Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

C c ph ng h ng v gi i ph p n ng cao hi u qu ti u th h ng th c ng m ngh H T y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 63 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
và là website chia sẻ miễn phí luận văn, đồ
án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất cả
mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng góp của
quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu xin quý khách
gửi về
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Các phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ ở Hà
Tây

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
LỜI MỞ ĐẦU
Ngành nghề truyền thống Việt Nam nói chung, của Hà Tây nói riêng rất đa dạng và phong
phú, có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu đời, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ đời sống
con người, đồng thời chứa đựng những giá trị văn hoá nghệ thuật dân tộc phong phú. Mặc
dù trải qua những trình độ phát triển kinh tế khác nhau song các ngành nghề truyền thống
ấy luôn luôn tồn tại trong cuộc sống của mọi dân tộc Việt Nam.
Hà Tây bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH với những thuận lợi
là tỉnh có vị trí kinh tế đặc biệt, liền kề với thủ đô. Diện tích 2.193km 2, gồm 3 vùng đồng
bằng, trung du và miền núi, có tài nguyên khoáng sản, nhiều danh lam thắng cảnh như:
Chùa Thầy, chùa Hương,... dân số trên 2,4 triệu người, trong đó lực lượng lao động hơn 1
triệu người ở 322 xã, phường với tổng số 1460 thôn (làng) là tỉnh có nhiều tiềm năng về
nguồn nhân lực, đất đai và tài nguyên để phát triển ngành công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp và những ngành kinh tế khác.
Hà Tây cũng là đất có nhiều nghề và làng nghề thủ công cổ truyền nổi tiếng đã được giao
lưu giới thiệu rộng khắp trong và ngoài nước. Từ năm 1997 đến nay, đi theo đường lối của
Đảng và Nhà nước tình hình sản xuất và tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ đã phát triển vượt
bậc góp phần không nhỏ trong sự đi lên của ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của
tỉnh. Từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, tổng sản phẩm trong tỉnh tăng bình quân
hàng năm giai đoạn 1997-2001 là 7,3%.


Tuy nhiên tình hình tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt
là về thị trường tiêu thụ, cần phải có một hệ thống quản lý về tiêu thụ loại hàng hoá này. Từ
đó đề ra các chiến lược, sách lược để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thực sự là một ngành
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tỉnh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đi lên.
Với những khó khăn về mặt hàng thủ công mỹ nghệ như vậy, trong Luận văn tốt nghiệp
này em xin trình bày đề tài: "Nâng cao hiệu quả tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ ở Hà Tây Các phương hướng và giải pháp" để góp một phần công sức nhỏ bé của mình trong việc
phát triển các mặt hàng truyền thống và ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tỉnh.
Mục tiêu của Luận văn tốt nghiệp này là đưa ra tình hình tiêu thụ sản phẩm mỹ nghệ của
tỉnh, đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển
của mặt hàng này để có phương hướng lựa chọn hay thay đổi sao cho phù hợp với tình hình
kinh tế của tỉnh cũng như phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Ở đây tuy chỉ nghiên cứu một nhóm mặt hàng song nó phân bố ở toàn tỉnh hơn nữa thời
gian nghiên cứu không nhiều và trình độ nhận thức cũng như kiến thức thực tế của em còn
nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự hướng dẫn
của các giáo viên hướng dẫn trong ngành.
Nội dung đề tài:
Lời mở đầu
Phần I: Giới thiệu chung về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Hà Tây.
Phần II: Phân tích thống kê tình hình tiêu thụ hàng mỹ nghệ của tỉnh từ 1997-2001
Phần III: Các phương hướng và giải pháp
Kết luận và kiến nghị.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
PHẦN I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG

THỦ CÔNG MỸ NGHỆ Ở HÀ TÂY

I.

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ

1.

Khái niệm hàng thủ công mỹ nghệ

Hàng thủ công mỹ nghệ là các mặt hàng thuộc ngành nghề truyền thống, được sản xuất ra
bởi các nghệ nhân và thợ thủ công, được truyền từ đời này qua đời khác. Các sản phẩm này
thường rất tinh xảo và độc đáo.
Từ những nguyên liệu như: gỗ, vỏ trai, vỏ ốc,... được những nghệ nhân khéo léo tạo ra sản
phẩm mỹ nghệ mang đậm bản sắc dân tộc. Các sản phẩm mỹ nghệ như: tủ thờ, tủ đứng, sập
gụ, bộ bàn ghế, tất cả đều có kiểu rất cổ trên đó có những đường nét hoa văn mềm mại,
uyển chuyển. Hàng thủ công mỹ nghệ chứa đựng các yếu tố văn hoá một cách đậm nét vì
chúng là sản phẩm truyền thống của dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá riêng và
có cách thể hiện riêng qua hình thái, sắc thái sản phẩm. Chính điểm này đã tạo nên sự độc
đáo, khác biệt giữa các sản phẩm có cùng chất liệu ở các quốc gia khác nhau.
Nhìn chung các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều thể hiện mảng đời sống hiện thực, văn
hoá tinh thần với sắc màu đa dạng hoà quyện, mang tính nghệ thuật đặc sắc. Do đó chúng
không chỉ là những vật phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng trong cuộc sống hàng ngày mà còn
là những sản phẩm phục vụ đời sống tinh thần đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của các dân tộc.
Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được tạo ra nhờ sự khéo léo của các thợ thủ công, sản
xuất bằng tay là chủ yếu nên các sản phẩm có chất lượng không đều, khó tiêu chuẩn hoá.
- Với sự phát triển của cuộc sống, nhu cầu về sản phẩm thủ công mỹ nghệ ngày càng cao.
Mặc dù khoa học công nghệ cho phép sản xuất ra nhiều sản phẩm đa dạng, phong phú và
đẹp nhưng các sản phẩm này thường được sản xuất hàng loạt, mang tính đồng nhất, chính
xác đến từng chi tiết nên biểu cảm tính nghệ thuật cao. Bởi vậy các sản phẩm thủ công mỹ

nghệ dù tinh xảo hay mộc mạc đều khẳng định được chỗ đứng trong đời sống con người.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Ở Việt Nam, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ gần đây đang khởi sắc do nhu cầu tiêu dùng
trong nước và cho xuất khẩu đều tăng lên. Cùng với sự mở rộng giao lưu văn hoá, kinh tế
giữa các nước trên thế giới, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường
nhiều nước Châu Âu, Đông Á, Mỹ và Nam Mỹ. Do vậy, quan tâm và có chính sách thoả
đáng phát triển các ngành nghề này, mở rộng thị trường xuất khẩu là thiết thực bảo tồn và
phát triển một trong những di sản văn hoá quý giá của dân tộc Việt Nam ta. Bên cạnh ý
nghĩa góp phần truyền bá, giới thiệu văn hoá truyền thống ra thế giới, việc đẩy mạnh xuất
khẩu mặt hàng này còn góp phần tạo ra một lượng lớn công ăn viẹc làm, giải quyết tình
trạng dư thừa lao động, nhất là ở nông thôn trong thời gian nông nhàn, giúp họ có thêm thu
nhập góp phần xoá đói giảm nghèo.
- Đối với tỉnh Hà Tây, việc phát triển thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ không chỉ mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho các lao động trong nghề mà còn có ý
nghĩa kinh tế - xã hội to lớn cho tỉnh đó là giải quyết công ăn việc làm, tăng ngân sách
tỉnh,...
- Tuy nhiên với sản phẩm ngày càng nhiều, nhu cầu của khách hàng đòi hỏi ngày càng cao
thì việc thay đổi mẫu mã, chất lượng là việc làm cực kỳ quan trọng để sản phẩm có được
chỗ đứng trên thị trường.
2.

Các hình thức tổ chức sản xuất.

2.1. Hộ gia đình.
Có 2 loại hộ gia đình sản xuất.
- Hộ chuyên làm ngành nghề tiểu thủ công nghiệp.
- Hộ gia đình kiêm nghiệp (tức là còn một nghề khác, thường là nghề nông).
Hình thức này tận dụng được mọi lao động trong gia đình từ cụ già đến trẻ em đều có thể

làm được, để tổ chức sản xuất và quản lý cho phù hợp với trình độ của người thợ thủ công
hiện nay. Nó làm cho người thợ dễ nhận ra kết quả và có thể tính toán được hiệu quả của
sản xuất hàng ngày. Vì là sản phẩm của gia đình mình, nó ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế
của gia đình nên những người thợ bao giờ cũng cố gắng để có nhiều sản phẩm và chất
lượng cao. Hình thức này còn huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân (qua
hình thức đi vay), tận dụng được mặt bằng sản xuất.
Tuy nhiên, sản xuất theo hộ gia đình cũng có những hạn chế của nó. Mỗi gia đình không đủ
sức để nhận những hợp đồng lớn, không đủ mạnh để cải tiến mẫu mã sản phẩm, không đủ
vốn cho đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại và không đủ tầm nhìn để định hướng phát
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />triển nghề nghiệp ở tầm xa hơn. Lối đào tạo theo nghề truyền thống ở hình thức này cũng
có giới hạn ở người học việc, không đủ kiến thức văn hoá, kỹ thuật và xã hội để tiếp cận
với khoa học kỹ thuật tiên tiến, không đủ khả năng tính toán trước thị trường tiêu thụ.
Ngày nay hộ gia đình là hình thức sản xuất phát triển nhanh với số lượng đông đảo và đa
dạng có xu hướng phát triển cả về chất lượng và số lượng.
2.2. Doanh nghiệp tư nhân.
Đây là một dạng hộ ngành nghề phát triển trở thành tiểu thủ, do chủ gia đình có một trong
những điều kiện: có tay nghề cao, có vốn, có năng lực kinh doanh bỏ vốn mua nguyên vật
liệu, thuê nhân công sản xuất tập trung hoặc làm gia công phần lớn ở từng hộ gia đình, sau
đó tập trung sản phẩm tìm mối hàng tiêu thụ.
2.3. Tổ hợp sản xuất
- Đây là tổ chức của 1 số hộ gia đình cùng nghề tập hợp lại, hùn vốn để mua nguyên liệu
đưa về từng hộ tự sản xuất hoặc sản xuất tập trung. Sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản
phẩm được gom về và cử người đi bán.
- Hình thức này làm tăng thêm sức mạnh cho từng thành viên để phát triển sản xuất, phát
triển khả năng kinh doanh, khắc phục được phần nào những hạn chế về vốn mà hình thức
hộ gia đình gặp phải. Hiện nay, hình thức này cũng đang phát triển và rất thịnh hành trong
làng nghề truyền thống.
- Tuy nhiên nó cũng có giới hạn riêng đó là trong tổ sản xuất thì hộ gia đình vẫn là hình

thức cơ bản, họ vẫn phải tự chịu trách nhiệm toàn bộ công việc sản xuất kinh doanh của
mình trước những biến động của thị trường.
2.4. Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Là công ty do các cổ đông góp vốn cổ phần sản xuất kinh doanh một hoặc nhiều mặt hàng
tiểu thủ công nghiệp.
- Hình thức này là hạt nhân mà các vệ tinh xung quanh nó là các hình thức khác. Nó là
động lực mạnh thúc đẩy làng nghề truyền thống thành các "phố làng", tạo điều kiện cho các
thị trấn, thị tứ ra đời. Tuy nhiên nó có hạn chế về vốn đối với các hộ muốn tham gia.
2.5. Hợp tác xã
- Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, cơ khí, xây dựng, vận tải, dịch vụ kinh tế kỹ thuật.
- Thời kế hoạch hoá tập trung, hợp tác xã là hình thức phổ biến trong các làng nghề.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Trước hết, hợp tác xã tập hợp được năng lực của cả làng nghề, đứng ra nhận những hợp
đồng gia công lớn, đem lại việc làm cho các gia đình trong làng. Bằng nguồn vốn góp và
vốn vay, hợp tác xã có khả năng trang bị kỹ thuật mới; cải tiến công nghệ.
- Nhiều nơi hợp tác xã đứng ra tổ chức đào tạo thợ, trong đó có nhiều người được cử đi học
thành cán bộ kỹ thuật cao, điều mà từng hộ gia đình không thể làm được.
- Một số hợp tác xã sử dụng quĩ chung để đãi ngộ nghệ nhân, lập phòng truyền thống, sưu
tầm tư liệu góp phần trực tiếp giữ gìn và phát triển nghề truyền thống.
- Bên cạnh những mặt được nêu trên, hợp tác xã cũng có những nhược điểm của nó. Chẳng
hạn như vai trò của nghệ nhân, thợ giỏi vốn là người chủ sản xuất của gia đình, là hạt nhân
để duy trì nghề nghiệp và gìn giữ truyền thống lại không được coi trọng trong hợp tác xã.
Ban quản trị hiếm khi là người giỏi nghề, do đó nhiều làng nghề không giữ được các kỹ
thuật truyền thống, chất lượng sản phẩm không tương xứng với truyền thống.
- Khi chuyển sang kinh tế thị trường, mô hình HTX chỉ còn lại rất ít trong các làng nghề.
Những HTX còn tồn tại được là do biết chuyển đổi phương thức hoạt động phù hợp với cơ
chế mới thì hoạt động rất tốt, hiệu quả rất cao. Hình thức HTX mới này lấy hộ sản xuất là
chính, do đó hoạt động của các làng nghề truyền thống có hiệu quả hơn. Như bất kỳ một

hoạt động kinh doanh nào, mối hình thức tổ chức kinh doanh trong các làng nghề đều có
những mặt tích cực và hạn chế nhất định với hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề.
3.

Tình hình tiêu thụ sản phẩm.

Trong những năm qua cùng với sự đi lên của các làng nghề, nhiều sản phẩm mỹ nghệ được
sản xuất ra, cùng với sự mở rộng của các thị trường tiêu thụ, tình hình tiêu thụ sản phẩm
mỹ nghệ của tỉnh đã phát triển đáng kể.
Sản phẩm chủ yếu được tiêu thụ ngay địa phương và rộng hơn là các thành phố trong nước,
đặc biệt là ở Hà Nội. Một số có chất lượng cao được đưa đi xuất khẩu sang các nước trên
thế giới.
Nhìn chung thị trường trong nước cũng như xuất khẩu chưa ổn định. Trong các sản phẩm
rất ít mặt hàng tạo ra được ưu thế cạnh tranh với nước ngoài. Giá hàng xuất khẩu chưa cao
và thu nhập do người lao động trực tiếp ở ngành nghề thu được còn thấp trong khi lưu
thông hưởng tỷ lệ cao nên chưa khuyến khích người lao động trực tiếp sản xuất.
Từ năm 1997 đến nay giá trị sản xuất của mặt hàng thủ công mỹ nghệ ngày một tăng qua
các năm, cụ thể qua bảng sau:
Bảng 1:

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Năm
Giá trị sản xuất
(triệu đồng)

1997

1998


1999

2000

2001

10.070

22.118

38.210

77.024

91.565,25

Với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện nay đời sống người dân nhất là ở các thành thị sẽ
tăng nhanh, yêu cầu chất lượng, cùng với sức ép cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp
thành thị làm ra và hàng ngoại nhập, nhập lậu thì các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của tỉnh
có nguy cơ bị thu hẹp thị trường. Vì vậy cần phải có chiến lược thị trường và chiến lược
sản phẩm cho các làng nghề, cơ sở sản xuất, doanh nghiệp sản xuất tồn tại và phát triển.
Đây không phải là vấn đề đặt ra cho các đơn vị sản xuất mà là vấn đề chung của các ngành,
các cấp, các tổ chức của tỉnh Hà Tây nói riêng và cả nước nói chung trong sự nghiệp CNHHĐH nông thôn.
II.

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC NÂNG CAO XUẤT KHẨU HÀNG THỦ

CÔNG MỸ NGHỆ.
1.


Các yếu tố khách quan.

Các yếu tố khách quan là các yếu tố bên ngoài cơ sở sản xuất như khách hàng, đối thủ cạnh
tranh, luật pháp, chính trị,... và cơ sở không thể điều khiển chúng theo ý của mình. Cơ sở
chỉ có thể cố gắng thích ứng một cách tốt nhất với xu hướng vận động của chúng. Nếu
không đơn vị sản xuất không những không phát triển được thị trường, nâng cao vị thế của
mình mà còn có thể bị mất thị phần hiện tại hoặc bị đào thải khỏi thị trường.
1.1. Khách hàng và các yếu tố thuộc về văn hoá - xã hội
- Đây là yếu tố đầu tiên và cũng là yếu tố quyết định đến khả năng tiêu thụ hàng hoá nói
chung và mặt hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng.
- Như ta đã biết các sản phẩm thủ công mỹ nghệ không chỉ là những sản phẩm phục vụ cho
tiêu dùng thông thường mà còn có tính nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của người
tiêu dùng. Chính vì vậy đời sống được nâng cao lên kéo theo sự tăng nhu cầu về các sản
phẩm này. Ở những nơi có nền kinh tế phát triển như: Châu Âu, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc,...
nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ khá lớn.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Khả năng tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn tăng lên nhất là khi người tiêu dùng
đang có xu hướng bảo vệ thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên thông qua việc sử dụng các
sản phẩm được làm từ chất liệu tự nhiên như các đồ dùng mây, tre, cói, đang thay cho các
sản phẩm từ plastic, thuỷ tinh, sợi nhân tạo.
Nhu cầu nói chung về các mặt hàng này có xu hướng tăng lên, tuy nhiên khi dự định đẩy
mạnh tiêu thụ ở thị trường nào cần phải xem xét các yếu tố văn hoá - xã hội của thị trường
đó.
Trước hết cần xem xét đến yếu tố truyền thống, tập quán sử dụng hàng hoá của thị trường
đó. Chính những tập quán sử dụng này sẽ là gợi ý nên kinh doanh mặt hàng nào ở thị
trường nào.
Ngoài ra cũng cần chú ý đến qui mô dân số của thị trường tiêu thụ vì nó sẽ ảnh hưởng đến
số lượng sản phẩm có thể tiêu thụ được. Thông thường quy mô dân số càng lớn thì khả

năng tiêu thụ càng lớn và ngược lại. Khả năng tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ cũng phụ
thuộc vào thu nhập, mức sống và địa vị xã hội của người tiêu dùng. Tuỳ theo khả năng tài
chính, vị trí xã hội của mình mà người tiêu dùng lựa chọn loại sản phẩm với chất lượng, giá
cả hợp với mình. Những người có thu nhập cao, có địa vị thường chọn những sản phẩm
quý, thật độc đáo.
Như vậy, tiềm năng để phát triển thị trường tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ là không nhỏ
tuy nhiên để khai thác được tiềm năng đó, các doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp sản
xuất,... còn phải chú ý đến nhiều khía cạnh khác.
1.2. Môi trường cạnh tranh.
- Sự cạnh tranh diễn ra với các sản phẩm công nghiệp có cùng công dụng: đó là sự cạnh
tranh giữa các sản phẩm với nhau để cùng thoả mãn một mong muốn. Các sản phẩm công
nghiệp do được sản xuất bằng máy móc, thiết bị sản xuất hàng loạt nên có chất lượng đồng
đều, tốt, giá thành lại rẻ, kiểm dáng cũng đa dạng. Do đó cạnh tranh với sản phẩm công
nghiệp, các sản phẩm thủ công thường lấy các truyền thống để cạnh tranh với các hiện đại.
Hầu hết các quốc gia đều có những ngành nghề thủ công truyền thống, trong đó phổ biến là
nghề gốm, đan lát, dệt, đúc tạc,... Tuy nhiên các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các quốc
gia có sự khác biệt dù chúng cũng thuộc một ngành. Sự khác biệt này xuất phát từ các quan
niệm nhân sinh quan, các tư tưởng, phong tục tập quán khác nhau giữa các dân tộc. Vì vậy
trên thị trường quốc tế sự cạnh tranh giữa các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đến từ các quốc
gia khác nhau là sự cạnh tranh về sự độc đáo, về văn hoá biểu hiện qua sản phẩm.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Ngoài ra khi xuất khẩu sang một thị trường, sản phẩm cần phải cạnh tranh với chính sản
phẩm cùng một nước xuất sang và sản phẩm của một số nước cũng xuất sang. Khi đó, sự
cạnh tranh diễn ra ở cấp độ gay gắt hơn và các cơ sở sản xuất phải sử dụng các biện pháp
cạnh tranh bằng chất lượng, giá cả.
Tuỳ theo số lượng đối thủ trên thị trường mà người ta xác định mức độ khốc liệt của cạnh
tranh. Cạnh tranh ngày càng gay gắt, khả năng chiếm lĩnh phát triển thị trường càng trở nên
khó khăn. Cho nên cần xác định trang thái cạnh tranh trên thị trường là cạnh tranh tuần tuý,
hỗn hợp hay cạnh tranh độc quyền để xác định vị thế của mình và của các đối thủ. Từ đó

tính chất, độ đa dạng, giá cả của sản phẩm cũng như quy mô khối lượng cung ứng ra thị
trường sẽ được quyết định.
1.3. Môi trường chính trị luật pháp, kinh tế, địa lý.
Yếu tố chính trị có ảnh hưởng ngày càng lớn đến việc xuất nhập khẩu bất kỳ một loại hàng
hoá nào. Môi trường chính trị trong nước cũng như thị trường xuất khẩu ổn định là điều
kiện thuận lợi để doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tiến hành các hoạt động kinh doanh của
mình. Bên cạnh đó yếu tố luật pháp cũng như các quy định của Chính phủ là yếu tố mà các
đơn vị phải tuân theo nên nó chi phối nhiều tới khả năng mở rộng thị trường. Chẳng hạn
việc quy định hạn chế khai thác gỗ sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất kinh doanh cũng như xuất khẩu các mặt hàng làm từ gỗ, cụ thể một số sản phẩm của
ngành thủ công mỹ nghệ.
1.4. Môi trường kinh tế.
Các yếu tố tốc độ phát triển kinh tế, tình hình lạm phát, sự ổn định tỷ giá, hệ thống thuế
thuộc môi trường kinh tế là các yếu tố chủ yếu tác động đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Nền kinh tế của quốc gia đó tăng trưởng hay giảm sút sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân, thể hiện ở thu nhập lao động, điểm này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến tình hình tiêu thụ sản phẩm.
2.

Các yếu tố chủ quan.

Đây là các yếu tố thuộc về tiềm lực của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất mà có thể kiểm soát ở
mức độ nào đó như: yếu tố tài chính (vốn đầu tư), con người (lao động), trình độ khoa học
kỹ thuật,... Việc khai thác các tiềm lực này thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào các
tiềm lực này ở thời điểm hiện tại và trong tương lai.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Ý chí tư tưởng của Ban lãnh đạo.
Trước hết là ý tưởng sản xuất đó là mục tiêu của Ban lãnh đạo tỉnh và sự kiên định theo
đuổi các mục tiêu về sản phẩm mỹ nghệ. Sau đó là sự lựa chọn các thị trường tiêu thụ. Khả

năng kinh doanh ở mỗi thị trường có độ may rủi cao, thấp khác nhau và mỗi nhà lãnh đạo
có thể chấp nhận may rủi ở những mức độ khác nhau và điều này ảnh hưởng đến quyết
định lựa chọn cơ hội.
- Yếu tố tài chính: là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến khả năng phát triển của các
mặt hàng thủ công. Tuy nhiên không phải ở đâu cũng có đầy đủ vốn để đầu tư. Vì vậy cần
tận dụng tối đa khả năng của đồng vốn, biết cách huy động vốn nhàn rỗi để nâng cao khả
năng sử dụng vốn ở tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh trong tỉnh.
Ngoài những yếu tố trên thì chất lượng của sản phẩm là yếu tố hàng đầu, vì đây là đối
tượng được trực tiếp tiêu dùng. Để mở rộng được thị trường của mình, các sản phẩm trước
hết phải có chất lượng, kiểu dáng phù hợp với thị hiếu nhu cầu của khách hàng, phải luôn
không ngừng cải tiến các sản phẩm của mình, cạnh tranh với các đối thủ bằng chất lượng
và sự đa dạng của sản phẩm.
Trên thị trường thế giới do số lượng người cung ứng nhiều trong khi cầu về mặt hàng này
lại có phần hạn chế nên cạnh tranh bằng giá cả diễn ra khá gay gắt. Để duy trì và tiếp tục
phát triển thị trường thì cơ sở sản xuất, doanh nghiệp phải tìm cách giảm các chi phí đầu
vào, hạ giá thành sản phẩm hay liên kết giữa các doanh nghiệp, cơ sở để có sự cạnh tranh
mạnh hơn.
Bên cạnh đó yếu tố con người (tiềm lực vô hình) có vai trò hết sức quan trọng. Các "tiềm
lực vô hình" ở đây là nói đến những người lãnh đạo, quản lý trong cơ sở, doanh nghiệp. Là
con người nhạy bén, hiểu biết sâu rộng, có kinh nghiệm sẽ có những kế hoạch, lựa chọn thị
trường tiêu thụ đúng đắn, và họ cũng là những người trực tiếp tìm ra những đầu mối tiêu
thụ cho sản phẩm.
III.

PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LÀ TẤT YẾU KHÁCH QUAN.

1.

Sự cần thiết của việc phát triển thị trường xuất khẩu.


1.1. Khái niệm phát triển thị trường:
Trong cơ chế thị trường có biết bao doanh nghiệp, cơ sở có cùng hướng phục vụ một nhóm
khách hàng về một số sản phẩm của mình. Sản phẩm của tỉnh thường chiếm một thị phần
nhất định trong thị trường tương ứng với lượng khách hàng và thị phần này luôn luôn biến

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />đổi. Để đảm bảo cho việc phát triển vững chắc cần quan tâm đến việc mở rộng thị trường
tức là giữ được thị phần đã có và xâm nhập, phát triển thị trường mới.
Phát triển thị trường là việc khai thác tốt thị trường hiện tại, đưa những sản phẩm hiện tại
vào tiêu thụ ở những thị trường mới và nghiên cứu, dự đoán thị trường rồi đưa ra những
sản phẩm mới đáp ứng được cả nhu cầu của cả thị trường hiện tại lẫn thị trường tiềm năng
mà doanh nghiệp, cơ sở sản xuất muốn xâm nhập.
1.2. Sự cần thiết của việc phát triển thị trường
Nền kinh tế thị trường hết sức năng động và khốc liệt. Các doanh nghiệp bị cuốn trong
vòng quay không ngừng của sự phát triển, nơi ở đó bất cứ một doanh nghiệp nào không
theo kịp sự thay đổi của thị trường đều có thể bị đào thải. Vì vậy các doanh nghiệp không
thể dừng lại hay bằng lòng với thành quả hiện tại. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay
gắt, doanh nghiệp để có thể tồn tại được thì phải cố gắng tiết kiệm các yếu tố đầu vào, khai
thác triệt để các nguồn thu, tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh hấp dẫn mà thị trường
đem lại. Và việc phát triển thị trường là một yếu tố quan trọng để đáp ứng được đòi hỏi
vươn lên trong cạnh tranh.
Trong nhiều trường hợp như cạnh tranh trong nước quá gay gắt hoặc nhu cầu nội địa quá
nhỏ bé thì việc cung ứng các sản phẩm ra thị trường quốc tế có thể thu được hiệu quả hơn.
Phát triển thị trường xuất khẩu sẽ đem lại những khả năng khai thác lợi thế so sánh, lợi
dụng các cơ hội hấp dẫn trên thị trường.
Phần thị trường có ảnh hưởng tích cực đến mức lợi nhuận, thị trường càng lớn thì khả năng
tiêu thụ càng cao và lợi nhuận sẽ tăng lên. Do vậy việc phát triển thị trường sẽ tạo điều kiện
nâng cao lợi nhuận cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.
Trong thực tế, tiềm năng của mỗi thị trường không phải là vô hạn ngay cả khi qui mô dân

số là rất lớn vì nhu cầu luôn thay đổi. Bởi vậy sau một thời gian cung ứng sản phẩm nếu
doanh nghiệp không có thay đổi gì về sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến,... thì thị phần
của họ chắc chắn sẽ giảm xuống, cho nên phát triển thị trường sẽ tạo ra vị thế ngày càng ổn
định hơn, tạo điều kiện cho sự phát triển lâu bền trong tương lai.
Phát triển là quy luật của mọi hiện tượng kinh tế - xã hội. Chỉ có phát triển thì doanh
nghiệp mới tồn tại vững chắc, phù hợp với xu thế chung của thời đại và phát triển thị
trường chính là mục tiêu, chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự phát triển của các doanh nghiệp cơ
sở sản xuất.
Đối với Hà Tây, việc phát triển các làng nghề truyền thống đã tạo ra một số lượng sản
phẩm mỹ nghệ ngày càng lớn, mà thị trường tiêu thụ trong nước không cao và cũng không
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />ổn định. Vì vậy việc phát triển thị trường hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh là tất yếu khách
quan và đã được UBND tỉnh rất quan tâm trong những cuộc họp về phát triển kinh tế - xã
hội ở nông thôn.
2.

Nội dung phát triển thị trường xuất khẩu:

2.1. Phát triển thị trường theo chiều rộng:
Phát triển thị trường theo chiều rộng tức là cố gắng mở rộng phạm vi thị trường, tạo ra
được những khách hàng mới.
Xét về mặt địa lý: Phát triển thị trường theo chiều rộng chính là tăng cường sự hiện diện
của sản phẩm tại các địa bàn mới. Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đưa các sản phẩm của
mình sang các quốc gia khác, châu lục khác để tăng thêm lượng khách hàng mới và tăng
giá trị xuất khẩu.
- Xét về mặt sản phẩm. Đây là hình thức tìm ra những tác dụng phụ của sản phẩm nhằm
mở rộng thêm lượng khách tiêu thụ.
- Xét về mặt khách hàng. Đó là việc khuyến khích, thu hút các khách hàng mới có nhu cầu
mong muốn được thoả mãn bằng những sản phẩm giống như sản phẩm đã cung ứng. Việc

khách hàng mới có tiếp tục quan hệ với mình hay không phụ thuộc rất nhiều vào mức độ
thoả mãn những lô hàng đầu tiên. Cho nên phải tạo một ấn tượng tốt về lô sản phẩm đầu
tiên này.
2.2. Phát triển theo chiều sâu.
Là việc cố gắng bán thêm những sản phẩm của mình vào thị trường hiện tại. Sử dụng
hường này là để nhằm nâng cao vị thế của sản phẩm trên thị trường hiện tại trong khi tiềm
năng của thị trường vẫn còn rộng lớn, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm có thể tăng cao.
Xét dưới góc độ sản phẩm. Phát triển thị trường theo chiều sâu là việc khai thác tối đa khả
năng tiêu thụ sản phẩm hiện tại. Tuy nhiên để tăng thị phần của mình cần phải cải tiến sản
phẩm, đưa ra những sản phẩm mới dựa trên sản phẩm hiện có. Việc nâng cao chất lượng
hàng hoá sẽ làm tăng độ tin cậy của khách hàng đối với sản phẩm, khi đó sẽ thu hút được
khách hàng mới. Việc cải tiến kiểu dáng, thay đổi màu sắc, hình dáng sản phẩm hoặc phát
triển thêm mẫu mã, kích thước sản phẩm khác nhau cũng sẽ giúp cho khách hàng có thêm
cơ hội lựa chọn và vừa ý hơn với sự lựa chọn của mình.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />2.3. Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
Đa dạng hoá xuất khẩu là việc cung ứng thêm những sản phẩm mới hoàn toàn khác hoặc có
liên quan đến các sản phẩm hiện tại về mặt công nghệ cho những khách hàng, mục tiêu
mới.
Đa dạng hoá xuất khẩu là để tăng vị thế của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và cũng là để
tăng lượng cầu hướng về sản phẩm của mình.
IV.

ẢNH HƯỞNG CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MỸ NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN

KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH.
1.


Hình thành loại hoạt động sản xuất có tính chất công nghệ

tại

nông thôn.
Bất kể hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều nhằm mục đích lợi nhuận và hoạt động
sản xuất kinh doanh của các làng nghề thủ công cũng không nằm ngoài mục đích đó. Để
đạt được mục đích thì khi hoạt động sản xuất kinh doanh các cơ sở sản xuất phải:
+ Áp dụng việc tổ chức sản xuất một cách có khoa học dựa trên sự phân công lao động phù
hợp với từng công đoạn trong cả quá trình.
+ Từng bước trang bị thiết bị mới hiện đại thay thế một phần lao động thủ công với qui
trình công nghệ mới (dùng các loại máy để tạo dáng cho sản phẩm).
Như vậy sự phát triển của các làng nghề thủ công cũng là sự phát triển công nghiệp trên địa
bàn nông thôn, làm cho nông thôn phát triển theo hướng CNH-HĐH, phù hợp với mục tiêu
phát triển của Đảng và Nhà nước.
2.

Giải quyết việc làm tại chỗ.

Hà Tây là một tỉnh nông nghiệp với 90,5% dân số sống ở nông thôn đồng thời cũng là tỉnh
có dân số khá đông bởi vậy bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người thấp, công việc
nhà nông lại mang tính thời vụ cho nên có nhiều lao động dư thừa.
Việc phát triển xuất khẩu hàng mỹ nghệ sẽ có nhu cầu về sản phẩm tăng lên, từ đó nhu cầu
về lao động cũng tăng và thu hút được số lao động dư thừa này, tạo công ăn việc làm cho
họ trong lúc nông nhàn.
Bên cạnh đó nhiều nơi còn hình thành chợ lao động, là nơi cung cấp lao động cho đầu vào
và đầu ra trong quá trình sản xuất đó là: khai thác, vận chuyển cung cấp nguyên vật liệu,
vật tư, lưu thông tiêu thụ sản phẩm,...
Số lao động trong nghề từ năm 1997 đến nay tăng lên như sau:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Bảng 2:
Năm

1997

1998

1999

2000

2001

14.050

14.103

14.305

15.680

16.050

Chỉ tiêu
Lao động (người)

Như vậy từ năm 1997 đến năm 2001 đã thu hút được 2.000 lao động vào làm nghề (đây là ngành có
sản phẩm ở trình độ cao nên con số 2.000 lao động là không nhỏ).
Tóm lại: Các làng nghề mỹ nghệ phát triển đóng vai trò tích cực, nổi bật trong quá trình

trấn hưng nền kinh tế, như một quá trình chính trong việc CNH-HĐH nông thôn. Ở đâu có
các cơ sở sản xuất thì ở đó giải quyết tốt việc làm cho lao động nông nhàn và còn thu hút
được lao động ở các vùng khác tới; đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động trong nông thôn theo hướng tỷ trọng giá trị CN-TCN và dịch vụ tăng lên (ngành
thủ công mỹ nghệ nằm trong ngành CN-TCN). Biểu hiện qua bảng sau:
Bảng 3: Tỷ trọng Giá trị sản xuất các ngành trong các làng nghề thủ công
Năm

1998

1999

2000

2001

CN-TCN

60,48

62,6

62,31

62,5

NN

27,7


24,82

24,2

24

Dịch vụ

11,82

12,58

13,49

13,5

Chỉ tiêu

Biểu đồ 1: Biểu đồ tỷ trọng giá trị sản xuất trong các làng nghề thủ công

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
3.

Tăng thu nhập cho người lao động

Thực tế cho thấy việc tăng cường xuất khẩu hàng mỹ nghệ đã làm cho kết quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tăng lên từ đó thu nhập của lao động cũng
tăng lên. Việc tiêu thụ sản phẩm ngày càng được quan tâm, phát triển thị trường xuất khẩu

sẽ làm cho sản phẩm không bị ứ đọng, tức đồng vốn được quay nhanh hơn sẽ là nhân tố
không những làm cho giá trị sản xuất tăng lên mà còn làm cho thị trường tiêu thụ được ổn
định, đó là cơ sở để có chiến lược lâu dài cho sản phẩm.
So với các nghề thủ công khác thì thủ công mỹ nghệ là nghề đem lại thu nhập rất cao (có
thời kỳ phát triển, làng nghề điêu khắc Thanh Tùng - Thanh Oai thu nhập của thợ lên tới
800.000đ/tháng). Tổng thu nhập của lao động có nghề mỹ nghệ năm 1997 là 7,769
triệu/năm/lao động và năm 2001 là 9,560 triệu/năm/lao động (tổng thu nhập ở đây là tính
cả thu nhập của nghề và các thu nhập khác như: nông nghiệp, buôn bán, dịch vụ,...).
Với thu nhập cao các làng nghề thủ công đã hình thành các trung tâm tiêu thụ sản phẩm
tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất và thị trường sức lao động.
4.

Phát triển thị trường xuất khẩu hàng mỹ nghệ là huy động được nguồn vốn nhàn rỗi

trong dân, tận dụng được mặt hàng sản xuất.
Hoạt động của các làng nghề truyền thống góp phần huy động tối đa và đẩy nhanh vòng
quay của vốn nhàn rỗi trong dân. Vốn trong dân chủ yếu dưới hình thức tiền mặt, vàng bạc

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />và đá quý. Lượng vốn nhàn rỗi này rất kho huy động bởi các hình thức thu hút vốn quy mô
lớn từ phía Nhà nước. Tuy nhiên vấn đề này bây giờ không ảnh hưởng nhiều bởi vì lãi suất
tiền gửi cả đồng nội tệ và ngoại tệ đều giảm mạnh trong thời gian qua. Nhưng do hoạt động
tự phát của làng nghề, mạnh ai nấy làm, ai có vốn lớn thì có thu nhập cao và hoạt động
kinh doanh mở rộng hơn. Bởi vậy, các cơ sở sản xuất sẵn sàng đưa hết nguồn vốn nhàn rỗi
của mình vào phục vụ sản xuất khi có thuận lợi.
Mặt khác, bình quân đất thổ cư của mỗi gia đình ở nông thôn còn tương đối cao so với các
làng nghề truyền thống chủ yếu mang tính gia truyền và gia đình do đó có thể tận dụng
được mặt bằng sản xuất nhà ở, sân, vườn, đất trống,... Nhờ thế vốn cố định ban đầu có thể
được giảm nhẹ, thuận lợi cho phát triển.

V.

PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU.

1.

Căn cứ vào mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với khách hàng.

- Thị trường xuất khẩu trực tiếp: là thị trường mà tại đó cơ sở sản xuấ, doanh nghiệp trực
tiếp tiến hành hoạt động xuất khẩu vào thị trường mà không phải qua các trung gian xuất
nhập khẩu.
- Thị trường xuất khẩu gián tiếp: xuất khẩu thông qua các trung gian như hàng xuất khẩu
trong nước đại lý, hiệp hội xuất khẩu,... lúc này bên xuất phải trả một khoản tiền cho trung
gian gọi là phí uỷ thác.
Ở Hà Tây, với mặt hàng mỹ nghệ chủ yếu là xuất khẩu gián tiếp.
2.

Căn cứ vào thời gian thiết lập mối quan hệ với khách hàng.
- Thị trường xuất khẩu truyền thống.
- Thị trường xuất khẩu mới.

3.

Căn cứ hình thức xuất
- Thị trường xuất khẩu hàng gia công.
- Thị trường xuất khẩu hàng tự doanh.

4.

Căn cứ mức độ hạn chế xuất khẩu

- Thị trường có hạn ngạch.
- Thị trường phi hạn ngạch.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />5.

Căn cứ mức độ quan trọng của thị trường
- Thị trường xuất khẩu chính: là thị trường có tỷ trọng xuất khẩu chủ yếu.
- Thị trường xuất khẩu phụ.

6.

Căn cứ vào vị trí địa lý thị trường gồm có:

Thị trường EU, thị trường Trung Quốc, thị trường Đông Nam Á,...
VI. CÁC THỊ TRƯỜNG CHỦ YẾU CỦA SẢN PHẨM MỸ NGHỆ HÀ TÂY.
- Hà Tây, là một tỉnh ở Bắc Bộ, có nhiều làng nghề thủ công truyền thống, tuy nhiên sản
phẩm mỹ nghệ của tỉnh không phải là đã nhiều.
- Trong mấy năm qua sản phẩm mỹ nghệ được tiêu thụ chủ yếu ở các vùng lân cận và các
nước xung quanh.
- Hầu hết các sản phẩm mỹ nghệ được xuất khẩu qua phương thức uỷ thác, đó là các doanh
nghiệp lớn ở Hà Nội là trung gian để sản phẩm của Hà Tây được xuất đi các nước trên thế
giới.
Sau đây ta đi phân tích một số thị trường chủ yếu:
1.

Thị trường trong nước

Trong những năm qua Hà Tây đã có mối quan hệ thương mại mật thiết với một số vùng

trong nước nhằm khai thác nguồn nguyên liệu sản xuất tại các vùng và cung cấp cho các
vùng sản phẩm sản xuất trên địa bàn tỉnh, trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ. Trong giai
đoạn 2001-2010 để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, Hà Tây cần triệt để khai
thác thị trường các khu vực nói trên thúc đẩy mối quan hệ bạn hàng sẵn có, nâng cao năng
lực sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
1.1. Thị trường vùng Tây Bắc.
- Vùng Tây Bắc gồm 3 tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình với tổng số diện tích tự nhiên là
35.955 km2 bằng 10,86% diện tích cả nước. Dân số năm 1997 là 2134,6 nghìn người chiếm
2,83% dân số cả nước. Dân số nông thôn chiếm 86% tổng dân số của vùng.
- Thị trường vùng Tây Bắc còn kém phát triển, sản xuất hàng hoá, nhất là sản xuất nông
nghiệp chưa phát triển, sức mua của vùng thấp. Hiện nay các tỉnh vùng Tây Bắc rất nghèo
và chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách của Nhà nước nên với sản phẩm thủ công mỹ
nghệ có giá cao sẽ khó tồn tại ở thị trường vùng này trong thời gian gần.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />1.2. Thị trường Hà Nội.
Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 21/1/1983 đã xác định vị trí, vai trò của Hà Nội.
"Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, đồng thời là
trung tâm lớn về kinh tế, một trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước".
Trên địa bàn Hà Nội có nhiều tiềm năng lớn để phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội nói
chung và phát triển thương mại nói riêng.
- Hà Nội là trung tâm thương mại - dịch vụ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đầu mối
thương mại của Bắc Bộ và cả nước. Hà Nội là nơi tập trung đầu mối giao thông đi khắp
Bắc Bộ, trong nước và quốc tế bằng cả đường ô tô, sắt, thuỷ và hàng không.
- Theo niên giám thống kê 1997 diện tích tự nhiên của Hà Nội là 927,39 km 2 chiếm 0,28
diện tích cả nước. Dân số năm 1997 là 2397 nghìn người bằng 3,18% dân số cả nước. Mật
độ dân số Hà Nội là 258 người/km 2 gấp hơn 10 lần mật độ dân số cả nước, bằng 3,5 lần
mật độ dân số vùng Đồng bằng sông Hồng.
Hàng năm, Hà Nội phải tiếp nhận một khối lượng khách vãng lai rất lớn kể cả khách du

lịch trong và ngoài nước có nhu cầu hàng hoá chất lượng cao. Mặc dù mật độ dân số cao
nhưng thu nhập bình quân của dân cư Hà Nội vẫn cao do ở đây có nhiều khu công nghiệp
lớn, cơ hội tìm việc làm có thu nhập cao dễ hơn. Từ thu nhập cao nên sức mua sản phẩm
vật chất cũng cao. Do đó hàng thủ công mỹ nghệ được tiêu thụ ở thị trường này chiếm tỷ
trọng lớn. Chiếm tới hơn 40% giá trị sản xuất.
- Hà Nội có khả năng khai thác thị trường của vùng và cả nước để tiêu thụ hàng hoá nhập
và là đầu mối thu gom, thu mua hàng thủ công mỹ nghệ từ các địa phương để xuất khẩu đi
các nước khác.
1.3. Thị trường vùng Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng và các vùng khác.
Ngoài thị trường Hà Nội đầy sôi động, Hà Tây còn phải tiếp tục khai thác những thị trường
khác, khai thác ở đây chú ý cả về kinh tế và sở thích tâm lý. Hàng thủ công mỹ nghệ có thể
là sản phẩm mang đậm bản sắc của vùng Bắc Bộ nên có thể tận dụng sở thích tâm lý của
các vùng khác để mở rộng thị trường. Tuy nhiên nhiệm vụ hàng đầu là chú ý đến một số
thành phố lớn, đó là trung tâm kinh tế xã hội của từng khu vực như: Đà Nẵng, TP. Hồ Chí
Minh,...

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />2.

Thị trường nước ngoài.

Hiện nay Việt Nam đã gia nhập ASEAN, AFTA, đã ký Hiệp định thương mại với trên 60
nước, có Hiệp định chung và Hiệp định hàng dệt may với EU, đã ký Hiệp định thương mại
với Mỹ và chuẩn bị đàm phán, gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, tham gia
APEC. Sự hội nhập vào thị trường quốc tế và khu vực sẽ thúc đẩy phát triển buôn bán với
các nước.
2.1. Thị trường Châu á - Thái Bình Dương.
Trong đó chủ yếu là thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN.
- Nhật Bản là nước đất chật, người đông, tài nguyên khoáng sản rất nghèo nàn, nên rất cần

tài nguyên nhiên liệu. Nhật Bản là một cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới, là một trong
3 trung tâm công nghệ thế giới; quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản giữ vị trí
quan trọng.
- Trung Quốc nằm ở phía Bắc Việt Nam, có nhiều cửa khẩu thông thương giữa 2 nước. Việt
Nam - Trung Quốc có quan hệ buôn bán từ lâu đời nhưng chỉ phát triển mạnh trong một số
năm gần đây sau khi 2 nước bình thường hoá quan hệ. Hiện nay Trung Quốc là nước có
nhịp độ phát triển kinh tế nhanh đứng đầu thế giới (năm 2000 là 8,1%). Với tiềm năng kinh
tế mạnh, dân số đông (khoảng 1,3 tỷ người năm 2001) Trung Quốc sẽ là thị trường xuất
nhập khẩu hàng hoá lớn đối với Việt Nam.
- Trong các nước ASEAN, Việt Nam có quan hệ thương mại với một số thị trường chủ yếu
là Thái Lan, Singapore, hai nước này đang phát triển kinh tế với tốc độ cao, có vai trò
thương cảng quốc tế, trung tâm thương mại, tài chính và dịch vụ quốc tế. Các nước này rất
chuộng sản phẩm mang tính chất bản sắc dân tộc như thủ công mỹ nghệ trình độ cao, đặc
biệt là Thái Lan.
2.2. Thị trường Đông Âu.
Chủ yếu là Nga và các nước SNG là thị trường truyền thống của Việt Nam và có vai trò
quyết định đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm 1960-1990. Hiện nay
các nước này đang chuyển sang nền kinh tế thị trường. Từ nay trở đi khả năng kinh tế của
các nước này đang có sự chuyển biến nhanh.
Với các nước này Việt Nam đang gắn xuất khẩu với việc trả nợ đồng thời tăng nguồn hàng,
tăng chất lượng hàng xuất khẩu để thâm nhập sâu vào chiếm lĩnh thị trường.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />2.3. Thị trường Tây Âu.
Hiện nay quan hệ thương mại Âu - Á bắt đầu có sự chuyển biến về chất thể hiện ở các
hướng hợp tác được hình thành qua Hội nghị thượng đỉnh 15 quốc gia Châu Âu và 10 nước
Châu Á trên cơ sở nguyên tắc cơ bản về tự do hoá thương mại của WTO.
Các thị trường Pháp, Đức, Anh đều là cơ hội để chúng ta xuất khẩu được một số sản phẩm
công nghiệp nhẹ. Đặc biệt là thị trường Pháp đánh giá rất cao sản phẩm thủ công mỹ nghệ

của nước ta. Trong tương lai có thể xuất khẩu sản phẩm này từ 5-7 triệu USD/năm.
2.4. Thị trường Mỹ
- Mỹ là thị trường lớn nhất tiêu thụ các hàng thành phẩm của các nước đang phát triển
(30% hàng thành phẩm của các nước đang phát triển được tiêu thụ sang thị trường Mỹ).
- Buôn bán giữa Mỹ và Việt Nam bắt đầu phát triển kể từ khi quan hệ ngoại giao giữa 2
nước được bình thường hoá. Và nó lại càng phát triển hơn khi Hiệp định thương mại giữa 2
nước đã được ký kết. Trong tương lai chắc chắn kim ngạch ngoại thương giữa 2 nước sẽ
ngày càng phát triển.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
PHẦN II
PHÂN TÍCH THỐNG KÊ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ Ở HÀ TÂY

Từ báo cáo tổng kết hoạt động của các làng nghề CN-TTCN ở Hà Tây thời kỳ 1997-2001
ta có một số chỉ tiêu về nghề thủ công mỹ nghệ như sau:
Bảng 4:
Chỉ tiêu
Lao động (người)
Giá trị sản xuất
(tỷ đồng)
TN bình quân
(triệu đồng/năm)

Năm

1997


1998

1999

2000

2001

T

14.050

14.103

14.305

15.680

16.050

GO

10,07

22,118

38,21

77,024


91,56525

W

0,7167

1,5683

2,6711

4,9122

5,705

Ký hiệu

(Số liệu của Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Tây)

I.

PHÂN TÍCH VỀ LAO ĐỘNG (T)

Theo báo cáo hoạt động chung của toàn ngành CN-TTCN thì lao động tăng rất nhanh, năm
1997 toàn ngành có 76.463 lao động đến năm 2001 đã là 107.178 lao động. Như vậy chỉ
trong 5 năm số lao động đã tăng lên 30.715 người hay tăng 40,17%. Lao động toàn ngành
CN-TTCN tăng dần đều lao động trong ngành thủ công mỹ nghệ cũng tăng từ 14.050 lao
động lên đến 16.050 tức tăng 2.000 lao động hay tăng 14,235%. Tuy nhiên tỷ trọng của nó
trong toàn ngành CN-TTCN lại giảm từ 18,375% xuống còn 14,975%. Điều này chứng tỏ
trong thời kỳ 1997-2001 việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chưa thực sự thu hút được
lao động, điều này có nhiều nguyên nhân: có thể do trình độ tay nghề không đáp ứng được

yêu cầu, tình hình tiêu thụ sản phẩm còn bị hạn chế,... Dù sao đi nữa thì lao động của

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />ngành thủ công mỹ nghệ vẫn có xu hướng tăng lên trong thời gian qua. Cụ thể từng năm
được thể hiện qua bảng thống kê sau:
Bảng 5:
Năm

Chỉ tiêu

1997

1998

1999

2000

2001

T

14.050

14.103

14.305

15.680


16.050

Si = Ti - Ti-1

-

53

202

1.375

370

ti =

-

ti - 100

-

Ký hiệu

Lao động (người)
Lượng tăng giảm tuyệt
đối liên hoàn (người)
Tốc độ phát triển (%)
Tốc độ tăng (%)


100,377 101,432 109,612 102,359
0,377

1,432

9,612

2,359

- Mức độ trung bình về số lao động trong 5 năm:
n

T=

∑T
i =1

i

=

n

= = 14.837,6 ≈ 14.838 (lao động)
- Lượng tăng giảm tuyệt đối trung bình về lao động.
∆n yn − y1
δ=
=
= = 500 (lao động)

n− 1
n− 1
- Tốc độ phát triển bình quân.
n
y
16.050
n

1
t = ∏ ti = n−1 n = 4
= 1,034 lần hay 103,4%
y1
14.050
i =2
- Tốc độ tăng bình quân.
a = t − 1 = 0,034 lần hay 3,4%.
Biểu đồ 2:
Năm
Chỉ tiêu
Lao động (người)

1997

1998

1999

2000

2001


14.050

14.103

14.305

15.680

16.050

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Qua bảng 5 ta thấy tốc độ tăng lao động trong năm 2000 là cao nhất: 9,612% tương ứng với
tăng 1375 người. Sở dĩ tốc độ năm 2000 tăng nhanh là do kết quả của đường lối phát triển
các làng nghề thủ công được phát động từ năm 1996-1997.
Tuy nhiên tốc độ này lại không giữ được lâu và chỉ ngay năm sau chỉ còn 2,359%. Điều đó
chứng tỏ việc đào tạo lao động để có thể tham gia vào lực lượng lao động trong nghề
không đồng bộ và không có chiến lược lâu dài.
Để biểu hiện xu hướng đi lên của số lao động ta đi lập phương trình hồi quy do dãy số lao
động.
Ta có phương trình hồi quy:

yt = a0 + a1.t
yt : Số lao động theo thời gian t
t : Thời gian từ 1997 đến 2001
a0 , a1 : Các hệ số.
Dựa và phương pháp bình phương nhỏ nhất ta xác định được các hệ số a 0 , a1 theo hệ
phương trình sau:

∑y = n.a0 + a1∑t
∑t.y = a0.∑t + a1∑t2



a0 = 13.164,5
a1 = 557,7

Vì vậy phương trình hồi quy là:

yt = 13.164,5+ 557,7.t

(với t = 1,2,3,4,5).

Phương trình cho biết trung bình hàng năm số lao động tăng lên gần 558 người. Với xu
hướng này dự đoán đến năm 2002 sẽ là:
y2002 = 13.164,5 + 557,7 x 6 = 16.510,7 tức gần 16.511 (lao động).
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />II.

PHÂN TÍCH VỀ VỐN ĐẦU TƯ (VĐT)

- Vốn là yếu tố quan trọng cho các làng nghề hoạt động trong cơ chế thị trường, nó là nhân
tố quyết định mang tính chất sống còn của các làng nghề.
- Nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh ở các làng nghề đòi hỏi ngày càng lớn để đầu tư
đổi mới công nghệ, thiết bị mới, sản xuất ra các sản phẩm chất lượng cao, hoặc dùng để
mua nguyên liệu, vật liệu,... Tuy nhiên thực tế cho thấy nhiều làng nghề, nhất là các hộ gia
đình vẫn còn gặp không ít khó khăn, còn nhiều hạn chế. Vì vậy đây là công việc của những
nhà tổ chức, quản lý, cần huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân để có nguồn vốn

dồi dào đầu tư phát triển sản xuất.
- Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Tây về đầu tư của ngành CN-TTCN trong tỉnh ta có
một số chỉ tiêu về vốn đầu tư cho ngành thủ công mỹ nghệ như sau:
Bảng 6:
Chỉ tiêu

Năm

1997

1998

1999

2000

2001

VĐT

20,3

41,81

53,23

68,1

72,3


- Vốn cố định

Φ

12,2

24,7

35,25

40,01

42,23

- Vốn lưu động

V

8,1

17,11

19,98

28,09

30,07

-


21,51

11,42

14,87

4,2

ti =

-

205,96

127,31

127,94

106,17

ai = t1 - 100

-

105,96

27,31

27,94


6,17

Vốn đầu tư (tỷ)

Lượng tăng tuyệt đối
liên hoàn (tỷ)
Tốc độ phát triển
(%)
Tốc độ tăng (%)

Ký hiệu

σ1 = VDTi VDTi-1

(Cục thống kê Hà Tây)

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×