MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………...…………….
….....1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU……………………………..…………....2
1.1 Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………..……..2
1.2 Đối tượng nghiên cứu……….……………………………………………….............2
1.3 Câu hỏi nghiên cứu......................................................................................................2
1.4 Phạm vi nghiên cứu……...……………………………………………………..……2
1.5 Phương pháp nghiên cứu………..…………………………………………..………2
1.6 Khái quát nội dung nghiên cứu…………...………………………………………...2
CHƯƠNG 2: NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC…………………………………………………………3
2.1 Tổng quan đầu tư………….......................…………………………………....……..3
2.2 Tổng quan về nguồn vốn đầu tư ……………………………………………............3
2.3 Các nguồn huy động vốn đầu tư trong nước............................................................4
2.4 Điều kiện huy động có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong nước………………..…6
2.5 Các công trình nghiên cứu có liên quan....................................................................9
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRONG
NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY……………………………………………………...10
3.1 Thực trạng huy động nguồn vốn nhà nước……………………………………….10
3.2 Thực trạng huy động nguồn vốn dân cư và tư nhân………………………..……14
3.3 Thực trạng sử dụng nguồn vốn nhà nước……………………………………...…18
3.4 Thực trạng sử dụng nguồn vốn dân cư và tư nhân……………………………....27
CHƯƠNG 4: KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC………………………………………….....…33
4.1 Nguồn vốn nhà nước………………………………………………………………..33
4.2 Nguồn vốn dân cư và tư nhân……………………………………………………...37
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….......…40
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VAI TRÒ CỦA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vất chất quan trọng cho mọi hoạt động
của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp bách. Đầu tư và tăng
trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để thực hiện chiến lược phát
triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta cần đến một lượng vốn lớn.
Vốn cho phát triển kinh tế - xã hội luôn là một vấn đề quan trong và cấp thiết trong cuộc
sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Đương nhiên để duy trì những thành quả đạt
được của nền kinh tế nhờ mấy năm đổi mới vừa qua, giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh
tế cao, tránh cho đất nước rơi vào tình trạng “tụt hậu” so với nhiều nước láng ghiềng
trong khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tình mọi cách
khơi dậy mọi nguồn vốn trong nước, từ bản thân nhân dân với việc sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn đã có tại các cơ sở quốc doanh. Nguồn vốn nước ngoài từ ODA, NGO và tư
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Tuy nhiên, cần thấy rõ nguồn vốn trong nước là chủ yếu,
nguồn vốn trong nước vừa phong phú, vừa chủ động nằm trong tầm tay. Nguồn vốn trong
nước vừa là tiền đề, vừa là điều kiện để “đón” các nguồn vốn từ nước ngoài. Nguồn vốn
nuwocs ngoài sẽ không huy động được nhiều và sử dụng có hiệu quả khi thiếu nguồn vốn
“ bạn hàng” trong nước.
Mặc dù điều kiện quốc tế thuận lời đã mở ra những khả năng to lớn để huy động và sử
dụng nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng nguồn vốn trong nước được xem là quyết định cho
sự phát triển bền vững và độc lập của nền kinh tế. Qua nghiên cứu thực tế và với cở sở
kiến thức đã tích lũy được trong thời gian qua, nhóm nhận thấy tâm quan trọng của việc
huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Cũng như xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề này, nhóm
chọn đề tài: “Thực trạng của việc huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước của nước ta
hiện nay và kiến nghị các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này”.
3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG
VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC TẠI VIỆT NAM
1.1 Mục tiêu nghiên cứu:
Qua việc nghiên cứu về thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước tại Việt Nam,
từ đó cho thấy vai trò quan trọng của vốn đầu tư phát triển với việc phát triển kinh tế; đánh giá
thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước và đề xuất các giải pháp kiến nghị nhắm
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn này.
1.2 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề liên quan đến nguồn vốn, việc huy động và sử
dụng nguồn vốn trong nước ở Việt Nam.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu:
Nhằm thực hiện các mục tiêu nêu trên, đề tài cần trả lời được các câu hỏi nghiên cứu tương
ứng sau đây:
• Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước ở Việt Nam như thế nào?
• Các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của sử dụng nguồn vốn?
1.4 Phạm vi nghiên cứu:
•
•
•
Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về thực trạng huy động và sử dụng
nguồn vốn trong nước ở Việt Nam
Phạm vi về thời gian:
Các số liệu được tiến hành thu thập trong khoảng thời gian:
2007 - 2015
Các giải pháp đề xuất dự kiến áp dụng từ năm 2016
Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung và nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau:
Nghiên cứu các vấn đề cơ sở lý luận về nguồn vốn đầu tư và mối quan hệ giữa các
nguồn vốn đầu tư
Nghiên cứu về thực trạng huy động nguồn vốn đầu tư tại Việt Nam thời gian qua
Nghiên cứu về những giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong nước
1.5 Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phuơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, đối chiếu các bảng số liệu qua các
năm.
1.6 Khái quát nghiên cứu:
Cấu trúc của đề tài nghiên cứu: “Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước tại Việt
Nam. Trình bày các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của sử dụng nguồn vốn này.”
Gồm có 4 chương như sau:
• Chuơng I: Tổng quan nghiên cứu về thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn trong
nước tại Việt Nam
• Chương II: Những vấn đề lý luận cơ bản
• Chương III: Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước tại Việt Nam
• Chương IV: Kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
4
CHƯƠNG 2: NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC HUY ĐỘNG VÀ SỬ
DỤNG NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC
2.1. Tổng quan về đầu tư
2.1.1. Khái niệm:
Đầu tư là quá trình sử dụng phối hợp các nguồn lực trong một khoảng thời gian xác định nhằm
đạt được kết quả hoặc một tập hợp các mục tiêu xác định trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định.
2.1.2. Đặc trưng cơ bản của đầu tư:
•
•
•
•
Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường và trước hết là
quyết định tài chính. Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi. Dưới các hình thức khác
nhau nhưng vốn có thể xác định dưới hình thức tiền tệ. Vì vậy, các quyết định đầu tư thường
được xem xét trên phương diện tài chính (khả năng sinh lời, tổn phí, có khả năng thu hồi
được hay không…).
Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài. Khác với các hoạt động thương mại,
các hoạt động chi tiêu tài chính khác, đầu tư luôn là hoạt động có tính chất lâu dài. Do đó,
mọi sự trù liệu đều là dự tính và chịu một xác suất biến đổi nhất định do nhiều nhân tố biến
đổi tác động. Chính điều này là một trong những vấn đề then chốt phải tính đến trong nội
dung phân tích, đánh giá của quá trình thẩm định dự án.
Hoạt động đầu tư là một trong những hoạt động luôn cần có sự cân nhắc giữa lợi ích
trước mắt và lợi ích trong tương lai. Đầu tư về một phương diện nào đó là sự hy sinh lợi
ích hiện tại để đánh đổi lấy lợi ích trong tương lai. Vì vậy, luôn có sự so sánh cân nhắc giữa
hai loại lợi ích này và nhà đầu tư chỉ chấp nhận trong điều kiện lợi ích thu được trong tương
lai lớn hơn lợi ích hiện này họ phải hy sinh - đó là chi phí cơ hội của nhà đầu tư.
Hoạt động đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro. Các đặc trưng nói trên đã cho ta thấy đầu tư là
một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro do chịu xác suất nhất định của yếu tố kinh tế, chính trị,
xã hội, tài nguyên thiên nhiên…
2.2 Tổng quan về nguồn vốn đầu tư
2.2.1. Khái niệm:
Nguồn vốn hình thành đầu tư là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa
thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
2.2.2. Bản chất của nguồn vốn đầu tư:
Xét về bản chất: Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền kinh
tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội.
• Kinh tế học cổ điển:
Smith: “ Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để
tích lũy cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, không có
tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên.”
Cac-mac: Con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát
triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng.
Theo các-mac, nền kinh tế gồm 2 khu vực: Khu vực sản xuất I và khu vực tiêu
dùng II. ĐIều kiện để tái sản xuất mở rộng không ngừng
5
•
(c+v+m)I > cI + cII
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)II
Kinh tế học hiện đại:
c: tiêu hao vật chất
(v+m): phần giá trị mới sáng tạo ra
Keynes: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dung
Xét trong nền kinh tế đóng: (I)=(S)
Nền kinh tế mở: Không phải lúc nào cũng có đẳng thức tiết kiệm = đầu tư
CA= S-I
CA: Tài khoản vãng lai ( current account )
S: Tiết kiệm
I: Đầu tư
Nguồn vốn nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một nguồn vốn đầu tư quan trọng của
nền kinh tế.
2.2.3. Phân loại nguồn vốn đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư bao gồm: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
• Nguồn vốn trong nước:
Nguồn vốn nhà nước: bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân: bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của
các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã.
• Nguồn vốn nước ngoài:
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn
quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị
quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu
chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được
các nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình
thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính
chất lưu chuyển vốn, có thể phân thành các nguồn vốn nước ngoài chính như sau:
Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance): bao gồm Viện
trợ phát triển chính thức (ODA -offical development assistance) và các hình thức
viện trợ khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF;
Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại;
Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
2.3. Các nguồn huy động vốn đầu tư trong nước
2.3.1. Nguồn vốn nhà nước:
Nguồn vốn nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư
phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư tín dụng của doanh nghiệp nhà nước.
• Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư, là nguồn
vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Nguồn
6
•
vốn thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, quốc phòng an ninh,
hô trợ dự án doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực có sự tham gia của nhà nước.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:
Ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn
vốn có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn của nhà nước. Thực
chất là quá trình chuyển từ cấp phát vốn ngân sách sang cấp vốn tín dụng cho các dự
án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.Các đơn vị sử dụng vốn này phải tuân theo
nguyên tắc hoàn vốn vay.
Là công cụ điều tiết kinh tế: Nhà nước thông qua công cụ này khuyến khích phát triển
các ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình, vừa đảm bảo mục
tiêu tăng trường, vừa đảm bảo mục tiêu phát triển xã hội.
• Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước: bao gồm từ khấu hao tài sản
cố
định và thu nhập giữ lại từ doanh nghiệp nhà nước, chủ yếu để đầu tư chuyên sâu, mở
rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền sản xuất.
2.3.2.Nguồn vốn của dân cư và tư nhân:
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh
nghiệp dân doanh, các hợp tác xã.
Thực tế cho thấy đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò quan trọng đặc
biệt trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương.
Khu vực kinh tế tư nhân hiện đang nắm giữ một lượng vốn tiềm năng rất lớn, tồn tại dưới dạng
vàng, nội tệ, ngoại tệ...
Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình. Quy mô của
nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: trình độ phát triển của đất nước, tập quán tiêu dùng của dân
cư, chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng
góp của xã hội.
Nguồn vốn từ khu vực tu nhân bao gồm tiết kiệm của dân cư, tích lũy của doanh nghiệp dân
doanh, hợp tác xã, có vai trò vô cùng quan trọng.
2.4. Huy động và sử dụng vốn hiệu quả
2.4.1.Vai trò của hoạt động huy động vốn:
Như trên đã phân tích vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế, không những nó tạo ra
của cải vật chất cho nền kinh tế, mà còn đưa đất nước phát triển theo hướng ổn định, cân đối
giữa các ngành nghề. Do vậyđể phát triển kinh tế ta phải có vốn đầu tư, vậy vốn đầu tư lấy ở đâu
và lấy bằng cách nào ? Câu hỏi này đã được trả lời một phần ở trên ( bao gồm vốn đầu tư trong
nước và vốn đầu tư nước ngoài ). Muốn có nguồn vốn này, ta phải huy động. Mặt khác mỗi
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khi thành lập, không phải lúc nào cũng có đủ vốn để hoạt động sản
xuất kinh doanh. Trong những tình huống thiếu vốn thì họ phải huy động để đáp ứng nhu cầu
này. Tuy nhiên, để có thể huy động được số vốn mong muốn thì các doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế phải có các chiến lược huy động phù hợp với từng tình huống cụ thể, từng thời kỳ ...
Tóm lại hoạt động huy động vốn là rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế nói chung và đầu tư
phát triển nói riêng, nó đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hoá -Hiện đại hoá đất nước, phát triển
kinh tế hoà nhập với kinh tế thế giới.
7
Trong hoạt động huy động này thì hệ thống ngân hàng đóng góp một phần quan trọng đặc biệt
là ngân hàng đầu tư và phát triển ngân hàng với nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp vốn cho vay đầu
tư phát triển.
2.4.2. Vai trò của hoạt động sử dụng vốn:
Như đã trình bày ở trên vốn và hoạt động huy động vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
đất nước là rất quan trọng. Nhưng một phần cũng không kém phần quan trọng đó là hoạt động sử
dụng vốn huy động này sao cho có hiệu quả để đảm đem lại lợi ích và hiệu quả cao nhất. Nếu
chúng ta sử dụng vốn hiệu quả thì các nguồn lực dành cho đầu tư sẽ phát huy được tối đa lợi ích
cho chủ đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung và ngược lại nếu chúng ta sử dụng vốn đầu tư
không hiệu quả thì các kết quả của những đồng vốn mà chúng ta bỏ ra sẽ không phát huy được
tối đa cho nền kinh tế. Để làm được vấn này đòi hỏi chúng ta phải làm tốt các chiến lược sử dụng
vốn cho đầu tư như: quản lý đầu tư, kế hoạch hoá đầu tư, cũng như các công tác thẩm định dự án
và quản lý dự án đầu tư.
2.4.3. Điều kiện huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong nước:
1. Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế.
Năng lực tăng trưởng của nền kinh tế xác định triển vọng và sức hấp dẫn trong việc huy động
các nguồn vốn đầu tư. Vấn đề này liên quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc
thu hút vốn đầu tư: Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn.
Để tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng của nền kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn
vốn đầu tư cho nền kinh tế, trong thời gian tới Việt Nam cần:
• Tăng cường phát triển sản xuất kinh doanh, và thực hành tiết kiệm cả trong sản xuất và
tiêu dùng của toàn xã hội. Có các biện pháp hữu hiệu để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
đầu tư. Đây vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để phát triển và là cơ sở đảm bảo việc gia
tăng khả năng huy động nguồn vốn.
• Đối với nguồn vốn đầu tư, phải xác định yếu tố hiệu quả là yêu cầu về mặt chất lượng
của việc huy động vốn trong thời gian lâu dài. Với vi trò trung tâm điều chỉnh và định
hướng quá trình đầu tư phát triển của nền kinh tế, hiệu quả của nguồn vốn đàu tư nhà
nước phải đặc biệt chú trọng. Các dự án sử dụng vốn nhà nước phải được đánh giá trên
các tiêu chuẩn hiệu quả, phải được quản lý chặt chẽ nhằm đảm bảo thời hạn xây dựng,
giá cả và chất lượng công trình. Cần hoàn thiện hơn nữa về cơ chế và quản lý đầu tư.
Tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tăng cường tính hiệu quả đầu tư của khu vực
kinh tế này.
• Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách
nhiệm trả nợ.
• Tạo môi trường bình đẳng cho tất cả các nguồn vốn đầu tư, xóa bỏ tư tưởng bao cấp về
vốn đầu tư, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân bỏ vốn tham gia đầu tư. Phải lấy hiệu
quả kinh tế làm thước đo của các hoạt động đầu tư.
2. Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn được coi là điều kiện tiên quyết của mọi ý
định và hành vi đầu tư. Về nguyên tắc, để thu hút được nguồn vốn đầu tư nhằm ngày càng
đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước, phải đảm bảo được nền kinh tế đó trước
hết là nơi an toàn cho sự vận động của nó và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao.
8
Có thể đưa ra một số điều kiện cụ thể có tính nguyên tắc liên quan đến ổn định kinh tế vĩ
mô và là yếu tố đảm bảo thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư:
• Ổn định giá trị tiền tệ: Đây là vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy
động các nguồn vốn cho đầu tư. Ổn định giá trị tiền tệ ở đây bao hàm cả việc kiềm chế
lạm phát và khắc phục hậu quả của tình trạng giảm phát nếu xảy ra đối với nền kinh tế.
Để đạt yêu cầu ổn định giá trị tiền tệ, cần phải tạo ra sự vận động đồng bộ các yếu tố của
nền kinh tế thị trường bao gồm cả lĩnh vực sản xuất vật chất, hệ thống tài chính và cơ
chế phân phối, lưu thông tương ứng.
Hoạt động của ngân sách nhà nước cũng có ý ngĩa quan trọng. Ngân sách nhà nước
mà thâm hụt triền miên cũng sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát cao và mất ổn định. Vì
vậy, kiểm soát được mức thâm hụt ngân sách có thể coi là mục tiêu tài chính trung tâm
hướng tới sự ổn định kinh tế vĩ mô. Thuế và chi ngân sách là những công cụ quan
trọng trong việc ổn định giá trị tiền tệ. Mặt khắc, thuế và các công cụ tài chính khác
cũng là một trong những chính sách quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư và tái
đầu tư từ lợi nhuận. Bên cạnh đó, cải cách hành chính để có thể giảm tương đối chi
thường xuyên trong tổng chi ngân sách. Từng bước tăng quy mô và tỷ trọng cũng như
hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Đối với lãi suất, về mặt lý thuyết lãi suât càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn và
từ đó tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư cao. Tuy nhiên bản thân yếu tố lãi suất cũng
có yếu tố hai mặt, khi tăng lãi suất cũng có nghĩa là chi phí sử dụng vốn trong đầu tư
cao hơn. Điều này sẽ làm giảm phần lợi nhuận thực của nhà đầu tư. Khi sử dụng công
cụ lãi suất phải hết sức cẩn trọng để xác định mức lãi suất phù hợp, có tác động tích
cực đến hiệu quả của việc huy động vốn.
• Về lâu dài, cần thực hiện tốt chức năng hoạch định chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
của nhà nước trong mối quan hệ mất thiết với lĩnh vực thu hút các nguồn vốn đầu tư.
Cần nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể, có chính sách huy động đồng bộ các nguồn
vốn phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ và lĩnh vực ưu tiên...
• Nhanh chóng cải thiện và đồng nhất môi trường đầu tư để tạo điều kiện cho việc khai
thác các nguồn vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế. Tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường, nhằm bảo vệ môi trường kinh
tế vĩ mô ổn định.
3. Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả
Để có thể huy động có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư cần phải có các chính sách, giải pháp
hợp lý và đồng bộ. Các chính sách và giải pháp này phải đáp ứng được các yêu cầu có tính
nguyên tắc sau:
• Các chính sách và gải pháp huy động vốn cho đầu tư phải gắn liền với chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện được các nhiệm vụ của chính
sách tài chính quốc gia. Việc thực hiện các chính sách và giải pháp khai thác và huy động
vốn phải có sự tính toán tổng hợp về khả năng cung ứng vốn và khả năng tăng trưởng các
nguồn vốn trên cơ sở giải quyết hợp lý các mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Các
9
•
•
•
chính sách về đầu tư phải đảm bảo khuyến khích, định hướng các hoạt động thu hút cung
ứng vốn nhằm huy động tổng lực của nền kinh tế cho công nghiệp hóa đất nước.
Đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài. Trong quá trình phát triển kinh tế, nguồn vốn trong nước có một số ưu thế so
với nguồn vốn nước ngoài: ổn định, bề vững, giảm thiệu được những hậu quả xấu đối với
nền kinh tế do tác động của thị trường tài chính tiền tệ và nền kinh tế của các nước khác
trên thế giới.
Cần đa dạng hóa và hiện đại hóa các hình thức và phương tiện huy động vốn. Tiếp tục mở
rộng các hình thức huy động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước từ khu vực dân cư
qua hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất và thời hạn hấp dẫn. Thành lập và phát
triển hề thống quỹ đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau.
Các chính sách huy động vốn đều được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn và biện pháp
thực hiện. Đảm bảo sự bình đẳng, gắn bó và tạo điều kiện lẫn nhau cùng phát triển giữa
các nguồn vốn. Cần tiếp tục đổi mới các chính sách động viên các nguồn tài chính cho
ngân sách nhằm đảm bảo tăng cường huy động vốn một cách vững chắc, ổn định và bền
vững nhưng vẫn khuyến khích doanh nghiệp và dân cư bỏ vốn ra đầu tư.
2.5. Các công trình nghiên cứu có liên quan
1. “ The role of the public investment in poverty đeuction” – Edward Anderson, Paolo de
Reazio ang Stephanie ( vai trò của đầu tư công trong xóa đói giảm nghèo) giúp chúng ta có
cái nhìn toàn diện và chính xác vai trò của đầu tư công cũng như cách sử dụng vốn cho đầu
tư công một cách hợp lí.
2. Nghiên cứu của PGS.TS Trần Thị Minh Châu “ Về chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt
Nam” (2007) trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách khuyến khích đầu tư trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phân tích, đánh giá thực trạng chính sách
khuyến khích đầu tư của Nhà nước ta hiện nay; đề xuất một số định hướng và giải pháp chủ
yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu tư trong thời gian tới. Đồng thời,
cuốn sách đã đưa ra dự báo xu hướng đầu tư ở nước ta trong những năm tới, đề xuất 6
phương hướng chủ yếu tiếp tục hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu tư ở nước ta. Đối với
các giải pháp cơ bản, các tác giả chia thành các nhóm giải pháp: hoàn thiện khung khổ pháp
lý an toàn, minh bạch, ổn định cho đầu tư; nâng cao chất lượng quy hoạch của Nhà nước; đẩy
mạnh cải cách hành chính nhằm tạo môi trường thông thoáng cho đầu tư; đổi mới chính sách
ưu đãi đầu tư; đổi mới chính sách đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội của Nhà nước;
tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước cho nhà đầu tư nước ngoài. Trong mỗi nhóm giải
pháp lớn có các giải pháp cụ thể, chi tiết.
3. “Thị trường vốn” – PGS.TS Phạm Văn Hùng - Nhà xuất bản đại học kinh tế quốc dân, Hà
Nội, 2009.
4. “Huy động và sử dụng các nguồn vốn trong nước”- Nguyễn Công Nghiệp, Bộ Tài chính
đã gợi ý những cách thức huy động cũng như sử dụng một cách có nghiên cứu, chính xác và
khoa học nguồn vốn vào tăng trưởng và phát triển kinh tế.
10
5. Bài viết của T.S Phạm Ngọc Long “ Huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân trong phát
6.
7.
8.
9.
triển kinh tế- xã hội”. Bài viết đã chỉ ra tình hình huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân.
Bên cạnh đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân.
Trong tài liệu bồi dưỡng đại biểu dân cử cũng có bài: “Vai trò của nguồn vốn đầu tư trong
nước đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế” (2015) đã nêu ra những vai trò to lớn
mang tính quyết định của vốn trong nước như: đóng góp lớn vào GDP, định hướng thay đổi
cơ cấu kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, đảm bảo sự phát triển toàn diện, tạo nền tảng
vững chãi cho sự tăng trưởng của nền kinh tế,…
“Thực trạng đầu tư từ nguồn vốn nhà nước ở Việt Nam” (T.S Trịnh Mai Vân- Nguyễn
Văn Đại). Bài viết phân tích thực trạng hoạt động đầu tư từ nguồn vốn nhà nước ở Việt Nam
thời gian qua.
Ông Trần Bắc Hà, Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng có bài viết:
“Giải pháp huy động vốn đầu tư (trong và ngoài nước) cho phát triển kinh tế” (2006) đã
đánh giá tổng thể cơ chế, chính sách quản lý điều hành vĩ mô của Chính phủ trong huy động
vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế và nêu các kiến nghị đối với Chính
phủ, các bộ, ngành và cộng đồng doanh nghiệp về việc đẩy mạnh huy động vốn trong và
ngoài nước. Những đề tài này chỉ đề cập được một phần, chưa nghiên cứu được một cách đầy
đủ và toàn diện cả về lí luận lẫn thực tiễn khiến cho bài viết còn nhiều vướng mắc trong
nghiên cứu và ứng dụng.
Về giải pháp để huy động vốn hiệu quả, luận văn Thạc sĩ: “Tạo nguồn vốn trong nước để
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” (2007) của tác giả Hoàng Dương,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về vốn đầu tư
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực trạng tạo nguồn vốn trong nước, trên cơ sở đó
đưa ra quan điểm định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tạo ra nguồn vốn trong nước ổn định
và tăng trưởng.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
TRONG NƯỚC CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1 Thực trạng huy động nguồn vốn nhà nước:
3.1.1 Nguồn thu của nhà nước:
11
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là nguồn vốn vô cùng quan trọng và không thể thiếu trong chiến
lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Trong những năm trở lại đây, cùng với sự tăng trưởng nói
chung của nền kinh tế quy mô tổng thu ngân nhà nước không ngừng được gia tăng nhờ mở rộng nhiều
nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu
nhà nước,…). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách
nhà nước cũng gia tăng đáng kể.
Đvt: tỷ đồng
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
Tổng thu cân đối
NSNN
281.900
323.000
389.900
461.500
595.000
740.500
816.000
782.700
Thu nội địa
151.800
189.300
233.000
294.700
382.000
494.600
545.500
539.000
Thu từ dầu thô
71.700
65.600
63.700
66.300
69.300
87.000
99.000
85.200
Thu từ xuất nhập
khẩu
55.400
64.500
88.200
95.500
138.700
153.900
166.500
154.000
Thu viện trợ
không hoàn lại
3.000
3.600
5.000
5.000
5.000
5.000
5.000
4.500
Nguồn: chinhphu.vn
Năm 2009, gói kích cầu 9 tỉ $ được đưa nhằm khôi phục đà tăng trưởng kinh tế. Nhìn chung tổng thu
ngân sách nhà nước từ năm 2007 đến năm 2014 tăng đáng kể trong đó tỷ lệ thu nội địa luôn chiếm trên
50% so với tổng thu ngân sách nhà nước. Trong đó từ năm 2011 – 2014, tổng thu ngân sách nhà nước
gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 2007-2010 trước đó do sự hoàn thiện thể chế kinh tế, với sự ra đời của
Hiến pháp 2013, ban hành nhiều bộ luật và đạo luật nhằm cải cách thể chế có ý nghĩa quan trọng đồng
thời chủ động hội nhập thế giới (đã ký kết hàng chục Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương
và đa phương thế hệ mới,…) đã giúp nền kinh tế nước ta phát triển và bước vào giai đoạn ổn định.
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2015 ước tính
đạt 220,4 nghìn tỷ đồng, bằng 100,6% kế hoạch năm và tăng 6,1% so với năm 2014.
Bên cạnh những mặt tích cực thì ngân sách nhà nước cũng còn nhiều hạn chế như:
•
•
•
•
Công tác triển khai dự toán còn chậm chễ, tỉ lệ giải ngân thấp, công tác quản lý, thực hiện giám
sát ở các cấp còn nhiều hạn chế.
Công tác thẩm định chậm chễ, chưa đảm bảo yếu tố chất lượng, năng lực.
Tính trượt giá chưa có quy định thông nhất là nguyên nhân kéo dài thời gian lập, thẩm định,
phê duyệt dự án.
Công tác giải phóng mặt bằng chậm, chi phí đền bù lớn, quản lý và sử dụng đất đai chậm được
khắc phục ảnh hưởng đến tiến bộ và giải ngân nguồn vốn.
3.1.2 Tín dụng đầu tư phát triển:
Chính sách tín dụng là sự khẳng định tính đúng đắn trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhà nước
trong lĩnh vực đầu tư. Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất,
kĩ thuật, nâng cao năng lực của nền kinh tế. Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước là nguồn có vai trò
quan trọng để thực hiện công tác quản lý và điều tiết nền kinh tế vĩ mô, là một trong những nguồn vốn
12
huy động khá hiệu quả để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp
Hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước thông qua VDB:
Để thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước phù hợp với yêu cầu của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (The Vietnam Development Bank - VDB) đã được
thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở
tổ chức lại hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT) và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/07/2006.
VDB là một đơn vị cho vay chính sách phi lợi nhuận, với số vốn điều lệ 10 nghìn tỷ đồng. Ngân hàng
phát triển Việt Nam (VDB) được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện
chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu Nhà nước.
Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã được tập trung cho những chương trình, dự án thuộc các
ngành, lĩnh vực trọng điểm của đất nước như: nhà máy thủy điện, nhiệt điện, lọc dầu, các nhà máy
đóng tàu biển, xi măng, thép, hoá chất,cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội... Hoạt động tín dụng ĐTPT của
Nhà nước đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế: Góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Hỗ
trợ phát triển kinh tế – xã hội của các vùng/miền, thúc đẩy phát triển một số lĩnh vực, chương trình, dự
án, sản phẩm trọng điểm của nền kinh tế; Góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo; Phát triển
kinh tế nông nghiệp và nông thôn; Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư của xã
hội; Khai thác các nguồn vốn cho đầu tư, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính.
Mặc dù vậy, hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao, chưa đáp
ứng tốt yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Những hạn chế đó xuất hiện từ những tổ chức tiền thân của
VDB, chưa được giải quyết triệt để, vẫn đang tồn tại và tạo nên rủi ro tiềm ẩn đối với hoạt động tín
dụng ĐTPT của Nhà nước. Do VDB kế thừa toàn bộ các dự án có nợ tồn đọng, khó thu từ Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (năm 1995), Tổng cục Đầu tư phát triển và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia
(năm 1999), Quỹ Hỗ trợ phát triển (tháng 06/2006) nên trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ
gặp rất nhiều vướng mắc.
Theo báo cáo của Giám đốc VDB kết quả hoạt động 2006-2009:
•
•
VDP đã huy động mới gần 120.000 tỷ đồng, bằng 7% vốn đầu tư toàn xã hội cùng kì, gấp 1,84
lần so với thời kỳ quỹ hỗ trợ phát triển
VDP hiện đang quản lý cho vay trên 3.970 dự án với số vốn theo hợp đồng tín dụng đầu tư gần
86.000 tỷ đồng
Hoạt động huy động và sử dụng vốn tại VDB (tỷ đồng)
Tổng vốn giải ngân tín dụng
Tổng số tiền huy động được
Số tiền huy động qua trái phiếu chính
phủ
2007
39.588
34.992
2008
56.210
40.230
24.495
26.512
2009
45.680
44.000
Đến giữa năm 2010 VDB cho vay khoảng 3200 dự án, trong đó có 127 dự án trọng điểm của Chính
phủ với số vốn cam kết theo hợp đồng tín dụng khoảng 146.000 tỷ đồng
13
Trong thời kì đổi mới nguồn vốn này đóng vai trò quan trọng, từng bước xóa bỏ chênh lệch về trình
độ phát triển và đời sống nhân dân giữa các vùng miền, tạo đà cho các vùng kinh tế phát triển. Hỗ trợ
một số lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế như xây dựng hàng tram km đường dây 500KV, 220 KV,
hàng tram trạm biến áp, tăng công suất điện lên 2 nghìn MW, hàng trăm ngàn km cầu đường, hình
thành và nâng cấp, mở rộng các KCN. Phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm như giao thông
vận tải biển, giao thông đường sắt, đóng tàu, gia tăng năng suất sản xuất cho các ngành khác. Tạo sự
chuyển biến lớn trong việc khai thác các nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy thị trường tài chính phát triển. Giải
quyết các vấn đề xã hội.
Tuy nhiên quy mô vốn tín dụng đầu tư phát triển còn nhỏ bé, thiếu tập trung. Tổng vốn tín dụng đầu
tư phát triển mới đáp ứng được khoảng 37% nhu cầu vay vốn trong tổng mức đầu tư tài sản cố định của
các dự án có vay vốn tín dụng đầu tư phát triển. Hơn nữa, đối tượng cho vay còn dàn trải, chưa thật sự
tập trung cho vay vào các dự án trọng điểm, các ngành then chốt, các vùng khó khăn. Vốn tín đụng đầu
tư phát triển còn bị phân tán ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
3.1.3 Vốn doanh nghiệp nhà nước:
Nguồn vốn ở DNNN luôn chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư toàn xã hội, được xác định là vai trò chủ
đạo trong việc phát triển kinh tế, quá trình CNH-HDH ở nước ta.
Năm 2007, tổng vốn chủ sở hữu của 70 tập đoàn tổng công ty lên tới 323 nghìn tỷ, vốn lưu động lên
đến 448 ngàn tỷ đồng. 28/70 tập đoàn tổng công ty đầu tư vốn ra nước ngoài chủ yếu trong lĩnh vực
chứng khoán, ngân hàng bảo hiểm với giá trị lên đến 20 ngàn tỉ
Từ năm 2012, nguồn vốn chủ sở hữu có chiều hướng tăng nhẹ. Năm 2012, chỉ tiêu này tăng 26% so
với năm 2011 và có xu hướng tiếp tục tăng vào năm 2013 ,tổng vốn đầu tư của DNNN tăng 104,2%
trong 9 tháng đầu năm 2013.
Vốn đầu tư phát triển theo thành phần kinh tế nhà nước:
Kinh tế Nhà nước
Giá thực tế (Tỷ 2010
316.285,0
đồng)
2011
341.555,0
2012
406.514,0
2013
441.924,0
Sơ bộ 2014
486.804,0
Nguồn: Tổng cục thống kê
Qua bảng trên có thể thấy vốn ngân sách đầu tư vào khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng đều qua
các năm 2010 - 2014. Tuy nhiên tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp Nhà nước lại giảm.
Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (quá
trình cần huy động nhiều nguồn lực của doanh nghiệp), nhưng quan trọng hơn là do khu vực dân doanh
đã lớn mạnh không ngừng kể từ khi ra đời Luật năm 2005 và sửa đổi năm 2014. Điều này đã góp phần
làm tăng số doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, số lượng lao động tăng, thu nhập bình quân của người
lao động cũng được nâng cao, bên cạnh đó tỷ lệ nộp ngân sách cũng tăng. Tuy nhiên năm 2013 và
2014 cơ vấu cốn của các DNNN tăng trở lại do năm 2014, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư công, đổi
mới và quản lý đầu tư theo kế hoạch trung hạn. Các chính sách tài chính, tiền tệ tiếp tục phát huy tác
dụng, tập trung vào việc duy trì lãi suất thấp đã tạo điều kiện thúc đẩy thu hút và giải ngân vốn đầu tư.
14
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng phối hợp thực hiện tốt việc tháo gỡ vướng mắc để đẩy nhanh tiến
độ giải ngân vốn đầu tư phát triển theo kế hoạch được giao.
Cơ cấu vốn của các DNNN
Cơ cấu(%)
2010
2011
2012
2013
2014
18,6
14,5
12,8
16,3
16,6
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tính đến năm 2015, doanh nghiệp nhà nước chiếm 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn Nhà nước,
thế nhưng chỉ đóng góp khoảng 30% tăng trưởng GDP. Doanh nghiệp nhà nước bao gồm các tập đoàn,
tổng công ty đang nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế như: ngân hàng, năng lượng, cơ khí,
hóa chất..., tuy nhiên hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng được kỳ vọng. Vai trò kinh tế của khu vực
doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua chưa cao và đang ngày càng suy giảm.
Nguyên nhân do:
•
•
•
•
•
•
Đầu tư dàn trải không tập trung vào chuyên môn chính của mình, hoạt động không hiệu quả so
với khu vực tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Do được hưởng nhiều ưu đãi nên không bắt buộc có tài sản đảm bảo dễ dẫn đến đổ vỡ dây
chuyền và làm mất khả năng thanh toán.
Cơ chế lao động bất hợp lý, nhất là cán bộ hành chính thiếu kinh nghiệm làm việc và năng lực.
Việc thực hiện tổ chức các hoạt động kinh doanh chưa đảm bảo tính đồng bộ thống nhất gây
khó khăn, lung túng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Đặc thù của phân cấp đầu tư của Việt Nam là phân cấp đồng bộ và phân cấp theo địa giới hành
chính, nghĩa là phân cấp cùng các chức năng, nhiệm vụ nhất định đối với từng cấp quản lý nhà
nước theo địa giới hành chính mà chưa chú ý tới đặc thù về quy mô, trình độ phát triển, các yếu
tố tự nhiên của từng địa phương, cũng như đặc thù về phạm vi, hiệu quả của một số dịch vụ
công. Cùng với hệ thống quản lý đầu tư còn nhiều bất cập, đầu tư theo phong trào đã diễn ra
rầm rộ, dẫn đến vấn đề “tỉnh hóa các cảng biển”, “tỉnh hóa khu công nghiệp”, “tỉnh hóa các khu
kinh tế”, “tỉnh hóa các trường đại học”... Hệ quả tất yếu của những vấn đề trên là áp lực đầu tư
địa phương lớn, là đầu tư dàn trải, manh mún và lãng phí.
Trong nền kinh tế hiện nay gặp không ít khó khăn, lạm phát, lãi suất vay tăng, doanh nghiệp
không đủ lợi nhuận, thậm chí là thua lỗ dẫn đến thiếu khả năng thanh toán, trả nợ ngân hàng và
bù đắp thâm hụt.
3.2 Thực trạng huy động nguồn vốn dân cư và tư nhân:
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các
doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và dân cư hay cụ
thể là hộ gia đình có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế địa phương. Bên cạnh đó,
phần vốn này cũng đóng góp đáng kể vào quy mô đầu tư của toàn xã hội. Tuy nhiên, nguồn vốn
dân cư và phần nào nguồn vốn tư nhân là nguồn vốn đa phần tồn tại trong các cá nhân và có số
lượng lớn doanh nhỏ và vừa. Điều này rất khó khăn trong việc cập nhật số liệu thống kê nên đây
chính là lý do chính trong việc đưa con số cụ thể chi tiết cho nguồn vốn dân cư và tư nhân.
3.2.1 Huy động nguồn vốn trong dân cư :
15
3.2.1.1 Tiết kiệm, đầu tư trong dân cư và mối quan hệ
Nguồn vốn huy động trong dân cư thực tế là phần vốn được trích (nếu là ngân hàng huy động)
hay được người dân đưa ra đầu tư dựa trên số tiền tiết kiệm.
Biểu đồ. Cơ cấu tiết kiệm theo khu vực thể chế
Tiết kiệm của hộ gia đình rơi vào khoảng 35% trên tổng tiết kiệm. Tuy nhiên con số này không
ổn định qua các năm và có xu hưởng giảm. Xu hướng này là do khi luật doanh nghiệp ra đời vào
năm 2001 làm cho số lượng doanh nghiệp cũng như lượng tiết kiệm tăng lên, trong khi tiết kiệm
khu vực dân cư giảm và chuyển sang tiết kiệm doanh nghiệp (khi luật về chuyển từ kinh doanh
hộ gia đình sang doanh nghiệp). Từ năm 2002 - 2012, theo số liệu thu tập của Vietbaohiem.com
thu nhập cá nhân tăng liên tục, gấp 6 lần. Hằng năm, người dân luôn tiết kiệm từ 12% - 20% trên
tổng thu nhập để phục vụ cho các mục đích đầu tư, dự phòng, tích lũy... Báo cáo cũng cho thấy
người tiêu dùng Việt Nam là người có xu hướng tiết kiệm cao trên thế giới (79%) và họ đã thay
đổi thói quen chi tiêu trong thời gian qua để hạn chế chi phí phát sinh trong cuộc sống của mình.
Theo Cafef 17/02/2016
Tỷ lệ tiết kiệm so với thu nhập gia tăng theo thời gian chứng tỏ càng có thu nhập cao, dân cư
càng có điều kiện để dành nhiều hơn. Tuy tỷ lệ tiết kiệm so với thu nhập tăng tức về mặt số
lượng tiết kiệm tăng khá rõ rệt nhưng chưa đạt tốc độ tăng so với tiết kiệm doanh nghiệp nên về
cơ cấu nguông tiết kiệm này còn chưa cao và có thể giảm.
Nguồn vốn tiết kiệm trong dân dưới dạng tiền, hoạt động tài sản có giá trị, hoặc gửi tiền tiết
kiệm và một phần dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư nhưng phần lớn là đầu tư ngắn hạn. Như
vậy tiền tiết kiệm càng nhiều càng làm nguồn vốn đầu tư tăng (về số lượng). theo ước tính của
bộ kế hoạch và đầu tư, tiết kiệm của dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân
khoảng 15% GDP, và chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
16
Báo cáo cũng cho thấy người tiêu dùng Việt Nam là người có xu hướng tiết kiệm cao trên thế
giới (79%) và họ đã thay đổi thói quen chi tiêu trong thời gian qua để hạn chế chi phí phát sinh
trong cuộc sống của mình.
Như vậy tiền tiết kiệm càng nhiều càng làm nguồn vốn đầu tư tăng (về số lượng). theo ước tính
của bộ kế hoạch và đầu tư
Tiết kiệm của dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP, và
chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
3.2.1.2 1.2. Thực trạng huy động vốn dân cư
Biểu đồ. Tỷ lệ đầu tư theo khu vực giai đoạn 1995-2007 (%GDP)
Khu vực hộ gia đình là khu vực cho vay ròng. Trung bình trong giai đoạn hộ gia đình tiết kiệm
10.3% GDP và tương ứng đầu tư là 4.2%. Năm 2001 lượng đầu tư từ khu vực dân cư giảm do có
sự chuyển lại hình kinh tế từ hộ gia đình sang doanh nghiệp. điều này cũng lý giải cho khu vực
doanh nghiệp có tỷ lệ đầu tư cao hơn so với hai khu vực còn lại.
Nguồn: giáo trình Kinh tế đầu tư
Qua số liệu trên có thể thấy rằng lượng tiền tiết kiệm trong dân cư phục vụ cho hoạt động đầu
tư còn chiểm tỉ trọng rất nhỏ nhưng đây là nguồn vốn linh hoạt, dễ tiếp cận và dễ dàng huy động
cho các công trình đầu tư ngắn hạn.
Nguồn vốn từ dân cư còn phải kể đến lượng vàng dự trữ trong khu vực dân cư. Theo Cafef, tại
thời điểm năm 2014, chỉ tính trên số lượng vàng xuất nhập khẩu mấy năm qua, không bao gồm
lượng vàng trong dân đã tích lũy từ trước thì lượng vàng trong dân có khoảng 300 – 500 tấn.
Nguồn lực này là rất lớn và để huy động được lượng lớn vàng này nhiều chuyên gia đã đề xuất
việc phát hành chứng chỉ gửi vàng, số vàng huy động sẽ được sử dụng làm tài sản thế chấp cho
các ngân hàng hay tổ chức tài chính nước ngoài để vay ngoại tệ với lãi suất thấp. Từ đó, đưa vốn
vào đầu tư, phục vụ cho các dự án sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Đặc biệt, theo Bộ Tài chính, nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội của VN những năm tới rất
17
lớn, nhưng dự kiến đến tháng 7.2017 có thể không còn được vay vốn ODA mà phải chuyển sang
sử dụng nguồn vay ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường với lãi suất cao. Bởi vậy, việc
nghiên cứu giải pháp huy động có hiệu quả nguồn lực vàng trong dân cho phát triển kinh tế là rất
cấp bách trong điều kiện hiện nay.
Nhìn chung nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc và thu nhập, chi tiêu của các hộ gia đình.
Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào trình độ phát triển của đất nước (ở những nước
có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp ); tập quán tiêu dùng của dân
cư, chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng
góp của xã hội.
3.2.2 Huy động nguồn vốn tư nhân:
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp tư nhân mới có cơ hội
phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh,…Theo
ý kiến về nguồn cung cấp các thương vụ đầu tư, với nguồn vốn ngày càng mở rộng và linh hoạt
các công ty tư nhân liên tục là nguồn cung cấp chính của các thương vụ với 34% lựa chọn.
Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hiện nay cả nước
hiện có khoảng 600.000 doanh nghiệp với khoảng 500.000 doanh nghiệp tư nhân. Trong đó:
96% là doanh nghiệp nhỏ và vừa và hơn 96% là doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và siêu
nhỏ, chỉ có khoảng 2% doanh nghiệp quy mô vừa và 2% doanh nghiệp lớn
Với khoảng vài trăm ngàn doanh nghiệp dân doanh đã, đang và sẽ đi vào hoạt động phần tích
lũy của các doanh nghiệp này cũng sẽ góp phần đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội.
18
Giai đoạn 2006 -2014, nguồn vốn khu vực tư nhân có tốc độ tăng trưởng bình quân 155%/năm.
Phần vốn dành cho tài sản cố định và đầu tư dài hạn tăng trưởng bình quân 214,4%/năm (gấp
28,3 lần), vốn đầu tư phát triển tăng bình quân hàng năm 34%, gấp 3,04 lần trong vòng 09 năm.
Xét về cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn tư nhân không chỉ luôn chiếm vị trí thứ 02 giữa
03 khu vực, mà còn có xu hướng tăng nhẹ từ mức 22% năm 2000 lên 38,4% năm 2014, trong khi
khu vực FDI lại giảm rõ rệt từ mức cao nhất 30,9% năm 2008 về mức 21,7% năm 2014 và khu
vực kinh tế nhà nước giảm từ 47% năm 2006 về khoảng 40% năm 2014. Ngay những giai đoạn
kinh tế khó khăn (2008-2009 và 2011-2013) thì vốn đầu tư khu vực tư nhân vẫn tăng cho thấy
tính ổn định, bền vững của khu vực này.
3.3 Thực trạng sử dụng nguồn vốn nhà nước:
3.3.1 Thực trạng sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước:
Thực tiễn những năm qua cho thấy, đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước vào các chương trình, dự
án có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất
nước. Vốn nhà nước bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước (NSNN), vốn tín dụng do Nhà nước bảo
lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà
nước và các nguồn vốn khác do Nhà nước quản lý.
CƠ CẤU VỐN ĐẦU TƯ TRONG TỔNG NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC
Nguồn: Tổng cục thống kê
Thực tiễn những năm qua cho thấy, đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước vào các chương trình, dự
án có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất
nước. Vốn nhà nước bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước (NSNN), vốn tín dụng do Nhà nước bảo
lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà
nước và các nguồn vốn khác do Nhà nước quản lý.
Trong tổng vốn, giá trị vốn đầu tư nhà nước từ 2010 - 2014, vốn đầu tư từ NSNN luôn đứng
đầu qua các năm. Điều này phản ánh thực tế gia tăng chi tiêu công của Nhà nước cho phát triển
kinh tế - xã hội trong thời gian qua.Tỷ lệ giữa vốn đầu tư từ NSNN/tổng vốn đầu tư của Nhà
nước luôn chiếm tỷ trọng cao nhất tuy giảm dần qua các năm. Vốn tín dụng nhà nước cũng tăng
nhanh trong những năm gần đây. Tình trạng đầu tư dàn trải vẫn chưa có giải pháp khắc phục triệt
để: năm 2010, các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương phân bổ vốn ngân sách nhà nước cho
tổng số 16.658 dự án với số vốn bình quân phân bổ cho dự án là gần 7 tỷ đồng; vốn bình quân
phân bổ cho dự án nhóm A ở trung ương năm 2010 xấp xỉ 115 nghìn tỷ đồng.Đến năm 2011, quy
mô trung bình một dự án đầu tư là 11 tỷ đồng/dự án; năm 2012 tăng lên là 17 tỷ đồng dự án.
Hiệu quả đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước
19
Đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước tác động sâu sắc đến rất nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội, do vậy, cần có cách tiếp cận toàn diện và bao quát để xem xét, đánh giá về hiệu quả kinh
tế - xã hội của đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước.
Giai đoạn 2001 - 2010, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư, tỷ trọng vốn
đầu tư so GDP bình quân cả giai đoạn là 38,7%, trong đó vốn đầu tư từ khu vực kinh tế nhà nước
chiếm tỷ trọng lớn. Giai đoạn 2011 - 2015, thực hiện chủ trương tái cơ cấu đầu tư, mà trọng tâm
là đầu tư công, tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội so GDP đã giảm từ 38,7% giai đoạn 2001 - 2010
xuống còn 33,3% năm 2011, và khoảng 31% giai đoạn 2012 - 2015. Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu
vực kinh tế nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2011 - 2015 cũng giảm xuống
còn 41% (2001-2010 khoàng 45,72%), trong đó tỷ trọng vốn đầu tư từ NSNN giảm xuống
21,3%, ước thực hiện năm 2015 tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực kinh tế nhà nước nói chung và từ
NSNN nói riêng lần lượt là 37,6% và 17,5%. Trong khi đó, việc huy động vốn đầu tư từ khu vực
ngoài nhà nước đã thu được kết quả nhiều hơn, tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực tư nhân và khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng tương ứng lên mức bình quân 39,4% và 17,6% giai đoạn
2011 - 2015.
Không chỉ giảm về tỷ trọng và tốc độ tăng của vốn đầu tư công, chính sách tái cơ cấu đầu tư
cũng đã định hình lại các lĩnh vực nhà nước ưu tiên đầu tư. Đó là tập trung vào các dự án quan
trọng quốc gia, các dự án khó có khả năng thu hồi vốn, các dự án mà khu vực tư nhân không thể
và không muốn làm, hạn chế tối đa tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu hiệu quả, đồng thời khuyến
khích đầu tư tư nhân ở những lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn.
Nhằm tăng cường hiệu quả đầu tư công, một số chính sách quan trọng về định hướng lĩnh vực
đầu tư công đã được ban hành, bao gồm:
1. Luật NSNN 2015 xác định rõ nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương (Điều 36) trong lĩnh
vực đầu tư công, bao gồm: Đầu tư cho các dự án, bao gồm cả các dự án có tính chất liên
vùng, khu vực của các cơ quan ở trung ương theo các lĩnh vực; Đầu tư và hỗ trợ vốn cho
các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích do Nhà nước đặt hàng; các tổ chức
kinh tế; các tổ chức tài chính của trung ương; đầu tư vốn nhà nước vào DN theo quy định
của pháp luật.
Nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương (Điều 38) trong lĩnh vực đầu tư công, bao gồm:
Đầu tư cho các dự án do địa phương quản lý theo các lĩnh vực; Đầu tư và hỗ trợ vốn cho
các DN cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích do Nhà nước đặt hàng, các tổ chức kinh tế,
các tổ chức tài chính của địa phương.
2. Định hướng đầu tư vốn cho các DN đã được thể chế hóa trong Luật Quản lý, sử dụng vốn
nhà nước đầu tư vào sản xuất - kinh doanh tại DN được thông qua tại Kỳ họp thứ 8 Quốc
hội khóa XIII. Cụ thể: Đầu tư vốn nhà nước để thành lập DN; Đầu tư bổ sung vốn điều lệ;
Đầu tư bổ sung vốn nhà nước để tiếp tục duy trì tỷ lệ cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; Đầu tư vốn nhà nước
để mua lại một phần hoặc toàn bộ DN.
Như vậy, việc cơ cấu lại đầu tư công, tập trung vào những dự án trọng điểm có tầm quan
trọng, có tác động lan tỏa thay thế cho cơ chế đầu tư dàn trải, phân tán trước đây sẽ góp
phần kích thích các nguồn vốn khác trong nền kinh tế.
3. Tiếp tục hoàn thiện nguyên tắc phân bổ vốn đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN giai
đoạn 2016-2020.
20
Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định các
tiêu chí phân bổ vốn đầu tư phát triển trong cân đối (không bao gồm đầu tư từ thu sử dụng
đất) giai đoạn 2011-2015 cho các địa phương gồm 5 nhóm: (i) dân số, (ii) trình độ phát
triển, (iii) diện tích, (iv) đơn vị hành chính cấp huyện; (v) các tiêu chí bổ sung. Quyết định
số 40/2015/QĐ-TTg ngày 14/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ kế thừa các tiêu phân bổ
vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN cho giai đoạn 2016 – 2020, riêng các tiêu chí bổ sung
đã có sự thay đổi cơ bản, chuyển từ khu vực phát triển (thành phố đặc biệt, thành phố trực
thuộc Trung ương, vùng kinh tế trọng điểm…) sang khu vực khó khăn và đặc biệt khó khăn
(xã ATK, xã biên giới đất liền).
Việc phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN phải đảm bảo nguyên tắc là để thực hiện
các mục tiêu, định hướng phát triển tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 2020, Kế hoạch phát triển KT - XH 5 năm 2016 - 2020 của quốc gia, của các ngành, lĩnh
vực, địa phương, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các quy hoạch ngành, lĩnh vực đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Định hướng cơ bản là việc phân bổ vốn phải phù hợp
với khả năng cân đối vốn đầu tư từ nguồn NSNN và thu hút các nguồn vốn đầu tư của các
thành phần kinh tế khác, của từng ngành, lĩnh vực và địa phương; cũng như phải đảm bảo
tính tập trung, khắc phục tình trạng phân tán, dàn trải, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư.
Rõ ràng, chương trình tái cơ cấu đầu tư công đã tạo chuyển biến tích cực trong giảm tỷ trọng
đầu tư từ nguồn NSNN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nỗ lực khắc phục vấn đề lâu năm của
đầu tư từ NSNN, như: Đầu tư dàn trải, chậm tiến độ, dự án đầu tư kéo dài, chậm đưa vào sử
dụng, hiệu quả đầu tư thấp,…
Đầu tư sử dụng vốn nhà nước tập trung cho đầu tư phát triển các hệ thống kết cấu hạ tầng kinh
tế và xã hội, đã làm thay đổi cơ bản về năng lực của các hệ thống này ở cấp quốc gia, vùng và
lãnh thổ; góp phần quan trọng tạo ra sự tăng trưởng cao và ổn định về kinh tế trong nhiều năm
qua. Đặc biệt, đầu tư sử dụng vốn nhà nước là nhân tố chủ chốt tạo nên những nền tảng quan
trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như:
• Hệ thống giao thông đường bộ quốc gia; hệ thống cảng biển, cảng hàng không quốc gia;
hệ thống giao thông và viễn thông nông thôn (đã có đường ô-tô và thông tin bằng điện
thoại tới tất cả các trung tâm xã trong cả nước)
• Hệ thống cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ quốc gia; đã thực hiện kiên cố
hóa được phần lớn các trường bậc học phổ thông trên phạm vi cả nước
• Hệ thống các cơ sở khám, chữa bệnh từ Trung ương đến địa phương
• Hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở trên phạm vi cả nước bước đầu đáp ứng được một phần
nhu cầu cơ bản của xã hội; Góp phần xây dựng mạng lưới đô thị theo hướng hiện đại
• Hệ thống đô thị quốc gia được mở rộng, phát triển nhanh cả về quy mô, số lượng và chất
lượng. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tại các vùng nông thôn đã được cải thiện
đáng kể.
Nhìn chung, hoạt động đầu tư vốn nhà nước trong những năm vừa qua có một vị trí, vai trò rất
quan trọng, đã giữ vai trò chủ đạo và góp phần thu hút được nhiều nguồn lực trong nước và
ngoài nước cho đầu tư phát triển, góp phần tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế quan
21
trọng, được thế giới đánh giá cao và tin tưởng vào sự phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam,
từ đó nâng cao vị thế chính trị và kinh tế của VN trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, hiệu quả đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà
nước trong thời gian qua chưa cao, có thể tham khảo qua chỉ số ICOR.
ICOR CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC
Quốc gia
Lào
Malaisia
Philipine
Việt Nam
Giai đoạn 2006-2010
5,94
1,26
7,85
8,31
Giai đoạn 2011-2013
5,05
7,85
6,58
9,2
Nguồn: Tổng cục thống kê
Xét về tổng thể, hiệu quả đầu tư của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua
vẫn chưa xứng so với tiềm năng. Chỉ số ICOR của kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-2010 là 8,31
đã tăng lên mức 9,2 trong giai đoạn 2011-2013.Tình trạng đầu tư phong trào, rập khuôn của
nhiều ngành, địa phương vẫn diễn ra phổ biến và không thực sự chú trọng tới hiệu quả lợi thế so
sánh của địa phương. Hiệu quả đầu tư vẫn còn thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR vẫn tiếp tục tăng
và ở mức cao so với các nước trong khu vực như Lào, Philipine..
Nguyên nhân làm cho ICOR của Việt Nam cao một phần là do Việt Nam đang trong giai đoạn
tập trung đầu tư cho hạ tầng cơ sở, bao gồm cả hạ tầng cơ sở ở vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho
xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Nhưng mặt chủ quan vẫn là cơ chế quản lý đầu tư
xây dựng lỏng lẻo, lãng phí nghiêm trọng, quy hoạch đầu chưa hợp lý.Mức chi ngân sách nhà
nước ở Việt Nam trong những năm gần đây lên mức khá cao, Tình trạng các dự án đầu tư chậm
tiến độ vẫn còn phổ biến. Còn không ít dự án đầu tư có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả,
không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội, cá biệt có những dự án, nội dung đầu tư
trùng lắp, chồng chéo, gây cản trở hoặc làm mất hiệu quả của các dự án đã được đầu tư trước đó.
Việc xử lý các sai phạm trong quản lý đầu tư và xây dựng chưa kịp thời, nghiêm minh. Việc
quy trách nhiệm cho các đối tượng có liên quan trong quá trình đầu tư dự án không rõ ràng, cụ
thể, không đủ sức răn đe nên chưa có tác động tích cực trong việc hạn chế, đẩy lùi tình trạng lãng
phí, tham ô, thất thoát trong đầu tư, xây dựng. Vì vậy, đã làm giảm lòng tin của người dân vào
các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực quản lý đầu tư công.
Mặc dù đã phân cấp triệt để về quản lý đầu tư công cho các Bộ, ngành và cấp tỉnh, song nguồn
nhân lực ở các địa phương chưa được đào tạo, chuẩn bị cho việc phân cấp đầu tư; năng lực của
các Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, Tư vấn lập dự án, Tư vấn giám sát thi công chất lượng công
trình… không đáp ứng các điều kiện quy định của pháp luật hiện hành.
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân sau:
•
Do đầu tư phân tán, vốn ưu tiên được phân bổ vào quá nhiều dự án; các dự án thường bị
thiếu vốn và kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí đầu tư và chậm đưa công trình vào sử dụng;
22
đầu tư phân tán, dàn trải dẫn đến dư thừa công suất, tỷ suất sử dụng công trình không đạt
như dự kiến, chi phí vận hành không giảm; đầu tư thiếu đồng bộ, thiếu quy hoạch, thiếu
kế hoạch chi tiết, đầu tư các dự án không cần thiết dẫn tới công trình cụ thể hoàn thành
mà không đưa vào sử dụng được hoặc công trình dở dang, không hoàn thành được, lãng
phí vốn đầu tư.
•
Quản lý và giám sát đầu tư còn yếu kém làm thất thoát vốn đầu tư và chưa đảm bảo chất
lượng và hiệu quả công trình như dự kiến; phân cấp quyết định và sử dụng vốn đầu tư
chưa kèm với giám sát, kiểm soát chất lượng và hiệu quả đầu tư.
•
Cơ chế khuyến khích, ưu đãi đầu tư và quản lý đầu tư chưa hợp lý, còn dàn trải, chưa có
mục tiêu và điều kiện ràng buộc rõ ràng, cụ thể; chưa hướng được đầu tư vào các ngành
công nghệ cao, ngành có lợi thế cạnh tranh, có tác động và đóng góp lớn cho tăng trưởng
kinh tế.
•
Tình trạng thiếu trách nhiệm, không sâu sát thực tế, chỉ quan tâm đến lợi ích cục bộ, lợi
ích nhóm, bệnh thành tích theo nhiệm kỳ, thiếu tuân thủ các quy định về chuẩn bị đầu tư,
thẩm quyền quyết định đầu tư, vi phạm quy hoạch đã được phê duyệt… là những nguyên
nhân dẫn đến những quyết định đầu tư chưa đúng. Trong nhiều dự án, chủ đầu tư quản lý
đầu tư xây dựng tách rời người vận hành công trình sau khi công trình được đưa vào sử
dụng nên chủ đầu tư thường buông lỏng trách nhiệm kiểm soát nhà thầu; có trường hợp
chủ đầu tư, nhà thầu câu kết với nhau để thực hiện các hành vi sai trái.
•
Năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức chưa ngang tầm, yếu kém trong
công tác chỉ đạo, điều hành gây thất thoát, lãng phí trong quá trình triển khai thực hiện
đầu tư. Ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương, phẩm chất, trình độ cán bộ, công tác chỉ
đạo, điều hành, quản lý dự án đầu tư xây dựng còn kém.
•
Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chưa thường xuyên, liên tục, công tác giám sát,
đánh giá đầu tư chưa được coi trọng. Công tác giám sát nội bộ hiệu quả thấp. Hầu như rất
ít vụ tham nhũng gây thất thoát, lãng phí được phát hiện thông qua giám sát nội bộ hoặc
giám sát của đại diện chủ sở hữu hoặc giám sát của cơ quan quản lý nhà nước.
3.3.2 Thực trạng sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển(TDĐTPT)
23
TỶ TRỌNG VỐN TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRÊN GDP( đơn vị: %)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nguồn vốn TDĐTPT đóng vai trò là công cụ tài chính – tín dụng đắc lực của Chính phủ trong
thực hiện chính sách đầu tư phát triển của Nhà nước để phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời
kỳ. Vai trò này của TDĐTPT được thể hiện trên một số mặt sau:
• Thông qua việc đẩy mạnh cho vay đầu tư, vốn TDĐTPT đã góp phần tăng cường cơ sở
vật chất, gia tăng giá trị tài sản cố định cho nền kinh tế.. Điều này có thể kể đến qua các
chương trình, dự án nổi bật như: Thủy điện Sơn La; Thủy điện Lai Châu, Dự án Nhà máy
lọc dầu Dung Quất; Tổ hợp Khí - Điện - Đạm Cà Mau; Đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải
Phòng…
• Vốn TDĐTPT hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực then chốt, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Cụ thể, vốn TDĐTPT giai đoạn
2000 – 2013 đã tập trung cho vay hơn 60.000 tỷ đồng vào ngành điện, gần 20.000 tỷ
đồng vào ngành xi măng, hơn 15.000 tỷ đồng cho ngành hóa chất… góp phần hình thành,
phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, then chốt có vai trò lan tỏa cao, hỗ trợ sự phát
triển của các ngành công nghiệp khác trong nền kinh tế.
• Vốn TDĐTPT đã được sử dụng để cho vay đầu tư vào các địa bàn có điều kiện khó khăn,
góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Thông qua các dự án, chương trình kinh tế trọng điểm, hàng trăm ngàn km kênh mương,
đường giao thông nông thôn đã được xây dựng, bê tông hóa… Các chương trình, dự án
này đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, góp phần làm thay đổi diện
mạo nông thôn, đặc biệt là các tỉnh miền núi, các địa bàn đặc biệt khó khăn, như: Bắc
Kạn, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Đắc Lăk, Bình Phước, Sóc Trăng…
• Với những lĩnh vực hiệu quả đầu tư thấp, thời gian thu hồi vốn dài, khó thu hút vốn đầu
tư ngoài xã hội, như: các công trình cấp nước sạch, xử lý nước thải, rác thải, xây dựng
nhà ở cho người thu nhập thấp, ký túc xá sinh viên… thì vốn TDĐTPT đã được sử dụng,
góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Nguồn vốn TDĐTPT còn có vai trò là nguồn để huy
động nguồn lực khác tham gia vào xã hội hóa y tế, giáo dục, xử lý rác thải, nước thải…
Bên cạnh những hiệu quả to lớn mà vốn TDĐTPT đem lại, nó cũng còn bộc lộ một số tồn tại sau:
• Quy trình cho vay còn phức tạp, không minh bạch
• Công tác thu hồi nợ, xử lý nợ còn chậm chạp
• Đối tượng cho vay TDĐTPT còn dàn trải, chưa thật sự tập trung cho vay vào các dự án
trọng điểm, các ngành then chốt, các vùng khó khăn. Vốn tín đụng đầu tư phát triển còn
bị phân tán ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
• Rủi ro hoạt động nghiệp vụ cao, tiềm lực tài chính và khả năng bù đắp rủi ro của tổ chức
cho vay TDĐTPT thấp.
• Thực trạng ứng dụng CNTT ở VDB vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù Luật Phòng chống
rửa tiền của Việt Nam đã đi vào hoạt động, nhưng ứng dụng CNTT vào phòng, chống rửa
24
tiền tại các ngân hàng chưa đáp ứng đủ yêu cầu. Ngoài ra, kiến thức hiểu biết về hoạt
động phòng, chống rửa tiền của những người chuyên trách còn chưa nắm rõ. Điều quan
trọng là ngân sách dành để đầu tư trong lĩnh vực CNTT còn rất hạn chế. Hiện nay, nhiều
ngân hàng mới chỉ quan tâm tới mục tiêu bảo đảm an toàn giao dịch mà chưa chú trọng
đến việc xây dựng và sử dụng phần mềm an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh
mạng.
3.3.3 Thực trạng sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà
nước(DNNN)
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là công cụ mà Nhà nước sử dụng để huy động vốn tập trung
vào những ngành mang tính chiến lược. Thông qua các DNNN cho phép Nhà nước thực hiện các
chính sách, các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Cho đến nay các DNNN vẫn giữ
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hầu hết các sản phẩm dịch vụ công ích, các điều kiện hạ
tầng cơ sở, hạ tầng kĩ thuật cho các thành phần kinh tế và là nguồn thu chủ yếu của NSNN.
Trong những năm gần đây, các DNNN được biết đến với những kết quả kinh doanh không khả
quan, thậm chí lỗ đến mức báo động. Có thể kể đến những DNNN càng kinh doanh càng lỗ đã
được Kiểm toán Nhà nước liệt kê (năm 2014) là: Cty mẹ Cienco 5 lỗ đầu tư tài chính 11, 4 tỷ
đồng; 5/50 Cty do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư thua lỗ 3.702 tỷ đồng và 11/31 Cty
do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đầu tư thua lỗ 6.342 tỷ đồng. Ngoài ra, 7/24 Cty do Tổng
Cty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) đầu tư lỗ lũy kế 339, 6 tỷ đồng; 6/57 Cty thuộc Tập
đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) lỗ 118, 3 tỷ đồng; 3/8 Cty liên doanh,
liên kết do Cty mẹ Tổng Cty Sông Đà đầu tư thua lỗ và 5/24 Cty liên doanh, liên kết do Tổng Cty
ô tô đầu tư thua lỗ. Tiếp sau là danh sách các Cty kinh doanh tới mức âm VCSH như 3/10 Cty
thuộc Cienco 5 (âm 53, 7 tỷ đồng); Cty Thực phẩm Miền Bắc thuộc Tổng Cty Thuốc lá (âm 166,
74 tỷ đồng). Tình trạng lỗ lũy kế lớn hơn vốn điều lệ /vốn đầu tư của chủ sở hữu gồm hàng loạt
các Cty liên doanh vốn Việt Nam và nước ngoài, thuộc ngành bất động sản, xây dựng và cả tài
chính, với tỷ lệ lỗ gấp 1, 3 đến 3 lần vốn chủ.
Hiện DNNN chiếm 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn Nhà nước, 60% tín dụng, 79% tổng
nợ khó đòi của các ngân hàng thương mại và 70% vốn ODA, thế nhưng chỉ đóng góp khoảng
30% tăng trưởng GDP. DNNN bao gồm các tập đoàn, tổng Cty đang nắm giữ những vị trí then
chốt trong nền kinh tế như: ngân hàng, năng lượng, cơ khí, hóa chất..., tuy nhiên hiệu quả hoạt
động chưa đáp ứng được kỳ vọng. Vai trò kinh tế của khu vực DNNN trong thời gian qua chưa
cao và đang ngày càng suy giảm. Phần lớn DN Nhà nước ở Việt Nam mặc dù có hệ số nợ cao
hơn nhiều so với các DN tư nhân, tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận VCSH (ROE) của các DNNN lại
rất thấp. Các DNNN để xảy ra kết quả như trên là do rất nhiều nguyên nhân, xét trên góc độ tài
chính DN, có thể kể đến một số nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất, cơ cấu vốn chưa hợp lý
Khi xem xét đến cơ cấu vốn của DN, thường chỉ xét đến vốn dài hạn mà không đề cập
đến vốn ngắn hạn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về cơ cấu vốn của DNNN lại thấy rằng vốn
ngắn hạn chiếm tỷ trọng khá lớn. Hệ số nợ của các DNNN quá cao nên chứa đựng nhiều
rủi ro tiềm ẩn. Mặt khác, các DNNN chủ yếu hoạt động bằng nợ ngắn hạn, trong khi lại
đầu tư dài hạn nhiều, điều này biểu hiện sự mất cân đối trong cơ cấu vốn, chưa kể đến nợ
quá hạn của các DNNN cũng chiếm khá cao. Hơn nữa, trên thực tế, các DN sử dụng vốn
Nhà nước với chi phí phải trả rất thấp nên các DNNN chưa có kế hoạch xác định cơ cấu
vốn tối ưu mà hoàn toàn bị động vào nguồn vốn Ngân sách cấp và kế hoạch huy động
vốn ngắn hạn, mang tính chất tình thế.
25