Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Th c tr ng xu t kh u h ng gi y d p Vi t Nam v o th tr ng EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.96 MB, 67 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> và là website chia sẻ miễn phí luận văn, đồ
án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho
tất cả mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự
đóng góp của quý khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp
tài liệu xin quý khách gửi về

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />LỜI MỞ ĐẦU
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đẳng và nhà nướcViệt Nam đã được
khẳng định tại Đại hội Đảng VIII và trong Nghị quyết 01 NQ/TƯ của Bộ chính trị, với
mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa hướng về
xuất khẩu. Với vị trí là một trong 3 ngành xuất khẩu chủ lực , ngành giầy dép Việt Nam
luôn là một trong những ngành được quan tâm hàng đầu trong chiến lược đẩy mạnh xuất
khẩu. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam là phù hợp với điều kiện nước ta
theo xu hướng phát triển chung của khu vực và thế giới.
Trong hệ thống các thị trường xuất khẩu của hàng giầy dép Việt Nam, thị trường Eu hiện
đang là thị trường đầy hứa hẹn. EU là thị trường lớn với 15 quốc gia thành viên, thị
trường EU có tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định. Kể từ sau khi Nhà nước có chính
sách mở của đến nay, hàng giầy dép Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các nước trong liên
minh EU. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép sang EU, Việt Nam không chỉ có được sự
tăng trưởng ổn định về ngoại thương mà còn thực hiện chiến lược đa dạng hoá thị trường
xuất khẩu. Vì vậy, xuất khẩu g\hàng giầy dép sang EU luôn là một trong những vấn đề
quan tâm của Đảng và nhà nước ta.
Nhận thức được vấn đề cso ý nghĩa trên đây và với mong muốn nghiên cứu tìm hiểu sâu
về thị trường EU và hoạt động xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam, em đã chọn đề tài:
“Xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU:Thực trạng và giải pháp” để viết chuyên đề
tốt nghiệp này.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần:


Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết phải tăng cường khả năng xuất
khẩu.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường EU.
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng giầy dép Việt
Nam vào thị trường EU.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Hường và Th.S Tạ Lợi đã tận tình hướng
dẫn, trực tiếp giúp đỡ em thực hiện chuyên đề này. Đồng thời, xin chân thành cảm ơn các
cô chú trong ban Kinh tế thế giới-Viện Chiến lược &Phát triển-Bộ Kế hoạch &Đầu tư đã
nhiệt tình giúp đỡ em thong quá trình thực hiện chuyên đề này và trong suốt quá trình
thực tập tại Viện.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG
KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU
GIÀY DÉP

I KHÁI NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU.
1. Khái niệm.
Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của ngoại thương, là một vấn đề hết sức quan trọng
của kinh doanh quốc tế, là sự phát triển tất yếu của sản xuất và lưu thông nhằm tạo ra
hiệu quả kinh tế cao nhất trong mỗi nền kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu hiện nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong đó tất cả các lĩnh vực,
các ngành của nền kinh tế, từ vật phẩm tiêu dùng đến tư liệu sản xuất, từ các chi tiết linh
kiện rất nhỏ bé đến các loại máy móc khổng lồ, các loại công nghệ kỹ thuật cao, không
chỉ có hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình và với tỷ trọng ngày càng cao.
Như vậy, thông qua hoạt động xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện
cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách cho nhà nước, kính thích đổi mới công nghệ, cải

biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống người dân.
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
Với mục tiêu là đa dạng hoá các hình thức xuấta khẩu nhằm phân tán và chia sẽ rủi ro,
các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế có thể chọn lựa nhiều hình thức xuất khẩu khác
nhau. Sau đây là một số hình thức xuất khẩu chủ yếu:
2.1 Xuất khẩu trực tiếp.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ do chính doanh
nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước
ngoài thông qua các tổ chức của mình.
Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh, song
lại có những ưu điểm nổi bật sau:
Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Có thể liên hệ trưc tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài,
biết được nhu cầu của khách hàng và tìhn hình bán hàng ở đó để có thể thay đổi sản
phẩm và các điều kiện bán hàng trong điều kiện cần thiết.
2.2 Xuất khẩu uỷ thác.
Xuất khẩu uỷ thác là hình thức kinh doanh quốc tế trong đó đơn vị kinh doanh quốc tế
đóng vai trò là người trung gian thay mặt cho đơn vị sản xuất tiến hành các thủ tục cần
thiết để xuất khẩu hàng hoá cho các nhà sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất
định ( thường là tỷ lệ phần trăm giá trị lô hàng xuât khẩu).
Ưu điểm của hình tưc này là:
Mức độ rủi ro thấp.
Khong cần bỏ vốn vào trong kinh doanh.
Tạo được việc làm cho người lao động đồng thời thu được một khoản lợi nhuận
đáng kể.
Trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất.
2.3 Xuất khẩu tại chỗ.
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mới nhưng đang được phát triển và có xu

hướng phổ biến rộng rãi.
Ưu điểm của hình thức này là:
Hàng hoá không cần phải vượt biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn có thể mua
được.
Doanh gnhiệp không cần phải tiến hành làm các thủ tục xuất khẩu như làm thủ tục
hải quan, mua bảo hiểm hàng hoá, thuê phương tiện vận tỉa… do đó có thể giảm được
một lượng chi phí khá lớn.
2.4 Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Xuất khẩu gia công uỷ thác là hình thưc xuất khẩu mà trong đó đơn vị kinh doanh quốc
tế đứng ra nhận nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu
hồi thanhg phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ thác theo
thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất.
Ưu điểm của hình thức này là:
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Doanh nghiệp không cần bỏ vốn mà vẫn thu được lợi nhuận.
Rủi ro ít hơn.
Tuy nhiên hình thức này cũng có nhược điểm:
Phải tiến hành nhiều công việc, nhiều thủ tục xuất nhập.
Cán bộ kinh doanh phải có nghiệp vụ và kinh nghiệm kể cả trong quá trình giám
sát và kiểm tra công việc gia công.
2.5 Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập
khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi có giá trị
tương đương.
Mục đích xuất khẩu ở đây không phải thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có
được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị của lô hàng xuất khẩu.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm:
-


Tránh được những rủi ro về sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại

hối.
-

Có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của

mình.
Làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán ở một quốc gia.
2.6 Xuất khẩu theo nghị định thư( xuất khẩu trả nợ).
Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu nhà
nước giao, tiến hành xuất khẩu một hay một số mặt hàng nhất định cho chính phủ nước
ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai chính phủ.
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là:
Không có sự rủi ro trong thanh toán.
Cho phép các doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong công việc
nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng.
Trên thực tế, hình thức xuất khẩu này xuất hiện rất ít, thường trong một số nước xãa hội
chủ nghĩa trước đây và trong một số doanh nghiệp nhà nước.
2.7 Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh trong đó một bên ( gọi là bên nhận gia công )
nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên ( bên đặt gia công) để chế biến
ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một số tiền nhất định
( gọi là phí gia công).
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là:
Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động.
Có điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ nhằm nâng
cao năng suất lao động.

Giá lao động và nguyên liệu tương đối rẻ.
Hình thức này áp dụng chủ yếu trong những ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động và
nguyên vật liệu như dệt may, da giầy…
2.8 Tái xuất khẩu
Tái xuất khẩu là hình thức xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu và
chưa tiến hành hoạt động chế biến.
Ưu điểm của hình thức này là:
Doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu
tư vào nhà xưởng, máy móc thiết bị…
Khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn.
Chủ thể tham gia vào hoạt động này nhất thiết phải có sự tham gia của ba quốc gia: nước
xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất khẩu.
II NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
Hoạt động trên thị trường quốc tế, tất cả các doanh nghiệp dù đã có kinh nghiệm hay mới
chỉ bắt đầu tham gia vào kinh doanh đều phải tuân theo một cách nghiêm túc các công
đoạn của thương vụ làm ăn thì mới có khả năng tồn tại lâu dài được. Công tác tổ chức
xuất khẩu tương đối phức tạp, có thể thay đổi theo mỗi loại hình xuất khẩu. Song tựu
chung lại, cần phải tuân theo một trình tự gồm các công đoạn sau:
1. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu.
Đây là một trong những nội dung cơ bản ban đầu, nhưng quan trọng và cần thiết để có
thể tiến hành được hoạt động xuất khẩu. Khi doanh nghiệp có ý định tham gia vào thị
trường quốc tế thì doanh nghiệp cần xác định mặt hàng mình định kinh doanh.
Trên thực tế doanh nghiệp có thể lựa chọn xuất khẩu những mặt hàng sau:
SWYG ( Sell What You Got ) doanh nghiệp xuất khẩu những sản phẩm mà mình
sản xuất.
SWAB ( Sell What Actually Buy): doanh nghiệp xuất khẩu những sản phẩm mà
thị trường cần.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />-


GLOB ( Sell Things Globaly Disregarding National Frontiers): doanh nghiệp xuất

khẩu những mặt hàng giốn nhau ra thị trường thế giới, không phân biệt sự khác nhau về
văn hoá xã hội, ngôn ngữ, phong tục tập quán…và biên giới quốc gia.
Ngày nay, xu hướng xuất khẩu những sản phẩm mà thị trường cần và xuất khẩu những
mặt hàng giống nhau ra tất cả các thị trường là phổ biến. Còn xuất khẩu những sản phẩm
mà doanh nghiệp sản xuất chỉ bó hẹp trong một số lĩnh vực như: sản phẩm kỹ thuật cao,
thiết bị toàn bộ… Để lựa chọn được đúng mặt hàng mà thị trường cần đòi hỏi doanh
nghiệp phải có một quá trình nghiên cứu tỷ mỷ, phân tích một cách có hệ thống về nhu
cầu thị trường cũng như khả năng của doanh nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp cần dự
đoán xu hướng biến động của thị trường cũng như những cơ hội và thách thức mà mình
cần gặp phải trên thị trường thế giới.
Hoạt động này không những đòi hỏi phải có một thời gian dài mà còn tốn nhiều chi phí,
song bù lại doanh nghiệp lại xâm nhập được vào những đoạn thị trường tiềm năng và có
khả năng tăng doanh số bán và lợi nhuận kinh doanh.
2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Sau khi đã lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu doanh nghiệp cũng cần phải tiến hành lựa
chọn thị trường xuất khẩu mặt hàng đó. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không thể
hoạt động trên nhiều thị trương của một quốc gia nào đó mà chỉ có thể hoạt động trên
một đoạn hoặc một số đoạn thị trường trên cơ sở các tiêu thức dùng để phân đoạn thị
trường. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp có thể hoạt động trên phạm vi
quốc gia, khu vực hoạt toàn cầu.
Việc lựa chọn thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích, tổng hợp nhiều nhân tố
bao gồm cả nhân tố vi mô, nhân tố vĩ mô và khả năng cạnh tranh của doan nghiệp.
Thông thường đó là nhân tố thuộc về văn hoá xã hội, pháp luật, kinh tế, khoa học công
nghệ, đồng tiền thanh toán, cạnh tranh, hàng rào thương mại và các nhân tố thuộc môi
trường tìa chính. Đây cũng là một quá trònh đòi hỏi rất nhiều thời gian và chi phí.
3. Lựa chọn đối tác giao dịch.
Sau khi lựa chọn được mặt hàng và thị trường giao dịch, doanh nghiệp muốn xâm nhập

vào những đoạn hoặc thị trường đó, doanh nghiệp cần phải lựa chọn những đối tác đang
hoạt động trên thị trường đó để thực hiện các kế hoạch kinh doanh của mình.
Việc lựa chọn đúng đối tượng giao dịch sẽ tránh cho doanh nghiệp nhiều phiền toái,
những mất mát, rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải trên thị trường quốc tế., đồng thời có
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />điều kiện thực hiện thành công các kế hoạch kinh doanh của mình. Các tốt nhất là doanh
nghiệp các đối tác có đặc điểm sau:
Thương nhân quen biết hay đã từng có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp của ta,
có uy tín trong kinh doanh.
Thương nhân có khả năng , thực lực về tài chính.
Có thiện chí trong quan hệ buôn bán với ta, không biểu hiện hành vi lừa đảo.
Những người chịu trách nhiệm đại diện trong kinh doanh và có phạm vi trách
nhiệm của họ đối với các nghĩa vụ của công ty hoặc các tổ chức.
Trong quá trình lựa chọn đối tác giao dịch, doanh nghiệp có thể thông qua thương vụ của
Việt Nam ở nước đó, văn phòng đại diện của Cục xúc tiến thương mại Việt Nam (nếu
có), các bạn hàng đã có quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp trước đó, các tin tức mà
mình thu thập và điều tra được, các phòng thương mại và công nghiệp, các ngân hàng,
các tổ chức tài chính để hỗ trợ và trợ giúp.
4. Lựa chọn phương thức giao dịch.
Phương thưc giao dịch là những cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các kế
hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Những cách thức này
quy định thủ tục tiến hành, các điều kiện giao dịch, các thao tác và chứng từ cần thiết của
quan hệ giao dịch kinh doanh. Có rất nhiều phương thức giao dịch khác nhau như: giao
dịch thông thường, giao dịch qua khâu trung gian, giao dịch tại hội chợ triển lãm, giao
dịch tại sở giao dịch hàng hoá, dấu gia và đấu thầu quốc tế. Tuy nhiên phổ biến nhất và
được sử dụng rộng rãi nhất vẫn là phương thức thông thường.
Giao dịch thông thường là một trong những phương thức giao dịch mà ở đó người bán
( hoặc người mua ) bàn bạc, thoả thuận trực tiếp hoặc gián tiếp với người mau (hoặc
người bán) về hàng hoá và các điều kiện giao dịch…

Phương thức giao dịch này cho phép hai bên bàn bạc trực tiếp hoạc gián tiếp với nhau,
do đó dễ dàng đi đến thống nhất và ít xảy ra chuyện hiểu lầm nhau, do đó dễ dàng đi đến
thống nhất và ít xảy ra chuyện hiểu lầm nhau. Xét về mặt hiệu quả thì giảm được chi phí
trung gian, làm tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thêm vào đó, hình thức này còn
tạo điều kiện cho cả người mua lẫn người bán chủ động trong việc sản xuất kinh doanh.
Nói chung với những loại hàng hoá khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm của thị trường và
khả năng của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức giao dịch phù
hợp.
5. Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng của hạot
động xuất khẩu. Nó quyết định khả năng thực hiện những công đoạn mà doanh nghiệp
đã tiến hành trước đó, đồng thời nó quyết định đến tính khả thi của các kế hoạch của
doanh nghiệp.
Việc đàm phán phải căn cứ vào nhu cầu sản phẩm trên thị trường, đối thủ cạnh tranh, khả
năng, điều kiện và mục tiêu kinh doanh cung như mối quan hệ của doanh nghiệp với các
đối tác khác. kết quả của đàm phán sẽ là hợp đồng được ký kết. Mọi cam kết trong hợp
đồng sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng, vững chắc và đáng tin cậy để các bên thực hiện
cam kết của mình. Đàm phán có thể thực hiện thông qua thư tín, điện tín và đàm phán
trực tiếp.
Tiếp sau công việc đàm phán các bên tiến hành ký kết các hợp đồng mua bán hàng hoá.
Hợp đồng mau bán hàng hoá là một văn bản có tính chất pháp lý được tiến hành trên cơ
sở thoả thuận một cách bình đẳng, tự nguyện giữa các chủ thể nhằm xác lập, thực hiện và
chấm dứt mối quan hệ trao đổi hàng hoá.
Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng, là sản phẩm của quá trình lao động, được sản xuất
ra nhằmn mục đích mua bán, trao đổi nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội: Thông qua trao
đổi và mua sản phẩm của lao động đã nối kết sản xuất và tiêu dùng bằng khâu phân phối,
lưu thông mà nội dung pháp lý của nó chính là hợp đồng mua bán hàng hoá.

Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu) là loại hợp
đồng mau bán đặc biệt trong đó quy định người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu
cho người mua, người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một số tiền ngang với giá trị
hàng hoá bằng các phương thức thanh toán quốc tế.
Khác với hợp đồng mua bán nội địa, hợp đồng xuất khẩu phải được hình thành giữa các
doanh nghiệp có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, hàng hoá phải được dịch
chuyển qua biên giới quốc gia và đồng tiền thanh toán phải là ngoài tệ đối với ít nhất một
bên.
6. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền.
Sau khi ký kết hợp đồng,, các bên sẽ thực hiện các điều kiện mà mình cam kếy trong hợp
đồng. Sau đây là trình tự những công việc chung nhất cần tiến hành để thực hiện hợp
đồng xuất khẩu. Tuy nhiên, trong thực tế tuỳ theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng
mà người xuất khẩu có thể bỏ qua một hoặc vài công đoạn.
6.1.
Dục mở và kiểm tra thư tín dụng.
Trong hoạt động buốn bán quốc tế ngày nay, việc sử dụng thư tín dụng (L/C) phổ biến
hơn cả do những lợi ích mà nó mang lại. Sau khi nhà nhập khẩu mở thư tín dụng, nhà sk
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />phải kiểm tra cẩn thận , tỉ mỉ và chi tiết các điều kiện trong L/C xem có phù hợp với các
điều kiện trong hợp đồng hay không. Nếu không phù hợp hoặc có sai sót thì cần boá
ngay cho nhà nhập khẩu biết để sửa chữa kịp thời. Bởi vì khi người mua (nhà nhập khẩu)
đã mở L/C thì lúc này L/C trở thanhhf trái vụ độc lập và các bên sẽ thực hiện các điều
kiện trong L/C chứ không căn cứ vào hợp đồng nữa.
6.2.
Xin giấy phép xuất khẩu.
Trong một sô trường hợp, mặt hàng xuất khẩu thuộc danh mục mặt hàng nhà nước quản
lý, doanh nghiệp phải tiến hành xin giấy phép xuất khẩu. Việc cấp giấy phép xuất khẩu
do phòng cấp giấy phép xuất khẩu của Bộ thương mại đảm nhiệm
6.3.

Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu trực tiếp việc chuẩn bị hàng hoá xuất
khẩu là tương đối đơn giản. sau khi đã tiến hành sản xuất ra sản phẩm, doanh nghiệp chỉ
cần lựa chọn, đóng gói, kẻ ký mã hiệu và vận chuyển tới nới quy định.
Đối với các doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất khẩu thì các công việc cần tiến hành
trong công tác chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu là:
Thu gom hàng xuất khẩu: để thực hiện công việc này, doanh nghiệp xuất khẩu cần
phải ký hợp đồng với các nhà sk trong nước, các hợp đồng có thể là:
+ Hợp đồng mua đứt bán đoạn.
+ Hợp đồng đổi hàng.
+ Hợp đồng đại lý thu mua.
+ Hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu.
+ Hợp đồng liên doanh, liên kết xuất khẩu.
Đóng gói hàng xuất khẩu: hàng hoá có thể được đóng gói trong hòm, thngf bao,
chai, lọ… xép vào các containers.
Kẻ ký mã hiệu.
6.4.
Kiểm định hàng hoá.
Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra số lượng, phẩm chất,
trọng lượng của hàng hoá. Nếu hàng hoá là động thực vật cần kiểm tra mức độ vệ sinh an
toàn thực phẩm và mức độ gây bệnh.
6.5.
Thuê phương tiện vận chuyển.
Doanh nghiệp xuất khẩu có thể tự thuê phương tiện vận chuyển hoặc uỷ thác cho một
công ty uỷ thác thuê tàu.
Việc lựa chọn thuê phương tiện vận chuyển nà, phương tiện vận chuyển ra sao căn cứ
vào ba nhân tố sau đây:
Những điều kiện của hợp dồng xuất khẩu.
Đặc điểm của hàng hoá
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Điều kiện vận chuyển
Cơ sở pháp lý điều tiết môit qua hệ giữa bên uỷ thác thuê tàu và bên nhận uỷ thác thuê
tàu là hợp đồng uỷ thác thuê tàu. có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ
thác thuê tàu cả năm và hợp đồng uỷ thác thuê tàu chuyến. Nhà xuất khẩu căn cứ vào đặc
điểm của hàng hoá để lựa chọn hợp đồng thuê tàu cho thích hợp.
6.6.
Mua bảo hiểm cho hàng hoá.
Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường được chuyên chở chủ yếu bằng đường biển.
Tuy vậy, vận chuyển bằng đường biển cũng gây cho doanh nghiệp không ít rủi ro nên
phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Việc mua bảo hiểm hàng hoá được thực hiện thông
qua hợp đồng boả hiểm. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá chuyên chở bằng đường biển là
một văn bản trong đó nhà bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các
tổn thất theo các điều kiện bảo hiểm được ký kế, nếu người được bảo hiểm dã đóng phí
bảo hiểm.
Có hai loại hợp đồng bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến.
Hợp đồng bảo hiểm bao : là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến hàng trogn mọt
khoản thời gia nhất định, thưòng là một năm hoặc đối với một giá trị bảo hiểm nhất định,
không kể đến thời gian.
Hợp đồng bảo hiểm chuyến: là hợp đồng bảo hiểm được ký kết cho từng chuyến
hàng chuyên chở từ địa điểm này đến địa điểm khác ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
Có ba loại điều kiện bảo hiểm chính là điều kiện bảo hiểm A, điều kiện bảo hiểm B,
điều kiện bảo hiểm C, ngoài ra có bảo hiểm chiến tranh và bảo hiểm đình công.
6.7.

Làm thủ tục hải quan.

Hàng hoá khi vượt qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan.
Việc là thủ tục hải quan bảo gồm ba bước sau dây:
-


Khai báo hải quan: doanh nghiệp khai báo tất cả những đặc điểm của hàng hoá về

số lượng, chất lượng, giá trị, tên phương tiện vận chuyển, nước nhập khẩu. Các chứng từ
cần thiết phải được xuất trình kèm theo là : giấy phép xuất nhập khẩu, bảng kê khai chi
tiết hàng hoá, phiếu đòng gói…
Xuât trình hàng hoá.
Thực hiện các quyết định của hải quan.
6.8.
Giao hàng lên tàu.
Trong khâu này, các doanh nghiệp cần đăng ký với người vận tải và nhận hồ sơ xếp
hàng, sau đó gặp gỡ các cơ quan điều đọ của cảng để nhận lịch xếp hàng, bố trí các
phương tiện vận tải để đưa hàng vào cảng, xếp hang len tàu và cuối cùng là lấy vận đơn.
6.9.
Thanh toán.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Đây là bước cuối cùng của việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu nếu như không có sự tranh
chấp và khiêu nại giữa các bên, nó là thước đo, là nhân tố ảnh hương trực tiếp đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong buôn bán quốc tế có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau:
Phương thức chuyển tiền.
Phương thức bảo đảm trả tiền.
Phương thức mở tài khoản.
Phương thức nhờ thu.
Phương thức tín dụng chứng từ.
Đối với ngà xuất khẩu, về phương diện thanh toán cần phải xem xét những vấn đề có
liên quan sau đây:
+ Người bán muốn đảm bảo rằng người mua có các phương tiện tìa chính để trả tiền
hàng hoá treo hợp đồng đã ký.

+ Người bán muốn thực hiện đúng hạn.
+ Người bán không muốn có những luồng tiền không cần thiết. Thông thường người bán
muốn được thực hiện bằng các loại ngoại tệ mạnh hợc đồng tiền dẽ dàng chuyển đổi.
Chính vì vậy, với nhà xuất khẩu phương thức thanh toán noà mà mang lại ít rủi ro cho
mình là tốt nhất. Tren bình diện quốc tế, hai phương thức thanh toán là nhờ thu và tín
dụng chứng từ là phổ biến hơn cả.
6.10.

Giải quyết khiếu nại (nếu có).

Nếu sau khi nhận hàng hoặc thanh toán tiền hàng, bên mua khiếu nại vè hàng hoá , thanh
toán, bao bì hoặc về giao hàng (thời hạn giao hàng, địa điểm giao hàng, thông báo giao
hàng…) thì bên bán có trách nhiệm giải quyết đến nơi đến chốn các khiếu nại đó. Việc
giải quyết khiếu nại thường trải qua nghiên cứu, xem xét một cách tỉ mỉ, thận trọng
nhưng không kéo dài. Sau khi xác định việc khiếu nại là có cơ sở, bên bán có thể giải
quyết bằng các biện pháp như: giao bù hàng thiếu, giao thêm hàng để thay thế bộ phận
hư hỏng, biến chất, giảm giá hàng hay trả lại tiền cho người mau…
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
Hoạt động trên thị trường thế giới có nghĩa là doanh nghiệp đang hoạt độnh trong một
moi trường kinh doang xa lạ và đày những thách thức, có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hoạt động
xuất khẩu bao gồm:
1. Các nhân tố kinh tế.
Thứ nhất, ảnh hưởng của cán cân thanh toán và chính sách tài chính tiền tệ.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Nhân tố này quyết định phương án kinh doanh, mặt hàng và quy mô sản xuất của doanh
nghiệp. Sự thay đổi của những nhân tố này gây ra sự xáo trộn lớn trong tỷ trọng xuất
nhập khẩu.

Nhân tố tỷ giá cũng ảnh hưởng mạnh đến conog tác xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Đó là nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu qủa hoạt động thương mại quốc tế. Nếu tỷ giá
hối đoái tương đối ổn định và ở mức thấp thì mới khuyến khích được doanh nghiệp trong
nước tích cực đầu tư sản xuất chế biến hàng xuất khẩu.
Thứ hai, ảnh hưởng của hệ thống tài chính, ngân hàng.
Hệ thống tài chính, nân hàng chi phối rất lớn đến hoạt động xuất khẩu thông qua lãi suất
tiền cho vay, hoạt động. Hiện nay, lợi ích của các doanh nghiệp phụ thuộc vào các nhân
hàng do hình thức thanh toán của các hợp đồng mau bán đều được thực hiện thông qua
các ngân hàng. Nếu các nghiệp vụ ngân hàng được bảo đảm thuận lợi và chính xác thì sẽ
tránh được rất nhiều rủi ro cho doanh nghiệp.
Các nhân tố trên tương đối ổn định vàc ó thrẻ là cơ hội hoặc nguy cơ nên doanh nghiệp
phảinhận bỉêt được các tác động cụ thể, trực tiếp đến doanh nghiệp.
Thứ ba, các nhân tố thuộc về chính sách.
Thương mại quốc tế nói chung đem lại lợ ích to lớn và vì lý do khác nhau mà hầu hết các
quốc gia đều có chính sách thương mại quốc tế thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước
đó trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến
nên kinh tế quốc dân. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là sự can thiệp của chính
phủ theo chiều hướng tiêu cực. Ngược lại, bằng việc sử dụng các công cụ và biện pháp
khác nhau, sự tác động này góp phần thucs đẩy quá trình tái sản xuất xã hội và sự tham
gia của nền kinh tế vào quá trình phân công lao động quốc tế, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tiếp cận những thị trường mới, với những khách hàng mới và mở rộng hoạt
động thương mại quốc tế.
Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu sau để quản lý hoạt động xuất khẩu:
Công cụ thuế quan: thuế quan xuất khẩu là lạo thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá
xuất khẩu. Mục đích chủ yếu của đánh thuế xuất khẩu là nhằm điều tiết lượng hàng xuất
khẩu, đièu tiết cung cầu hàng hoá trong nước và để hạn chế những mặt hàng mà nhà
nước không khuyến khích xuất khẩu. Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi nước, ở các giai
đoạn khác nhau mà mức thuế thay đổi cho phù hợp.
Công cụ Quota ( hạn ngạch xuất nhập khẩu) : hình thức này được áp dụng như là
một công cụ chủ yếu trong hàng rào thuế quan và ngày càng có vị trí quan trọng. Hạn

ngạch được hiểu như là quy định của nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng
hoặc một nhóm hàng được phép xuất khẩu hay nhập khẩu ừ một thị trường trong một
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />khoản thời gian nhất định thông qua cấp giấy phép. Mục đích của chính phủ khi sử dụng
Quota là nhằm quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu quả và điều chỉnh lại hàng hoá xuất
khẩu. Hơn nữa, có thể bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện
cán cân thanh toán.
2. Các nhân tố chính trị, luật pháp của nước sở tại.
Mỗi quốc gia lại có một môi trường chính trị, luật pháp riêng. Do vậy, để đạt được hiệu
quả kinh doanh tối ưu, các doanh nghiệp cần phải chú ý đến các nhân tố chính trị luật
pháp đó, bao gồm:
-

Thái độ của chính phủ đối với việc mau hàng ngoại: một số nước có thái độ rất

thiện cảm, thậm chí còn khuyến khích mua hàng ngoại, một số nước thì không ưa.
Sự ổn định chính trị: sự ổn định chính trị là điều rất cần thiết cho kinh doanh.
Kinh doanh ở một nước mà đường lối căn bản của chính phủ không thay đổi đột ngột,
luật lệ rõ ràng giúp cho doanh nghiệp tính toán được tương đối chính xác lợi ích tài
chính của họ, đặc biêt là lợi ích khi đầu tư lâu dài.
Chính sách tài chính tiền tệ: Điều doanh nghiệp xuất khẩu cần phải biết để kinh
doanh có hiệu quả là vấn đề hạn chế và chuyển đổi ngoại tệ của nước bạn hàng. Tiền bán
hàng có được tự do chuyển đổi san ngoại tệ khác hay bất kỳ một nước nào khác không ?
Ngoài hạn chế về tiền ra, sự biến động về tỷ giá hối đoái là một rủi ro lớn đối với người
bán khi kinh doanh trên các thị trường nước ngoài.
-

Bộ máy nhà nước: cần phải biết bộ máy nhà nước tại thị trường buôn bán có thái


độ như thế nào khi giải quyết các thủ tục xuất nhập khẩu tức là tổ chức hải quan có làm
việc hiệu quả hay không, có đầy đủ thông tin thị trường và những nhân tố khác tạo nên
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Nếu ở một nơi nào đó, mọi trở ngại cho
hoạt động buôn bán nhanh chóng biến mất khi những quan chức ở nước sở tại nhận được
một khoản tiền lót tay tương xứng thì đó là một tai hoạ.
3. Các nhân tố văn hoá, xã hội, môi trường tự nhiên.
Mỗi quốc gia đều có phong tục tập quán, những quy tắc, những điều cấm kỵ của riêng
mình. Để hoạt động kinh doanh xuất khẩu khỏi thất bại, nhà xuất khẩu phải nghiên cứu
thật kỹ xem những người mua ở nước ngoài chấp nhậ mặt hàng này hay mặt hàng kia
như thế nào và họ sử dụng chúng ra sao
Môi trường tự nhiên như thời tiết, khí hậu, thường gây ra những đột biến khó lường. Vì
vậy doanh nghiệp phải xem xét và dự đoán được xu hướng biến động của chúng để phát
hiện cơ hội hay nguy cơ của doanh nghiệp.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />4. Các nhân tố khoa học công nghệ.
Hiện nay, nhiều công nghệ tiên tiến ra đời, tạo ra nhiều cơ hội cũng như không ít nguy cơ
cho doanh nghiệp nói riêng và các nành cong nghiệp nói chung. Nhìn chung, các doanh
nghiệp đều pahỉ cố gắng tìm tòi các giải pháp kỹ thuật mới nhằm giải quyết những vấn
đề còn tồn tại và những công nghệ hiện có trên thị trường, vì nó có thể làm ch sản phẩm
của doanh nghiệp bị lạc hậu một cách trực tiếp trên thị trường, nó có thể làm cho sản
phẩm của doanh nghiệp bị lạc hậu một cách trực tiếp hay gián tiếp do đa dạng về chủng
loaị hàng hoá và nhiều loại sản phẩm mới ra đời.
Nhân tố công nghệ có tác động làm tăng hiệu quả công tác xuất nhập khẩu của doanh
nghiệp. Ví dụ, nhờ sự phái triển của hệ thống dịch vụ bưu chính viến thông giúp doanh
nghiệp có thể đàm phán trực tiếp với khách hàng qua telex, điện tín, fax…giảm bớt chi
phí đi lại, hơn nữa doanh nghiệp có khả năng nắm bắt thông tin mới nhất về thị trường.
Khoa học công nghệ còn tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, kỹ nghệ,
nghiệp vụ ngân hàng…Đó cũng là nhân tố tác động tới xuất nhập khẩu.
5. Các nhân tố cạnh tranh.

Cạnh tranh một mặt buộc doanh nghiệp phải đầu tư máy móc thiết bị, nâng cao chất
lượng và hạ ía thành sản phẩm, tăng cường các dịch vụ hỗ trợ, tăng khả năng chiếm lĩnh
thị trường, nhưng mặt khác, nó dễ dàng “đẩy lùi” các doanh nghiệp không có khả năng
phản ứng hoặc phản ứng chậm với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, do
trình độ phát triển kinh tế ở các quốc gia khác nhau nên khả năng cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế cũng khác nhau. Các nhân tố
cạnh tranh tác động đến hoạt động xuất khẩu bao gồm:
Mối đe doạ của đối thủ cạnh tranh tiềm tàng: khi một doanh nghiệp tham gia vào
cạnh tranh trong một ngành thì có hai vấn đề cần xem xét là: những cản trở xâm nhập đối
với doanh nghiệp vào một ngành kinh doanh và phản ứng của các doanh nghiệp đang
cạnh tranh trong ngành đó.
Có bảy cản trở quan trọng dùng để ngăn cản hoặc gây khó khăn cho các doanh nghiệp
mới xuất hiện là: phân hoá sản phẩ; mạng lưới kênh phân phối; tăng sản lượng sản phẩm;
nhu cầu về vốn; chi phí đặt cọc, tiến cược; lợi thế chi phí cố định; chính sách của nhà
nước.
Việc xâm nhập thị trường của doanh nghiệp mới dễ bị thất bại nếu các đối thủ cạnh tranh
phản ứng quyết liệt.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />-

Cường độ cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện có: khi phân tích cường độ cạnh

tranh giữa các đối thủ hiện có trên thị trường cần xem xét kỹ các vấn đề sau đây:
+ Số lượng doanh nghiệp cạnh tranh và các đối thủ nganh sức.
+ Tốc độ tăng trưởng của ngành.
+ Các đối thủ khác nhau.
+ Những cản trở khi rút lui.
Sự đe doạ của các sản phẩm và dịch vụ thay thế: sản phẩm thay thế là những sản
phẩm có thể thoả mãn nhu cầu tương tự của khác hàng nhưng nó lại có những đặc trưng

riêng biệt khác. sản phẩm thay thế đạt ra một giới hạn về giá mà doanh nghiệp cần quan
tâm.
-

Quyền lực của khách hàng: những khách hàng mua sản phẩm của một ngành nào

đó thì họ có thể làm giảm lợi nhuận của ngành ấy bàn cách yêu cầu chất lượng sản phẩm
cao hơn hay dịch vụ nhiều hơn hoặc có thể bằng cách dùng doanh nghiệp này chống lại
doanh nghiệp kia.
Quyền lực của nhà cung cấp: các nhà cung cấp yếu tố đầu vào của sản xuất có thể
chia sẻ lợi nhuận của một doanh nghiệp trong các trường hợp khi họ là nhà cung cấp độc
quyền, khi các yếu tố đầu vào được cung cấp không có khả năng thay thế, khi các nhà
sản xuất khép kín sản xuất…
6. Các nhân tố về bản thân doanh nghiệp.
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố phản ánh nỗ lực chủ quan của doanh nghiệp
trong kinh doanh nhằm duy trì và mở rộng thị trường thông qua các chính sách, chiến
lược, biện pháp. nó bao gồm các nhân tố chủ yếu sau:
6.1 Sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Phản ánh tương quan lực lượng giữa thế và lực của doanh nghiệp và của các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Nó biểu hiện khả năng duy trì phần thị trường hiện có và
chiếm lĩnh thị trường mới. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở ba yếu tố cơ bản
sau:
-

Chất lượng sản phẩm: theo quan điểm tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO –

International Standard Organization): “ Chât lượng là tổng thê các chỉ tiêu, những đặc
trưng của nó thể hiện sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng nhất định,
phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”.
Chất lượng sản phẩm là vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại

sản phẩm trên thị trường. Nền kinh tế ngày một phát triển, đời sồng nhân dân ngày được
nâng cao thì nhu cầu của họ ngày một cao hơn. sản phẩm với chất lượng cao, mẫu mã
đẹp thì ngày càng được ưa chuộng. Chất lượng sản phẩm đương nhiên trở thành công cụ
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />quản cáo hữu hiệu tạo uy tín cho công ty. Ngược lại, chất lượng sản phẩm không được
đảm bảo thì dù có giá rẻ cũng không thể tiêu thụ được, sản phẩm bị ứ đọng làm ảnh
hưởng đến quá trình sản xuất của công ty. Để giữ vững và mở rộng xuất khẩu đòi hỏi
phải luôn luôn nâng cao chất lượng sản phẩm, khai thác tối đa những thay đổi trong nhu
cầu của từng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Giá cả của sản phẩm: giá cả có ảnh hưởng to lớn đến khối lượng sản phẩm được
tiêu thụ. Nó là một trong những nhân tố quan trọng quyết định việc mua bán và lựa chọn
sản phẩm của khách hàng. Giá cả phụ thuộc vào mức độ cạnh tranh trên thị trường.
Trong cơ chế thị trường, để thoả mãn một nhu cầu của khách hàng có hàng trăm ngàn
loại sản phẩm có thể thay thế cho nhau xuất hiện trên thị trường, cạnh tranh là một lẽ
đương nhiên. vì mục tiêu sản xuất ra là để bán, doanh nghiệp sử dụng giá như một vũ khí
cạnh tranh trên thị trường quốc tế do giá cả khác nhau rất nhiều. Bởi vậy khi doanh
nghiệp muốn xâm nhập hoặc giữ vững thị trường xuất khẩu của mìnhcần phải có một
chính sách giá linh hoạt và thích ứng kịp thời những thay đổi chung của giá cả.
Biện pháp Marketing nhằm nâng cao thế và lực của doanh nghiệp trước đối thủ
cạnh tranh. Nó bao gồm khả năng nắm bắt nhu cầu sản phẩm mới, các biện pháp quản
cáo, xúc tiến bán hàng, dịch vụ sau bán hàng, chính sách phân phối, khuyến mại…Các
biện pháp này giúp cho doanh nghiệp tạo được chữ tín với khách hàng, giúp người tiêu
dùng quan tâm đến sản phẩm của doanh nghiệp, qua đó thu hút khách hàng về phía
mình.
6.2 Trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Bộ máy năng động, gọn nhẹ sẽ giúp doanh nghiệp luôn biến đổi để thích nghi với điều
kiện kinh doanh mới, doanh nghiệp dễ dàng vượt qua những khóp khăn trong cạnh tranh.
Một đoàn thể nhất trí, đoàn kết sẽ giúp doanh nghiệp phát huy tói đa năng lực, trí tuệ vào
mục đích giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Trình độ quản lý

tốt của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong giao dịch và ký kết các hợp đồng
xuất khẩu, tạo niềm tin với khách hàng.
6.3 Trình độ kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp.
Đó là năng lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, trình độ tay nghề của công nhân, thiết bị
máy móc và công nghệ mà doanh nghiệp áp dụng và sử dụng cho việc sản xuất và chế
biến những mặt hàng xuất khẩu. Điều này phản ánh tiềm năng của doanh nghiệp, trình
độ công nghệ của doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với chất lượng và giá thành
phẩm. Có trình độ kỹ thuật tiên tiến hiện đại thì mới có điều kiện tăng năng suất, tăng
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />IV. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP CỦA VIỆT
NAM.
Xuất khẩu giầy dép vào EU hiện nay có một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế nói
chung và toàn nghành giầy dép nói riêng. Do vậy, càng phải nhấn mạnh sự cần thiết phải
tăng cường thúc đẩy sự hàng giầy dép Việt Nam sang EU, biểu hiện bởi các nguyên nhân
sau:
Thứ nhất, EU không những là một thị trường lớn, là một trong ba trung tâm kinh tế lớn
nhất trên thế giới, mà đây còn là thị trường nhập khẩu lớn nhất đối với hàng giầy dép
Việt Nam. Đây còn là thị trường có mức độ tieu dùng giầy dép tương đối cao ( 4-5
đôi/người/năm) và là thị trường lý tưởng cho bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Thứ hai, EU là thị trường rất khó tính với các rào cản kỹ thuật tương đối cao, thị hiếu
người tiêu dùng EU lại tương đối cao, nhu cầu giầy dép đi lại ít mà làm đẹp thì nhiều. Do
vậy nếu vượt qua được các rào cản kỹ thuật, đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng thì
không những chúng ta có thể chiếm được thị phần trên thị trường EU mà còn có thể
thâm nhập dễ dàng các thị trường khác trên thế giới.
Thứ ba, xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam sang EU hiện nay đang đóng góp mọt nguồn
thu đáng kể vào ngân sách quốc gia. Nếu như năm 1995, kim nghạch xuất khẩu giầy dép
chỉ đúng thứ 6 trong số 10 mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thì nay đã vươn lên đứng
hàng thứ 3, chỉ sau có dầu khí và dệt may.

Thứ tư, cùng với việc tăng cường xuất khẩu sang thị trường EU, chúng ta có thể tận dụng
được sự chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiệp hiện đại của EU nay không còn
ưu thế về đất đai, lao động, muốn chuyển giao các công nghệ đó cho các nước kém phát
triển hơn. Do vậy, nó sẽ đảm bảo cho hàng giầy dép Việt Nam có thể vượt qua được các
rào cản kỹ thuật của EU.
Thứ năm, ngành giầy dép là ngành sử dụng nhiều lao động, việc tăng cường xuất khẩu
vào EU đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ sử dụng thêm nhiều lao động, giải quyết thêm
công ăn việc làm cho người dân.
Thứ sáu, hàng giầy dép Việt Nam sở dĩ cạnh tranh được với hàng của các nước khác trên
thị trường EU, nguyên nhân chính là chúng ta đang được hưởng mức htuế quan ưu đãi
GSP mà EU dành cho Việt Nam. Nhưng đến năm 2005, khi mà Trung Quốc đạt được
thoả thuận với EU và cũng được hưởng GSP thì khi đó hàng giầy dép Việt Nam sẽ gặp
phải những khó khăn về cạnh tranh về giá rất lớn. Để tranh đi nguy cơ này, buộc các
doanh nghiệp giầy dép Việt Nam phải tìm cách giảm chi phí để giảm giá thành sản phẩm.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Một trong những nguyên nhân chính đẩy giá thành sản phẩm giầy dép của ta lên cao đó
chính là việc chúng ta đã phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Một giải pháp đưa
ra là chúng ta sẽ phát triển các đàn bò và xây dựng các nhà máy thuộc da để cung cấp
nguyên liệu với giá thành rẻ hơn cho các doanh nghiệp sản xuất giầy dép.

Chương II:
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG GIẦY DÉP VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG
EU
I. KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG EU.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, một mặt, trước yêu cầu cấp thiết phải khôi
phục và phát triển nền kinh tế bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, các nước Tây Âu
nhận thấy cần phải có sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa các nước Tây Âu với nhau để
xây dựng và ngăn chặn chiến tranh xảy ra sau này có thể nổ ra giữa các nước châu Âu,

đặc biệt là phải đổi mới kinh tế, lấy sự hợp tác về sản xuất thay thế cho sự đối địch về
kinh tế. Mặt khác, quá trình khách quan xuất phát từ sự đòi hỏi phát triển của lực lượng
sản xuất,do đời sống kinh tế quốc tế hoá ngày càng rộng rãi, do sự phát triển vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã ảnh hưởng sâu sắc tới lực lượng sản xuất và đời
sống kinh tế Tây Âu.
Lịch sử hình thành Liên minh châu Âu (EUropean Union - EU): được đánh dấu từ ngày
18/4/1951 khi 6 nước: Pháp, Bỉ, CHLB Đức, Italia, Hà Lan, Lucxămbua đã đi tới ký hiệp
ước thiết lập cộng đồng than thép châu Âu (CECA). Mục tiêu của CECA là đảm bảo việc
sản xuất và tiêu thụ than của các nước thành viên trong những điều kiện thống nhất, đẩy
mạnh tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ và nâng cao năng suất
lao động. Trên cơ sở những kết quả mà CECA mang lại về mặt kinh tế cũng như chính
trị, Chính phủ các nước thành viên thấy cần thiết phải tiếp tục con đường đã chọn để sớm
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />đạt được “thực thể châu Âu mới”. Ngày 25/3/1957, hiệp ước thiết lập cộng đồng kinh tế
châu Âu (EUropean Economic Community-EEC) và cộng đồng năng lượng nguyên tử
châu Âu (CEEA) đã được ký kết tại Roma. Trong đó, CEEA chỉ điều chỉnh một lĩnh vực
của công nghiệp và kinh tế, nhiệm vụ của nó chỉ là đẩy mạnh việc sáng tạo và phát triển
công nghiệp nguyên tử và đảm bảo việc cung cấp nguyên liệu, bảo vệ môi trường EEC
bao trùm lĩnh vực kinh tế chung, bảo đảm hoà nhập kinh tế, tiến tới một thị trường thống
nhất, tạo ra tự do lưu thông hàng hoá và con người trong toàn khối. Năm 1967, CECA,
CEEA,EEC chính thức hợp nhất thành một tổ chức chung gọi là “Cộng đồng châu Âu”
(EUorpean Community-EC).
Nhờ những thành công đã đạt được về kinh tế cũng như về mặt chính trị, cộng đồng kinh
tế châu Âu đang tiếp tục mở rộng các quá trình liên kết rộng rãi giữa các nước và các dân
tộc. Đỉnh cao những nỗ lực của quá trình thống nhất được thể hiện qua cuộc họp thượng
đỉnh các nước thuộc Cộng đồng kinh tế châu Âu tổ chức tại Maastrict (Hà Lan) ngày 9
và 10 thàng 12 năm 1991. Hội nghị đã thông qua hiệp ước Maastrict thống nhất EEC, về
việc thành lập Liên minh kinh tế và tiền tệ (Economic and Monetary Union-EMU) và
Liên minh chính trị (EUopean Pplitical Union-EPU). Và ngày 1/1/1993, Hiệp ước

Maastrict chính thưc có hiệu lực. EC gồm 12 nước trở thành EU (Liên minh châu Âu)
đặt nền móng tiến tới “một hợp chủng quốc châu Âu” như mơ ước của nhiều chính
khách châu Âu hồi đầu thế kỷ. Bắt đầu từ 1/1/1995, EU bước vào thời kỳ mới gồm 15
thành viên trong đó 3 thành viên mới là Áo, Phần Lan và Thụy Điển. Điều đó cho thấy
bước tiến quan trọng trong tiến trình hoà nhập châu Âu và ảnh hưởng của EU không chỉ
đến tình hình kinh tế và chính trị của từng nước trong EU mà còn đến cả châu Âu.
2. Đặc điểm của thị trường EU.
2.1. Tập quán, thị hiếu tiêu dùng của thị trường EU.
EU là một thị trường rộng lớn, với 377,3 triệu người tiêu dùng (2000). Thị trường EU
thống nhất cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hoá, dịch vụ và vốn giữa các
nước thành viên. Thị trường này còn mở rộng sang các nước thuộc Hiệp hội mậu dịch tự
do châu Âu (EUropean Free Trade Association-EFTA) tạo thành một thị trường rộng lớn
trên 380 triệu người tiêu dùng.
EU gồm 15 quốc gia, mỗi thị trường lại có đặc điểm tiêu dùng riêng. Do vậy, có thể thấy
rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hoá. Có những loại
hàng rất được ưa chuộng ở thị trường Pháp, Italia, Bỉ nhưng lại không được người tiêu
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />dùng Anh, Ailen, Đan Mạch đón chào. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán và
thị hiếu tiêu dùng giữa các thị trường quốc gia trong khối EU, nhưng 15 nước thành viên
đều là những quốc gia nằm ở khu vực Tây và Bắc Âu nên có những đặc điểm tương
đồng về kinh tế và văn hoá. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các nước thành viên
khá đồng đều, cho nên người tiêu dùng trong khối EU có những đặc điểm chung về sở
thích và thói quen tiêu dùng
Người tiêu dùng EU có sở thích và thói quen sử dụng các sản phẩm có nhãn hiệu nổi
tiếng trên thế giới. Họ cho rằng những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng sản phẩm
và có uy tín từ lâu đời, cho nên dùng những sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng thế giới
sẽ rất an tâm về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Đặc biệt, đối với những sản
phẩm của các nhà sản xuất không có danh tiếng hay nói cách khác những sản phẩm có
nhãn hiệu ít người biết đến thì rất khó tiêu thụ trên thị trường này. Người tiêu dùng EU

rất sợ mua những sản phẩm như vậy, vì họ cho rằng sản phẩm của các nhà sản xuất
không có danh tiếng sẽ không đảm bảo về chất lượng, vệ sinh và an toàn cho người sử
dụng do đó không an toàn đối với sức khoẻ và cuộc sống của họ.
EU là một trong những thị trường lớn trên thế giới, sở thích và nhu cầu của họ cũng cao,
họ có thu nhập, mức sống cao, khá đồng đều và yêu cầu rất khắt khe về độ an toàn của
sản phẩm nói chung. Yếu tố trước tiên quyết định tiêu dùng của người châu Âu là chất
lượng và thời trang của hàng hoá sau đó mới đến giá cả của đại đa số mặt hàng được tiêu
thụ trên thị trường này.
Hàng năm EU nhập khẩu một lượng lớn hàng hoá chủ yếu là hàng tiêu dùng từ các nước
đang phát triển như thuỷ sản, dệt may, giầy dép... Nhu cầu nhập khẩu một số sản phẩm
tiêu dùng chính của EU từ 1995 đến 1999 được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Nhu cầu nhập khẩu một số sản phẩm tiêu dùng chính của EU từ các nước đang
phát triển.
Đơn vị : triệu USD.
Mặt hàng

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001


1. Thuỷ sản

326

404

501

623

702

812

895

2. Dệt may

130.63

132.981

134.489 135.834

138.551

139.145

141.45


8
3. Giầy dép

1.949

2
2.667

4.364

3.231

4.462

4.225

4.576

* Nguồn: Thống kê hải quan,Vụ xuất nhập khẩu, Bộ thương mại.
Niêm giám thống kê, Tổng cục thống kê (2000)& Tổng cục hải quan.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Số liệu từ bảng 1 cho thấy EU là một thị trường nhập khẩu hàng tiêu dùng rất lớn. Song
để vào được thị trường EU, hàng tiêu dùng của các nước đang phát triển phải thoả mãn
những điều kiện khá ngặt nghèo. Cụ thể với 3 sản phẩm tiêu dùng chính như sau:
Đối với hàng thuỷ sản: hàng năm Liên minh châu Âu chiếm từ 25-30% nhập khẩu thuỷ
sản của thế giới. Mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân đầu người ở EU là 17 kg/năm. Thị
trường thuỷ sản EU có tính đa dạng cao với nhiều nhóm dân cư có yêu cầu rất khác nhau
trong thói quen tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản. Tuy nhiên thị trường EU thật sự là một
thị trường khó tính, có chọn lọc cao với những yêu cầu nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn

thực phẩm (với hàng thuỷ sản đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, thành phẩm, trọng
lượng thời gian và cách sử dụng sản phẩm, nơi sản xuất, các điều kiện bảo quản và sử
dụng, mã số, mã vạch để nhận dạng lô hàng). Liên minh châu Âu có riêng một hệ thống
luật trong lĩnh vực thuỷ sản được xác định nhằm kiểm soát các điều kiện đảm bảo an
toàn vệ sinh từ nuôi trồng, đánh bắt, vận chuyển, chế biến cho đến bảo quản và đưa ra thị
trường tiêu thụ (Đặc biệt cấm nhập những sản phẩm thuỷ sản bị nhiễm độc do tác động
của mội trường hoặc do các chất phụ gia không được phép sử dụng).
Đối với hàng dệt may: EU lập ra một hệ thống thống nhất về mã hiệu cho biết các loại
sợi cầu thành nên loại vải hay lụa đưa bán trên thị trường EU. Bất cứ loại vải hoặc lụa
nào được sản xuất ra trên cơ sở hai hay nhiều sợi mà một trong các loại ấy chiếm tối
thiểu 85% tổng trọng lượng, thì trên mã hiệu có thể đề tên loại sợi đó kèm theo tỷ lệ về
trọng lượng, hoặc đề tên các loại sợi đó kèm theo tỷ lệ tối thiểu 85% hoặc ghi cấu thành
chi tiết của sản phẩm. Nếu sản phẩm gồm hai hoặc nhiều loại sợi mà không loại sợi nào
đạt tỷ lệ 85% tổng trọng lượng thì trên nhãn hiệu ít ra phải ghi tỷ lệ của hai loại sợi quan
trọng nhất kèm theo tên các loại vải sợi khác đã được sử dụng.
Đối với hàng giầy dép: thị hiếu của người tiêu dùng trong thị trường EU được đánh giá
là khá khó tính và chọn lọc. Các nhà nhập khẩu châu Âu luôn tìm kiếm những thị trường
rẻ nhưng phải đẹp. Họ luôn cố gắng hạ giá thành sản phẩm tới mức thấp nhất tại nơi đặt
cơ sở gia công.
Thị trường EU về cơ bản cũng giống như một thị trường quốc gia, do vậy nó có 3 nhóm
người tiêu dùng khác nhau: (1) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức cao, chiếm gần
20% dân số EU, dùng hàng chất lượng tốt nhất và giá cả cũng đắt nhất, hoặc những mặt
hàng hiếm và độc đáo; (2) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức trung bình chiếm 68%
dân số, sử dụng mặt hàng có chất lượng kém hơn một chút so với nhóm 1 và giá cả cũng
rẻ hơn; (3) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức thấp, chiếm hơn 10% dân số, tiêu dùng
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />những loại hàng có chất lượng và giá đều thấp hơn so với hàng của nhóm 2. Hàng hoá
đáp ứng cho thị trường này gồm cả hàng hoá cao cấp lẫn bình dân phục vụ cho mọi đối
tượng.

Yêu cầu về mẫu mốt và kiểu dáng hàng hoá thay đổi nhanh, đặc biệt đối với những hàng
thời trang (giầy dép, quần áo...).
2.2. Năng lực nội tại của thị trường EU về khả năng sáng tạo mốt, khả năng sản xuất và
xuất khẩu.
Từ xưa đến nay, châu Âu vẫn được coi là kinh đô thời trang của thế giới bởi các trung
tâm tạo mốt thời trang nổi tiếng như Pháp, Italia... với các hãng nổi tiếng của thế giới mà
giới sành mốt đều biết đến. Ngành công nghiệp giầy dép châu Âu nói chung và EU nói
riêng có lịch sử phát triển lâu đời, sản phẩm giầy dép chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng
sản phẩm xã hội và kim ngạch xuất khẩu.
Do ảnh hưởng của qúa trình quốc tế hoá và do việc tăng cường nhập khẩu hàng hoá rẻ
hơn vào thị trường nội địa, ngành giầy dép châu Âu nói chung và EU nói riêng giảm
đáng kể cả về khối lượng sản xuất và thị phần. Một phần cũng bởi sự cạnh tranh của sản
phẩm giầy dép của các nước kém phát triển vốn có thuận lợi về giá nhân công rẻ.
Hiện nay hơn 60% khối lượng hàng giầy dép xuất khẩu trên thế giới đều xuất phát từ các
nước đang phát triển, châu Á là khu vực xuất khẩu lớn nhất, chiếm 32% khối lượng giầy
dép xuất khẩu toàn thế giới. Nhưng xét về giá trị thị trường, EU vẫn đóng một vai trò hết
sức quan trọng trên thị trường giầy dép thế giới. Hàng giầy dép của EU vẫn đứng đầu thế
giới về chất lượng. Sở dĩ như vậy là do EU là trung tâm thiết kế về mẫu mốt, trung tâm
thông tin về thời trang và giầy dép. EU cũng là khu vực tuyệt vời về kỹ thuật thuộc da.
Mặc dù khối lượng sản xuất cũng như thị phần của hàng giầy dép EU đang giảm, nhưng
trên thực tế EU đang mở rộng ngành giầy dép của mình dưới hình thức sản xuất và
marketing tại nhiều nước, nhất là các nước châu Á. Hình thức liên kết này chủ yếu là
giao nguyên liệu thuê gia công theo mẫu mã mà các nhà tạo mốt EU đã thiết kế sẵn. Như
vậy, thực tế khả năng chi phối thị trường giầy dép của EU vẫn rất lớn.
2.3. Nhu cầu nhập khẩu hàng giày dép.
EU là một thị trường rộng lớn với hơn 375 triệu dân, nhu cầu tiêu dùng hàng giầy dép rất
lớn, vào hàng thứ hai thế giới (sau Mỹ). Thị trường EU có tiềm năng sản xuất và xuất
khẩu hàng giầy dép đứng hàng đầu thế giới. Đồng thời, các nước EU cũng đứng đầu thế
giới về nhập khẩu hàng giầy dép. Ở thị trường EU, người ta có thể thấy đủ các mặt hàng
giầy dép từ khắp các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Trung quốc, Singapore...

2.4. Hệ thống phân phối của hàng giầy dép trên thị trường EU.
Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Trong nền thương mại châu Âu , hệ thống phân phối là yếu tố quan trọng trong khâu lưu
thông và xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này. Hệ thống phân phối EU chủ yếu bao
gồm các hình thức sau: các trung tâm thu mua, các đơn vị chế biến, dây truyền phân
phối, các nhà bán buôn, bán lẻ và người tiêu dùng.
Trong xu hướng hiện nay, nhập khẩu trực tiếp hàng giầy dép vào EU tăng lên do yêu cầu
về cạnh tranh trong khâu bán lẻ. Hệ thống bán lẻ ngày càng chiếm ưu thế trong hệ thống
phân phối hàng giầy dép vào thị trường EU.
Hàng giầy dép tại các nước EU cơ bản được phân phối qua hệ thống bán lẻ như sau:
(1)
Các dây truyền chuyên doanh hàng giầy dép.
(2)
Các cửa hàng chuyên doanh hàng giầy dép liên nhánh.
(3)
Các trung tâm bán hàng qua bưu điện.
(4)
Các siêu thị.
(5)
Các công ty bán lẻ độc lập.
(6)
Các kênh tiêu thụ khác.
Với các thị trường khác nhau trong EU, hệ thống phân phối hàng giầy dép lại có sự khác
biệt. Nếu như ở Anh, các công ty bán lẻ độc lập chiếm thị phần nhỏ thì kênh phân phối
này lại khá phổ biến với các nước phía Nam EU như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia.
Trong các năm tới, hình thức kinh doanh bán lẻ có thể có nhiều thay đổi, đó là sự giảm đi
thị phần của các công ty bán lẻ độc lập và tăng lên các loại hình bán lẻ khác. Đồng thời,
các nhà xuất khẩu tại các nước đang phát triển châu Á, trong đó có Việt Nam sẽ phải
đương đầu với sức ép cạnh tranh của các nước Đông Âu và Trung Đông do các nước này

có ưu thế hơn hẳn trong khả năng tiếp cận hệ thống bán lẻ của các nước EU.
2.5. Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của EU.
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng rất được bảo
vệ, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cho
người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ
thống báo động giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở
biên giới. EU đã thông qua các quy định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng về độ an
toàn chung của các sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà,
nhãn hiệu…Các tổ chức chuyên nghiên cứu đại diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các quy
chế định chuẩn quốc gia hoặc châu Âu. Hiện nay ở EU có 3 tổ chức định chuẩn: Uỷ ban
châu Âu về định chuẩn, Uỷ ban châu Âu về định chuẩn điện tử, Viện định chuẩn viễn
thông châu Âu. Tất cả các sản phẩm chỉ có thể bán được ở thị trường này với điều kiện
phải bảo đảm tiêu chuẩn an toàn chung của EU, các luật và định chuẩn quốc gia được sử

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản phẩm được sản xuất ra từ các nước có những điều
kiện sản xuất chưa đạt được mức an toàn ngang với tiêu chuẩn của châu Âu.
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng
cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền.
Ngoài việc ban hành và thực hiện quy chế trên, EU còn đưa ra các Chỉ thị kiểm soát từng
nhóm hàng cụ thể về chất lượng và an toàn đối với người tiêu dùng.
2.6. Chính sách thương mại.
EU được coi là một đại quốc gia của châu Âu. Bởi vậy, chính sách thương mại của EU
giống như chính sách thương mại của một quốc gia. Nó bao gồm chính sách thương mại
nội khối và chính sách ngoại thương.
Chính sách thương mại nội khối: chính sách nội khối tập trung vào việc xây dựng và vận
hành thị trường chung châu Âu, xoá bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên
giới hải quan( xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan ) để tự do lưu thông vốn, hàng
hoá, dịch vụ và vốn, điều hoà các chính sách kinh tế - xã hội của các nước thành viên.

Chính sách ngoại thương: gồm chính sách thương mại tự trị và chính sách thương mại
dựa trên cơ sở Hiệp định được xây dựng trên những nguyên tắc sau: không phân biệt đối
xử, minh bạch, có đi có lại và đối xử công bằng. Các biện pháp bảo hộ chủ yếu được áp
dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn chế về số lượng, chống bán phá giá
và trợ cấp xuất khẩu.
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với
các nước ngoài khối. Uỷ ban châu Âu (EC) là người đại diện duy nhất cho Liên minh
trong việc đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh
vực này.
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá: đẩy mạnh tự do hoá thương mại
(giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá xuất khẩu và tiến tới xoá bỏ hạng nghạch, GSP).
Hiện nay, 15 nước thành viên EU cùng áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng
hoá xuất nhập khẩu. Đối với hàng nhập khẩu vào khối, mức thuế trung bình đánh vào
hàng nông sản là 18%, còn hàng công nghiệp chỉ là 2%.
Các chính sách phát triển ngoại thương của EU từ 1951 đến nay là những nhóm chính
sách chủ yếu sau: chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách thay thế nhập khẩu,
chính sách tự do hoá thương mại và chính sách hạn chế xuất khẩu tự nguyện. Việc bán
hàng và thực hiện các chính sách này có liên quan chặt chẽ đến tình hình phát triển kinh
tế, tiến trình nhất thể hoá châu Âu và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ của các sản
phẩm của Liên minh trên thị trường thế giới.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×