Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Th c tr ng cung c p d ch v vi n th ng n i chung v d ch v i n tho i di ng n i ri ng Vi t Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 57 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> và là website chia sẻ miễn phí luận văn, đồ
án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho
tất cả mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự
đóng góp của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp
tài liệu xin quý khách gửi về

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Thực trạng cung cấp dịch vụ viễn thơng nói chung và dịch vụ điện thoại di động nói riêng
ở Việt Nam

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VIỆC
CUNG CẤP DỊCH VỤ VIỄN THƠNG NĨI CHUNG VÀ DỊCH VỤ ĐIỆN THOẠI
DI ĐỘNG NÓI RIÊNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM.
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
DSL( Digital subcriber line ) : Đường thuê bao số
OFTA( Office of the Telecommunication Authory) : Cơ quan quản lý thông tin
của Hong Kong
MVNO ( Mobile Virtual Network Operator ) : Khai thác mạng di động ảo
ITU ( International Telecommunication Union ) : Liên minh viễn thông quốc tế
IMT -2000 ( International Mobile Telecommunication – 2000) :Thông tin di động quốc tế
– 2000
CDMA ( Code division multiple access ):Di động và vô tuyến cố định.
TDMA ( Time Division Multiple Access )
NTT ( Nippon Telegraph and Telephone )
VTI :Công ty Viễn thông quốc tế
VTN: Công ty viễn thông liên tỉnh
VDC: Cơng ty điện tốn và truyền số liệu.
PTO: Tổ chức Bưư chính Viễn thơng
GIS (Global Information Society ): Xã hội thơng tin tồn cầu



Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />LỜI NĨI ĐẦU
Đứng trước xu thế tồn cầu hố và dưới đường lối đúng đắn của Đảng, Ngành dịch vụ
Viễn thơng nói chung và dịch vụ điện thoại di động nói riêng ở Việt Nam đã đạt được
những thành tựu nhất định. Sơ khai là một ngành với nhũng điều kiện cơ sở vật chất
nghèo nàn, dịch vụ viễn thơng cịn rất lạc hậu. Cho đến nay, ngành Viễn thơng Việt nam
đã hồ nhập với mạng thơng tin tồn cầu, đóng góp vào GDP 0,2% năm 1991 và đến nay
đã lên tới con số 10,5%. Đặc biệt số lượng thuê bao dịch vụ điện thoại di động đã thay
đổi một cách nhanh chóng, từ 4.060 thuê bao năm 1993 lên tới 1.200.000 thuê bao tính
đến hết tháng 3 năm 2005. Trước xu thế hội nhập ngày càng mở rộng, ngành dịch vụ Viễn
thơng nói chung và dịch vụ điện thoại di động nói chung đang bước vào giai đoạn cạnh
tranh rất lớn. Đứng trước những thách thức như vậy, dịch vụ Viễn thơng Việt nam phải có
một chiến lược phát triển phù hợp cũng như có những giải pháp để nâng cao cạnh tranh,
đưa ngành Viễn thông lên một tầm cao hơn nữa.
Với tính nhạy cảm của đề tài, bài viết tập trung nghiên cứu về những giải pháp nâng cao
khả năng cạnh tranh của dịch vụ trên con đường hội nhập quốc tế của Việt nam.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Như Bình trong thời gian qua đã hướng dẫn
tận tình để em có thể hồn thành bài viết này.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VIỆC CUNG
CẤP DỊCH VỤ VIỄN THƠNG NĨI CHUNG VÀ DỊCH VỤ ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG
NÓI RIÊNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM.
I. Lý luận
1. Đặc điểm của dịch vụ Viễn thơng nói chung và dịch vụ điện thoại di động nói
riêng
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO

Trong Hiệp định này các dịch vụ Viễn thông được chia làm hai loại- đó là dịch vụ cơ bản
và dịch vụ giá trị gia tăng trong đó các dịch vụ cơ bản đóng vai trị quan trọng hơn xét từ
góc độ kinh tế, kỹ thuật cũng như chủ quyền an ninh quốc gia.
Bưu chính cũng như viễn thơng vốn là ngành phục vụ việc trao đổi thơng tin. Thời kỳ đầu
nó được dùng cho cơng tác an ninh – quốc phịng, về sau phát triển sang phục vụ cả cho
cơ quan nhà nước các cấp. Mói cho đến sau này ngành bưu chính – viễn thơng chủ yếu
vẫn được coi là một cơ quan sự nghiệp thông tin liên lạc của Nhà nước, do Nhà nước tổ
chức, Nhà nước đài thọ và phục vụ cho sự nghiệp cơng ích. Đến thế kỷ thứ 17-18, khoa
học kỹ thuật bắt đầu phát triển, chủ nghĩa tư bản dần dần hình thành, giao lưu kinh tế –
văn hố tăng lên, thì thơng tin bưu chính, viễn thông ngày càng được nhiều tổ chức và cá
nhân sử dụng.
Máy điện thoại di động là một máy thu phát vơ tuyến điện loại gọn nhỏ, có thể bỏ túi áo,
xách tay, để trên ô tô.
Dịch vụ thông tin di động là dịch vụ thông tin vô tuyến (không dây) rất tiện lợi cho khách
hàng sử dụng. Khách hàng vẫn thơng tin liên lạc bình thường với máy điện thoại cố định,
với máy điện thoại di động trong nước hoặc quốc tế trong khi đi lại bất kì ở nơi nào trong
phạm vi phủ sóng của hệ phát thanh vô tuyến điện.
2.Thể chế thương mại quốc tế liên quan đến dịch vụ Viễn thông(GATS)
2.1. Giới thiệu về GATS:
Đãi ngộ quốc gia của Hiệp định chung về Thương mại và dịch vụ (GATS) bao hàm
những nội dung
Ý nghĩa của đãi ngộ quốc gia là đối xử bình đẳng giữa cơng dân trong nước và cơng dân
nước ngồi. Trong ngành dịch vụ, đãi nộ quốc gia là khi một công ty nước ngồi được

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />phép cung cấp dịch vụ trong phạm vi một nước thì khơng thể tồn tại sự phân biệt giữa
cơng ty bản địa và cơng ty nước ngồi. Theo Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ,
một nước đã cam kết cụ thể cho phép người nước ngoài tiếp cận thị trường dịch vụ, thì sẽ
sẽ phải áp dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Với những ngành mà nước đó chưa cam

kết cụ thể, thì nước đó khơng phải áp dụng đãi ngộ quốc gia. Mặc dù trong cam kết, Hiệp
định chung về thương mại dịch vụ cũng cho phép có thể có một số hạn chế với đãi ngộ
quốc gia.
Điều này khác biệt lớn với những biện pháp áp dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia dành
cho hàng hoá. Đãi ngộ quốc gia với hàng hoá là khi một sản phẩm đến lãnh thổ của một
nước, được hải quan cho thơng quan, thì sản phẩn sẽ được đãi ngộ quốc gia, mặc dù nước
nhập khẩu chưa có bất kỳ một cam kết nào.
2.2. Nội dung của Hiệp định liên quan đến dịch vụ viễn thông
Hiện nay trong Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ của WTO, các dịch vụ viễn
thơng được chia làm hai loại - đó là các dịch vụ cơ bản và các dịch vụ giá trị gia tăng
trong đó các dịch vụ cơ bản đóng vai trị quan trọng hơn xem xét từ góc độ kinh tế, kỹ
thuật cũng như chủ quyền an ninh quốc gia. Nói chung trong thời gian tới mở cửa thị
truờng Viễn thông ở các quốc gia, các tổ chức khu vực đều dựa trên nguyên tắc của WTO
về dịch vụ Viễn thông trong Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ.
Các cuộc đàm phán sẽ được tiến hành trên cơ sở tiến hành tự do hoá thương mại về dịch
vụ và hệ thống truyền tải viễn thông.
Nội dung :
* Thừa nhận tính đặc trưng của lĩnh vực dịch vụ thơng tin Viễn thơng và, đặc biệt, vai trị
kép của lĩnh vực này với tư cách là một lĩnh vực hoạt động kinh tế riêng biệt và một
phương tiện vận tải thiết yếu với các hoạt động kinh tế khác. Chi tiết hoá những quy định
trong Hiệp định về các biện pháp có tác động đến việc tiếp cận và sử dụng mạng lưới vận
tải và dịch vụ viễn thông công cộng.
* Xây dựng các nguyên tắc đa biên liên quan đến tiếp cận thị trường nhằm đảm bảo rằng
các yêu cầu được quy định trong nước được:
+ Xây dựng các chuẩn mực khách quan và minh bạch, như là năng lực và khả năng cung
cấp dịch vụ.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />+ Không nặng nề hơn mức cần thiết để đảm bảo chất lượng dịch vụ, do vậy mới thúc đẩy

được q trình tự do hố các dịch vụ kế tốn một cách có hiệu quả.
* Sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế và làm như vậy sẽ khuyến khích sự hợp tác với các tổ
chức quốc tế có liên quan.
* Tiếp cận và sử dụng dịch vụ và hệ thống thông tin viễn thông công cộng với những điều
khoản và điều kiện hợp lý và không phân biệt đối xử.
* Các thành viên khuyến khích và hỗ trợ sự hợp tác kỹ thuật.
* Thừa nhận tầm quan trọng của các tiêu chuẩn quốc tế để có một tính tương thích tồn
cầu và tính phối hợp thao tác trong dịch vụ mạng thông tin viễn thông.
3.Cạnh tranh và khuôn khổ pháp lý trong quản lý viễn thơng.
3.1.Xu hướng về chính sách cạnh tranh trong Viễn thông.
Tổng quan
Từ cuối nhũng năm 1980 đến cuối nhũng năm 1990, các nước châu á có tốc độ phát triển
kinh tế cao hơn các nước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra một lượng cầu lớn đối
với các dịch vụ Viễn thông, do đó các nước Châu á đã thực hiện nới lỏng, phân cấp các
qui định về phát triển cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng các nhu cầu tăng trưởng này.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra trong khu vực từ tháng 7/1997 đã
ảnh hưởng đến ngành Viễn thông Châu á. Tốc độ tăng trưởng giảm xuống làm cho nhu
cầu về các dịch vụ Viễn thông cũng giảm xuống. Phần này dựa trên những thuật ngữ cơ
bản như “ cạnh tranh “, “tư nhân hoá “ và “ cơ sở hạ tầng viễn thông tiên tiến” để mô tả
các xu hướng về môi trường viễn thông ở Châu á.
Gần đây có nhiều thay đổi trong lĩnh vực Viễn thông. Các công nghệ mới như là Internet
và GMPCS đã được đưa vào thị trường do vậy cần có các chính sách, quy định và các tổ
chức chiu trách nhiệm trong vấn đề khai thác. Vấn đề tự do hoá và bãi bỏ các quy định cũ
đã được đưa ra đối với thị trường viễn thông mới. Các vấn đề mới nảy sinh đối với các
nước thành viên như là cam kết của họ đối với WTO và đã mở rộng đến phạm vi quốc gia
quan tâm về viễn thơng. các nước thành viên đã tự mình có những thay đổi về cơ cấu tổ
chức để đáp ứng các thách thức mới như là chia sẻ khai thác kinh doanh và những quy
định về viễn thông. Tác động trước mắt của Internet và thương mại điện tử đã thúc đẩy
hơn nữa những thay đổi cho cơ chế đang tồn tại về chính sách, quy định và thương mại
trong lĩnh vực viễn thơng.


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Thị trường thế giới về lĩnh vực viễn thông đang ngày càng mở rộng. Nó khơng cịn là vấn
đề “ kéo cầu “ hay “đẩy cung “, cả hai điều này đang xảy ra. Sự tác động lẫn nhau của
hai yếu tố này khiến cho viễn thông trở thành một trong những lĩnh vực có sự tăng trưởng
hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. Nó cũng khiến cho viễn thông trở thành một trong
những ngành quan trọng nhất của hoạt động cã hội, văn hố và chính trị. Điều này đặt ra
một vấn đề có liên quan đến viễn cảnh về xã hội thơng tin tồn cầu (GIS ). Viễn cảnh này
đã là chủ đề trenh luận trong giai đoạn 1995 – 1999, ban đầu là những nước cơng nghiệp
tiên tiến G7, sau đó là trong cộng đồng quốc tế. Ngày nay, những ý tưởng cơ bản ẩn sau
khái niệm GIS đang được chấp nhận một cách rộng rãi. Trong viễn cảnh này mọi hình
thức hoạt động văn hố xã hội, chính trị sẽ ngày càng phụ thuộc vào việc truy nhập
những dịch vụ viễn thông và thông tin của cơ sở hạ tầng thơng tin tồn cầu (GII ). Sự
phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử trên Internet là một ví dụ làm thế nào để
GIS trở thành hiện thực. Thách thức cộng đồng quốc tế đang phả đối mặt đó là phải tìm ra
được những hướng đi để đảm bảo GIS mang tính tồn cầu và rằng mọi người ở mọi nơi
có thể chia sẻ những quyền lợi của nó.
Việc truy nhập các dịch vụ mới sẽ địi hÁi khơng chỉ đối vấn đề cân bằng mà còn đòi hÁi
đối với vấn đề thành công trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin.
Các vấn đề mới như là truy nhập quốc tế và tính cân bằng, thương mại quốc tế và xuyên
suốt các biên giới đối với thơng tin và các chính sách thương mại nội địa đang nổi lên để
thực hiện viễn thông cho hầu hết các lĩnh vực không kiểm sốt được.
Tốc độ thay đổi trog lĩnh vực viễn thơng là rất lớn và các ứng dụng của nó đang trở nên
rộng rãi hơn. Công nghệ, kinh doanh thương mại, môi trường và các tổ chức quốc tế về
viễn thông đang thách thức của xã hội trong lĩnh vực quản lý. Các giải pháp lâu dài cho
vấn đề truy nhập cho các khu vực vùng sâu vùng xa đó là các công nghệ mới như
Cellular, vệ tinh, cáp quang va DSL và chúng đang tăng đáng kể trong toàn bộ thị trường.
Dù sao vẫn có sự khác biệt như độ thoả dụng của dịch vụ bên trong các nước và giữa các
nước. Cơng nghệ mới có khả năng làm tăng thêm hoặc làm giảm mất sự cân bằng giữa

các nước.
3.2.Cạnh tranh và khuôn khổ pháp lý
3.2.1.Các nguyên nhân thúc đẩy cạnh tranh

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Các nước đều nhận thức được rằng muốn thúc đẩy phát triển viễn thơng cần phải có sự
tham gia của nguồn vốn tư nhân. Mở cửa thị trường là phương thúc cơ bản để thu hút các
nguồn vốn tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân mới có giấy phép cung cấp dịch vụ viễn
thông sẽ cạnh tranh với các doanh nghiệp nhà nước và cạnh tranh với nhau. Tự do hố và
phân cấp quản lý là chìa khố để cạnh tranh trong thị trường viễn thông, trong chiến lược
phát triển và thúc đẩy quá trình phân phối hoặc phân phối lại các dịch vụ viễn thơng.
Có ít nhất hai lý do liên quan với mức độ cạnh tranh trong công nghiệp viễn thông
Lý do thứ nhất rất rõ ràng. Đó là lợi ích kinh tế và các lợi ích khác đem lại cho khách
hàng nhờ truy nhập đến các ssản phẩm và dịch vụ mới. Các sản phẩm mới như kết nối
điện thoại vô tuyến điện đang thay thế dần các sản phẩm cũ và cung cấp các dịch vụ cao
cấp như điện thoại vô tuyến, điện thoại di động và truyền số liệu tốc độ cao .Một số dịch
vụ mới hơn đặc biêt có lợi cho khách hàng đang sống và làm việc ở các vùng hẻo lánh. Ví
dụ, tru y nhập Internet đã chứng tÁ khả năng tạo ra các ngành kinh doanh mới.
Thứ hai, có lợi ích kinh tế đáng kể khi ứng dụng các công nghệ mới hiệu quả và kịp thời.
Các lợi ích này bao gồm cả về vĩ mô và vi mô, cả động và tĩnh.Những trì hỗn khơng hợp
lý trong triển khai công nghệ mới hoặc việc thay đổi hướng đầu tư do quản lý giá dẫn đến
chức năng kinh tế không đạt hiệu quả tối đa để tạo thuận lợi cho khách hàng. Trong một
số trường hợp, như đối với công nghệ di động tương tự – tế bào, triển khai chậm chạp dẫn
đến việc ứng dụng công nghệ bị lỗi thời và khi được sử dụng rộng rãi thì kém hiệu quả.
Những trở ngại trong triển khai công nghệ mới cũng làm giảm tỷ lệ tăng trưởng và của
ngành viễn thơng và tồn bộ nền kinh tế.Trong nhiều trường hợp, các chi phí liên quan
đến ảnh hưởng động đơi khi lại cao hơn các chi phí phúc lợi tĩnh.
3.2.2.Vai trị của nhà quản lý trong thị trường cạnh tranh
Vai trò quan trọng của nhà quản lý

Nhà quản lý có vai trị quan trọng trong việc hình thành một thị trường viễn thơng cạnh
tranh. Việc xây dựng các thể chế có ảnh hưởng đến cơ cấu của thị trường. Tại các nước có
mơ hình tổ chức theo kiểu châu Âu dưới dạng Tổ chức Bưu chính Viễn thơng( PTO ) như
Việt Nam và Nhật Bản , vai trò quan trọng nhất của nhà quản lý là xây dựng các điều kiện
cạnh tranh giữa các nhà khai thác độc quyền của nhà nước và các nhà khai thác mới. Nhà
quản lý Viễn thơng cần: thiết lập và duy trì các điều kiện để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả
và lành mạnh, ngăn chặn những ảnh hưởng có hại từ các nhà khai thác lớn và chủ đạo.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Việc định hướng tới thị trường viễn thông cạnh tranh làm tăng hiệu quả quản lý của nhà
khai thác chủ đạo, các tổ chức độc quyền trước đây. Điều này mang lại nhiều lợi ích cho
dân chúng.
Các vấn đề quan tâm của nhà quản lý
Nhìn chung, nhà quản lý có hai nhệm vụ cơ bản. Thứ nhất là thiết lập một thị trường viễn
thơng có hiệu quả và lành mạnh. Thứ hai là xây dựng chính sách đảm bảo mang lại lợi ích
từ sự phát triển viễn thơng đến mọi người dân trong cả nước.
Để hình thành một thị trường cạnh tranh trong ngành viễn thơng, có một số vấn đề cơ bản
mà các cơ quan quản lý nhà nước cần phải quan tâm xem xét:
+Đẩy mạnh việc tách hạch tốn độclập các cơng ty trực thuộc
Nhà quản lý phải tách nhà khai thác chủ đạo và các công ty trực thuộc của nó để tạo điều
kiện thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả, cơng bằng và hợp lý hố cơ cấu doanh nghiệp.
+ Thiết lập cấu trúc mạng mở
Nhà quản lý phải xây dựng các điều kiện kết nối rõ ràng về cả hai mặt kỹ thuật và kinh
tế. Để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả và lành mạnh, các thành viên trực thuộc của nhà khai
thác chủ đạo và các nhà khai thác mới phải được kết nối vào mạng đường trục với các
điều kiện như nhau.
+ Giám sát việc bao cấp chéo
Nhà quản lý cho phép các nhà khai thác chủ đạo tách biệt các loại chi phí trên mạng và cụ
thể hố mỗi chi phí. Nhà quản lý phải ngăn chặn việc bao cấp chéo cho các dịch vụ cạnh

tranh từ các dịch vụ khác. Nhà khai thác chủ đạo cụ thể hoá các điều kiện cung cấp dịch
vụ với các công ty thành viênvà dành cho các nhà khai thác mới điều kiện tương tự.
+Bảo vệ thông tin quản lý của các nhà khai thác mới
Nhà khai thác chủ đạo có thể lấy các thơng tin quản lý của nhà khai thác mới thông qua
đàm phán và kết nối. Nhà quản lý phải có các biện pháp giữ bí mật các thơng tin này
+Khai thác các thơng tin và số liệu đã có
Nhà khai thác chủ đạo đã có các thơng tin và số liệu tích luỹ qua thời gian kinh doanh lâu
dài. Nhà quản lý buộc nhà khai thác chủ đạo công khai các thông tin và số liệu của họ
như thông tin về kỹ thuật cơ bản của mạng, thông tin về tiêu chuẩn hoá, các bỏo cáo
nghiên cứu và phát triển.
+Phân cấp quản lý tại cơ sở của khách hàng ( CPE)

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Nhà quản lý cần đơn giản hoá các quy địng về thiết bị tại cơ sở khách hàng và chỉ cần
kiểm tra chủng loại để kết nối vào mạng. Việc đơn giản hố này sẽ kích thích thị trường
thiết bị tại cơ sở của khách hàng ( CPE )
3.2.3.Những mặt trái của cạnh tranh
Vốn tư nhân không kể trong nước hay nước ngồi sẽ được thu hút thơng qua thị trường
cạnh tranh. Hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân sẽ bị chi phối bởi lợi nhuận và họ
thường không muốn tham gia vào các thị trường phi lợi nhuận. Ví dụ, khu vực nơng thơn
khơng có nhiều hộ gia đình có khả năng sử dụng dịch vụ viễn thơng, các khu vực thành
thị nghèo cũng khó có khả năng sử dụng dịch vụ viễn thông, việc cung cấp tới các vùng
hẻo lánh lại địi hÁi chi phí đầu tư lớn. Các khu vực này không mang lại nhiều lợi nhuận
cho các nhà đầu tư. Vấn đề là ai sẽ lắp đạt các cơ sở viễn thông ở các khu vực khơng có
lợi nhuận.
Chính phủ sẽ có trách nhiệm đảm bảo dịch vụ viễn thông được cung cấp tới mọi người dân
và phải xem xét các biện pháp cung cấp dịch vụ tới các khu vực phi lợi nhuận. Nghĩa vụ
cung cấp dịch vụ phổ cập chính là câu trả lời cho vấn đề này.
Nhìn chung, khu vực kinh tế quốc doanh sẽ phải tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng viễn

thông khi đạt được một mật độ điện thoại nhất định. Các tổ chức chính phủ hoặc công
cộng của các nước đang phát triển không thể tài trợ cho các dự án này bằng nguồn vốn
của mình. Vì vậy, các dự án phát triển viễn thơng phải sử dụng vốn nước ngồi. Tuy
nhiên , Chính phủ cần kiểm soát nguồn vốn này theo chiến lược phát triển kinh tế quốc
gia.
3.3.Kinh nghiệm từ một số nước
Mở

cửa

thị

trường



khuyến

khích

cạnh

tranh

trong

viễn

thơng


Tại Nhật Bản, từ tháng 4/1985 bắt đầu giai đoạn một của quá trình cải cách viễn thơng.
Trong giai đoạn này, Nhật Bản tiến hành mở cửa thị trường viễn thông, bắt đầu có cạnh
tranh và tư nhân hố NTT. Năm 1995 là giai đoạn hai của q trình cải cách với chính
sách cạnh tranh tự do. Những nguyên tắc cạnh tranh bắt đầu được ban hành. Giai đoạn
này tập trung vào chính sách xúc tiến kết nối và cơ cấu lại NTT. Tháng 7/1999, chính
sách cạnh tranh được thúc đẩy xa hơn, chú trọng phổ biến và phát triển Internet, chuẩn bị
cho môi trường truyền thông, xúc tiến và phát triển sử dụng radio. Từ tháng 6/2001, Nhật
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Bản có thêm chính sách mới cho khuyến khích cạnh tranh trong đấu thầu để xúc tiến cách
mạng công nghệ thông tin và xúc tiến xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan đến công nghệ
thông tin. Uỷ ban giải quyết tranh chấp trong kinh doanh viễn thông và cơ cấu quỹ phổ
cập dịch vụ được thành lập . NTT được mở rộng sự tự do trong điều hành kinh doanh.
Nhờ chính sách khuyến khích cạnh tranh nên số nhà khai thác trong thị trường viễn thơng
đó tăng lên đáng kể. Vào tháng 1/1985 Nhật Bản có tổng số 87 nhà khai thác, đến tháng
6/2003 tổng số đó có 11.540 nhà khai thác, gấp 132 lần so với 18 năm trước đó. Cước phí
dịch vụ viễn thơng cũng giảm đều. Cước điện thoại đường dài và dịch vụ điện thoại quốc
tế hiện nay chỉ còn bằng chưa đến 10% so với năm 1985. Thói quen sử dụng dịch vụ điện
thoại di động cũng thay đổi. Đến tháng 11/2000, số thuê bao di động đó vượt số thuê bao
cố định. Vào thời điểm này, số thuê bao di động đó đạt 62,8 triệu trong khi thuê bao cố
định mới đạt 62,2 triệu.
Số lượng thuê bao băng rộng đặc biệt là DSL đó tăng mạnh. Tháng 9/2003 đó có 12,29
triệu thuờ bao trong đó có hơn 9,2 triệu thuờ bao DSL.
Sau 3 năm nữa giấy phép khai thác dịch vụ di động thế hệ thứ hai (2G) sẽ hết hạn ở một
số nước. Các nhà quản lý sẽ phải xem xét cấp các giấy phép mới cho các nhà khai thác
2G, có tiếp tục chuyển sang nắm giữ kinh doanh 3G, bao gồm cả phổ tần số hay là
chuyển nú cho các nhà khai thác mới. Các nhà quản lý cũng sẽ phải xem xét cần thiết có
bao nhiêu nhà khai thác cạnh tranh với nhau trên thị trường của họ: Nói một cách đơn
giản, có nhiều thành viên tham gia cạnh tranh có nghĩa là sự cạnh trạnh diễn ra càng
mạnh, tuy nhiên thị trường sẽ như thế nào nếu có quá nhiều nhà khai thác. Chắc chắn là

sẽ khởi động một cuôc chiến giữa các nhà tham gia khai thác 3G, khi mà họ cảm thấy
phải trả quá nhiều cho giấy phép của mình, và một sự xâm nhập mới sẽ làm giảm giá trị
đầu tư của họ.
Tại khu vực châu Á - ThÁi Bình Dương, các nhà quản lý HongKong, OFTA, cấp giấy
phép kinh doanh 2G có thời hạn ngắn hơn các loại giấy phép khác. Do mức độ thấp của
mật độ dich vụ mobile data ở Hongkong OFTA muốn làm sôi động thị trường này bằng
việc làm hội tụ các nhà khai thác 3G.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Đề xuất của OFTA
Hongkong là một trong những nơi có sự cạnh tranh cao trong thị trường viễn thơng trên
thế giới. Hongkong có 11 mạng 2G của 6 nhà khai thác dịch vụ trên số dân là 8,7 triệu
người, mật độ gần như bóo hồ. OFTA đấu giá 4 giấy phép 3G vào năm 2002, chỉ có 4
nhà khai thác tham gia, và tất cả đều đang nắm giữ giấy phép 2G. Giấy phép 3G yêu cầu
mỗi nhà khai thác cung cấp 30% dung lượng của nó cho dịch vụ MVNO (khai thác mạng
ảo di động). Các nhà tham gia đấu thầu khai thác 3G sẽ đấu giá trên cơ sở trả tiền quyền
khai thác: phần cố định tối thiểu 50 triệu $HK một năm trong 5 năm đầu và 5% tổng thu
nhập cho các năm tiếp theo. Đề xuất của OFTA là:
- Cấp mới 9 giấy phép 900 và 1800MHz 2G cấp cho 6 nhà khai thác 2G đang cung cấp
dịch vụ GSM. Các nhà khai thác 2G sẽ được cho phép chuyển sang 3G. Giấy phép mới
có giá trị như giấy phép 3G bao gồm cả yêu cầu cung cấp MVNO và tiền mua quyền khai
thác.
- OFTA thu lại giấy phép tần số cấp cho Hutchison khai thác mạng CDMA one và của
CSL khai thác mạng TDMA. Cả 2 có dưới 40.000 th bao, theo OFTA khơng đáng được
xem

xét

cấp


mới



khơng

phát

triển

được

thị

trường.

- OFTA dự định thay thế phổ dùng cho TDMA sang dùng CDMA. Các giấy phép 3G mới
yêu cầu cung cấp cho 50% dân số với tốc độ dữ liệu cao nhất đạt 2Mbps trong 3 năm và
25% hoặc 50% dung lượng là của dịch vụ số liệu. OFTA cũng không đưa ra loại công
nghệ áp dụng nhưng thừa nhận rằng giấy phép có thể chỉ cấp cho cơng nghệ CDMA2000.
Giấy phép mới cũng bao gồm yờu cầu về phạm vi cung cấp MVNO và mức phớ.
- Nếu các nhà khai thác 2G không tham gia đấu giá dịch vụ 3G và giấy phép CDMA2000
thuộc về nhà khai thác dịch vụ mới, Hongkong sẽ có 7 mạng 3G, mỗi một mạng có thể
chỉ có một MVNO: tổng số 14 nhà khai thác 3G hoặc mỗi mạng có 600.000 người dùng
so với mỗi nhà khai thác 3G có 28-40 triệu người dùng ở Nhật.
So sÁnh với Nhật/Hàn Quốc
Hongkong có mức độ canh tranh thấp ở dịch vụ mobile data. Mỗi người Hongkong chỉ
gửi trung Bình 11 SMS một tháng so với trên 200 SMS một tháng ở Nhật và Hàn Quốc.


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Không đến 1,5 % thuê bao di động ở HongKong truy nhập Internet so với 1/2 ở Hàn
Quốc và xấp xỉ 80% ở Nhật.
Các nhà khai thác 3G hiện nay sẽ triển khai mạng WCMA: Hutchison đó triển khai từ
1/2004



3

nhà

khai

thác

khác

triển

khai

sau

12

tháng.

OFTA tin rằng bằng việc đưa ra tiêu chuẩn CDMA 2000, đó được sử dụng ở Nhật và Hàn

Quốc sẽ tạo ra bức tranh mới cho thị trường ở đây. Tuy nhiên OFTA đó sai lầm khi xem
xét nguyên nhân thành công của dịch vụ Mobile data tại Nhật và Hàn Quốc. Mobile data
đó làm khởi sắc ở Nhật và Hàn quốc những mạng di động có tốc độ số liệu thấp như
mạng 2G và 2.5G ở Hongkong hiện nay. Mật độ Mobile Internet ở Hàn Quốc đạt gần
40% nhiều gấp 30 lần mật độ ở Hongkong, trước khi triển khai CDMA 1x EVDO. ở
Nhật, dịch vụ số liệu bắt đầu được phân chia cho các mạng PDC của DoCoMo, KDDI và
J-phone với tốc độ số liệu tối đa 9,6Kbps. CDMA one chỉ chiếm phần nhỏ trong thị
trường di động của Nhật. Mạng tốc độ cao không được triển khai ở Nhật cho đến giữa
năm 2002, trong khi vào thời gian này, mật độ mobile Internet đó có 60% tổng số người
dùng.
Cơng nghệ CDMA2000, do đó, khơng thể là viên đạn phù thuỷ cho mục đích của OFTA.
Việc mở rộng dịch vụ Mobile data ở Nhật và Hàn Quốc được định hướng bằng phương
tiện quan hệ với cán cân lớn của thị trường, số lượng nhỏ các nhà khai thác, lợi nhuận tốt
của mạng 2G, có sự hợp tác giữa các nhà khai thác và sản xuất máy cầm tay, và sự cho
phép mở rộng dịch vụ ứng dụng trên mobile của chính quyền.
Nếu các nhà quản lý học được bất kỳ bài học nào về sự thành công của dịch vụ Mobile
Data ở Nhật và Hàn Quốc, đó sẽ là thách thức với các thị trường nhỏ đối mặt với bản sao
của thành cơng đó. Việc OFTA đề xuất tăng số lượng các nhà khai thác 3G ở Hongkong
sẽ làm chật ních thị trường dường như đó dư thừa, sự ảnh hưởng của nó sẽ làm giảm quy
mơ của nhà khai thác vốn đó nhỏ.
Bao nhiêu là quá nhiều?
Phải thừa nhận rằng cạnh tranh là tốt và có nhiều nhà tham gia cạnh tranh còn tốt hơn
nữa. Song các nhà quản lý, người chịu trách nhiệm thúc đẩy cạnh tranh để đem lại lợi ích

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />cho




hội

cần

phải

xác

định

bao

nhiêu

nhà

khai

thác



đủ.

Câu trả lời đơn giản là có điều gỡ đó tác động làm thay đổi sự tuần hồn tự nhiên của
dũng vốn đầu tư vào mạng di động. Khi bắt đầu triển khai mạng của mình, các nhà khai
thác phải thực hiện đầu tư trước khi kiếm được lợi nhuận từ bất kỳ khách hàng nào.
Trường hợp để có lợi nhuận thu được từ việc mở rộng dịch vụ mới, phải tăng vốn đầu tư,
đầu tư mới này cần thiết cho việc mở rộng dung lượng do đòi hÁi của khách hàng.
Trường hợp này còn dễ nhận thấy ở mạng 3G bởi Vì phổ tần số sử dụng cho khai thác 3G

cao hơn, với đòi hÁi về dung lượng lớn, mật độ trạm phải dày đặc và do đó phí tổn đầu tư
cao hơn rất nhiều .
Do giá của mạng mobile hầu như khơng đổi và cịn giảm, cường độ cạnh tranh có thể lái
giá xuống thậm chí cịn thấp hơn giá thành. Tăng số lượng nhà khai thác có thể làm rớt
giá, điều này sẽ nhận thấy rõ rệt trên thị trường và thu hút được sự quan tâm của khách
hàng. Thế nhưng lợi nhuận thu được trong một thời gian ngắn sẽ dần bị mất đi hoặc phải
thay đổi theo hướng kéo dài thời gian kinh doanh, như đó trình bày ở trên do cạnh tranh
đó làm mất đi sự đầu tư cho công nghệ mới và phát triển sản xuất.
Điều này đó xảy ra ở Hongkong. Cạnh tranh ở mức độ cao đó làm giÁ voice nằm trong
số nơi có giá rẻ nhất trên thế giới: theo số liệu ITU, 2002, 1 tháng dùng 300 phút đàm
thoại giá ở Nhật là 80USD, trong khi ở Hongkong khơng đến 20USD, và dĩ nhiên cho
đến nay giá cịn thấp hơn do vẫn tiếp diễn cuộc chiến về giá. Một điều có thực là ở
Hongkong thực hiện một cuộc gọi còn rẻ hơn gửi 1 SMS. Kết quả Hongkong không bao
giờ phát triển được dịch vụ mobile data và các nhà khai thác 2G tập trung cho việc cố
gắng tồn tại, không chú trọng đầu tư cho các dịch vụ tương lai với triển vọng khơng chắc
chắn.
Đó đến lúc, OFTA phải thấy được nhận định sai về mật độ thấp của dịch vụ mobiledata ở
Hongkong: nguyên nhân chính là do trước đây đó cấp quá nhiều giấy phép cho các nhà
khai thác.
Lý thuyết thứ hai của OFTA cho rằng, bằng việc quy định mức độ cung cấp tối thiểu dịch
vụ số liệu trong giấy phép khai thác 3G, các nhà khai thác mới có thể sẽ buộc phải đổi

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />mới, và do đó làm cho các nhà khai thác cũ cũng sẽ phải đổi mới. Cách tiếp cận của
OFTA là “ làm cho một nhà khai thác đổi mới, sau đó tất cả sẽ đổi mới”.
Tuy nhiên các nhà khai thác sẽ chỉ đổi mới nếu hy vọng thực hiện được sự đầu tư có hiệu
quả. Tăng số lượng các nhà khai thác, sự đổi mới dường như còn bị giảm đi. Vấn đề ở
đây là, nếu số nhà tham gia cạnh tranh quá lớn, động cơ cho việc đổi mới có thể biến mất.
Điều


này

gọi



hiệu

ứng

“Schumpeterian’.

Do đó, một thị trường dịch chuyển từ độc quyền, sự đổi mới sẽ tăng với số lượng nhà
cạnh tranh, đến một điểm nào đó, tăng các nhà cạnh tranh sẽ làm cho nó đi theo chiều
hướng ngược lại. Quan hệ giữa số lượng nhà cạnh tranh với sự đổi mới theo hình chữ U
ngược.
Điều mạo hiểm là các nhà quản lý sẽ sai lầm khi đó làm cho thị trường hiện nay ở tỡnh
trạnh chõn của chữ U trên đồ thị, mức độ thấp của đổi mới có nghĩa thị trường đang ở bên
chân trái của chữ U (điểm A), khi có nhiều nhà cạnh tranh, sẽ thay thế sang bên chân phải
của chữ U (ở điểm B), nghĩa là có quá nhiều nhà tham gia cạnh tranh. Dĩ nhiên, nếu các
nhà quản lý nghĩ rằng thị trường ở điểm A nhưng thực ra nó lại ở điểm B, kết quả của
việc cấp nhiều giấy phép thật là tàn khốc. Mức độ mạo hiểm của luật lệ không giống như
tỡnh huống biến đổi trên. Nếu các nhà quản lý cho rằng thị trường ở điểm B trong khi
thực ra nó ở điểm A, các nhà quản lý có thể từng bước sửa chữa sai lầm và khắc phục
việc chậm đổi mới bằng việc cấp giấy phép cho nhà khai thác mới. Rõ ràng là lợi nhuận
biến mất theo sự đổi mới với chu kỳ ngắn, những điều này giống như sự quá mức do giá
thành quá cao và đi tới phá Vì mong muốn, nếu các nhà quản lý đó sai lầm khi cấp quá
nhiều giấy phép khai thác.
Những chứng cứ thị trường Hongkong đó ở sai vị trớ của trên chữ U là: Hongkong là một

thị trường nhỏ, mức độ đổi mới sẽ chậm hơn các thị trường lớn.
- Hongkong là một trong những thị trường có mức độ cạnh tranh và phân chia nhỏ trên
thế giới. ở những nước mức độ phân chia nhỏ thấp hơn như Nhật, Hàn Quốc và
Singapore, mật độ sử dụng dịch vụ dữ liệu lớn hơn.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Hongkong không chỉ là thị trường nhỏ, mức độ cạnh tranh cao, phân chia nhỏ đồng thời
các nhà khai thác lớn cũng chỉ có thị trường chia nhỏ. Thực tế chỉ ra rằng những nhà khai
thác lớn có sự đổi mới tốt hơn như ở thị trường di động của Nhật và Hàn Quốc.
Nếu chấp nhận một thực tế là đó có quá nhiều giấy phép cho các nhà khai thác di động,
đâu là con số tối ưu? Câu trả lời là khác nhau cho các thị trường khác nhau, điều cốt yếu
phụ thuộc vào độ lớn của thị trường.
Một điều lý thú là, qua kinh nghiệm ở cả thị trường lớn và nhỏ, bao gồm cả những biến
đổi hiện tại ở một số nước, người ta đó đưa ra một giả thuyết con số đúng phải nhỏ hơn 5,
có thể là 3 hoặc 4.
Goldman Sachs khi so sánh sự chia sẻ thị trường ở các nước Châu Âu phản đối con số
của phép đo “sức khoẻ tài chính” chống lại sự chia sẻ thị trường, giống như EBITDA hoạt
động theo dũng chảy tự do của tiền tệ. Điều này phù hợp với phát hiện rằng các nhà khai
thác có thị phần nhỏ hơn 25% thực hiện rất khó phép đo “sức khoẻ tài chính”.
Goldman Sachs nhấn mạnh rằng, các nhà quản lý nên bỏ ý nghĩ ”nhiều nhà tham gia cạnh
tranh có nghĩa nhiều sự cạnh tranh” và “để cho thị trường tự quyết định”, quan điểm này
có vẻ là quan điểm của OFTA?: “ở đây có một nghi ngờ nhỏ là sự tiêu thụ tăng mang lại
lợi nhuận khi mà giá cước di động bị giảm, từ đó đi đến quan điểm là với cước phí thu
được không cung cấp đủ để đầu tư vốn cho cải thiện chất lượng, sự đổi mới sẽ chậm
chạp, và cũng làm giảm lực lượng lao động. Chúng tôi cho rằng quan điểm đó được
thơng qua nhưngcó điều FCC chỉ mới xem ảnh hưởng làm suy yếu ở vài thị trường có sự
cạnh tranh quá mức”. Những quan điểm này được xác nhận bởi sự giảm gần đây số nhà
khai thác di động ở nhiều thị trường phát triển, trong nhiều trường hợp có tác dụng cổ vũ
các nhà quản lý:

- ở ý, Blu biến mất khÁi thị trường năm 2002, bỏn tài sản cho các nhà khai thác khác.
- ở Pháp, phí giấy phép 3G năm 2001 giảm từ 5 tỷ Euro/1 giấy phép xuống 619 triệu
Euro, giấy phép thứ 4 không được thực hiện bởi bất kỳ nhà khai thác nào.
- ở Bỉ, Oniway rút khÁi thị trường năm 2002, bỏn tài sản cho các nhà khai thác khác.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- ở Thụy điển, Orange rút khÁi thị trường 3G vào năm 2002, do áp lực của sự yờu cầu
trong giấy phép và điều kiện thị trường.
- ở úc, nhà khai thác đứng thứ 5, One.Tel đó bỏn thÁo và rỳt khÁi thị trường vào năm
2001, chỉ còn 4 nhà khai thác.
- ở Ireland, 4 giấy phép 3G được phát ra, nhưng chỉ có 3 giấy phép được bỏ thầu.
- ở Nauy, một nhà khai thác đó trả lại giấy phép 3G vào năm 2002.
- ở Malaysia, các nhà quản lý quyết định chỉ 3 giấy phép 3G là đủ, nhưng chỉ có 2 được
thực hiện.
Nếu cấp giấy phép cho nhiều mạng không phải là câu trả lời cho hiện tượng mật độ dịch
vụ số liệu trên mạng di động thấp ở Hongkong, thì đâu là nguyên nhân?
Kinh nghiệm ở Nhật và Hàn Quốc chỉ ra rằng thành công trong việc phát triển thị trường
số liệu được đặc trưng bởi “vòng tròn thoả mãn” liên quan đến việc việc cung cấp và xây
dựng yêu cầu xung quanh dung lượng, chứ không chỉ là công nghệ. Khi dung lượng tốt
được cung cấp đủ, mật độ mobile data sẽ tăng; và quay lại vấn đề, để có thể đáp ứng được
dung lượng lớn, cần phải có tiền để đầu tư phát triển.
Dung lượng, ở cả hai mặt nhà cung cấp và nhu cầu của người dùng, là chỡa khố lÁi
“vịng trịn thoả mãn”. ITU khuyến nghị:
‘Có một cơ hội to lớn để phát triển mobile Internet, tuy nhiên, cần phải cung cấp dịch vụ
và các ứng dụng mà người dùng muốn có và họ có thể thanh tốn được. ở tất cả các cuộc
tranh cói về Mobile Internet, quan điểm đơn giản này lại hay bị bỏ qua.”
Singapore đó tiếp cận bằng dựng phương pháp đấu giá để tạo ra quỹ phát triển nội dung
và và thói quen sử dụng dịch vụ số liệu cho người sử dụng. Singapore bây giờ đó có mật
độ mobile data đứng thứ 3 ở châu Á - ThÁi Bình Dương sau Nhật và Hàn quốc.

Kết luận

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Các nhà quản lý nên xem xét học tập kinh nghiệm về thị trường mobile data ở Nhật và
Hàn Quốc. Nhưng khi thời hạn giấy phép 2G kết thúc, cần thiết phải cẩn thận khi các nhà
quản lý dựng giấy phép phổ tần số như là điểm chốt trong việc thực hiện ý đồ của mình.
Các nhà quản lý, cũng như các nhà khai thác phải thay đổi tư duy và thiết lập chương
trình lâu dài cho sự phát triển dịch vụ dữ liệu.

II.Thực trạng cung cấp dịch vụ Viễn thơng nói chung và dịch vụ điện thoại di động
nói riêng ở Việt nam
1.Dịch vụ Viễn thơng nói chung
1.1.Hiện trạng khai thác
1.1.1.Tổng quan
Dưới VNPT, có 5 đơn vị thành viên chính là doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm
khai thác cung cấp các dịch vụ viễn thông ở Việt nam: VTN
( công ty viễn thông liên tỉnh ), VTI ( công ty viễn thông quốc tế ),VDC
( công ty điện tốn và truyền số liệu ), VMS ( cơng ty thông tin di động ) và GPC ( công
ty dịch vụ viễn thông )
1.1.2.Phân loại các dịch vụ cung cấp theo nhà khai thác
1.2.Dịch vụ điện thoại
1.2.1.Các dịch vụ trong nước
Dịch vụ điện thoại được cung cấp như trong bảng sau:
Hạng
mục
1
2
3


Dịch vụ

Hạng mục chi tiết dịch vụ

Ghi chú

Liên quan đến chỉ cuộc gọi

-Quay số rút gọn

Tự động

Hoàn thiện cuộc gọi

-Quay đến địa chỉ số cố định
-Hoàn thiện cuộc gọi tới khi khơng có Tự động

Chuyển cuộc gọi

trả lời
-Chuyển cuộc gọi bận

Tự động

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />4
5
6
7

8

Nhận dạng cuộc gọi

-Chuyển cuộc gọi
-Hiện đường ây chủ gọi

Tự động

Tính cước cuộc gọi
Hội nghị

-Nhận dạng cuộc gọi có mục đích xấu
-Tính cước bên bị gọi
-Điện thoại hội nghị

Tự động
Tự động

Hạn chế cuộc gội

-Điện thoại đồng thời cả ba bên
-Hạn chế chuyển cuộc gọi

Tự động

Dịch vụ ưu tiên

-Ngăn cuộc gọi ra ngồi
-Ra khẩn cấp


Nhân

-Khẩn

cơng

9

-An ninh quốc gia
Dịch vụ diện thoại có giấy -Người gọi yêu cầu người được gọi Bỏn

10

mời
Th kênh

đến nói chuyện ở máy cơng cộng
-Bưu điện th các kênh

tự

động

1.2.2.Dịch vụ mới
Những dịch vụ mới sau đây đang phát triển
-Di động và vô tuyến cố định WLL (CDMA)
-Hội nghị thấy hình
-Thương mại điện tử
1.3.Dịch vụ viên thơng cho nông thôn vùng sâu vùng xa

Tỉ lệ mật độ điện thoại cho các vùng huyện, xã được thực hiện thông qua việc điều tra
khảo sát thực tế. Kết quả điều tra cho thấy có một sự chênh lệch rất lớn mật độ điện thoại
giữa các vùng thành thị và nông thơn, có những nơI chênh lệch nhau đến hàng chục lần.
Nguyên nhân của sự khác biệt đó có thể xem xét trên những khía cạnh sau:
-Sự khác biệt giữa nhu cầu của vùng đô thị và vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa
-Chi phí xây dựng ở vùng sâu, vùng xa lớn
-Những khó khăn về xây dụng do vị trí địa lý
2.Dịch vụ điện thoại di động nói riêng
2.1.Dịch vụ điện thoại di động mạng tế bào (CMTS)
Hiện nay dịch vụ điện thoại di động mạng tế bào do 6 doanh nghiệp cung cấp và sắp tới
sẽ có thêm 1 doanh nghiệp nữa
Tên công ty

Loại hệ
thống

Ghi chú

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />VMS

Công ty Thông tin di động (VMS) hoạt GMS

(MobiFone)

động dựa trên hợp đồng hợp tác kinh
doanh giữa VNPT và Comvik, công ty
của Thuỵ Điển. VMS cung cấp dịch vụ
GMS mạng tế bào với tên mạng là “


GPC(VinaFone)

MobiFone”.
Công ty dịch vụ viễn thông (hoặc công GMS
ty di động, Nhắn tin và có điện thoại
thẻ(GPC) , là cơng ty thành viên của
VNPT. Mạng có tên là VinaFone, cung
cấp dịch vụ GMS mạng tế bào trên
toàn đất nước.
Mạng VinaFone cung cấp những dịch
vụ khơng chỉ ở những vùng có lợi
nhuận cao, mà cịn ở các vùng thu lãI

Cơng

ty

suất thấp trên tồn quốc.
điện Cơng ty điện thoại di động Sài Gịn là Analog

bthoại di động Sài công ty liên doanh giữa bưu điện thành AMPS/
Gịn

phố Hồ Chí Minh với cơng ty điện AMPS

(Call Link)

thoại Singapore có mạng “Call Link”,


D-

cung cấp dịch vụ tương tự tế bào ở
Vietel

thành phố Hồ Chí Minh
Vietel được cấp phép năm 1996, có kế CDMA
hoạch cung cấp mạng tế bào trên toàn (800 MHZ)

Saigon Postel

quốc
Saigon Postel được cấp phép năm CDMA
1996, có kế hoạch cung cấp dịch vụ di (800 MHZ)
động mạng tế bào ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long, sau đó trên tồn quốc.

S-Fone

Xin giấy phép hoạt động năm 2000,
dịch vụ hoạt động bắt đầu thời điểm
2002. Hiện nay bang tần phủ sóng ở

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />các khu vực như: Hà Nội, Hà Tây, Bắc
Ninh, Hải Dương, Hải Phịng, Phủ Lý,
Hanoi Telecom

Ninh Bình, Thái Ngun…

Hanoi Telecom đang trong quá trình

VP Telecom

cấp phép, chưa hoạt động.
VP Telecom đang trong quá trình cấp
phép, chưa hoạt động

2.2.Hiện trạng dịch vụ
Vùng dịch vụ của dịch vụ điện thoại di động mạng tế bào
Nhà cung Vùng dịch vụ
cấp

Ghi chú

dịch

vụ
MobiFone

Hà Nội, Hà Đông, Phủ Lỗ, Văn Điển,…….

Tu

thang

6/1998
Tổng số tỉnh vầ
VinaFone


thành phố: 98
Từ cuối thang

Hà Nội, Hà Tây, Lào cai…

6/1997
Tổng số tỉnh và
thành phố : 52
Call Link

Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rỵa Vịng
Tàu, Sơng Bé

Hầu hết các tỉnh là, đặc biệt là tại trung tâm các tỉnh là vùng phủ sóng của dịch vụ di
động mạng tế bào như đã nói trên.
Số thuê bao: Xu hướng tăng thuê bao hàng năm
Năm
1993
Số thuê 4.060

1994
10.000

1995
25.830

1996
59.000

1997

108.200

6/1998
167.500

10/1998
234.032

6/1999
266.293

bao

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Cho đến tháng 3 năm 2005 thì số đăng ký thuê bao này đã tăng đến 11.200.000 người với
mật độ 13,8 máy/ 1 người (Bưu điện Hà nội ).
3.Cạnh tranh trong dịch vụ viễn thơng nói chung và dịch vụ thơng tin di động nói
riêng
3.1.Trong dịch vụ Viễn thơng nói chung
Bưu chính cũng như viễn thơng vốn là ngành phục vụ việc trao đổi thơng tin. Thời kỳ đầu
nó được dùng cho cơng tác an ninh – quốc phịng, về sau phát triển sang phục vụ cả cho
cơ quan nhà nước các cấp. Mói cho đến sau này ngành bưu chính – viễn thơng chủ yếu
vẫn được coi là một cơ quan sự nghiệp thông tin liên lạc của Nhà nước, do Nhà nước tổ
chức, Nhà nước đài thọ và phục vụ cho sự nghiệp cơng ích. Đến thế kỷ thứ 17-18, khoa
học kỹ thuật bắt đầu phát triển, chủ nghĩa tư bản dần dần hình thành, giao lưu kinh tế –
văn hố tăng lên, thì thơng tin bưu chính, viễn thơng ngày càng được nhiều tổ chức và cá
nhân sử dụng.
Bưu chính, viễn thơng từ chỗ chủ yếu là làm nhiệm vụ phục vụ đó bắt đầu chuyển sang
làm một phần việc kinh doanh, nhưng nói chung Nhà nước vẫn nắm và giữ vai trò chủ

đạo; ngành bưu chính – viễn thơng dần dần trở thành một cơ quan sự nghiệp có thu, lấy
thu bù chi, lỗ hay lãi là việc của Nhà nước. Riêng về viễn thông, chủ yếu là điện bỏo rồi
điện thoại, đó phát triển trước ở Mỹ, vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, dần dần hình thành
các cơng ty chun doanh tư nhân. Dù cho có sự phát triển sâu rộng như hiện nay, dịch vụ
viễn thơng đó triển khai cạnh tranh tồn diện, nhưng do tính chất và đặc điểm của nó,
ngành bưu chính ở Mỹ vẫn là doanh nghiệp của Nhà nước. Còn ở nhiều nước phát triển
khác, cả Anh, Pháp, Đức, Nhật v.v cho đến gần đây Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo
trong dịch vụ bưu chính, viễn thơng cơ bản, bảo đảm nhiệm vụ phục vụ phổ cập và cơng
ích, như điện thoại cố định, bưu phẩm – thư tín, trong cả nước (trõ Tân Tây Lan đó thực
hiện cổ phần hố, tư nhân hố bưu chính, viễn thơng).
Theo cách làm của Mỹ, một số trong các nước này cũng bắt đầu thực nghiệm việc cải
cách bưu chính và viễn thơng, nhưng bưu chính vẫn chưa có thay đổi lớn, cịn lĩnh vực
viễn thơng thì việc cổ phần hoá, tư nhân hoá, phát triển cạnh tranh vẫn gặp nhiều khó

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />khăn. Mỹ đó phải thay đổi chính sách - luật pháp nhiều lần, đó hạn chế được độc quyền,
khuyến khích cạnh tranh, nhưng cũng đó và đang làm cho nhiều công ty lớn nhỏ phải
điêu đứng (như World Com, Qwest, AT&T v.v). Các doanh nghiệp viễn thông chủ chốt
của các nước Anh, Pháp, Đức, ý, Tõy Ban Nha, Nhật Bản v.v, trong môi trường cạnh
tranh gay go, quyết liệt, khơng thực sự Bình đẳng, đó bị thua lỗ nặng, nợ nần chồng chất,
các chính phủ và Liên minh Châu Âu phải đứng ra giải quyết, như đi đôi với duy trì và
phát triển cạnh tranh, đó đổi mới chính sách quản lý, chấn chỉnh thị trường cạnh tranh, hạ
giảm chi phí vận hành, hỗ trợ tài chính cho các cơng ty có nguy cơ phá sản tiếp tục duy
trì hoạt động phục vụ, Vì nếu khơng sẽ gây tổn hại lớn cho kinh tế – xã hội.
Nói như thế khơng có nghĩa là cứ duy trì độc quyền, bóp nghẹt cạnh tranh trong lĩnh vực
bưu chính – viễn thơng, kể cả trong nền kinh tế thị trường. Do tính đặc thù của nó mà
việc xử lý vấn đề chống độc quyền, khuyến khích cạnh tranh trong ngành bưu chính –
viễn thơng là có sự khác biệt. Trước hết đây là một lĩnh vực hoạt động rất nhạy cảm, có
quan hệ mật thiết với vấn đề bảo vệ an ninh – quốc phòng, đạo đức xã hội, Nhà nước cần

dùng nhiều và cần nắm chắc, không thể để cho các kẻ thù lợi dụng làm nhiều điều có hại
đối với đất nước. Hai là thơng tin bưu chính, viễn thơng được coi như là cơ sở hạ tầng, rất
cần thiết cho kinh tế – xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tiếp đến nữa
là thông tin nói chung (trõ thơng tin chun dùng nội bộ) là phải tồn trình, phải thơng
suốt trong tồn xã hội, từ người này đến người khác, trong một khu vực, trong một đất
nước và ra cả quốc tế, cho nên trong trường hợp có nhiều mạng thì các mạng phải kết nối
với nhau, hợp tác chặt chẽ với nhau mới có thể bảo đảm thơng tin được, như vậy là trong
lĩnh vực thơng tin dự có cạnh tranh, thì cạnh tranh đó khơng phải là tuyệt đối mà phải vừa
là cạnh tranh vừa hợp tác.
Đất nước ta cho đến năm 1995, trõ thông tin chuyên dùng của một số ngành như Quân
đội, An ninh, Điện lực, Đường sắt, Hàng hải, Hàng khơng v.v, chỉ có thơng tin bưu chính,
viễn thơng của ngành Bưu điện là thông tin công cộng, do Nhà nước đảm nhiệm. Nó là
độc quyền một cách tự nhiên, do Nhà nước và xã hội giao. Nú đó có vai trị lịch sử, đóng
góp xuất sắc vào sự nghiệp cách mạng, vào thắng lợi của công cuộc Chống Pháp – Chống
Mỹ cứu nước, xây dựng cơ sở ban đầu của kinh tế – xã hội trên đất nước ta. Sự độc quyền
trong thời kỳ lịch sử đó là cần thiết.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Bưu chính - Viễn thơng Việt Nam đó hy sinh phấn đấu phục vụ cách mạng, phục vụ
chống Pháp và chống Mỹ cứu nước thắng lợi trước đây; ngành Bưu điện nói chung và
Tổng cơng ty Bưu chính – Viễn thơng Việt Nam (VNPT) thời kỳ cịn là độc quyền đó đi
đầu trong cơng cuộc đổi mới, vươn lên từ nghèo nàn lạc hậu, thông tin rất yếu kém, gặp
nhiều khó khăn, phải tự lo tháo gỡ, vận dụng các điều kiện cho phép để kiếm nguồn đầu
tư phát triển và hiện đại hố mạng lưới thơng tin ngang tầm với khu vực, phục vụ được
khá tốt cho kinh tế – xã hội và đời sống của nhân dân, được Đảng và Nhà nước đó đánh
giá cao, tặng thưởng huân chương Sao vàng cao quý.
Từ năm 1995 đến nay, Chính phủ đó cho phép thành lập hàng chục doanh nghiệp kinh
doanh cạnh tranh dịch vụ bưu chính, viễn thơng với Tổng Cơng ty Bưu chính – Viễn
thơng. Kinh doanh cạnh tranh dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh và phát hành bỏo

chí (Luật Bỏo chí đó cho phép các bỏo tự phát hành từ trước), đó có Cơng ty cổ phần
Dịch vụ bưu chính, viễn thơng Sài Gũn (Saigon Postel hay SPT), Công ty Điện tử – Viễn
thông Quân đội (Viettel); kinh doanh cạnh tranh dịch vụ điện thoại cố định (là dịch vụ
viễn thơng cơ bản) đó có SPT, Viettel và nay lại cịn có thờm Cơng ty Viễn thông Điện
lực (VP Telecom); kinh doanh cạnh tranh dịch vụ thơng tin di động, ngồi Mobifone,
Vinaphone, cũng đó có SPT, nay sắp có của Viettel và khơng lâu nữa sẽ có thờm của
Cơng ty Viễn thơng Hanoi (HanoiTel); về kinh doanh cạnh tranh dịch vụ Internet, đó cấp
phép cho hàng chục cơng ty và trên thực tế đó thực hiện là 7 cơng ty (đó là chưa kể đến
vài ngàn đại lý bỏn lại dịch vụ này); kinh doanh cạnh tranh dịch vụ điện thoại Internet nói
chung và điện thoại IP trong nước và “quốc tế” nói riêng, cũng đó có hàng chục cơng ty;
kinh doanh cạnh tranh dịch vụ thông tin di động vệ tinh và vô tuyến sóng ngắn, thì có
Cơng ty Điện tử – Viễn thơng Hàng hải (Vishipel); kinh doanh cạnh tranh dịch vụ chuyển
phát nhanh hàng hố và thư tín thương mại thì có Công ty Liên doanh Chuyển phát nhanh
TNT của Bộ Thương mại v.v. Như vậy là hầu hết các dịch vụ bưu chính, viễn thơng ở
Việt Nam đều đó có từ hai đến ba doanh nghiệp trở lên tham gia kinh doanh cạnh tranh,
trong đó có một số dịch vụ mà các doanh nghiệp mới chiếm thị phần không nhỏ, như điện
thoại IP của Viettel, Internet của FPT, di động vệ tinh và vơ tuyến sóng ngắn của Vishipel
v.v.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Chỉ có điều là các doanh nghiệp mới làm chưa lâu, chưa có kinh nghiệm, trình độ mọi
mặt cịn có hạn, đặt biệt là đầu tư xây dựng phát triển mạng lưới còn rất ớt (chưa đến 2%
so với mạng lưới của VNPT), chủ yếu là thuê cơ sở vật chất kỹ thuật, kinh doanh ảo (để
tạo doanh thu và kiếm lợi nhuận) mạng lưới của Tổng Công ty Bưu chính – Viễn thơng,
thì khú mà có thể nõng thị phần lờn đến 30% như mong muốn và được chính phủ chấp
thuận. Và đó kinh doanh ảo, thuờ mướn trang thiết bị sẵn có mà nói là để chống độc
quyền, phát triển dịch vụ, làm lợi cho người dùng, thì đó là nghịch lý, khú thực hiện là
điều đương nhiên, bởi chủ mạng cũng còn thiếu đầu tư, trang thiết bị để kinh doanh, phục
vụ. Mặt khác việc không có mạng riêng mà phải thuê kênh, thuê cơ sở vật chất kỹ thuật

để kinh doanh bỏn lại dịch vụ như một đại lý, thì khơng thể gọi là nối mạng, địi ăn chia
cước ngang bằng, khơng trả cước sử dụng trang thiết bị được.
Trong khi Singapore đưa công nghệ thông tin di động CDMA vào sử dụng đến 3 năm
khơng kết nối được với mạng di động tồn cầu, do tuyệt đại đa số dùng kỹ thuật GSM,
không phát triển được phải bỏ, thì SPT lại đưa vào, cũng do chưa kết nối được (các nước
đó thử nghiệm nhưng còn rất tốn kộm), đối tác chậm đầu tư trang thiết bị thêm để mở
rộng vùng phủ sóng, chỉ mới liên lạc được ở trung tâm một số thành phố lớn, cho nên dù
đó hạ cước đến mức thấp nhất vẫn khơng có bao nhiêu (chỉ khoảng 50.000 so với gần 4
triệu hộ dùng GSM của VMS và Vinaphone) người sử dụng, thì lại cho rằng tại Tổng
Cơng ty Bưu chính – Viễn thơng khơng cho sử dụng mạng chung, gây khó dễ trong việc
kết nối, lấy cước cao sử dụng mạng v.v Những người không am hiểu về chuyên môn, dễ
tưởng nhầm là doanh nghiệp mới bị chèn ép, cạnh tranh khơng cơng bằng v.v.
Về tâm lý mà nói, doanh nghiệp đó từng độc quyền khó tự nguyện nới lỏng lũng đoạn thị
trường, tạo điều kiện phát triển cạnh tranh. Đó là nói chung, cịn dưới chế độ cách mạng
do Đảng lãnh đạo, thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, những cÁn bộ có trÁch nhiệm ở Bộ Bưu chính – Viễn thơng,
cũng như ở VNPT cũng hiểu và quán triệt đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, thực
hiện sự chỉ đạo của chính phủ, nên đó có sự phân biệt vừa bảo vệ độc quyền của Nhà
nước trên một số lĩnh vực, dịch vụ cần thiết, vừa phải chống độc quyền của doanh nghiệp
(trõ phần được Nhà nước giao thay mặt để thực hiện, như phát hành bỏo Đảng, bưu phẩm
cơng, và thư tín phổ thông, điện thoại phục vụ phổ cập và phục vụ u cầu cơng ích v.v),

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×