗi quốc gia, các công ty chứng khoán cũng được tổ chức theo
nhiều mô hình khác nhau.
1.3. Công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới.
Trên thế giới có ba mô hình công ty chứng khoán cơ bản:
Thứ nhất: là mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Trong mô hình này không có sự tách
biệt nào giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các ngân hàng
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />thương mại cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm trong một
pháp nhân duy nhất. Đây là phương thức hoạt động ngân hàng đa năng cổ truyền mà điển
hình được áp dụng ở CHLB Đức, Hà Lan, Thuỵ Sỹ, các nước Bắc Âu.
Thứ hai: là mô hình đa năng một phần (đa năng kiểu Anh), được áp dụng ở Anh và một
số nước có quan hệ gần gũi với Anh như Canada, Australia. Ngân hàng khi tham gia kinh
doanh chứng khoán phải thành lập công ty con, có tư cách pháp nhân độc lập. Các công ty
con ít khi nắm giữ cổ phần của ngân hàng và thường không có sự kết hợp giữa các công ty
bảo hiểm và ngân hàng.
Thứ ba: là mô hình chuyên doanh. Nó được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật.v.v.
Theo mô hình này các công ty chứng khoán là các công ty chuyên doanh độc lập. Các ngân
hàng không được phép tham gia vào kinh doanh chứng khoán.
Dưới đây là mô hình công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới.
1.3.1. Mô hình Mỹ.
Nét nổi bật của mô hình này là sự tách rời hoạt động của ngành ngân hàng và ngành
chứng khoán. Đạo luật Glass-Steagall chỉ cho phép ngân hàng thương mại tiến hành chào
bán các loại chứng khoán Chính phủ mới phát hành lần đầu nhưng cấm các tổ chức này
bảo lãnh phát hành chứng khoán doanh nghiệp hoặc tham gia vào hoạt động môi giới.
Do thị phần các ngân hàng thương mại giảm xuống, năm 1997 Cục Dự trữ Liên bang đã
áp dụng điều luật 20 của Đạo luật Glass-Steagall cho phép các công ty mẹ thuộc ngân hàng
bảo lãnh phát hành một số chứng khoán nhất định.Và tới tháng 7/1988 Cục Dự trữ Liên

bang tiến hành thí điểm công ty mẹ thuộc ngân hàng thương mại J.P Morgan được bảo
lãnh phát hành trái phiếu công ty và bảo lãnh phát hành cổ phiếu, dần dần mở rộng cho
phép đối với các ngân hàng thương mại khác.
Các tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Mỹ bao gồm các ngân hàng
đầu tư và các công ty môi giới. Việc thành lập các công ty chứng khoán được thực hiện
theo chế độ đăng kí. Các công ty môi giới và tự doanh muốn tham gia kinh doanh chứng
khoán chỉ cần đăng kí với SEC (Uỷ ban Giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ) và phải tham gia
một tổ chức tự quản phù hợp (như NASD) hoặc xin trở thành một thành viên của Sở giao
dịch.
Một tiêu chuẩn quan trọng mà công ty chứng khoán ở Mỹ phải tuân thủ là tiêu chuẩn về
vốn. Mức vốn yêu cầu cho hoạt động kinh doanh được xác định bằng sự kết hợp giữa yêu
cầu về vốn của pháp luật và mức vốn cần thiết của công ty. Ở Mỹ không có sự phân biệt

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />trong qui định giữa công ty chứng khoán trong nước và các tổ chức nước ngoài tham gia
khinh doanh chứng khoán tại Mỹ.
1.3.2. Mô hình Nhật.
Trước đây, mô hình kinh doanh chứng khoán của Nhật là mô hình chuyên doanh, ngân
hàng không được phép tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán. Theo Luật cải
cách các định chế ban hành 4/1993, các tổ chức ngân hàng được phép tham gia vào thị
trường chứng khoán thông qua các công ty chứng khoán con. Đồng thời các công ty chứng
khoán lại được phép thành lập công ty con làm dịch vụ ngân hàng.
Kinh doanh chứng khoán Nhật Bản được chia thành 4 loại hình và mỗi loại hình lại có
giấy phép kinh doanh riêng biệt, đó là nghiệp vụ: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành,
chào bán chứng khoán ( hay tham gia vào hệ thống bán lẻ các chứng khoán phát hành ra
công chúng). Ngoài ra, các công ty chứng khoán chuyên doanh được phép cung cấp các
dịch vụ khác liên quan tới chứng khoán như tư vấn đầu tư, làm đại lí thu tiền mua các trái
phiếu phát hành ra công chúng, thanh toán gốc và lãi trái phiếu, đại lí trả lợi nhuận, mua lại
hoặc huỷ từng phần tiền mua chứng chỉ quĩ đầu tư, lưu kí chứng khoán...

Công ty xin tham gia kinh doanh chứng khoán phải đáp ứng được các tiêu chuẩn:
♦ Có nguồn tài chính lành mạnh.
♦ Nhân sự phù hợp với hoạt động kinh doanh.
♦ Chứng minh được việc xin tham gia kinh doanh chứng khoán là thiết thực đối với
công ty.
Vốn điều lệ tối thiểu đối với công ty chứng khoán thay đổi tuỳ theo loại hình kinh doanh
mà công ty đó tham gia:
♦ Đối với các công ty không phải là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán:
+ Tokyo hoặc Osaka SE : 300 triệu Yên.
+ Nagoya SE
: 150 triệu Yên.
+ Các Sở khác
: 100 triệu Yên.
♦ Đối với các công ty không phải là thành viên: 100 triệu Yên.
♦ Đối với công ty bảo lãnh phát hành:
+ Công ty tham gia 3 loại hình môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành: 10 tỷ Yên.
+ Công ty chuyên bảo lãnh phát hành hoặc là người quản lí cho tổ hợp bảo lãnh phát
hành: 3 tỷ Yên.
+ Các loại hình khác: 500 triệu Yên.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Cho tới năm 1972 Nhật Bản mới cho phép công ty chứng khoán nước ngoài mở chi
nhánh tại Nhật Bản. Theo luật hiện hành, các công ty chứng khoán nước ngoài khi mở chi
nhánh tại Nhật Bản phải được sự cho phép của Bộ tài chính Nhật.
1.3.3. Mô hình Đức.
Các ngân hàng đa năng được tham gia vào tất cả các loại hình kinh doanh chứng khoán
mà không phải chịu sự ràng buộc nào. Các ngân hàng thường tiến hành các nghiệp vụ tự
doanh và môi giới các chứng khoán được phép giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán.
Các thành viên của Sở giao dịch chứng khoán, ngoài các ngân hàng và tổ chức tín dụng,

còn bao gồm những người được Nhà nước cử ra để lập giá và nhóm các nhà lập giá tự do.
Số lượng các ngân hàng và người lập giá tự do không bị hạn chế, chỉ hạn chế số lượng
người do Nhà nước đề cử để lập giá.
Chức năng của các thành viên này được thể hiện: chỉ có ngân hàng mới được nhận lệnh
mua và bán chứng khoán của khách hàng rồi chuyển tới Sở giao dịch chứng khoán. Chi
nhánh của các công ty chứng khoán nước ngoài tại Đức cũng phải có giấy phép kinh doanh
chứng khoán với tư cách là một ngân hàng.
Người lập giá gồm có người lập giá tự do và người lập giá do Nhà nước đề cử. Nhiệm
vụ của người lập giá do Nhà nước cử ra là xác định giá chính thức của chứng khoán trên cơ
sở tình hình giao dịch thực tế ở Sở giao dịch. Người lập giá tự do là người trung gian môi
giới các nghiệp vụ giao dịch giữa các ngân hàng khác với người lập giá tỷ giá do Nhà nước
cử ra.
1.3.4. Mô hình tại một số nước Châu Á điển hình.
a. Mô hình Hồng Kông.
Ở mô hình này không có sự tách biệt giữa hai ngành chứng khoán và ngân hàng. Hầu
hết các ngân hàng đều tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua công ty con của mình.
Công ty kinh doanh chứng khoán có thể tồn tại dưới bất cứ hình thức nào: cá thể, công
ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp doanh... khi tham gia kinh doanh chứng khoán,
công ty chứng khoán chỉ cần đăng ký với Uỷ ban giao dịch chứng khoán. Mức vốn pháp
định không được đặt ra, nhưng công ty chứng khoán phải duy trì mức vốn khả dụng theo
quy định của pháp luật, chẳng hạn: công ty chứng khoán chỉ làm một nghiệp vụ môi giới
chứng khoán, vốn khả dụng tối thiểu là 500.000 H$, đối với nhà kinh doanh chứng khoán
tham gia hoạt động tự doanh vốn khả dụng tối thiểu đối với các pháp nhân (công ty) là
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />3.000.000 H$; đối với thể nhân là 500.000 H$; đối với công ty hợp danh, từng thành viên
pháp nhân là 3.000.000 H$, thể nhân là 500.000 H$.
Hồng Kông không có quy định nào riêng biệt đối với các công ty chứng khoán nước
ngoài kinh doanh trên thị trường và không có một sự phân biệt đối xử nào giữa các công ty
trong nước và công ty nước ngoài.

b. Mô hình Malaysia.
Trước đây các nhà kinh doanh chứng khoán Malaysia có thể là các cá nhân, công ty cổ
phần, công ty TNHH, công ty hợp danh... Từ 1986, các nhà quản lý cho phép ngân hàng
thành lập công ty con kinh doanh chứng khoán. Các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu bao gồm:
môi giới, tự doanh và bảo lãnh phát hành.
Cũng như những thị trường mới nổi, Malaysia có các quy định hạn chế sự tham gia của
nước ngoài. Công ty chứng khoán nước ngoài chỉ được phép tham gia kinh doanh chứng
khoán dưới hình thức liên doanh với công ty chứng khoán trong nước. Tỷ lệ góp vốn của
phía nước ngoài lúc đầu là 30%, sau đó là 49%. Do thị trường và quản lý còn nhiều bất cập
nên trên thực tế chưa có công ty liên doanh nào nâng mức góp vốn trên 30%.
c. Mô hình Trung Quốc
Các công ty chứng khoán Trung Quốc là công ty TNHH hoặc công ty cổ phần được
thành lập theo luật công ty. Các công ty chứng khoán được thành lập theo chế độ cấp phép.
Cơ quan quản lý Nhà nước đảm nhiệm việc cấp phép là cơ quan giám quản chứng khoán
thuộc Quốc vụ viện.
Các nghiệp vụ kinh doanh chính gồm: môi giới, bảo lãnh phát hành, tự doanh. Công ty
chứng khoán gồm 2 loại: công ty môi giới chỉ thực hiện chức năng môi giới, công ty chứng
khoán đa năng thực hiện đồng thời 3 nghiệp vụ.
Điều kiện thành lập công ty đa năng và công ty môi giới chứng khoán:
+ Về vốn: đối với công ty đa năng, vốn điều lệ tối thiểu là 500 triệu Nhân dân tệ, công ty
môi giới là 50 triệu Nhân dân tệ
+ Những người điều hành và nhân viên nghiệp vụ phải có giấy phép hành nghề chứng
khoán.
+ Phải có địa điểm kinh doanh cố định và thiết bị giao dịch đủ tiêu chuẩn.
+ Có chế độ quản lý hoàn chỉnh và có hệ thống kiểm tra nội bộ hoạt động tự doanh và
môi giới chứng khoán hợp lý.
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.
Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán ở một số nước trên Thế giới có thể thấy
sự thành lập, phát triển của các công ty chứng khoán gắn liền với sự hình thành, phát triển

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />của thị trường chứng khoán. Nó là một quá trình lâu dài. Ở Việt Nam, thị trường chứng
khoán có nét đặc thù riêng, nó được hình thành và phát triển theo định hướng của Nhà
nước. Do vậy, quá trình thành lập, hoạt động của các công ty chứng khoán cũng mang
những đặc điểm riêng.
2.1. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán.
2.1.1. Mục tiêu hoạt động của các công ty chứng khoán.
Trong 2-3 năm đầu, các công ty chứng khoán thuộc các ngân hàng chưa đặt vấn đề
nguồn thu lớn từ TTCK. Thị trường mới thành lập, quy mô nhỏ. Vì vậy, mục tiêu trước mắt
là tìm hiểu, thăm dò thị trường, tạo lập quan hệ khách hàng, bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ
và tích luỹ kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ nhân viên. Trên cơ sở đó, xúc tiến, triển khai
các phương án kinh doanh một cách hoàn chỉnh. Để thực hiện điều này các công ty đã tiến
hành một số biện pháp như:
* Nắm bắt mọi động thái xu hướng phát triển, vận động của thị trường để đánh giá và
đúc rút những kinh nghiệm cần thiết ban đầu.
* Triển khai một số nghiệp vụ thí điểm có chọn lọc để tập dượt và đúc rút những kinh
nghiệm kinh doanh.
* Bảo toàn vốn tích cực.
* Xúc tiến các hoạt động quảng cáo, tiếp thị tạo lập quan hệ với khách hàng tiền năng.
Trong thời gian đầu các công ty chứng khoán chuyên doanh vẫn chưa đặt mục tiêu lợi
nhuận lên hàng đầu. Trước mắt các công ty này tham gia thị trường một cách thận trọng,
lần lượt triển khai các nghiệp vụ với mục đích làm quen với các hoạt động kinh doanh
chứng khoán. Từ đó rút ra những kinh nghiệm kinh doanh cần thiết ban đầu. Họ đặt mục
tiêu bảo toàn vốn, cắt giảm các chi phí không cần thiết, duy trì hoạt động động kinh doanh
thật vững sau đó mới mở rộng và phát triển thị trường.
2.1.2. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu phát triển TTCK, vì quy mô thị trường còn nhỏ nên số
lượng các công ty chứng khoán hiện nay còn ít. Điều này là phù hợp nhằm giảm sự cạnh
tranh gay gắt trong bối cảnh chi phí ban đầu của các công ty khi mới thành lập là rất lớn mà

thu nhập còn nhỏ, chưa đủ khả năng bù đắp chi phí. Ngoài ra, để đảm bảo nguyên tắc xây
dựng thị trường chứng khoán hiệu quả và an toàn ngay từ giai đoạn đầu, hiện nay chúng ta
đã chọn ra các công ty có quy mô lớn và chất lượng cao tham gia hoạt động kinh doanh

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />chứng khoán để giảm thiểu rủi ro. Khi thị trường đã phát triển hiệu quả, quy mô và dung
lượng thị trường đã lớn, số lượng công ty chứng khoán có thể sẽ tăng lên để đáp ứng nhu
cầu thị trường. Hiện nay có 07 công ty chứng khoán đã thành lập và đi vào hoạt động.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Bảng 1: Danh sách các công ty chứng khoán.
Số thứ
tự

Tên công ty

Vốn
ĐL (tỷ
VNĐ)

01

CTCPCK Bảo 43
Việt

02

CTTNHHCK-


50

NHĐT và PT
Việt Nam

03

CTCPCK- Sài 06

Các HĐ nghiệp
vụ

CTCPCK-Đệ

43

Nhất

GP Số NV

HĐKDCK

hành
nghề

- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành

- Tư vấn đầu tư CK
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- Tư vấn đầu tư CK
- Môi giới
- Tư vấn đầu tư C K

Gòn
04

Số

- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành

01/GPHĐKD
26/11/1999

02/GPHĐKD2
6/11/1999

03/GPHĐKD0
5/04/2000
04/GPHĐKD0
8/04/2000


12

08

08

09

- Tư vấn đầu tư

05

CTTNHHCK-

09

Thăng Long
06

CTTNHHCK-

43

ACB
07

CTTNHHCKNHCTVN

55


CK
- Môi giới
- Quản lý DMĐT
- Tư vấn đầu tư CK
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- Tư vấn đầu tư CK
- Môi giới
- Tự doanh
- Quản lý DMĐT
- Bảo lãnh phát hành
- Tư vấn đầu tư CK
- Lưu ký chứng khoán

05/GPHĐKD1
1/05/2000
06/GPHĐKD2
9/06/2000

07/GPHĐKD0
6/10/2000

07

03

20


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×