Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

M t s bi n ph p n ng cao kh n ng c nh tranh h ng d t kim trong ho t ng xu t kh u c a c ng ty D t Kim ng Xu n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.43 MB, 100 trang )

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và /> và là website chia sẻ miễn phí luận văn, đồ
án, báo cáo tốt nghiệp, đề thi, giáo án…..nhằm phục vụ học tập và nghiên cứu cho tất cả
mọi người. Nhưng số lượng tài liệu còn rất nhiều hạn chế, rất mong có sự đóng góp của quý
khách để kho tài liệu chia sẻ thêm phong phú, mọi sự đóng góp tài liệu xin quý khách gửi về

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu của
công ty Dệt Kim Đông Xuân

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />MỞ ĐẦU
Sau hơn 10 năm chuyển đổi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ cơ
chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà Nước, đó là sự chuyển hướng chiến lược và là bước ngoặt cơ bản đưa nền kinh tế
nước ta thoát khỏi khủng hoảng đứng vững vươn lên. Cho đến nay nền kinh tế nước ta đã đi
dần vào thế ổn định và phát triển.
Hoạt động trong cơ chế thị trường tất cả các vấn đề cơ bản của doanh nghiệp đều phải được
giải quyết trên thị trường. Tất cả các mục tiêu, chiến lược kinh doanh nói chung và chiến
lược cạnh tranh nói riêng đều được định hướng thông qua thị trường, thị trường là nơi thử
nghiệm sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh xuất nhập khẩu khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hoạt động xuất khẩu là
nhân tố sống còn của doanh nghiệp. Song để cạnh tranh trên thị trường là vấn đề không
hoàn toàn đơn giản do có sự tác động mạnh mẽ và rộng lớn của nhiều nhân tố khác nhau.
Hơn nữa để cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thế giới như hiện nay là vô cùng khó khăn,
nhất là cạnh tranh trong ngành dệt may nói chung và mặt hàng dệt kim nói riêng, do ngày
càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này, khoa học công nghệ ngày càng phát
triển làm cho vòng đời công nghệ của sản phẩm bị rút ngắn càng gây sức ép cho các doanh
nghiệp muốn đứng vững được trên thị trường kinh doanh, giữa các quốc gia lại có sự khác
biệt về luật pháp, cách sống, văn hoá và sự nhận thức của khách hàng... những yếu tố này
luôn vây quanh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đòi hỏi doanh nghiệp phải có
những biện pháp để ngày càng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.


Đứng trước tình hình đó, các doanh nghiệp đều cố gắng tìm ra các biện pháp để nâng cao
khả năng của mình. Một trong những biện pháp đó không ngừng nâng cao chất lượng hàng
hoá, giảm giá thành sản phẩm đến mức hợp lý với chất lượng cải tiến, đa dạng hoá nhiều
mặt hàng. Để làm được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp đầu tư vào máy móc, thiết bị,
nâng cao hàm lượng chất xám chứa trong sản phẩm. Công tác này đã được các công ty chú
ý nhất là từ khi có chiến lược tăng tốc của Tổng công ty dệt may Việt Nam.
Nằm trong tình trạng chung đó, khả năng cạnh tranh của công ty Dệt Kim Đông Xuân còn
một số vấn đề cần được nâng cao. Chính vì vậy, một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh
tranh mặt hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu cũng là mối quan tâm của Ban lãnh đạo

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />công ty Dệt Kim Đông Xuân - một doanh nghiệp dệt may đầu tiên có sản phẩm xuất khẩu
được cấp dấu "Chất lượng cao" của Việt Nam.
Sau một thời gian thực tập và nghiên cứu tại công ty với mục đích hệ thống hoá và củng cố
kiến thức đã được tiếp thu, áp dụng vào thực tiễn em đã quyết định chọn đề tài: " Một số
biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu của công
ty Dệt Kim Đông Xuân".
Do đề tài mang tính thực tế cao, thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế nên
không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của
Thầy Cô giáo, các Cô Chú, trong công ty Dệt Kim Đông Xuân để bản báo cáo của em được
hoàn thiện.
Kết cấu của bản báo cáo gồm 3 phần chính:
Chương 1: Những vấn đề về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh.
Chương 2: Phân tích năng lực cạnh tranh của công ty Dệt Kim Đông
Xuân.
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng dệt kim trong hoạt
động xuất khẩu tại công ty Dệt Kim Đông Xuân.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH

I. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH.
1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH
1.1 Khái niệm cạnh tranh và khả năng cạnh tranh

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Trong lịch sử phát triển của nhân loại, trao đổi hàng hoá cũng sớm phát triển, tuy nhiên chỉ
đến khi xuất hiện trao đổi thông qua vật ngang giá là tiền tệ thì cạnh tranh mới xuất hiện, và
cạnh tranh đặc biệt phát triển trong nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa mà theo Mác
nguyên nhân của nó là sự ganh đua, sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành
giật những thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Vì vậy khi nghiên cứu sâu về tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác đã phát
hiện ra quy luật cơ bản của sự cạnh tranh là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận và qua đó
đã hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch giữa giá
trị và chi phí sản xuất và khả năng có thể bán được hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn
thu được lợi nhuận. Và ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vẫn là một điều
kiện và yếu tố kích thích kinh doanh, là môi trường, động lực thúc đẩy sản xuất phát triển,
tăng năng suất lao động và sự phát triển của xã hội nói chung.
Như vậy cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế hàng hoá, trong cơ chế vận
động của thị trường, hay có thể nói, thị trường là một vũ đài thực sự của cạnh tranh, là nơi
gặp gỡ của các đối thủ mà kết quả của cuộc đua tài sẽ là sự tồn tại và phát triển của những
doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao.
Cuối cùng, ta có thể hiểu: "cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các đối thủ
thể hiện trên thị trường nhằm giành giật những điều kiện sản xuất thuận lợi và là nơi tiêu thụ
hàng hoá, dịch vụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển".
Ngày nay, người ta tính toán rằng, tỷ lệ lợi nhuận đạt được ít nhất phải bằng tỷ lệ cho việc
đầu tư cho những mục tiêu của doanh nghiệp. Vì vậy, nếu một doanh nghiệp tham gia thị
trường mà không có khả năng cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh yếu thì sẽ không thể tồn
tại được. Quá trình duy trì sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải là một quá trình lâu dài,
nếu không muốn nói vĩnh viễn như là quá trình duy trì sự sống.

1.2 Vai trò của cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh
Như phần trên chúng ta đề cập, cạnh tranh là một biểu hiện đặc trưng của nền kinh tế
hàng hoá, đảm bảo cho việc tự do trong sản xuất kinh doanh và đa dạng hoá hình thức sở
hữu. Trong cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trên thị trường nói riêng thì các doanh
nghiệp luôn tìm cách đưa ra các biện pháp hữu hiệu để duy trì chỗ đứng trên thị trường và

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />sau đó là nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để không ngừng đưa doanh nghiệp phát
triển và lớn mạnh. Để đạt được mục tiêu này, các doanh nghiệp phải thường xuyên cố gắng
để tạo ra nhiều ưu thế cho sản phẩm của mình và từ đó đạt được mục đích cuối cùng của
mình là thu được lợi nhuận.
Khi sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá nào đó lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu
được được xác định theo công thức như sau:
Π= P.Q - C.Q
Trong đó:

Π: Lợi nhuận của doanh nghiệp
P: Giá cả của hàng hoá
Q: Lượng hàng hoá bán được
C: Chi phí cho một đơn vị hàng hoá.
Theo công thức trên thì để đạt được lợi nhuận tối đa doanh nghiệp có thể có các biện pháp
sau: tăng giá bán P, tăng lượng bán Q, giảm chi phí C và để đạt được mục tiêu này doanh
nghiệp phải làm tăng vị thế của sản phẩm trên thị trường băng cách áp dụng các tiến bộ của
khoa học công nghệ, các phương pháp sản xuất tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra cho sản phẩm
có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, kiểu dáng đa dạng, phong phú...và quan trọng là ít tốn kém
chi phí nhất. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần có các chiến lược marketing thích hợp
để quảng bá sản phẩm, hàng hoá của mình đến khách hàng, giúp họ nắm bắt được các thông
tin quan trọng, cần thiết về sản phẩm như: đặc tính của sản phẩm, tính chất và những điều
kiện sử dụng của sản phẩm...và cả những dịch vụ kèm theo của sản phẩm.

Trong thực tế chỉ trong một nền kinh tế có sức cạnh tranh mạnh mẽ, thì các doanh nghiệp
mới có sự đầu tư thích hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, từ đó sản phẩm hàng
hoá mới được cải tiến về chất lượng, mẫu mã, giá cả. Đây là vấn đề quan trọng đối với các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và đặc biệt quan trọng hơn cả đối với những doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.
Từ những phân tích trên đây chúng ta dễ nhận thấy hàng hoá có chất lượng ngày càng tốt,
mẫu mã ngày càng phong phú, đa dạng, đẹp và hấp dẫn hơn, đáp ứng được mọi yêu cầu của
người tiêu dùng trong xã hội. Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn
các sản phẩm phù hợp với túi tiền và sở thích của mình. Những lợi ích mà họ thu được từ
hàng hoá ngày càng được nâng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ có

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />các dịch vụ trước, trong và sau khi bán được quan tâm nhiều hơn. Đây chính những là
những lợi ích mà người tiêu dùng có được từ cạnh tranh đem lại.
Cạnh tranh còn đem lại những lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế đất nước. Vì để tồn tại và
phát triển trong cạnh tranh các doanh nghiệp đã không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu áp dụng
những thành tựu khoa học vào sản xuất kinh doanh nhờ đó mà tình hình sản xuất của đất
nước được phát triển, năng suất lao động được nâng cao. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp
tham gia vào nền kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau như: tư nhân, trách nhiệm hữu
hạn...làm đa dạng các thành phần kinh tế đất nước. Và đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh
tranh là một hình thức mà Nhà nước sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu
dùng có thể lựa chọn được sản phẩm tốt, có chất lượng cao, giá rẻ...
Ngoài ra, nói đến cạnh tranh là nói đến tính sống còn, gay gắt và cạnh tranh trên thị trường
quốc tế thì mức độ gay gắt và khốc liệt là hơn nhiều. Hiện nay trên thị trường quốc tế có
nhiều doanh nghiệp của nhiều quốc gia khác nhau với những đặc điểm và lợi thế riêng đã
tạo ra một sức ép cạnh tranh mạnh mẽ, điều này không cho phép các doanh nghiệp hành
động theo ý muốn của mình mà không quan tâm đến nhu cầu thị trường và khả năng cạnh
tranh của mình theo hai xu hướng: tăng chất lượng sản phẩm và hạ chi phí sản xuất. Để có
được điều này các doanh nghiệp phải biết khai thác triệt để lợi thế so sánh của đất nước

mình, từ đó tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải chú trọng
đầu tư các trang thiết bị hiện đại, không ngừng đưa các tiến bộ khoa học công nghệ kỹ thuật
vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Những điều này
sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho mỗi quốc gia, các nguồn lực sẽ được tận dụng triệt để cho
sản xuất, trình độ khoa học công nghệ của đất nước không ngừng được cải thiện.
Như vậy, có thể nói cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách hợp lý
giữa lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của xã hội, cạnh tranh còn tạo ra môi trường tốt
cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này
không phải bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có lợi, có doanh nghiệp bị huỷ diệt do không
có khả năng cạnh tranh, có doanh nghiệp sẽ thực sự phát triển nếu họ biết phát huy tốt
những tiềm lực của mình. Nhưng cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế,
thay thế các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí nguồn lực xã hội bằng doanh

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />nghiệp hoạt động hiệu quả, nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, thúc đẩy kinh tế xã hội phát
triển.
Tóm lại cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như từng
doanh nghiệp.
Công ty Dệt Kim Đông Xuân là một công ty Nhà nước trực thuộc Tổng công ty dệt may
Việt Nam, hoạt động trong một lĩnh vực có nhiều doanh nghiệp cùng ngành, cùng lĩnh vực.
Nếu nói riêng về lĩnh vực dệt kim thì trong nước cũng có đến năm doanh nghiệp cũng tham
gia vào lĩnh vực này. Đó là các doanh nghiệp: Dệt kim Hà Nội, dệt kim Thắng Lợi, dệt kim
Hoàng Thuỵ Loan...ngoài ra còn có những doanh nghiệp nước ngoài có trình độ công nghệ
cao, kinh nghiệm lâu năm. Chính vì vậy, công ty Dệt Kim Đông Xuân muốn tiếp tục tồn tại
và phát triển trong lĩnh vực sản xuất hàng dệt kim là một điều vô cùng khó khán, khốc liệt.
Do đó công luôn phải chủ động trong việc tạo nguồn hàng sao cho đảm bảo tốt nhu cầu của
khách hàng, chủ động trong việc giữ khách hàng cũ, tìm kiếm khách hàng mới, công tác
nghiên cứu thị trường bắt đầu được chú ý, tham gia nhiều hội chợ triển lãm trong và ngoài
nước... nhằm giới thiệu, cung cấp những thông tin cần thiết quan trọng cho khách hàng. Sự

tín nhiệm của khách hàng và vị thế của công ty Dệt Kim Đông Xuân ngày càng được nâng
cao cũng là do cạnh tranh hàng hoá mà có được.
1.3 Các loại hình cạnh tranh
a. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ
bán đắt. Vì trên thị trường người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất nhưng
người mua lại muốn mua hàng hoá với giá thấp nhất có thể. Giá cả cuối cùng là giá cả được
thống nhất giữa người bán và người mua sau một quá trình mặc cả với nhau.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: là một cuộc cạnh tranh dựa trên sự cạnh
tranh mua. Khi số lượng hàng hoá bán ra (tức lượng cung) nhỏ hơn nhu cầu cần mua của
người mua (tức là lượng cầu) nghĩa là xảy ra sự khan hiếm hàng hoá thì cuộc cạnh tranh trở
nên quyết liệt, giá cả sẽ tăng lên vì người mua sẵn sàng chấp nhận giá cao để mua được
hàng hoá cần mua.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
với nhau, họ thủ tiêu lẫn nhau để giành khách hàng và thị trường, cuộc cạnh tranh này dẫn
đến giá cả hạ xuống và có lợi cho thị trường. Trong khi đó các doanh nghiệp khi tham gia
thị trường không chịu được sức ép sẽ phải bỏ thị trường, nhường thị phần của mình cho các
doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn.
b. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế thì cạnh tranh bao gồm:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng
một ngành, cùng sản xuất một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để
thu lợi nhuận siêu ngạch bằng các biện pháp cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động,
giảm chi phí sản xuất làm cho giá trị của hàng hoá cá biệt do doanh nghiệp sản xuất ra nhỏ
hơn giá trị xã hội. Kết quả cuộc cạnh tranh này làm cho kỹ thuật sản xuất phát triển hơn.
- Cạnh tranh giữa các ngành: là một cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng minh
giữa các doanh nghiệp trong các ngành với nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất. Trong
quá trình này xuất hiện sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành khác nhau,

kết quả hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
c. Căn cứ vào mức độ cạnh tranh, gồm có:
- Cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người bán và
không người nào có ưu thế để cung cấp một số lượng sản phẩm quan trọng mà có thể ảnh
hưởng tới giá cả. Các sản phẩm làm ra được người mua xem là đồng nhất tức là ít có sự
khác biệt về quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách
thích ứng với giá cả thị trường, họ chủ yều tìm cách giảm chi phí và sản xuất một mức sản
phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên
- Cạnh tranh không hoàn hảo: là cuộc cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn sản phẩm của
họ không đồng nhất với nhau, mỗi sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau. Mỗi nhãn
hiệu đều mang hình ảnh hay uy tín độc đáo với người mua do sản phẩm là không đáng kể.
Người bán có uy tín độc đáo với người mua do nhiều lý do khác nhau như khách hàng quen
thuộc, gây được lòng tin... người bán lôi kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách như:

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />quảng cáo cung cấp dịch vụ, sử dụng tín dụng ưu đãi trong giá cả...đây là loại hình cạnh
tranh phổ biến hiện trong xã hội hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền: là cạnh tranh trên thị trường ở đó chỉ có một số người bán sản
phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không độc nhất. Họ có thể kiểm
soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra trên thị trường. Thị trường có
sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền. Điều
kiện ra nhập hoặc rút khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều cản trở: do vốn đầu tư
lớn hay do độc quyền bí quyết công nghệ. Trong thị trường này không có cạnh tranh giá cả
mà một số người bán toàn quyền quyết định giá. Họ có thể định giá cao hơn hoặc thấp hơn
tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm, miễn là họ thu được lợi nhuận tối đa.
d. Căn cứ vào tính chất của cạnh tranh:
- Cạnh tranh lành mạnh: là cuộc cạnh tranh mà các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị
trường dùng chính tiềm năng, nội lực của mình để cạnh tranh với các đối thủ. Những nội lực
đó là khả năng tài chính, khả năng nhân lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về uy tín, hình

ảnh của công ty...Trên thị trường hay của tất cả những gì tựu chung trong hàng hoá bao gồm
cả hàng hoá cứng (tức hàng hoá hiện vật) và hàng hoá mềm (tức hàng hoá dịch vụ).
- Cạnh tranh không lành mạnh: là cuộc cạnh tranh không bằng chính nội lực của công ty
mà dùng những thủ đoạn, mánh lới, mưu mẹo nhằm cạnh tranh một cách không công khai
thông qua việc trốn tránh các nghĩa vụ mà Nhà Nước yêu cầu và luồn lách qua những kẽ hở
của pháp luật.
2. MÔ HÌNH 5 LỰC LƯỢNG CỦA MICHAEL PORTER TRONG CẠNH TRANH.
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường cũng
đều phải chịu một áp lực cạnh tranh nhất định, mà hiện trạng cuộc cạnh tranh phụ thuộc vào
5 lực lượng cạnh tranh cơ bản được biểu diễn theo mô hình sau:

CÁC ĐỐI THỦ
TIỀM NĂNG

Nguy cơ đe doạ từ những người
mới vào cuộc

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Quyền lực

NGƯỜI
thương lượng
CUNG
của người cung
ỨNG

ứng

CÁC ĐỐI THỦ CẠNH TRANH

TRONG NGÀNH CUỘC CẠNH
TRANH GIỮA CÁC ĐỐI THỦ
HIỆN TẠI

NGƯỜI

Sự ép giá
MUA
củangười mua

Nguy cơ đe doạ từ những sản phẩm thay thế
SẢN PHẨM
THAY THẾ

Hình 1: Mô hình 5 lực lượng của Michael Porter
Mô hình 5 lực lượng của Michael Porter được nhiều nhà phân tích vận đụng để đánh giá khả
năng cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc của một ngành công nghiệp.
* Nguy cơ đe doạ từ những người mới vào cuộc:
Là sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường những có khả năng mở
rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp khác. Để hạn chế mối đe doạ này,
các nhà quản lý thường dựng lên các hàng rào như:
Mở rộng khối lượng sản xuất của doanh nghiệp để giảm chi phí.
Khác biệt hoá sản phẩm.
Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối.
Phát triển các dịch vụ bổ sung.
Ngoài ra có thể lựa chọn địa điểm thích hợp nhằm khai thác sự hỗ trợ của Chính phủ và lựa
chọn đúng đắn thị trường nguyên liệu, thị trường sản phẩm.
* Quyền lực thương lượng của người cung ứng:
Người cung ứng có thể chi phối đến doanh nghiệp là do sự thống trị hoặc khả năng độc
quyền của một số ít nhà cung ứng. Nhà cung ứng có thể đe doạ tới nhà sản xuất do tầm quan

trọng của các sản phẩm được cung ứng, do đặc tính khác biệt hoá cao độ của người cung
ứng với người sản xuất, do sự thay đổi chi phí của sản phẩm mà nhà sản xuất phải chấp
nhận và tiến hành, do liên kết của những người cung ứng gây ra...
Trong buôn bán quốc tế, nhà cung ứng đóng vai trò là nhà xuất khẩu nguyên vật liệu. Khi
doanh nghiệp không thể khai thác nguồn nguyên vật liệu nội địa, nhà cung ứng quốc tế đóng
vai trò quan trọng. Mặc dù, có thể có sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng và doanh nghiệp
có thể lựa chọn nhà cung ứng tốt nhất thì quyền lực thương lượng của nhà cung ứng bị hạn

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />chế vẫn không đáng kể. Trong mối quan hệ này, để đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp
trước khả năng tăng cao chi phí đầu vào, đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh
nghiệp phải biến được quyền lực thương lượng của người cung ứng thành quyền lực của
mình.
* Quyền lực thương lượng của người mua
Người mua có quyền thương lượng với doanh nghiệp (tức người bán) thông qua sức ép
giảm giá, giảm khối lượng hàng mua từ doanh nghiệp, đưa ra yêu cầu chất lượng phải tốt
hơn với cùng một mức giá...
Các nhân tố tạo nên quyền lực người mua gồm: khối lượng mua lớn, sự đe doạ của quá trình
liên kết những người mua khi tiến hành thương lượng với doanh nghiệp, do sự tập trung lớn
của người mua đối với sản phẩm chưa được dị biệt hoá hặc dịch vụ bổ sung còn thiếu...
Quyền lực thương lượng của người mua sẽ rất lớn nếu doanh nghiệp không nắm bắt kịp thời
những thay đổi về nhu cầu của thị trường, hoặc khi doanh nghiệp thếu khá nhiều thông tin
về thị trường (như các thông tin về đầu vào và thông tin về đầu ra). Các doanh nghiệp khác
sẽ lợi dụng điểm yếu này của doanh nghiệp để tung ra thị trường những sản phẩm thích hợp
hơn, với giá cả phải chăng hơn và bằng phương thức dịch vụ tốt hớn.
* Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm thay thế:
Khi giá cả của sản phẩm, dịch vụ hiện tại tăng lên thì khách hàng có xu hướng sử dụng sản
phẩm và dịch vụ thay thế. Đây là nhân tố đe doạ sự mất mát về thị trường của doanh nghiệp.
Các đối thủ cạnh tranh đưa ra thị trường những sản phẩm thay thế có khả năng khác biệt hoá

cao độ với sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc tạo ra các điều kiện ưu đãi hơn về dịch vụ hay
các điều kiện về tài chính.
Nếu sản phẩm thay thế càng giống sản phẩm của doanh nghiệp thì mối đe doạ đối với doanh
nghiệp càng lớn. Điều này sẽ làm hạn chế giá cả, số lượng hàng bán và ảnh hưởng đến lợi
nhuận của doanh nghiệp. Nếu có ít sản phẩm tương tự sản phẩm của doanh nghiệp, doanh
nghiệp sẽ có cơ hội tăng giá và tăng thêm lợi nhuận.
* Cạnh tranh của các đối thủ trong ngành:

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Cạnh tranh giữa các công ty trong một ngành công nghiệp được xem là vấn đề cốt lõi nhât
của phân tích cạnh tranh. Các hãng trong ngành cạnh tranh khốc liệt với nhau về giá cả, sự
khác biệt hoá sản phẩm, hoặc sự đổi mới sản phẩm giữa các hãng hiện đang cùng tồn tại
trong thị trường. Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt khi đối thủ đông đảo và gần như cân bằng
nhau, khi tăng trưởng của ngành là thấp, khi các loại chi phí ngàu càng tăng, khi các đối thủ
cạnh tranh có chiến lược đa dạng...
Có một điều thuận lơi và cũng là bất lợi cho các đối thủ trong cùng ngành là khả năng nắm
bắt kịp thời những thay đổi, cải tiến trong sản xuất - kinh doanh, hoặc các thông tin về thị
trường. Các doanh nghiệp sẽ có khả năng cạnh tranh cao nếu có sự nhạy bén, kịp thời và
ngược lại có thể mất lợi thế cạnh tranh bất cứ lúc nào nếu họ tỏ ra thiếu thận trọng và nhaỵ
bén.
Doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau (trừ doanh nghiệp nước sở tại) khi cùng tiến hành
hoạt động kinh doanh trên thị trường nước ngoài sẽ có một phần bất lợi như nhau do các
quy định hạn chế của Chính Phủ nước sở tại. Chính vì thế, doanh nghiệp nào mạnh về tài
chính hoặc khoa học kỹ thuật hoặc trên cả hai phương diện sẽ có được lợi thế rất lớn. Khác
với hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, doanh nghiệp khi tham gia thị trường nước
ngoài cần có sự trợ giúp của các doanh nghiệp khác trong cùng quốc gia để có thêm khả
năng chống đỡ trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc quốc gia khác. Lúc đó có
thể coi sự cạnh tranh trong ngành là sự cạnh tranh giữa các quốc gia.
Sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp làm cho giá cả các yếu tố đầu ra và những yếu

tố đầu vào biến động theo xu hướng khác nhau. Tình hình này đòi hỏi doanh nghiệp phải
linh hoạt điều chỉnh các hoạt động cuả mình nhằm giảm thách thức, tăng thời cơ giành
thắng lợi trong cạnh tranh. Muốn vậy, doanh nghiệp cần nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường,
đưa ra thị trường những sản phẩm mới chất lượng cao mẫu mã và giá cả phù hợp...
3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM
XUẤT KHẨU
3.1 Các nhân tố khách quan:
a. Môi trường kinh tế

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />* Nhóm nhân tố kinh tế:
- Tốc độ tăng trưởng cao của nước sở tại luôn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động
trên các lĩnh vực sự tăng lên về khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khi tăng trưởng
cao khả năng tích tụ tập trung tư bản cao do đó khả năng sản xuất kinh doanh và khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày càng cao.
- Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng rất lớn đế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi tỷ giá hối
đoái giảm, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ tăng lên trên thị trường quốc tế vì
khi đó giá bán của doanh nghiệp thấp hơn giá bán của đối thủ cạnh tranh của nước khác, và
ngược lại tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm cho giá bán hàng hoá cao hơn đối thủ cạnh tranh đồng
nghĩa với việc khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế giảm.
- Lãi suất ngân hàng ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Khi các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng với lãi suất cao sẽ làm cho giá thành sản xuất tăng
lên từ đó đẩy giá bán tăng lên, do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ giảm so với
đối thủ cạnh tranh, đặc biệt các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực về vốn.
* Nhân tố chính trị pháp luật
Chính trị và pháp luật là cơ sở nền tảng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu bởi
các doanh nghiệp này hoạt động trên thị trường quốc tế với lợi thế mạnh trong cạnh tranh là
lợi thế so sánh giữa các nước. Chính trị ổn đinh, pháp luật rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi

cho các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả.
* Nhóm nhân tố về khoa học kỹ thuật
Nhóm nhân tố này tác động một cách quyết định đến 2 yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường là chất lượng và giá cả. Khoa học công nghệ hện
đại sẽ làm cho chi phí cá biệt của các doanh nghiệp giảm, chất lượng sản phẩm chứa hàm
lượng khoa học công nghệ cao. Khoa học, kỹ thuật, công nghệ ảnh hưởng tới khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp trheo hướng cụ thể sau:
- Tạo ra những hệ thống công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và trang bị lại hoàn toàn cơ sở
vật chất kỹ thuật.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />- Giúp doanh nghiệp trong quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền thông tin một cách
nhanh chóng và chính xác nhất.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao uy tín của
doanh nghiệp.
* Các nhân tố về văn hoá xã hội.
Phong tục tập quan thị hiếu lối sống, thói quen tiêu dùng, tôn giáo tín ngưỡng ảnh hưởng
đến cơ cấu nhu cầu của thị trường doanh nghiệp tham gia và từ đó ảnh hưởng đến chính
sách kinh doanh của doanh nghiệp khi tham gia vào các thị trường khác nhau.

* Các nhân tố tự nhiên:
Các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý của quốc gia, môi trường
thời tiết, khí hậu...các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp theo
hướng tích cực hay tiêu cực. Chẳng hạn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận
lợi, sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí, có điều kiện khuyếch trương sản phẩm, mở
rộng thị trường... Bên cạnh đó, những khó khăn ban đầu do điều kiện tự nhiên gây ra sẽ làm
giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
b. Môi trường ngành
* Khách hàng:

Khách hàng sẽ tạo ra áp lực làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bằng
việc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ bán hàng tốt hơn... và do đó,
để duy trì và tồn tại trên thị trường buộc các doanh nghiệp phải thoả mãn tốt các nhu cầu
của khách hàng trong điều kiện cho phép, điều này sẽ làm tăng cường độ và tính chất cạnh
tranh của doanh nghiệp.
* Số lượng các doanh nghiệp trong ngành hiện có và số lượng doanh nghiệp tiềm ẩn.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Số lượng doanh nghiệp cạnh tranh và đối thủ ngang sức sẽ tác động rất lớn đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi số lượng đối thủ cạnh tranh nhiều thì thị phần của các
doanh nghiệp cạnh tranh sẽ giảm khi đó doanh nghiệp muốn thống lĩnh thị trường hay là
doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao nhất thì doanh nghiệp phải đẩy mạnh hơn nữa
cường độ cạnh tranh, ngày càng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Hơn nữa cạnh
tranh sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt hơn nếu như có sự xuất hiện thêm một vài doanh
nghiệp mới tham gia cạnh tranh. Khi đó, các doanh nghiệp cũ với lợi thế về sản phẩm, vốn,
chi phí cố định và mạng lưới kênh phân phối... sẽ phản ứng quyết liệt đối với doanh nghiệp
mới. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp mới có ưu thế hơn về công nghệ, chất lượng sản
phẩm, áp dụng các biện pháp để giành thị phần có hiệu quả hơn thì khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp mới sẽ cao hơn nếu các doanh nghiệp cũ không sử dụng hữu hiệu công cụ
trong cạnh tranh.
* Các đơn vị cung ứng đầu vào:
Các nhà cung ứng đầu vào có thể gây ra những khó khăn làm giảm khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
Nguồn cung cấp mà doanh nghiệp cần chỉ có một hoặc một vài công ty độc
quyền cung ứng.
Nếu doanh nghiệp không có nguồn cung ứng nào khác thì doanh nghiệp sẽ
yếu thế hơn trong mối tương quan thế và lực đối với nhà cung ứng hiện có.
Nếu nhà cug cấp có đủ khả năng, đủ nguồn lực để khép kín sản xuất, có hệ
thống mạng phân phối hoặc mạng lưới bán lẻ thì có thế lực đáng kể đối với doanh nghiệp

với tư cách là khách hàng.
Tất cả những khó khăn đối với doanh nghiệp có thể gặp phải ở trên sẽ dẫn đến sự phụ thuộc
của doanh nghiệp vào các nhà cung ứng, các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một hay
nhiều người cung ứng, nghiên cứu tìm hiểu nguồn đầu vào thay thế khi cần thiết và cần có
chính sách dự trữ hàng hoá hợp lý.
* Sức ép của các sản phẩm thay thế

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Sự ra đời của những sản phẩm thay thế là một yếu tố nhằm đáp ứng sự biến động của nhu
cầu thị trường theo xu hướng ngày càng đa dạng phong phú và cao cấp hớn và chính nó làm
giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế.
Đặc biệt, nhiều sản phẩm thay thế được sản xuất trên những dây chuyền kỹ thuật công nghệ
tiên tiến hơn, do đó sức cạnh tranh cao hơn. Sản phẩm thay thế phát triển sẽ làm giảm khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp không có sản phẩm thay thế.

3.2 Các nhân tố chủ quan
a. Hàng hoá và cơ cấu hàng hoá trong kinh doanh.
Điều quan trọng nhất đối với hoạt động của doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh là
phải trả lời được các câu hỏi cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai?
Như vậy có nghĩa là doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một chính sách sản phẩm, hàng
hoá. Khi tham gia hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có hàng hoá đem bán ra thị trường
và phải làm sao để co hàng hoá của mình thích ứng được với thị trường nhằm tằng khả năng
tiêu thụ, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường, doanh nghiệp phải thực hiện đa
dạng hoá các mặt hàng kinh doanh. Thực chất của đa dạng hoá đó là quá trình mở rộng hợp
lý dạnh mục hàng hoá, tạo nên một cơ cấu hàng hoá có hiệu quả của doanh nghiệp. Hàng
hoá của doanh nghiệp phải luôn được hoàn thiện không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu
thị trường bằng cách cải tiến các thông số chất lượng, mẫu mã, bao bì đồng thời tiếp tục duy
trì các hàng hoá đang là thế mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần

nghiên cứu tìm ra các hàng hoá mới nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng
hoá. Đa dạng hoá hàng hoá kinh doanh không chỉ để đáp ứng nhu cầu thị trường, thu được
nhiều lợi nhuận mà còn là một biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh khi mà tình hình
cạnh tranh trở nên gay gắt, quyết liệt.
Đi đôi với thực hiện đa dạng hoá mặt hàng, để đảm bảo đứng vững trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt, doanh nghiệp có thể thực hiện trọng tâm hoá hàng hoá vào một số loại hàng
hoá nhằm cung cấp cho một nhóm người hoặc một vùng thị trường nhất định của mình.
Trong phạm vi này doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng một cách tốt hơn, có hiệu quả

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hơn đối thủ cạnh tranh, do đó doanh nghiệp đã tạo dựng được một bức rào chắn, đảm bảo
giữ vững được phần thị trường của mình.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần thực hiện chiến lược khác biệt hoá sản phẩm, tạo ra nét
độc đáo riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng vào các hàng hoá của
mình, nâng cao uy tín của doanh nghiệp.
Như vậy hàng hoá và cơ cấu hàng hoá một cách tối ưu là một trong những yếu tố quyết định
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

b. Yếu tố giá cả.
Giá cả của một hàng hoá trên thị trường được hình thành thông qua quan hệ cung cầu.
Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới mức giá cuối cùng đảm bảo
hai bên cùng có lợi. Giá cả đóng vai trò quyết định mua hay không của khách hàng. Trong
nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, khách hàng có quyền mua và
lựa chọn những gì họ cho là tốt nhất và cùng một loại hàng hoá với chất lượng tương đương
nhau chắc chắn họ sẽ lựa chọn sản phẩm có mức giá thấp hơn, khi đó lượng bán của doanh
nghiệp sẽ tăng lên.
Giá cả được thể hiện là vũ khí cạnh tranh thông qua việc định giá của hàng hoá: định giá
thấp (như giá khi mới xâm nhập, giá giới thiệu), định giá ngang giá thị trường hay định giá
cao. Việc định giá cần phải xem xét các yếu tố sau: lượng cầu đối với hàng hoá và tính tới

số tiền mà dân cư có thể để dành cho loại hàng hoá đó, chi phí kinh doanh và giá thành đơn
vị sản phẩm. Phải nhận dạng đúng cạnh tranh để từ đó có cách định giá thích hợp cho mỗi
loại thị trường.
Với một mức giá ngang giá thị trường giúp doanh nghiệp giữ được khách hàng đặc biệt là
khách hàng truyền thống, nếu doanh nghiệp tìm ra được các biện pháp hạ giá thành thì lợi
nhuận thu được sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh sẽ cao. Ngược lại, với một mức giá thấp
hơn giá thị trường sẽ thu hút được nhiều khách hàng và tăng lượng bán, doanh nghiệp sẽ có
cơ hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường mới. Mức giá doanh nghiệp áp đặt cao hơn giá
thị trường chỉ sử dụng được với các doanh nghiệp có tính độc quyền, điều này giúp cho
doanh nghiệp thu được rất nhiều lợi nhuận (và đây là lợi nhuận siêu ngạch).

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Để chiếm lĩnh được ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các
chính sách giá thích thợp cho từng loại hàng hoá, từng giai đoạn trong chu kỳ sống của sản
phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
Hoạt động xuất khẩu của công ty Dệt Kim Đông Xuân có 3 hình thức: xuất khẩu trực tiếp,
gia công xuất khẩu và xuất uỷ thác, trong đó hoạt động gia công xuất khẩu chiếm tỷ trọng
lớn. Mặt khác, khách hàng của công ty thường là khách hàng quen biết lâu nên giá cả
thường được thoả thuận với nhau trước, giữ vững trong thời gian dài và giá thường do công
ty và khách hàng cùng nhau quyết định. Tuy nhiên đó là đối với những khách hàng truyền
thống còn đối với những khách hàng mới thì công ty cần linh hoạt hơn, có những mức giá
thấp hơn khách hàng truyền thống nhằm thu hút thêm khách hàng mới, mở rộng thị trường
xuất khẩu cho công ty.
c. Chất lượng hàng hoá.
Nếu như trước kia giá cả được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay
nó phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng hàng hoá. Trong thực tế, cạnh tranh bằng giá là
"biện pháp nghèo nàn" nhất vì nó làm giảm lợi nhuận thu được, mà ngược lại cùng một loại
hàng hoá, chất lượng hàng hoá nào tốt đáp ứng được nhu cầu thì họ cũng sẵn sàng mua với
một mức giá cao hơn, nhất là trong thời đại ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật đang trong

giai đoạn phát triển mạnh, đời sống của nhân dân được nâng cao hơn trước. Chất lượng
hàng hoá là hệ thống nội tại của hàng hoá được xác định bằng các thông số có thể đo được
hoặc so sánh được, thoả mãn các điều kiện kỹ thuật và những yêu cầu nhất định của người
tiêu dùng và xã hội. Chất lượng hàng hoá được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản
xuất và công nghệ, dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ quản lý...
Chất lượng hàng hoá không chỉ tốt, bền, đẹp mà còn do khách hàng quyết định. Muốn đảm
bảo về chất lượng thì một mặt phải thường xuyên chú ý tới tất cả các khâu trong quá trình
sản xuất, mặt khác, chất lượng hàng hoá không những được đảm bảo trước khi bán mà còn
phải được đảm bảo ngay cả sau khi bán bằng các dịch vụ bảo hành. Chất lượng hàng hoá thể
hiện tính quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ:
+ Nâng cao chất lượng hàng hoá sẽ làm tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ
sống của sản phẩm.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />+ Hàng hoá chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp kích thích khách hàng mua
hàng và mở rộng thị trường.
+Chất lượng hàng hoá cao sẽ làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
d. Tổ chức hoạt động xúc tiến.
Trong kinh doanh thương mại hiện nay, các doanh nghiệp sẽ không đạt được hiệu quả cao
nếu chỉ nghĩ rằng: "có hàng hoá chất lượng cao, giá rẻ là đủ để bán hàng". Những giá trị của
hàng hoá, dịch vụ, thậm chí cả những lợi ích đạt được khi tiêu dùng sản phẩm cũng phải
được thông tin tới khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng, cũng như những người có
ảnh hưởng tới việc mua sắm. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần thực hiện tốt các
hoạt động xúc tiến thương mại.
Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại là tập hợp nhiều nội dung khác nhau nhằm
tăng khả năng tiêu thụ, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại gồm một số nội dung sau:
Quảng cáo.

Khuyến mại.
Hội chợ triển lãm.
Bán hàng trực tiếp.
Quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác.
Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện truyền tin như đài, báo, truyền hình... về hàng
hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đến người tiêu dùng nhằm làm cho khách hàng chú ý tới sự
có mặt của doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ sẽ được cung cấp. Quảng cáo phải tạo được
sự khác biệt giữa hàng hoá của doanh nghiệp với các hàng hoá khác trên thị trường, làm
tăng giá trị của hàng hoá bán ra. Quảng cáo gây được ấn tượng cho khách hàng, tác động
vào tâm lý khách hàng... để làm nảy sinh nhu cầu mua sắm của họ, từ đó làm tăng quy mô
kinh doanh của doanh nghiệp (nhờ tăng lượng bán). Và một tác dụng nữa của quảng cáo là
nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, là một phương tiện cạnh tranh với các đối
thủ cạnh tranh.
Bện cạnh hoạt động trên, hiện nay các doanh nghiệp còn thực hiện các hoạt động như
chiêu hàng, tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng... để giới thiệu về sản phẩm của
doanh nghiệp mình.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến tác động mạnh đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp:
-

Tổ chức hoạt động xúc tiến tốt giúp cho doanh nghiệp tăng lượng bán, tăng

doanh thu, lợi nhuân, thu hồi vốn nhanh.
Tổ chức hoạt động xúc tiến tốt sẽ tạo ra uy tín của sản phẩm trên thị trường,
làm cho khách hàng biết đến và hiểu rõ kỹ càng công dụng của sản phẩm.
Tổ chức tốt hoạt động xúc tiến giúp cho doanh nghiệp tìm được nhiều bạn
hàng mới, khai thác được nhiều thị trường, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển.

Tuy nhiên công ty Dệt Kim Đông Xuân chỉ tham gia một số hội chợ nên kết quả do xúc tiến
thương mại đem lại là chưa cao và rõ rệt.
e. Dịch vụ sau bán hàng.
Để nâng cao uy tín và trách nhiệm của mình đối với người tiêu dùng về hàng hoá của doanh
nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện tốt các dịch vụ sau bán hàng.
Nội dung hoạt động dịch vụ sau bán hàng gồm: hướng dẫn sử dụng hàng hoá, lăp đặt, sửa
chữa, bảo đảm các dịch vụ thay thế ...
Tạo được uy tín cho hàng hoá và doanh nghiệp trên thị trường.
Duy trì mở rộng thị trường.
Bán thêm máy móc thiêt bị làm tăng doanh thu, lợi nhuận.
Qua dịch vụ sau bán hàng hoá của mình có đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu
dùng không, để từ đó ngày càng hoàn thiện và đổi mới sản phẩm của mình. Do vậy, dịch vụ
sau bán hàng là một biện pháp tốt tăng uy tín trong cạnh tranh.
f. Phương thức thanh toán.
Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp sử dụng các phương thức thanh toán khác nhau
như: thanh toán chậm, trả góp, thanh toán qua ngân hàng, mở L/C... giúp cho hoạt động mua
bán được diễn ra thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn, có lợi cho cả người bán và người mua.
Việc lựa chọn phương thức thanh toán hợp lý sẽ có tác động kích thích đối với khách hàng,
tăng khối lượng tiêu thụ và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.

g. Yếu tố thời gian.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật như hiện nay làm thay đổi nhanh chóng nếp
nghĩ, sở thích hay nhu cầu của người tiêu dùng cũng như sự rút ngắn chu kỳ sống của sản
phẩm. Đối với các doanh nghiệp yếu tố quan trọng quyết định thành công trong kinh doanh
hiện đại chính là thời gian và tốc độ chứ không còn là yếu tố truyền thống như : nguyên vật
liệu hay lao động.

Những thay đổi nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã làm cho các cuộc cạnh tranh ngày
càng trở nên gay gắt khốc liệt hơn và trong cuộc chạy đua này ai biết nắm bắt thời cơ và đi
trước thì người đó sẽ chiến thắng.
Muốn vậy, các doanh nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động thu thập và xử lý thông tin thị
trường, phải biết nắm bắt thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu của thị trường, nhanh
chóng tổ chức kinh doanh tiêu thụ thu hồi vốn trước khi chu kỳ sản phẩm kết thúc.
Hiện nay ở nhiều nước phát triển cạnh tranh bằng thời gian là một biện pháp rất quan trọng
mang tính sống còn của doanh nghiệp. Đi trước một bước trong cạnh tranh là đã giành được
chiến thắng quan trọng trong việc thu hút khách hàng, mở rộng thị trường, tăng tính cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Ngoài các yếu tố trên vốn và quy mô doanh nghiệp... cũng sẽ tác động rất lớn tới khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Uy tín của một
doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng, đó là cơ sở để doanh nghiệp dễ dàng giành
thắng lợi trong cạnh tranh vì họ đã có một lượng khách hàng tín nhiệm, quen thuộc. Uy tín
của doanh nghiệp được hình thành trong một thời gian dài hoạt động trên thị trường và đó là
một tài sản vô hình mà doanh nghiệp cần phải biết giữ gìn và phát huy.
4. CÁC CHỈ TIÊU TỔNG HỢP ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP.
Việc đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là rất quan trọng đối với bất kì
một doanh nghiệp nào để xác định được khả năng hiện tại của bản thân doanh nghiệp và xác
định sức mạnh của các đối thủ cần quan tâm.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thường được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
* Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp tính theo doanh thu:
Công thức:
Gt t =

DTt − DTt −1
DTt −1

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Trong đó:
GTt: Tốc độ tăng trưởng thời kỳ nghiên cứu
DTt: Doanh thu thời kỳ nghiên cứu
DTt-1: Doanh thu kỳ trước
Ý nghĩa: chỉ tiêu này đánh giá mức độ tăng lên hoặc giảm đi của thị phần của doanh nghiệp
trên thị trường, đồng nghĩa với sự lớn lên hay giảm
sút sức canh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
* Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp theo lợi nhuận
Công thức:

Grt =

Prt − Prt −1
Prt −1

Trong đó:
Grt : Tốc độ tăng trưởng thời kỳ nghiên cứu
Prt : Lợi nhuận kỳ nghiên cứu
Prt-1: Lợi nhuận kỳ trước đó
Ý nghĩa: có tác dụng giống với chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tính theo doanh thu
nhưng phản ánh thực chất và chính xác hơn về một doanh nghiệp vì nó so sánh về tốc độ
tăng lợi nhuận và lợi nhuận mới tực sự phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp .
* Chỉ tiêu thị phần của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp có hai cách xác định thông dụng với những tác dụng khác
nhau:
Mức độ cạnh tranh
theo thị phần
của

=
doanh nghiệp

Doanh thu của doanh nghiệp
Doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất

Ý nghĩa: chỉ tiêu này nói lên mức độ rộng lớn của thị trường của một doanh nghiệp và vai
trò vị trí của doanh nghiệp đó trong thị trường. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này, ta
có thể đánh giá mức đọ hoạt động có hiệu quả hay không của doanh nghiệp trong việc thực

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />hiên chiến lược thị trường, chiến lược Maketing, chiến lược cạnh tranh và hỗ trợ cho việc đề
ra các mục tiêu của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chỉ tiêu trên có một nhược điểm là khó có thể đảm bảo tính chính xác khi xác
định nó, nhất là khi thị trường mà doanh nghiệp đang tham gia quá rộng lớn vì nó gây nhiều
khó khăn trong việc tính được chính xác doanh thu thực tế của các doanh nghiệp. Mặt khác
công việc này cũng đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí.
Chỉ tiêu này đơn giản và dễ tính toán hơn nhiều so với chỉ tiêu trên nó khắc phục được
những nhược điểm của những chỉ tiêu trên.
Do các đối thủ cạnh tranh mạnh thì sẽ có nhiều thông tin hơn nên lưa chọn phương pháp
này người ta có thể lựa chọn từ 2-5 doanh nghiệp mạnh nhất tuỳ theo đặc điểm của mỗi lĩnh
vực cạnh tranh.
Ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh sát thực nhất khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp kinh
doanh. Bên cạnh đó còn giúp cho doanh nghiệp có thêm thông tin về các đối thủ cạnh tranh
mạnh nhất và các thị phần họ chiếm giữ thường là những khu vực có lợi nhuận cao mà rất
có thể doanh nghiệp cần chiếm lĩnh trong tương lai.
Những chỉ tiêu trên là những chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh chung của toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, còn nếu xét riêng về hoạt động xuất khẩu thì
khả năng cạnh tranh được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:


Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
* Tốc độ tăng của hoạt động xuất khẩu qua các năm:
Công thức
EGt =

EX t − EX t −1
EX t −1

Trong đó:

EGt : Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu kỳ nghiên cứu
EXt: Kim ngạch xuất khẩu kỳ nghiên cứu
EXt-1: Kim ngạch xuất khẩu kỳ trước
Ý nghĩa: qua chỉ tiêu này ta có thể thấy được tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu giữa hai năm
liền nhau để biết xem khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp qua thời gian là tăng hay giảm
và tăng, giảm với tỷ lệ là bao nhiêu. Nếu tăng thì chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp có phần tăng lên, còn nếu giảm thì khả năng đó có thể giảm và doanh nghiệp cần tìm
ra nguyên nhân của sự giảm sút đó để năm sau có thể khắc phục.
Thị phần của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt kim cũng như chỉ tiêu ở
phần trên, thị phần trong hoạt động xuất khẩu bao gồm hai cách tính:
Cách 1:
Thị phần của
doanh nghiệp so
với tổng KNXK

KNXKHDK của doanh nghiệp
=

Tổng KNXKHDKcủa các DN trong nước

Trong đó: KNXKHDK: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt kim
Ý nghĩa của chỉ tiêu này: cho biết độ lớn về kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp so với
kim ngạch chung của toàn nghành trong nước, từ đó thấy được vị trí của doanh nghiệp trong
hoạt động xuất khẩu chung của toàn nghành. Sự biến động của chỉ tiêu qua các năm sẽ giúp
doanh nghiệp đánh giá được khả năng cạnh tranh của mình trong hoạt động xuất khẩu, có sự
tăng lên hay giảm đi và nguyên nhân từ đâu.
Tuy nhiên số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia hoạt động xuất khẩu hàng may mặc
ở trong nước là một con số không nhỏ và rất khó kiểm soát nên để có được số liệu về tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của tất cả các doanh nghiệp trong nước một cách chính
xác là rất khó nên ta có thể tính cách thứ hai như sau:

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />
Cách 2:
Thị phần của
doanh nghiệp so với
đối thủ mạnh nhất

KNXKHMM của doanh nghiệp
=
KNXKHMM của đối thủ mạnh nhất

Trong đó:KNXKHMM: kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc
Ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh độ lớn về kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của doanh
nghiệp mình so với một số đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường. Từ đây có thể so
sánh được thị phần của doanh nghiệp mình trên thị trường với thị phần của một số doanh
nghiệp mạnh khác để phân tích xem với quy mô, tiềm lực hiện nay của công ty như vậy thì

hoạt động xuất khẩu của công ty đã thực sự hiệu quả chưa. Ngoài ra còn biết thêm các thông
tin về đối thủ, thị phần xuất khẩu họ chiếm giữ và lấy đó làm căn cứ cho công ty có thể
nghiên cứu và tìm ra những chiến lược cạnh tranh cho phù hợp.
Đánh giá khả năng cạnh tranh là một việc làm cần thiết đối với mọi doanh nghiệp vì qua đó
mỗi doanh nghiệp có thể đưa ra những mục tiêu, chiến lược cạnh tranh thích hợp với tình
trang hiện tại của công ty mình. Hoạt động xuất khẩu hàng may mặc là một hoạt động được
rất nhiều doanh nghiệp trong nghành may quan tâm và vì thế số lượng các doanh nghiệp
tham gia xuất khẩu ngày càng tăng, làm cho cục diện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Thuộc
một trong số những doanh nghiệp đó công ty Dệt Kim Đông Xuân cũng đã không ngừng
phấn đấu để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình nhằm khẳng định vị thế trên thị trường
xuất khẩu hàng may mặc.
5. MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY.
A. ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH QUỐC TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN
HIỆN NAY
5. 1 Môi trường luật pháp.
Mỗi quốc gia có một hệ thống luật pháp riêng để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc
tế, bao gồm luật thương mại quốc tế, luật đầu tư nước ngoài, luật thuế... giữa các nước
thường ký kết các hiệp định, hiệp ước và dần hình thành nên luật khu vực và luật quốc tế.

Tài liệu này được tải miễn phí từ website và />

×