Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng việt cho học sinh tiểu ho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.21 KB, 31 trang )

Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn sáng kiến
1.1. Cơ sở lí luận:
Cấp tiểu học là cấp học nền tảng, quan trọng trong hệ thống các cấp học ở
nước ta vì đây là cấp học mở đầu cung cấp những kiến thức cơ bản, ban đầu cho
học sinh đồng thời thông qua các hoạt động học tập đó người giáo viên còn dạy
cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn chuẩn bị cho các cấp học tiếp theo.
Trong cấp tiểu học thì các lớp đầu cấp ( lớp 1, 2) lại càng được coi trọng vì đây
là thời kỳ các em bắt đầu làm quen với một hệ thống các tri thức mới của rất
nhiều các môn học trong đó môn Tiếng Việt giúp cho các em hình thành và phát
triển các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập tốt các môn
học khác và tham gia giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi đồng
thời rèn luyện các thao tác tư duy.
Không biết từ bao giờ, trải qua hang ngàn năm tiến hóa của loài người,
ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò
biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa,
tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông
cha ta rất coi trọng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở” “Lời nói không mất tiền
mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao
tiếp hàng ngày với họ: “Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”. Mặt khác
việc giao tiếp, ứng xửa khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh
vực: “Khéo bán, khéo mua cũng thua người khéo nói”. Với trẻ em, lứa tuổi đang
hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng:
“Trẻ lên ba, cả nhà học nói”, ngành giáo dục đào tạo nói chung và ngành giáo
dục tiểu học nói riêng đã được xã hội trao cho trọng trách đáng tự hào là giáo
dục trẻ em ngay từ những ngày đầu bước chân tới trường. Từ bao đời nay, việc
giáo dục ở nhà trường đã áp dụng phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Dạy Tiếng Việt không có nghĩa là chỉ dạy các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà dạy
các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng


quan trọng. Ta thử tưởng tượng một người đọc thông, viết thạo tất cả các loại
văn bản, song khi giao tiếp lại để lại ấn tượng xấu, không gây được mối thiện
cảm đối với mọi người thì con người đó có khả năng sống và làm việc có hiệu
quả không? Chắc chắn là không. Do vậy ngay từ những lớp đầu cấp học tiểu học
ngoài việc trang bị cho học sinh kiến thức các môn học, kĩ năng đọc – viết văn
bản thành thạo thì việc rèn cho các em kĩ năng nói là một vấn đề quan trọng cần
được thực hiện.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Phân môn Tập đọc rèn luyện cho học sinh các kĩ năng đọc (đọc thành
tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Bên cạnh đó, thông qua
1
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những bài tập khai thác nội
dung bài đọc, phân môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết tự
nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác
phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật…) và góp phần rèn luyện nhân
cách cho học sinh. Phân môn Luyện từ và câu, cung cấp những kiến thức sơ giản
về tiếng Việt bằng con đường quy nạp và rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu
(nói, viết), kĩ năng đọc cho học sinh. Phân môn Chính tả rèn các kĩ năng viết,
nghe và đọc. Trong giờ Chính tả, nhiệm vụ của học sinh là viết một đoạn văn
(nhìn - viết, nghe - viết, nhớ - viết) và làm bài tập chính tả, qua đó rèn luyện các
kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Các bài chính tả nhiều khi cũng cung cấp cho học
sinh vốn từ, vốn hiểu biết về các mảng khác nhau của đời sống. Phân môn Tập
viết chủ yếu rèn kĩ năng viết chữ. Phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói, nghe và

đọc. Trong giờ kể chuyện, học sinh kể lại những câu chuyện phù hợp với chủ
điểm mà các em đã học (trong sách SGK hoặc trong các sách khác), nghe thầy,
cô hoặc bạn kể rồi kể lại một câu chuyện bằng lời của mình, trả lời câu hỏi hoặc
ghi lại những chi tiết chính của câu chuyện đó. Phân môn Tập làm văn rèn cả 4
kĩ năng nghe, nói, viết và đọc. Trong giờ Tập làm văn, học sinh được cung cấp
kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn
bản và các bộ phận cấu thành của văn bản. Theo tinh thần đổi mới phương pháp
dạy và học, Tiếng Việt là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự
giác tập luyện và rút kinh nghiệm qua thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo
viên.
* Thực trạng: Để nắm được khả năng nói của học sinh, khi nhận lớp tôi đã
chủ động gần gũi giao tiếp với các em và quan sát những tình huống giao tiếp tự
nhiên. Trong các tình huống giao tiếp tôi cố gắng đưa vào những nghi thức của
lời nói như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, đồng ý, không đồng ý, từ chối…để xem
phản ứng của học sinh. Tôi thấy đa số các em chưa biết đưa ra lời nói phù hợp
với những tình huống giao tiếp. Thực tế hiện nay do các em ít được tiếp xúc với
xung quanh do bố mẹ bận đi làm và vì vậy vốn hiểu biết về các quy tắc giao tiếp
của các em rất yếu. Đồng thời nhiều gia đình do cha mẹ bàn giao con ở nhà cho
người giúp việc đến từ các địa phương nên các em cũng bị ảnh hưởng trong cách
nói, cách phát âm của những địa phương khác nhau. Các em chưa biết cách diễn
đạt ý của mình sao cho lịch sự khi giao tiếp với bạn bè hay mọi người xung
quanh. Trong giao tiếp hàng ngày các em rất ít khi nói lời khen ngợi, cảm ơn
nên trong bài học các em còn lúng túng, ngại ngùng khi thực hành nói lời cảm
ơn, khen ngợi. Do các tiết học có thời lượng rất ngắn nên giáo viên không thể
cho nhiều học sinh được thực hành nhiều các nghi thức giao tiếp. Hiện tại, một
số học sinh ở địa bàn xã Tây Đô khi nói các em vẫn sai nhiều lỗi phát âm nhất là
với cặp phụ âm l/n; một số học sinh do bố mẹ xuất thân ở tỉnh ngoài nên cũng
ảnh hưởng lối phát âm của địa phương.
Vậy làm thế nào để học sinh lớp Hai có kĩ năng nói tốt? Làm thế nào để
gây hướng thú đối với các em? Làm thế nào để rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho

2
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp Hai nói riêng? Đó là một vấn đề quan
trọng được các nhà giáo dục quan tâm. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp
Hai ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp nên
tôi đã chọn đề tài “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp
2” để trao đổi với các bạn đồng nghiệp giúp cho công tác giảng dạy trong nhà
trường ngày một tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng việc rèn nói của môn Tiếng Việt
lớp Hai ở trường Tiểu học Tây Đô sáng kiến này đưa ra các biện pháp nhằm
phát huy hứng thú, tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo và khả năng
sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp cho học sinh lớp Hai, từ đó nâng cao
kĩ năng nói cho học sinh lớp 2B nói riêng và việc dạy - học môn Tiếng Việt 2 ở
trường Tiểu học Tây Đô nói chung.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để hoàn thành sáng kiến tôi chú trọng vào các nhiệm vụ đó là:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận nắm bắt những nền tảng cơ sở ban đầu của vấn
đề.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn nắm bắt nội dung chương trình Tiếng Việt 2.
- Nghiên cứu các phương pháp dạy học nhằm rèn kĩ năng nói cho học sinh
lớp Hai.
- Trò chơi học tập để rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
4. Phương pháp nghiên cứu:

Để thực tốt các nhiệm vụ đề ra đạt được mục tiêu nghiên cứu thì không
thể thiếu được các phương pháp nghiên cứu. Có rất nhiều phương pháp trong
nghiên cứu khoa học thường được áp dụng, với các vấn đề của sáng kiến này tôi
đã sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp thu thập tài liệu: Thông qua sách giáo khoa Tiếng Việt 2,
các giáo trình, tạp chí giáo dục và mạng internet tôi tiến hành thu thập, nghiên
cứu, phân tích các thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp điều tra và hỏi ý kiến đồng nghiệp: Điều tra thực trạng
giao tiếp của học sinh khối Hai tại trường Tiểu học Tây Đô. Sau tiết dạy có lãnh
đạo nhà trường, tổ trường chuyên môn hoặc đồng nghiệp dự giờ, tôi tiến hành
thăm dò ý kiến giáo viên đã dự giờ của tôi có thể bằng phiếu trưng cầu ý kiến
hoặc phỏng vấn trực tiếp nắm bắt số liệu.
+ Phương pháp quan sát sư phạm: Tôi quan sát lớp học trong một số tiết
dạy của giáo viên đứng lớp trong khối hay chính tiết dạy của mình.

3
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Soạn các giáo án và trực tiếp giảng
dạy ứng dụng các biện pháp để rèn kĩ năng nói trong giờ Tiếng Việt cho học
sinh.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp: Sau khi thu thập các thông tin cũng
như số liệu liên quan tôi tiến hành thống kê và xử lí các số liệu liên quan. Tôi sử
dụng phối hợp một cách linh hoạt các phương pháp.
5. Cấu trúc của sáng kiến:

Gồm 3 phần:
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.
2.
3.
4.
5.

Lí do chọn sáng kiến
Mục đích nghiên cứu:
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu:
Cấu trúc của sáng kiến:

PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến
Chương 2. Đề xuất các biện pháp
Chương 3. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Một số kiến nghị
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến
1.1. Ý nghĩa của việc rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2.
Quá trình rèn kĩ năng nói cho học sinh nhằm tìm ra những biện pháp phù
hợp nhằm giúp trẻ: trước hết mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tiếp đó là rèn những
kỹ năng, thói quen dùng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, trong các giờ luyện nói
của các tiết Tiếng Việt trong chương trình SGK lớp 2 hiện hành. Nghiên cứu
thực trạng trẻ lớp 2 hiện nay có kiến thức, ý thức ra sao trong giao tiếp hàng
ngày cũng như sự bảy tỏ quan điểm nhận thức của bản thân, trước những vấn đề

mà trẻ phải tự bộc lộ bản thân qua những lời nói, lời phát biểu trả lời theo nội
dung bài học và sự giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở lớp. Đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2
theo hướng lấy học sinh làm trung tâm.
1.2. Chuẩn yêu cầu cần đạt
Kĩ năng nói của học sinh lớp 2 cần đạt các yêu cầu sau:
4
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
- Nói thành câu, rõ ràng, mạch lạc
- Bước đầu biết chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, chia tay, mời, nhờ, yêu cầu,
chia vui, chia buồn…đúng ngữ điệu và đúng nghi thức giao tiếp ở gia đình,
trường học, nơi công cộng.
- Biết giới thiệu đơn giản về bản thân, gia đình, lớp học, bạn bè theo mục
đích nhất định
- Kể lại được một đoạn truyện đã nghe, đã đọc.
- Nói những lời nói thể hiện hành vi thanh lịch, văn minh.
1.3. Một số yếu tố khó khăn khi thực hiện
a) Thuận lợi
- 100% học sinh tham gia học 2 buổi trên ngày.
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn, các đồng
nghiệp trong nhà trường.
- Giáo viên nhiều năm liền giảng dạy môn Tiếng Việt khối lớp 2.
- HS biết vâng lời, lễ phép và ngoan ngoãn.
b) Khó khăn.

- Việc tiếp thu kiến thức của học sinh không đồng đều.
- Điều kiện kinh tế của một số phụ huynh còn nhiều khó khăn ít quan tâm tới
việc giao tiếp của con em mình.
- Khu dan cư nơi các em sinh sống thường có nhiều người có thói quen giao tiếp
suồng xã, hay nói đệm hoặc xưng hô mày – tao,…
Qua việc nhận thức về ý nghĩa của việc rèn nói cho học sinh tôi nhận thấy
mình cần phải khắc phục những khó khăn để Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp
Hai thông qua các tiết học Tiếng Việt.
Chương 2. Đề xuất biện pháp thực hiện
3.1 Phương pháp 1: Phương pháp quan sát
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu giáo dục nhằm
quan sát giờ dạy của giáo viên và học tập của học sinh trên lớp đánh giá kết quả
học tập của học sinh thông qua những lời phát biểu của học sinh trong giờ luyện
nói của mỗi tiết học, qua lời nói của học sinh với mọi người xung quanh mọi
nơi, mọi lúc qua các bài tập thực hành trong vở bài tập Tiếng Việt in.
- Ngoài những sổ sách do nhà trường quy định, giáo viên có thêm một
quyển sổ ghi chép những điều quan sát, nhận xét từng học sinh trong lớp. Đó là
cuốn sổ: “Theo dõi đánh giá hành vi, cử chỉ, lời nói học sinh”. Trong cuốn sổ
này, giáo viên ghi chép những hành vi, lời nói giao tiếp, những thói quen và cả
5
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
những khuyết điểm còn khiếm khuyết của học sinh, để từ đó có cái nhìn khái
quát về việc sử dụng vốn ngôn ngữ biểu cảm của học sinh. Từ đó giáo viên dễ
dàng phân loại khả năng giao tiếp của từng học sinh giỏi và học sinh xuất sắc,

luyện kĩ năng nói sao cho đạt trình độ chuẩn cho học sinh khá và học sinh trung
bình. Quan sát phản ánh khá trung thực tình trạng của học sinh.
- Ưu điểm của phương pháp này là: Sau khi phân loại học sinh, giáo viên
chọn lọc những câu hỏi, câu gợi mở sao cho phù hợp với từng đối tượng học
sinh để các em phát huy hết khả năng giao tiếp của bản thân trong phần luyện
nói của tiết học môn tập đọc và các môn khác trong chương trình.
3.2. Phương pháp 2: Phương pháp phân tích – tổng hợp
Qua những ghi chép cá nhân của giáo viên và những số liệu thống kê,
giáo viên xử lý những thông tin ấy bằng cách phân tích, tổng hợp những mẫu lời
nói thu thập được từ phía học sinh. Từ đó có thể có sự đánh giá sát thực hơn về
tình trạng học sinh.
- Giáo viên tiến hành phân nhóm học sinh theo những nhóm sau:
+ Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, biết thể hiện lời nói biểu
cảm trong giao tiếp. Đây chính là những nhóm trưởng, những người dẫn chương
trình trong các giờ luyện nói trên lớp, những nhân vật nòng cốt trong các tiểu
phẩm của các tiết Tiếng Việt mà học sinh tham gia rèn luyện kĩ năng nói trên
lớp.
+ Nhóm học sinh có lời nói tương đối trôi chảy, rõ ràng tuy nhiên chưa
thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.
+ Nhóm học sinh ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp kém, hầu như không
biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp. Sau khi phân tích đặc điểm cũng
như khả năng giao tiếp của từng học sinh trong lớp, giáo viên tiến hành sắp xếp
chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp 3 đối tượng học sinh nêu trên
trong các tổ, các nhóm.
- Ưu điểm của biện pháp này là sự tương trợ lẫn nhau trong quá trình học
tập của học sinh là việc làm hết sức bổ ích và mang tính khả quan. Như ta từng
nói: “Học thày không tày học bạn”. Sự phấn khích trong quá trình học tập, đua
thầy, đua bạn sẽ giúp trẻ mạnh dạn, năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn
nói. Sự cổ vũ động viên của các bạn trong nhóm, trong tổ sẽ giúp trẻ tự tin hơn
trước lời phát biểu của mình.

Qua phân tích tổng hợp khả năng giao tiếp của học sinh, tôi thống kê khả
năng nói của học sinh đầu năm như sau:
+ Số học sinh nói tốt 28 HS = 49,1%
+ Số học sinh nói tạm được 20 HS = 35,1%
6
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
+ Số học sinh nói chưa được 9 HS = 15,8%
3.2. Phương pháp 3: Phương pháp thực hành luyện tập
Với phương pháp này, học sinh thường xuyên được thực hành luyện tập
“nói” trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Chính vì vậy khả năng giao tiếp của
các em ngày càng được hoàn thiện. Việc “nói” sao cho trôi chảy, mạch lạc, lời
văn thể hiện biểu cảm rõ ràng, từ đó giáo viên đánh giá một cách chính xác khả
năng học tập của học sinh.
Các bài thực hành rèn luyện kĩ năng nói ở lớp 2:
* Loại bài tập luyện phát âm theo chuẩn: Ở phần này, giáo viên chú ý đối
tượng học sinh phát âm chưa chuẩn các từ tiếng khó cần rèn luyện đọc trong
phần luyện đọc ở tiết 1. Lập danh sách những học sinh phát âm chưa chuẩn, để
rèn cho các em trước hết phải phát âm đúng chính xác, từ đó các em mới bình
tĩnh, tự tin phát biểu hay đưa ra những ý kiến riêng của bản thân và lời nói trong
giờ luyện nói mới có thể tự nhiên, trong sáng. Cách tiến hành: Giáo viên lựa
chọn các loại âm, vần địa phương thường phát âm sai chuẩn trong từng bài tập
đọc để học sinh luyện phát âm thật đúng và chính xác. Điều quan trọng ở đây
chính là bản thân giáo viên phải là người phát âm chuẩn và chính xác. Đa số học
sinh trong lớp 2B do tôi làm chủ nhiệm các em thường phát âm sai l/n, phát âm

sai dấu hỏi, dấu ngã. Do đó trong phần yêu cầu luyện đọc từ khó ở tất cả các bài
tập đọc tôi luôn quan tâm lựa chọn những từ ngữ có âm đầu l/n và từ ngữ có
chứa dấu hỏi, ngã. Bên cạnh đó, tùy theo nội dung của bài học, tôi đưa ra những
trò chơi giúp hoạt động vừa học vừa vui chơi thoải mái
Ví dụ: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi thi đọc nhanh và đúng các câu
có âm đầu, vần, thanh dễ lẫn.
+ Chuẩn bị: Giáo viên và học sinh có thể tự nghĩ ra hoặc sưu tầm một số
câu thơ, câu văn có những cặp âm đầu, vần, thanh dễ đọc, viết lẫn lộn (do đặc
điểm của cách phát âm ở địa phương) rồi ghi vào mảnh giấy “làm đề bài” thi đọc
trong nhóm.
+ Cách tiến hành:
- Đưa ra từng “đề bài” để lần lượt từng người đọc to trước các bạn. Nhóm
cử ra một người theo dõi và đánh giá, hoặc cả nhóm cùng nghe và thống nhất
đánh giá kết quả đọc của bạn theo tiêu chuẩn: đọc nhanh, phát âm đúng (nhận
bông hoa đỏ, vàng, xanh hoặc xếp loại theo 3 loại A, B, C)
- Khi đọc xong tất cả “đề bài”, tính số hoa nhận được của từng người
(hoặc thống kê từng loại A, B,C) để chọn ra các bạn đạt giải nhất, nhì, ba. Cả
nhóm có thể bình chọn để tuyên dương bạn nào sưu tầm (hoặc tự nghĩ ra) được
nhiều câu hay, có nhiều tiếng mang cặp âm đầu, vần, thanh dễ lẫn.

7
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
Ví dụ minh họa: Dựa vào những “đề bài” dưới đây, em có thể tìm thêm
hoặc tự nghĩ ra những câu khác để đóng góp vào cuộc vui cùng các bạn.

1. Đọc phân biệt các tiếng có âm đầu dễ lẫn
a) Phân biệt l/n:
+ Lên non mới biết non cao.
Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy
+ Lúa nếp là lúa nếp làng.
Lúa lên lớp lớp long nàng lâng lâng
+ Anh ta leo lên lưng chim, chim đập cánh ba lần lên nổi.
b) Phân biệt ch/tr
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón là nghiêng che
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm.
c) Phân biệt s/x
Anh bộ đội xúng xính trong bộ quần áo mới, vai mang súng nom thật oai
vệ.
d) Phân biệt ac/at
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần
Lúa nặng hạt sây bông trên cánh đồng mênh mông bát ngát.
2. Đọc phân biệt các tiếng có thanh dễ lẫn (Thanh hỏi/ thanh ngã)
+ Tôi đi qua ngõ thấy nhà bạn cửa còn bỏ ngỏ.
+ Cây đã đổ, những chú chim chẳng còn nơi đến đỗ.
+ Còn đâu bến cũ tiễn người sông xưa.
+ Nhìn lên bầu trời đầy sao sáng, anh bộ đội biên phòng lại xôn xao nhớ
đến những người thân ở quê.
3. Đọc phân biệt các tiếng có vần dễ lẫn
a. Phân biệt ân/âng
Dân dâng một quả xôi đầy
8
Trần Thị Mừng

Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
Bánh chưng mấy cặp, bánh dầy mấy đôi.
b. Phân biệt ươn/ương
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
c. Loại bài tập tình huống:
Đây là loại bài tập để luyện tập các nghi thức lời nói và phát triển ngôn
ngữ nói. Chương trình SGK mới đặc biệt đã tạo điều kiện cho học sinh lớp 2
được thực hành rất nhiều loại bài tập này. Trong các phần luyện nói ở các bài
học tập đọc, kể chuyện và tập làm văn, luyện từ và câu học sinh được chơi đóng
vai, đóng kịch kể lại. Theo từng chủ đề của bài học, học sinh được tham gia chơi
đóng vai ông bà, cha mẹ và các cháu nhỏ, người bán hàng, người mua hàng…để
luyện tập các nghi thức của lời nói (chào hỏi khi gặp mặt, chia tay; nói lời cảm
ơn, xin lỗi; yêu cầu đề nghị một việc gì…). Hoạt động này là một cách luyện tập
phát triển ngôn ngữ qua hình thức vừa chơi vừa học, vừa phát triển ngôn ngữ
nói, vừa giáo dục tác phong văn minh, lịch sự. Với loại bài tập này, hình thức tổ
chức lớp học sẽ thay đổi, không còn tính chất “cổ điển”. Chương trình Tiếng
Việt tiểu học mới chú trọng đến loại bài tập tình huống để học các nghi thức lời
nói và phát triển khẩu ngữ.
Cách tiến hành: Trước hết để giờ luyện nói đạt kết quả tốt, giáo viên cần
dành thời gian nghiên cứu nội dung của bài luyện nói để đưa ra những câu hỏi
dẫn dắt sao cho phù hợp với nội dung bài cũng như phù hợp với đối tượng học
sinh của mình. Với từng nội dung của bài luyện nói, giáo viên phải tìm tòi, sáng
tạo đưa ra những tiểu phẩm, tình huống ngắn gọn phù hợp với nội dung bài để
học sinh tập sắm vai thể hiện ngôn ngữ của bản thân thật tự nhiên, trong sáng…

Ví dụ: Trò chơi về Tập làm văn: Chọn lời cho đúng
Chuẩn bị:
- 4 tranh ảnh (hoặc hình vẽ) minh họa 4 tình huống khác nhau có xuất
hiện lời cảm ơn và lời đáp lại lời cảm ơn.
+ Bạn gái xách 1 vật nặng, một bạn trai tới để xách giúp
+ Bạn trai chơi chạy đuổi bị vấp ngã, được một bạn khác đỡ dậy.
+ Trong giờ học vẽ, bạn gái cho bạn trai mượn chiếc bút chì.
+ Trên đường đi học về, bạn trai đưa cho bạn gái chai nước uống
- 1 túi sách to đựng một số đồ vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước uống
- GV làm trọng tài, cử hai học sinh trong lớp giúp việc cho trọng tài.
- Chia lớp thành 4 nhóm (mỗi nhóm ít nhất 8 học sinh); phân công 2 học
sinh tham gia 1 tình huống của trò chơi.
9
Trần Thị Mừng
Trường Tiểu học Tây Đô Hưng Hà - Thái Bình


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
Cách tiến hành: Nêu cách chơi và tính điểm: Mỗi nhóm cử hai học sinh
tham gia trò chơi ở tình huống thứ nhất. Học sinh tham gia trò chơi bước lên
trước bảng lớp để các học sinh khác tiện theo dõi. Học sinh đại diện cho từng
nhóm lần lượt lên chơi trò đóng vai ở mỗi tình huống đã cho trong khoảng 1
phút. Hai học sinh đại diện cho hai nhóm tham gia chơi. Một em đóng vai bạn
gái đang xách một cái túi to bước đi chậm chạp và nặng nhọc. Một em đóng vai
bạn trai đến bên bạn gái và nói: “Bạn để mình xách đỡ cho nào!” rồi đỡ lấy
chiếc túi từ tay bạn gái. Bạn gái nói: “Cảm ơn bạn, bạn tốt quá!”. Bạn trai cười
tươi và nói: “Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà!”.
Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, trọng tài yêu
cầu hai học sinh giúp việc đọc to lời của hai vai trong nhóm để cả lớp cùng nghe
lại và bình chọn lời nói đúng. Nếu một vai nói đúng một câu sẽ được một dấu

tích, nói đúng 2 câu sẽ được 2 dấu tích. Tổng số dấu tích của hai vai là số tích
đạt được của mỗi nhóm trong từng tình huống chơi
Học sinh tiếp tục chơi ở các tình huống khác theo gợi ý nói trên
Thực hành chơi
- 4 học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình huống thứ nhất đến tình huống
thứ tư theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 học sinh trong nhóm chơi xong ở tình
huống thứ nhất thì nhóm cử 2 học sinh khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp
tục cử người chơi như vậy ở 4 tình huống.
- 2 học sinh giúp việc trọng tài ghi lại câu nói của 2 bạn tham gia chơi ở
từng tình huống. Mỗi học sinh giúp việc cho trọng tài chỉ chuyên ghi lại lời nói
của một vai (vai cảm ơn hoặc vai đáp lại cảm ơn).
- Sau mỗi tình huống, trọng tài ghi tích cho từng nhóm lên bảng lớp. Khi
các nhóm đã chơi đóng vai ở tất cả các tình huống thì trọng tài cộng số tích và
công bố nhóm có số dấu tích cao nhất để khen thưởng.
Lưu ý: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh kết hợp cử chỉ, ánh mắt, điệu bộ
để thể hiện lời nói của mình với từng tình huống giao tiếp khác nhau.
d. Loại bài tập luyện kĩ năng hội thoại:
Đây là loại bài tập học sinh tham gia trò chuyện cùng nhau, trả lời phỏng
vấn, cùng nhau tranh luận về một đề tài theo nội dung bài học của mình, một câu
có nội dung đề nghị bạn trả lời đúng đồ dùng cho mình.
Ví dụ: Đóng vai chúc mừng nhau (Đáp lời chia vui).
Chuẩn bị:
- Giáo viên cần đưa ra các tình huống phù hợp giúp các em sắm vai vào
các tình huống được dễ dàng và thuận tiện.
10
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -



Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
- 3 hình vẽ (hoặc tranh ảnh) minh họa 3 tình huống khác nhau có xuất
hiện lời chúc mừng và lời đáp lại lời chúc mừng:
 Bạn gái đội mũ, trên mũ có dòng chữ “Giải nhất viết chữ đẹp”; một bạn
tặng hoa chúc mừng bạn đoạt giải.
 Bạn trai tay ôm quả bong, đầu đội mũ, trên mũ có dòng chữ “Đội vô
địch”; một bạn gái đang bắt tay chúc mừng bạn đại diện cho đội vô địch.
 Bạn trai đang đứng trên sân khấu để nhận giải thưởng. Sau lưng bạn
trai là tiêu đề cuộc thi: “Thi kể chuyện hay”; một mang hoa lên tặng bạn trai
được giải thưởng và nói lời chúc mừng.
- 5 chiếc mũ làm bằng dải bìa quây tròn, trên có dòng chữ “Giải nhất viết
chữ đẹp”
- 5 quả bóng có dán băng giấy, trên băng giấy có ghi “Đội vô địch”.
- 5 chiếc mũ làm bằng dải bì, quây tròn, trên có “Người kế chuyện hay
nhất”
- Chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm ít nhất 6 học sinh, sao cho cứ 2
em đóng vai để thực hiện 1 tình huống được minh họa trong tranh.
- GV làm trọng tài, 2 học sinh giúp trọng tài làm việc.
Cách tiến hành:
+ Nêu cách chơi và tính điểm: 2 học sinh đại điện cho nhóm 4 tham gia
chơi. Một học sinh đóng vai bạn gái đoạt giải nhất trong kỳ thi “Viết chữ đẹp”
của trường. Một học sinh đóng vai bạn gái lên chúc mừng bạn được giải và nói:
“Chúc mừng bạn! Chúng tớ vui lắm!” rồi xiết chặt tay bạn. Bạn được giải đáp:
“Cảm ơn các bạn!”.
+ Thực hành trò chơi:
- 3 nhóm học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình huống đầu đến tình
huống cuối theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 học sinh trong nhóm chơi xong ở tình
huống đầu thì nhóm lại cử hai học sinh khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp
tục cử người chơi như vậy ở 3 tình huống.

- 2 học sinh giúp việc trọng tài ghi lại câu nói của hai bạn tham gia trò
chơi ở từng tình huống, mỗi học sinh giúp việc trọng tài chỉ chuyên ghi lại lời
nói của một vai (vai chúc mừng hoặc vai đáp lời chúc mừng).
- Sau mỗi tình huống, trọng tài ghi điểm cho từng nhóm lên bảng lớp. Khi
các nhóm đã chơi đóng vai ở tất cả các tình huống thì trọng tài cộng điểm và
công bố nhóm có điểm cao nhất để khen thưởng.
e. Loại bài tập kể chuyện: (Kể chuyện đã nghe, đã đọc, kể chuyện về bản
thân và những người xung quanh…) Loại bài tập này được áp dụng ở phân môn
11
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
kể chuyện. Cần chú ý hướng dẫn học sinh có tư thế, có giọng kể thích hợp, biết
sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ hỗ trợ, đặc biệt nẵm vững câu chuyện định kể.
Ví dụ: Phân vai dựng chuyện
Chuẩn bị: GV lựa chọn bài tập ở tiết kể chuyện có yêu cầu phân vai dựng
lại câu chuyện (Trong SGK Tiếng Việt lớp 2); có thể dựa vào văn truyện kể ở
SGK, soạn thành “Màn kịch ngắn” như dưới đây để hướng dẫn học sinh tham
gia dựng lại câu chuyện (lời dẫn trong ngoặc đơn nhằm gợi ý về thái độ, cử chỉ,
hành động của nhân vật hoặc gợi ý tạo dựng bài trí khung cảnh…)
Ví dụ minh họa: Câu chuyện Những quả đào, Tiếng Việt 2, Tập 2, Trang
91 có thể được dựng lại thành kịch bản cho màn kịch ngắn như dưới đây để
hướng dẫn học sinh tham gia dựng lại câu chuyện (lời dẫn trong ngoặc đơn
nhằm gợi ý về thái độ, cử chỉ, hành động của nhân vật hoặc gợi ý tạo dựng bài
trí khung cảnh…). Những quả đào: nhân vật: - Ông - Bà - Cậu bé Xuân - Cô bé
Vân - Cậu bé Việt

Cảnh 1: (Bà và các cháu Xuân, Vân, Việt đang ngồi trò chuyện trên ghế
băng. Ông vừa đi xa về, từ ngoài cửa đi vào, trên tay cầm 4 quả đào: một quả to,
3 quả nhỏ) Ông (đưa quả đào to cho bà, 3 quả nhỏ chia cho 3 cháu):
- Quả to này xin phần bà. Ba quả nhỏ chia cho 3 cháu.
Cảnh 2: (Khung cảnh trong nhà vào buổi chiều. Một mâm cơm bày sẵn
trên chiếc bàn có khăn trải, cả nhà ngồi trên 5 chiếc ghế quây quanh bàn). Ông
(Hỏi các cháu):
- Thế nào, các cháu thấy đào có ngon không?
Xuân: - Đào có vị rất ngon và mùi thật là thơm, ông ạ. Cháu đã đem trồng
vào một cái vò. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ mọc thành một cây đào to đấy ông nhỉ?
Ông (mỉm cười, gật đầu, vẻ hài long): - Ừ, mai sau cháu sẽ làm vườn giỏi
đấy!
Vân (Nói với ông, vẻ tiếc rẻ): - Đào ngon quá, cháu ăn hết mà vẫn thèm.
Còn hạt thì cháu vứt đi rồi ông ạ.
Ông (xoa đầu Vân nhẹ nhàng, cười độ lượng): - Ôi, cháu của ông còn thơ
dại quá! (Lúc này, Việt chỉ chăm chú vào chiếc khăn trải bàn, không nói gì)
Ông (Nhìn Việt vẻ ngạc nhiên, hỏi): - Còn Việt? sao cháu chẳng thấy gì
thế? Việt (hơi bẽn lẽn nhưng giọng nói tỏ vẻ rất vui):
- Cháu ấy ạ? Cháu mang đào cho bạn Sơn. Bạn ấy bị ốm. Nhưng bạn ấy
lại chẳng muốn nhận quả đào cháu tặng. Cháu lén đặt quả đào lên giường bạn ấy
rồi trốn về ông ạ.

12
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”

Ông (thốt lên phấn khởi, xoa đầu Việt một cách âu yếm): - Ôi chao, cháu
yêu quý của ông, cháu là người có tấm lòng thật là nhân hậu. Ông rất hài lòng về
việc làm của cháu đấy!
* Một số đồ vật phục vụ cho việc bài trí khung cảnh và diễn xuất:
- 1 chiếc ghế dài (cảnh 1); 1 chiếc bàn tròn (hoặc chữ nhật) và 5 chiếc ghế
đơn (ghế đẩu hoặc ghế tựa); 1 mâm cơm có vài chiếc bát, đĩa có thức ăn tượng
trưng; 4 quả đào thật hoặc đào giả bằng nhựa (1 quả to, 3 quả nhỏ).
- Quần áo cho học sinh đóng vai người ông, vai người bà (có thể hóa
trang về râu, tóc cho phù hợp); trang phục thích hợp tính cách từng nhân vật:
Vân (ngây thơ, hồn nhiên), Việt (hiền từ, nhân hậu), Xuân (cẩn thận, chu đáo).
Cách tiến hành: 1. GV cho học sinh nhận vai, học thuộc lời thoại, nắm
vững yêu cầu thể hiện tình cảm, thái độ (qua ánh mắt, cử chỉ, động tác, giọng
nói…) của nhân vật trong chuyện.
2. GV hướng dẫn các nhân vật tập đối thoại sao cho thuộc lời, phối hợp
với nhau một cách nhịp nhàng, tự nhiên (chưa cần diễn xuất cụ thể).
3. GV hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật theo “kịch bản” đã
chuẩn bị (tương tự như “đạo diễn” đựng kịch nói hay hoạt cảnh); trình diễn thử
với đạo cụ và bài trái khung cảnh nêu trong “kịch bản”.
4. Học sinh trình diễn “màn kịch ngắn” trước lớp; GV cho cả lớp nhận
xét, bình chọn những học sinh diễn xuất giỏi để biểu dương, khen thưởng.
2.3. Thử nghiệm:
Bước đầu thử nghiệm sáng kiến này, trong bài đầu tiên của môn học
bài “Cơ thể chúng ta”, tôi thiết kế bài dạy gồm 3 hoạt động chính đó là: HĐ
1: Quan sát tranh các hình ở trang 4 – SGK để HS chỉ và nói tên các bộ
phận bên ngoài của cơ thể; HĐ 2: Quan sát các hình ở trang 5 SGK hãy chỉ
và nói xem các bạn trong từng hình đang làm gì? Qua các hoạt động của
các bạn trong từng hình, các em hãy nói với nhau xem cơ thể của chúng ta
gồm mấy phần?; HĐ 3: Tập thể dục: Hướng dẫn cả lớp hát bài “ Cúi mãi
mỏi lưng. Viết mãi mỏi tay. Thể dục thế này là hết mệt mỏi”. Mục đích là để
HS thư giãn.

Dù tiết học thực hiện 3 hoạt động chính và HĐ 3 nhằm giúp HS thư
giãn, song hiệu quả mang lại chưa cao, học sinh thực hiện quan sát tranh
chưa thật hứng thú, hoặc có em quan sát tranh nhưng không tập trung vào nội
dung giáo viên yêu cầu mà mang tính hình thức hay nói chuyện với bạn về một
khía cạnh nào đó ở tranh mà em đó thấy buồn cười,...
Sang tiết học thứ 2: Chúng ta đang lớn tôi vẫn thực hiện dạy không lồng
ghép trò chơi học tập. Qua tiết học tôi quan sát số lượng học sinh tích cực học
tập khoảng 20%, một số em không mất trật tự nhưng ngồi học không ngay ngắn,
13
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
hay nhìn ra ngoài hoặc để tay dưới ngăn bàn nghịch ngầm, Một số em còn lại thì
quay chọc ghẹo bạn hoặc nói chuyện riêng.
Sang tiết học thứ 3: Nhận biết các vật xung quanh, tôi thiết kế bài dạy có
sử dụng trò chơi “ Ai đúng hơn?” (như ở phần trên đã nêu), khi thực hiện tôi
thấy các em trong lớp hào hứng hơn hẳn, các em thi nhau xem đội nào là đội vẽ
hay nêu được nhiều vật xung quanh nhất, các em đã muốn thể hiện mình nhiều
hơn, tự tin hơn. Có khoảng 30% tích cực, các em còn lại đã nhập vào trò chơi
bằng cách tìm và nhắc bạn của đội mình.
Đến tiết học thứ 4 tôi lại dạy không kết hợp trò chơi, tôi nhận thấy các em
lúc đầu háo hức vì có lẽ mong đến phần được chơi trò chơi, sau khi kiểm tra bài
cũ xong có em đã hỏi tôi hôm nay có chơi trò chơi không cô, tôi trả lời không và
nhận thấy nét mặt thất vọng của rất nhiều em, không khí lớp đã chùng xuống.
Tiết học tiếp theo tôi lại sử dụng trò chơi học tập và nhận thấy các em rất
vui, hào hứng khi tham gia trò chơi. Tuy nhiên tôi cũng nói để các em hiểu được

không phải bài học nào cũng có thể sử dụng trò chơi học tập một cách hiệu quả.
Tôi cũng khích lệ các em cần cố gắng học tập thật tốt sẽ được thưởng nhiều trò
chơi học tập. Cuối giờ học tôi phát phiếu điều tra để thu thập thêm thông tin cần
thiết cho sáng kiến và được giáo viên dự giờ cũng như học sinh hưởng ứng nhiệt
tình.
Việc tổ chức các trò chơi học tập phù hợp trong các tiết Tự nhiên và xã
hội 1 ở lớp tôi đã dần dần trở thành thói quen và gây được hứng thú cao với học
sinh để đạt được những kết quả như đã nêu ở trên.
Sau đây tôi xin giới thiệu Kế hoạch 1 tiết dạy Tự nhiên và xã hội mà tôi
đã tổ chức trò chơi học tập để minh họa:
KẾ HOẠCH BÀI DẠY
BÀI 25: CON CÁ
I. MỤC TIÊU
Giúp học sinh biết :
- Kể tên một số loài cá và nơi sống của chúng (cá biển, cá sông, cá ao, cá hồ,
cá suối…).
- Quan sát, phân biệt và nói được tên các bộ phận bên ngoài của con cá.
- Nêu được một số cách bắt cá.
- Ăn cá giúp cơ thể khoẻ mạnh và phát triển tốt.
- Học sinh cẩn thận khi ăn cá để không bị hóc xương.
II. CÁC KĨ NĂNG CƠ BẢN ĐƯỢC GIÁO DỤC TRONG BÀI
- Kĩ năng ra quyết định: Ăn cá trên cơ sở nhận thức được lợi ích của việc ăn cá.
14
Trần Thị Mừng
Trường Tiểu học Tây Đô Hưng Hà - Thái Bình


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
- Kĩ năng tìm kiếm, xử lí thông tin về cá.
- Phát triển kĩ năng giao tiếp thông qua tham gia các hoạt động học tập.

III. CÁC PHƯƠNG PHÁP / KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC CÓ THỂ
SỬ DỤNG
- Trò chơi.
- Hỏi - Đáp.
- Quan sát và thảo luận nhóm.
- Tự nói với bản thân.
IV. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
- GV và HS chuẩn bị 1 con cá còn sống đựng trong bình hoặc lọ.
- Các hình ảnh ở bài 25 trong SGK.
- Bút chì hoặc bút màu.
- Giấy A4, vở bài tập TN&XH 1 bài 25.
V. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

1, Kiểm tra bài cũ:
Mục tiêu: Giúp HS củng cố bài “Cây
gỗ”.
- Giờ trước các em được học bài gì?

- Bài “Cây gỗ”.

- Cây gỗ được trồng ở đâu?

- HS trả lời, HS khác nhận xét, bổ
sung.

- GV nhận xét, đánh giá.
- Cây gỗ có lợi ích gì?


- Kể tên một số đồ dùng được làm - Học sinh trả lời, nhận xét, bổ sung.
bằng gỗ mà em biết?
- Nhận xét, đánh giá.
* Nhận xét chung: Các em về nhà đã
học bài tốt, có ý thức chuẩn bị bài đầy
đủ và hoàn thành tốt các yêu cầu đề ra. - Lắng nghe.
Cô khen cả lớp.

B. Bài mới.
1. Khám phá - Giới thiệu bài
15
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

- Cho HS theo dõi hình ảnh các loài cá
và hỏi: Các em vừa được quan sát hình - Con cá
ảnh của con vật nào?
- Em có muốn biết tên của những con
cá này không? Cá sống ở đâu? Gồm - Lắng nghe.
những bộ phận nào và có lợi ích gì?
Bài học hôm nay sẽ trả lời cho các em

câu hỏi đó.
Bài 25: Con cá
- Yêu cầu HS mở SGK trang 52,53 và
nhắc tên bài.
Ghi bảng: Bài 25 : Con cá
- HS nối tiếp nhắc tên bài.
2. Kết nối
Hoạt động 1: Quan sát và thảo luận
Mục tiêu:
* Quan sát con cá xử lí thông tin về cá để nêu được:
- Tên con cá nhóm mình quan sát.
- Biết được cá sống ở đâu.
- Nhận ra các bộ phận bên ngoài của con cá.
- Mô tả được con cá bơi và thở như thế nào?
- Phát triển kĩ năng giao tiếp.
Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

* Bước 1: Chia nhóm, giao nhiệm vụ
thảo luận :
- GV chia nhóm và yêu cầu HS về - 5 đến 7 HS một nhóm
nhóm.
* Bước 2: Làm việc theo nhóm
+ Các em cần quan sát con cá thật kĩ và
trả lời các câu hỏi sau:

- HS quan sát và thảo luận (2 phút)

1, Tên con cá nhóm mình quan sát. Cá

sống ở đâu?
2, Nêu tên các bộ phận bên ngoài của
16
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
con cá?
3, Cá bơi bằng gì, thở như thế nào?
- GV quan sát và giúp đỡ các nhóm.
GV có thể dùng câu hỏi sau để gợi ý
thêm khi đến làm việc với nhóm:
+ Các em biết những bộ phận nào của
con cá?
+ Bộ phận nào của con cá đang
chuyển động?
+ Tại sao con cá đang mở miệng.
+ Tại sao nắp mang của con cá luôn
luôn mở ra rồi khép lại?
* Bước 3: Trình bày kết quả thảo luận:
- Tổ chức cho HS trình bày kết quả
quan sát và thảo luận theo từng nhóm
(các nhóm quan sát con cá giống nhau
YC một nhóm trình bày, các nhóm khác
nhận xét, bổ sung).

- Các nhóm trình bày kết quả thảo

luận theo câu hỏi.
- HS đại diện nhóm trình bày kết quả
quan sát và thảo luận của nhóm mình.
- HS nhóm khác nhận xét, bổ sung.
VD:

- Còn em nào có ý kiến khác không?
- GV nhận xét, kết luận.
* Bước 4: Làm việc với mô hình.

+ Nhóm 1: Con cá nhóm em quan sát
là con cá chép, cá sống ở dưới nước,
nó có các bộ phận bên ngoài là: đầu,
mình, đuôi, vây,…
- Học sinh tổ khác nhận xét bổ sung.

- Trên màn hình cô có ảnh chụp một - Lắng nghe.
con cá chép. Em nào xung phong lên chỉ
và nói tên các bộ phận bên ngoài của
con cá chép mà em quan sát được.
- Gọi vài HS lên chỉ và nói tên các bộ
phận bên ngoài của con cá.
- Còn em nào có ý kiến khác không?
- GV khoanh vào bộ phận đầu cá hỏi - Học sinh trả lời (Cá có các bộ phận:
đây là bộ phận nào của con cá?
Đầu , mình, đuôi, vây, vẩy,.….)
17
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình


Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
- Trên đầu còn có những bộ phận nào?

HS khác nhận xét , bổ sung

- GV khoanh vào bộ phận mình cá hỏi - HS trả lời.
đây là bộ phận nào của con cá?
Đầu cá
- Trên mình cá còn có bộ phận nào?
- Mắt, miệng, mang, râu.
- Đúng rồi. Tuy nhiên trong thực tế còn - Mình cá
có những loài cá không có vẩy như cá
trê, cá chạch,…
- GV khoanh vào bộ phận đuôi, vây hỏi - Vẩy cá.
đây là bộ phận nào của con cá?
- Lắng nghe
- GV giới thiệu: vây mình, vây bụng, và
vây lưng của con cá.
- GV chốt: Bộ phận bên ngoài của con
- Đuôi, vây

có: đầu, mình, đuôi, vây,…, các em hãy
ghi nhớ để lát nữa cùng thi vẽ tranh về
con cá nhé.
- Hãy kể tên một số loài cá mà em biết.

- Các em đã kể được tên của rất nhiều

loài cá như: cá chuối, cá trê, cá trôi, cá
rô phi,…. đây là cá nước ngọt sống ở
sông, ao, hồ, đầm… Các loại cá: cá
đuối, cá heo, cá mập, cá thu,…đó là cá
nước mặn (sống ở biển ). Các loại cá
cảnh, có loài sống ở vùng nước mặn
cũng có loài sống ở vùng nước ngọt.
Còn có những loài cá sống ở những
vùng nước giao giữa nước mặn và nước
ngọt đó là vùng nước lợ như cá chình,
cá kèo… mà sau này các em sẽ có dịp
tìm hiểu thêm.

-HS nghe

- Học sinh nối tiếp nhau kể ví dụ như:
Cá chuối, cá trê, cá trôi, cá rô, cá rô
phi, cá mập, cá mè,…

- Lắng nghe và quan sát hình ảnh các
loài cá.

- Các em hãy quan sát đoạn phim sau và
cho biết con cá bơi bằng bộ phận nào
của cơ thể?
- Yêu cầu HS trả lời.

18
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình


Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
- Còn em nào có ý kiến khác?
- Quan sát, suy nghĩ và tự nói với bản
- GV nêu: Cá bơi bằng vây và đuôi. Cá thân (thời gian 10 giây).
dùng vây mình để bơi, dùng vây lưng,
vây bụng để giữ thăng bằng và dùng - Vây, đuôi
đuôi để lái (chuyển hướng đi).
+ Học sinh khác nhận xét, bổ sung.
* Chúng ta cùng đến với câu hỏi tiếp
- HS trả lời.
theo.
- Quan sát đoạn phim và cho biết cá thở
bằng gì?
- Lắng nghe
- Yêu cầu HS trả lời.
- Em nào có ý kiến khác?
- GV nêu: Cá thở bằng mang. Cá há
miệng cho nước chảy vào rồi ngậm
miệng cho nước chảy qua các lá mang
để lọc lấy ô-xi trong nước và đẩy khí - Quan sát, suy nghĩ, tự nói với bản
các – bon - níc ra ngoài nên có lúc ta thân (thời gian 10 giây).
nhìn thấy các bọt tăm - đây chính là các - Cá thở bằng mang.
bong bóng khí.
- Học sinh khác nhận xét , bổ sung.
- Lắng nghe.


Hoạt động 2: Làm việc với sách giáo khoa
Mục tiêu:
- Học sinh biết đặt câu hỏi và trả lời dựa trên các hình ảnh trong sách giáo
khoa.
- Biết được một số cách bắt cá.
- Biết ăn cá có lợi cho sức khoẻ và ra quyết định ăn cá.
19
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
- Biết cẩn thận khi ăn cá để không bị hóc xương.
Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

* Bước 1: Quan sát tranh và trả lời
câu hỏi
- Yêu cầu học sinh mở SGK trang 53, - Mở sách giáo khoa, quan sát tranh.
quan sát các tranh SGK và trả lời câu
hỏi:
+ Người trong ảnh đang dùng gì để bắt
cá?
+ Bạn thích ăn loại cá nào?
+ Ăn cá có lợi ích gì?
* Bước 2: Làm việc nhóm đôi.
- Yêu cầu học sinh thảo luận theo

nhóm đôi một em hỏi, một em trả lời.
- Thời gian thảo luận là 1 phút.

-Làm việc theo nhóm đôi.

* Bước 3: Trình bày kết quả thảo
luận.
- Yêu cầu học sinh trình bày theo
- Từng nhóm HS trả lời, nhóm khác bổ
nhóm một HS hỏi một HS trả lời.
sung.
VD:
+ Người trong ảnh đang dùng gì để bắt
cá.
Người trong ảnh đang dùng vó để bắt
cá.
- Nhận xét, tuyên dương

+ Bạn hãy kể tên những hình thức bắt
cá mà bạn biết.

- Có rất nhiều hình thức đánh bắt cá Các hình thức bắt cá như: kéo vó,
như: Kéo vó, kéo lưới, câu, dùng nơm, lưới, câu,…
đó, đăng,… Song trong thực tế còn có
hiện tượng bắt cá bằng kích điện, điện
lưới và dùng mìn rất nguy hiểm cho
tính mạng của người đánh bắt cá và có
hại cho môi trường sinh thái. Những
hình thức trên đã bị nghiêm cấm. Các
20

Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
em nên khuyên mọi người trong gia - Lắng nghe.
đình không nên dùng các hình thức bắt
cá này (nếu có).
* GV hỏi tiếp:
- Trong bữa ăn hàng ngày gia đình em
có hay ăn cá không? Em có thích ăn cá
không?
- Mẹ em thường mua cá ở đâu?

- HS trả lời.

- Khi mua cá về mẹ các em thường chế
biến thành những món ăn gì?
GV Nêu: Cá có thể chế biến thành
những món ăn như mẹ các em đã làm, -Mua ở chợ,siêu thị,…
ngoài ra ta cũng có thể làm lẩu cá, cá -Kho cá, rán cá, nấu riêu, sốt cá,…
hấp, chả cá, cá sốt… Những món ăn
này nên ăn ngay trong ngày sau khi
chế biến, không nên để quá lâu và - Lắng nghe.
không được bảo quản tốt. Khi cá đã
chế biến bị ôi, thiu… ta không nên ăn
vì có hại cho sức khoẻ. Ngoài ra “gỏi
cá” là món cá sống chúng ta không nên

ăn vì dễ bị bệnh đường tiêu hoá.
- Để có được những món cá ngon ta
phải chọn loại cá như thế nào?
- Cho HS quan sát tranh minh hoạ để
khắc sâu; nên chọn mua loại cá tươi
ngon (cá còn sống) vì nó có nhiều chất
đạm, canxi rất tốt cho sức khoẻ, giúp
xương phát triển, chóng lớn.
- Vì sao không nên chọn cá chết, ươn?
Nêu: Cá đã bị chết ươn và nhất là đã bị
ruồi, nhặng bâu thì các chất trong cơ - HS nêu.
thể cá đã bị phân huỷ nếu chúng ta ăn
sẽ có hại cho sức khoẻ.
- Ăn cá có lợi ích gì?
-Khi ăn cá ta cần chú ý điều gì?
- Ăn cá có ích cho sức khoẻ vì vậy một
21
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
tuần chúng ta nên ăn từ 3 đến 4 bữa. - HS nêu.
Khi ăn cá các em cần phải gỡ bỏ
xương để không bị hóc.
GV nêu: Cá có rất nhiều lợi ích như
làm thức ăn, làm cảnh, có loại có thể
dạy làm xiếc, có thể làm thành các

thực phẩm chức năng như dầu cá rất
tốt cho mắt. Ngoài ra cá còn là nguồn
tài nguyên quý giá đem lại lợi ích lớn
về kinh tế khi xuất khẩu cá sang nước
ngoài.

+ Ăn cá rất tốt cho sức khoẻ, giúp
xương phát triển, chóng lớn,…
+ Khi ăn cá cần cẩn thận không bị hóc
xương.
- Lắng nghe.

- Em phải làm gì để bảo vệ cá?
GV nêu: Để bảo vệ cá chúng ta không
nên đánh bắt cá một cách bừa bãi và
phải bảo vệ môi trường nước.
Ví dụ: Không xả rác bừa bãi xuống
ao, sông, biển… để giữ môi trường
trong sạch cho cá sinh sống và phát
triển.
- Bài học hôm nay các em được học
về con vật gì?
- Vậy bây giờ các em cùng nhau thi vẽ
một bức tranh con cá nhé.
- HS nêu.
- Lắng nghe.

- Con cá
3. Thực hành
Hoạt động 3: Thi vẽ tranh con cá

Mục tiêu:
- Giúp học sinh khắc sâu biểu tượng về con cá.
22
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

* Bước 1: Giao nhiệm vụ và thực
hiện
- Thực hiện theo yêu cầu.
- Yêu cầu học sinh lấy giấy, bút chì,
bút màu để thi vẽ.
- HS trả lời: Đầu, mình, vây, đuôi,
- Muốn vẽ được bức tranh con cá mắt, miệng….
chúng ta cần vẽ về những bộ phận nào
bên ngoài của con cá?
- Em nào vẽ nhanh bức tranh con cá có
thể tô màu cho con cá của mình thêm - Thực hiện theo yêu cầu.
đẹp.
* Bước 2: Làm việc cá nhân.
- GV theo dõi và hướng dẫn.
* Bước 3: Trưng bày sản phẩm
- YC HS lên giới thiệu về bức tranh

con cá của mình.
- Hướng dẫn học sinh nhận xét tranh.
+ Tranh bạn vẽ có giống con cá chưa?
+ Đủ các bộ phận chưa?….

- Học sinh vẽ tranh về con cá.

- HS trình bày sản phẩm (2- 3 học sinh
)
- Học sinh nhận xét tranh của bạn theo
định hướng của giáo viên.

+ Kích cỡ có phù hợp không: to quá,
bé quá hay vừa?....
+ Nếu tô màu thì màu tô có phù hợp
không?….
- Nhận xét, tuyên dương.
- Cô trò mình vừa được học bài gì?
- GV củng cố.
- Bài: Con cá
4. Vận dụng
Hoạt động 4: Trò chơi: Ô số bí mật
Mục tiêu: Giúp học sinh củng cố những hiểu biết về cá.
Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

* Bước 1: Phổ biến luật chơi, hình
23
Trần Thị Mừng

Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”
thức chơi.
- Cô có 4 ô số, mỗi ô số ẩn chứa 1 câu - Nghe phổ biến luật chơi.
hỏi về nội dung bài học. HS chọn câu
hỏi và trả lời. Mỗi câu trả lời đúng thì
một phần bức tranh được mở ra. Trả
lời hết 4 ô số các em sẽ khám phá
được bí mật của trò chơi.
- Hình thức chơi: cả lớp
* Bước 2: Tổ chức cho học sinh chơi
- Gọi theo tinh thần xung phong lần
lượt chọn ô số và trả lời.
Câu 1: Cá sống ở đâu?

- Học sinh chơi.

Câu 2: Cá có những bộ phận nào?
Câu 3: Ăn cá có lợi ích gì?
Câu 4: Kể tên một số loại cá mà em
biết?
- Nhận xét về cách chơi của học sinh
và tuyên dương học sinh thắng cuộc
cũng như học sinh cổ vũ dưới lớp.
- Cho HS xem đoạn phim đã khám
phá.


- Nhận xét

- Như vậy trò chơi đã khép lại giờ học
hôm nay. Về nhà các em mở sách TN - Xem đoạn phim
– XH trang 54, 55 xem trước bài “ Con
gà” để giờ sau cô trò mình cùng tìm
- Theo dõi và ghi nhớ.
hiểu nhé.

24
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


Sáng kiến “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Hai”

25
Trần Thị Mừng
Hưng Hà - Thái Bình

Trường Tiểu học Tây Đô -


×