BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
LÊ THỊ PHƯƠNG THẢO
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI
TRONG GIỜ DẠY TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH
LỚP 2 TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN PHÚ
– HUYỆN LỤC YÊN – TỈNH YÊN BÁI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
LÊ THỊ PHƯƠNG THẢO
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI
TRONG GIỜ DẠY TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH
LỚP 2 TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN PHÚ
– HUYỆN LỤC YÊN – TỈNH YÊN BÁI
CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Khổng Cát Sơn
SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN!
Khóa luận được hoàn thành, lời đầu tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc nhất đến ThS. Khổng Cát Sơn - giảng viên khoa Ngữ văn đã tận tình chỉ dẫn
và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa Tiểu học -
Mầm non, Thư viện, Phòng quản lí đào tạo Đại học trường Đại học Tây Bắc.
Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô và các em học sinh
trường Tiểu học Trần Phú - thị trấn Yên Thế - huyện Lục Yên - tỉnh Yên Bái đã
tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận.
Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô và các bạn để
khóa luận thêm hoàn thiện.
Xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2013
Người thực hiện:
Lê Thị Phương Thảo
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
TBDH : Thiết bị dạy học
NXB : Nhà xuất bản
VD : Ví dụ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
3.1. Mục đích nghiên cứu 3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Khách thể nghiên cứu 3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5.1. Đối tượng nghiên cứu 4
5.2. Phạm vi nghiên cứu 4
6. Giả thiết khoa học 4
7. Phương pháp nghiên cứu 4
8. Cấu trúc khóa luận 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 6
1.1. Cơ sở lí luận 6
1.1.1. Cơ sở của việc dạy kĩ năng nói 6
1.1.1.1. Cơ sở tâm lí 6
1.1.1.2. Cơ sở ngôn ngữ học của việc dạy kĩ năng nói 7
1.1.2. Lý thuyết văn bản, phong cách văn bản và việc rèn kĩ năng nói trong
giờ dạy tiếng Việt cho HS lớp 2 9
1.1.3. Vai trò của rèn kĩ năng nói đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách trẻ em 9
1.1.3.1. Kĩ năng nói là một phương tiện giáo dục lao động 9
1.1.3.2. Kĩ năng nói là một phương tiện giáo dục đạo đức, thẩm mĩ 10
1.1.3.3. Kĩ năng nói là một phương tiện nâng cao trình độ ngôn ngữ nói 10
1.1.3.4. Kĩ năng nói là một phương tiện rèn thính giác ngôn ngữ 10
1.2. Cơ sở thực tiễn 11
1.2.1. Khảo sát thực trạng rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho HS lớp 2
11
1.2.1.1. Mục đích khảo sát 11
1.2.1.2. Nội dung khảo sát 11
1.2.1.3. Phương pháp khảo sát 11
1.2.1.4. Đối tượng khảo sát 11
1.2.1.5. Thời gian, địa điểm khảo sát 11
1.2.2. Kết quả khảo sát 12
1.2.2.1. Chương trình SGK Tiếng Việt lớp 2 12
1.2.2.2. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2 13
1.2.2.3. Vận dụng các thiết bị dạy học vào việc rèn kĩ năng nói 14
1.2.2.4. Khả năng nói của học sinh 16
1.2.2.5. Giáo án dạy Tiếng Việt 2 của giáo viên 26
CHƯƠNG 2 : NHỮNG BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI TRONG GIỜ
DẠY TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 2 31
2.1. Một số vấn đề chung về phương pháp dạy học 31
2.2. Một số phương pháp rèn kĩ năng nói cho HS lớp 2 32
2.2.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp 32
2.2.2. Phương pháp giao tiếp và thực hành - luyện tập 34
2.2.3. Phương pháp trò chơi 41
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM 50
3.1. Mục đích thực nghiệm 50
3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm 50
3.3. Thời gian thực nghiệm 50
3.4. Nội dung và phương pháp thực nghiệm 50
3.5. Thiết kế giáo án thực nghiệm 51
3.5.1. Phân môn Tập đọc 51
3.5.2. Phân môn Kể chuyện 52
3.5.3. Phân môn Luyện từ và câu 52
3.6. Kết quả thực nghiệm 52
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 54
1. Kết luận 54
2. Kiến nghị 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước đòi hỏi phải đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông. Nhân tố quyết định thắng lợi là nguồn lực con
người Việt Nam trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Cho nên, trước hết phải
chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao động có những
phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn
mới. Điều này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông.
Quyết định số 2957/GDDT ngày 14 - 10 - 1994 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã khẳng định: “Tiểu học là cấp học đặt cơ sở ban đầu cho việc hình
thành, phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền tảng vững chắc cho
giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân”. Giáo dục tiểu
học “hình thành cho HS những cơ sở ban đầu về sự phát triển đúng đắn và lâu
dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kĩ năng cơ bản để học tiếp trung học
hoặc đi vào cuộc sống lao động”.
Ngày xưa, ông bà ta rất coi trọng việc giao tiếp và ngôn ngữ lời nói là
phương tiện giao tiếp ở dạng hiện thực hóa tức là ở dạng hoạt động, gắn liền với
các tình huống cụ thể, nội dung cụ thể đóng vai trò trao đổi thông tin, biểu hiện
tình cảm, qua lời nói thể hiện văn hoá, tính nết của con người. Lời nói vừa là đối
tượng học tập của HS, vừa tạo cho các em công cụ để học các môn khác, là công
cụ để tư duy, giao tiếp. Do vậy, cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của các em
ngay từ nhỏ, từ các lớp đầu cấp tiểu học để sau này các em có thói quen cư xử
đúng mực, lịch sự trong khi giao tiếp.
Để nhìn nhận đánh giá một con người, chúng ta cũng cần phải giao tiếp
hàng ngày với họ. Người xưa có câu:
“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”.
Việc giáo dục lời nói từ xa xưa đã được ông bà ta rất chú trọng. Ông cha ta
thường dạy con, cháu qua các câu ca dao, tục ngữ như:
“ Học ăn, học nói, học gói, học mở”
“ Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
2
Ngoài ra, việc giao tiếp ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong
nhiều lĩnh vực.
Kĩ năng nói trở thành một đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với mỗi người đi
học. Nói sẽ giúp trẻ em sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và học tập, là công cụ để
học tập các môn học khác, tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Đồng thời, tạo
điều kiện để HS có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời, là một khả năng
không thể thiếu được của con người trong thời đại văn minh.
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là trường miền núi, trình độ dân trí
chưa cao, đa số phụ huynh chưa có sự quan tâm chu đáo đến việc học hành của
con em mình, cũng ít quan tâm giáo dục cho HS biết giao tiếp đúng mực, lịch
sự. Đây là một điều đáng quan tâm. Phần lớn các em ngại giao tiếp, nhút nhát,
giao tiếp kém, có khi nói năng cộc lốc, không biết cách diễn đạt hết ý của mình.
Đa số là các em phát âm sai do ảnh hưởng của phương ngữ.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ biểu
cảm, lịch sự khi giao tiếp và với thực trạng của HS đã nêu trên, chúng tôi đã lựa
chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho học sinh
lớp 2 trường Tiểu học Trần Phú - huyện Lục Yên - tỉnh Yên Bái”.
2. Lịch sử vấn đề
Trong khóa luận này, chúng tôi sưu tầm tổng hợp và xử lí các tài liệu sau
đây:
1. Trần Mạnh Hưởng (2000), Vui học Tiếng Việt, NXB Giáo dục. Tác giả
đã biên soạn những trò chơi, những bài tập vui nhẹ nhàng về tiếng Việt theo yêu
cầu kiến thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt ở bậc tiểu học để HS vừa có thể tự
học mà vẫn được chơi các trò chơi cùng bạn bè theo tinh thần “học vui - vui
học” một cách hứng thú và bổ ích.
2. Lê Phương Nga, Đặng Kim Nga (2007), Phương pháp dạy học Tiếng
Việt ở Tiểu học, NXB Sư phạm, NXB Giáo dục. Cuốn sách đã cập nhật những
thông tin đổi mới về nội dung chương trình SGK mới, về phương pháp dạy học
theo chương trình mới. Đặc biệt, cuốn sách đã trình bày một cách chi tiết, cụ thể
về cấu trúc, nội dung và phương pháp dạy học cho từng môn. Ngoài ra, cuốn
sách còn giới thiệu được một số phương pháp dạy học tích cực theo hướng đổi
mới như: sử dụng bộ đồ dùng học tập trong dạy học, sử dụng máy chiếu, băng
hình… nhằm phục vụ cho chương trình dạy - học đạt kết quả cao nhất.
3
3. Tác giả Nguyễn Trí trong cuốn Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học
theo chương trình mới (Nhà xuất bản Giáo dục - 2003) đã đề cập đến những vấn
đề cơ bản của phương pháp dạy học mới ở nhà trường tiểu học nói chung và
tiếng Việt 2 nói riêng. Đặc biệt, tác giả quan tâm đến dạy cho HS bốn kĩ năng:
nghe - nói - đọc - viết. Đây chính là cơ sở để giúp GV biết cách vận dụng linh
hoạt các phương pháp vào dạy học phân môn Tiếng Việt.
4. Vũ Khắc Tuấn (2008), Luyện nói cho học sinh lớp 2, NXB Giáo dục.
Trong cuốn sách, tác giả đã đề cập đến những nội dung luyện nói cho HS lớp 2
trong giờ tiếng Việt gồm hai phần chính: Phần 1 đề cập đến những vấn đề chung
về luyện nói ở lớp 2; Phần 2 bao gồm những vấn đề cụ thể về luyện nói ở lớp 2.
Ở phần này, tác giả đặc biệt chú trọng đến Luyện nói giao tiếp, Luyện nói lời kể,
Luyện nói lời nhận xét.
Những công trình nghiên cứu nói trên là định hướng quý báu để chúng tôi thực
hiện khóa luận “Một số biện pháp rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho học
sinh lớp 2 trường Tiểu học Trần Phú - huyện Lục Yên - tỉnh Yên Bái”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu cách thức tổ chức dạy học tiếng Việt cho HS lớp 2,
chúng tôi đi vào đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho
HS lớp 2.
Từ những biện pháp đã đề xuất, chúng tôi thiết kế giáo án thực nghiệm cho
các tiết học rèn kĩ năng nói cho HS lớp 2.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề xuất cơ sở lí luận nghiên cứu khóa luận.
- Khảo sát, thống kê, phân loại, chỉ ra thực trạng và một số biện pháp rèn
kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho HS lớp 2.
- Thiết kế giáo án ứng dụng cho khóa luận.
4. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của khóa luận là quá trình dạy học tiếng Việt cho HS
lớp 2 trường Tiểu học Trần Phú - huyện Lục Yên - tỉnh Yên Bái.
4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là một số biện pháp rèn luyện kĩ năng nói trong giờ
dạy tiếng Việt cho HS lớp 2.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu trong phạm vi:
+ Một số biện pháp rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt lớp 2.
+ 116 HS lớp 2 trường Tiểu học Trần Phú - thị trấn Yên Thế - huyện Lục
Yên - tỉnh Yên Bái.
6. Giả thiết khoa học
Dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp là định hướng trong dạy học hiện
nay, nhất là đối với bậc học tiểu học. Đây là vấn đề được nhiều thầy cô dạy tiểu
học quan tâm, nghiên cứu và thực hiện.
Nếu khóa luận của chúng tôi chứng minh được tính khả thi của các phương
án đề xuất, sẽ góp thêm tiếng nói vào việc tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng
dạy và học theo quan điểm giao tiếp qua lĩnh vực rèn kĩ năng nói cho HS lớp 2.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc, nghiên cứu và xử lí các tài liệu có
liên quan.
- Phương pháp điều tra được tiến hành dưới các hình thức:
+ Dùng phiếu điều tra.
+ Trao đổi trực tiếp với GV và HS.
+ Dự giờ các tiết học để tìm hiểu phương pháp dạy học của GV.
- Phương pháp phân tích - thống kê: tổng hợp các số liệu điều tra từ thực tế
để phân tích làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất biện pháp rèn kĩ năng nói cho
HS lớp 2.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: từ các phương pháp đã đề xuất, tiến
hành thực nghiệm tại trường tiểu học.
5
8. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và kiến nghị, phụ lục, tài liệu tham
khảo, nội dung chính của khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Những biện pháp rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho học
sinh lớp 2
Chương 3: Thực nghiệm
6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Cơ sở của việc dạy kĩ năng nói
1.1.1.1. Cơ sở tâm lí
Ngay từ ngày đầu tiên bước chân tới trường, trẻ đã được giáo dục về đạo
đức, giáo dục ăn nói lễ phép theo phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Do
vậy, từ các lớp đầu cấp tiểu học, chúng ta cần rèn cho trẻ biết nói năng lễ phép,
lịch sự, biết nói lời biểu cảm trong giao tiếp. Không những thế, chúng ta cần rèn
cho trẻ tính mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp với mọi người và khi nói trước tập thể
đông người.
Dạy tiếng Việt không chỉ dạy cho HS kĩ năng đọc, viết, nghe mà điều quan
trọng là dạy các em sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp. Nếu một người đọc
thông, viết thạo tất cả các văn bản, có tài, có trình độ, song khi nói trước tập thể
thì sợ sệt, nhút nhát hoặc khi giao tiếp không gây được tình cảm, mối thân thiện
với mọi người, để lại ấn tượng không tốt thì người đó khó mà thành công trong
công việc.
Ngay từ các lớp đầu cấp tiểu học, chúng ta cần rèn cho HS kĩ năng nói để sau
này lớn lên các em có một nhân cách tốt, biết nói năng lễ phép, lịch sự, biết nói lời
biểu cảm trong giao tiếp và mạnh dạn khi giao tiếp với mọi người.
Bộ SGK Tiếng Việt 2 tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho HS
thông qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện, Tập
viết, Tập làm văn.
- Phân môn Tập đọc rèn cho HS các kĩ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc
thầm, đọc diễn cảm), nghe và nói. Phân môn Tập đọc còn cung cấp cho HS
những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người; cung cấp vốn từ, cách diễn
đạt, những hiểu biết về văn học thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm cùng
các câu hỏi, bài tập khai thác nội dung bài đọc và truyện kể từ đó góp phần rèn
luyện nhân cách cho HS.
- Phân môn Chính tả rèn các kĩ năng nghe, viết và đọc. Từ đó, rèn cho HS
sử dụng ngôn ngữ, cung cấp cho HS vốn từ qua các bài tập chính tả.
7
- Phân môn Luyện từ và câu cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về
tiếng Việt và rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, kĩ năng đọc cho HS.
- Phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói, nghe và đọc. Trong tiết Kể chuyện,
HS kể lại những câu chuyện phù hợp với chủ điểm mà các em đã học, nghe thầy
cô hoặc bạn kể rồi kể lại câu chuyện bằng lời của mình, trả lời câu hỏi hoặc ghi
lại những chi tiết chính của câu chuyện đó.
- Phân môn Tập làm văn rèn cho HS cả 4 kĩ năng nghe, nói, viết và đọc.
Trong giờ Tập làm văn, HS được cung cấp kiến thức về cách viết bài và làm các
bài tập. HS được rèn luyện và thực hành nói rất nhiều về những lời nói biểu
cảm, lịch sự và nói lễ phép.
Trong những năm học vừa qua, chúng tôi đã tiếp cận với chương trình SGK
mới và đã thấy được tầm quan trọng của SGK Tiếng Việt lớp 2 là rèn cho HS kĩ
năng nói là rất cần thiết. Chúng tôi đã và đang nghiên cứu để tìm ra những biện
pháp mới, hay để áp dụng vào việc giảng dạy trong tương lai nhằm nâng cao
nghiệp vụ chuyên môn và góp phần giúp cho chất lượng giáo dục ngày càng
được nâng cao.
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học lấy HS
làm trung tâm, phát huy tính sáng tạo, tích cực học tập của HS. Theo chúng tôi,
môn Tiếng Việt là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho HS tự giác trong luyện
tập để rút kinh nghiệm, tự chiếm lĩnh kiến thức qua thực hành dưới sự chỉ dẫn, điều
hành của GV. Qua thực tế nghiên cứu, chúng tôi cho rằng rèn kĩ năng nói trong giờ
dạy tiếng Việt cho HS lớp 2 là điều hết sức cần thiết và quan trọng.
1.1.1.2. Cơ sở ngôn ngữ học của việc dạy kĩ năng nói
a, Vấn đề chính âm tiếng Việt và việc dạy rèn kĩ năng nói
Kĩ năng nói chính là: nói đúng về mặt ngữ âm, sử dụng từ đúng nghĩa, đặt
câu đúng, sử dụng câu phù hợp với bối cảnh giao tiếp. GV cần phải xác định
được mối quan hệ giữa chính âm tiếng Việt và việc dạy rèn kĩ năng nói. Chính
âm là chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị và hiệu lực về mặt xã hội.
Chính âm sẽ quy định nội dung luyện phát âm ở tiểu học. Chính âm liên quan tới
vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Việc hiểu biết về
chính âm sẽ giúp ta xác định nội dung nói đúng, nói hay một cách có nguyên tắc.
Do đó, GV cần phải xác định chính âm chuẩn cho từng phương ngữ để rèn kĩ năng
nói trong giờ dạy tiếng Việt cho HS lớp 2.
8
Vấn đề chính âm liên quan đến nhiều vấn đề khác như chuẩn hóa ngôn ngữ,
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - mục đích của việc xây dựng chính âm.
Vấn đề đặt ra là phải giải quyết như thế nào những nét khác biệt trên bình diện
giữa các phương ngữ, một hiện tượng khách quan có liên quan trực tiếp đến việc
xác định chuẩn chính âm.
Những nét khác biệt
về phương ngữ
Bắc Bộ
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ và
Nam Bộ
Âm đầu tr, s, r
-
+
+
Vần ưu, ươu
-
+
+
Âm đầu v
+
+
-
Âm cuối t, n
+
+
-
Sáu thanh
+
-
-
Chính âm trong nhà trường phải đảm bảo những yêu cầu cụ thể sau:
- Phát âm đúng (cả âm lẫn thanh).
- Chú ý phân biệt các dấu hỏi, ngã, nặng.
- Chú ý phân biệt các cặp phụ âm đầu tr / ch, x / s, l / n, r / d / gi.
- Chú ý phân biệt các vần âu / iu, ây / ay, iêu / ươu, iu / ưu.
b, Vấn đề ngữ điệu và việc dạy rèn kĩ năng nói
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên
cao hay hạ thấp giọng nói, giọng đọc. Theo nghĩa rộng, ngữ điệu là sự thống
nhất của một tổ hợp các phương tiện siêu đoạn (siêu âm, đoạn tính) có quan hệ
tương tác lẫn nhau được sử dụng ở bình diện câu như cao độ (độ cao thấp của âm
thanh), cường độ (độ lớn, nhỏ, mạnh yếu của âm thanh), tốc độ (độ nhanh chậm,
ngắt nghỉ), trường độ (độ dài ngắn của âm thanh) và âm sắc. Ngữ điệu là yếu tố gắn
chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạo thành lời nói. Ngữ điệu được sử dụng để
biểu thị ý nghĩa và phạm trù ngữ pháp cũng như các sắc thái cảm xúc, biểu cảm.
Ngữ điệu có hai đặc điểm:
9
+ Ngữ điệu mang tính xã hội: đây là đặc trưng vốn có của các thành phần
tham gia cấu thành ngữ điệu, phần này mang tính bắt buộc, tính phổ quát.
+ Ngữ điệu mang tính cá nhân: có khả năng sáng tạo của người nói hoặc
đọc khi sử dụng ngữ điệu. Phần này mang tính nghệ thuật, tính cá nhân, gắn liền
với tình huống giao tiếp, có tác dụng bộc lộ cảm xúc, thái độ, nhận thức của
người nói và người đọc.
1.1.2. Lý thuyết văn bản, phong cách văn bản và việc rèn kĩ năng nói trong
giờ dạy tiếng Việt cho HS lớp 2
Văn bản mà HS tiểu học nói chung, HS lớp 2 nói riêng được học đều là
những văn bản mẫu mực về văn chương, về ngôn ngữ… Trong quá trình tiếp
xúc và được trực tiếp tìm hiểu những văn bản (những bài tập đọc), đã tạo điều
kiện để vốn kiến thức của các em ngày càng được mở rộng và ngôn ngữ văn học
cũng được phát triển. Khi dạy HS nói, GV cần hình thành cho HS kĩ năng nói
đúng, nói diễn cảm do đặc điểm ngôn ngữ của văn học mang tính hình tượng,
tính hàm xúc, tính đa nghĩa của văn chương. Vì thế, GV định hướng để HS
hướng tới cái hay, cái đẹp và biết rung cảm trước cái đẹp của văn chương. Có
như vậy mới không gặp phải những khó khăn khi dạy rèn kĩ năng nói và đạt kết
quả giao tiếp.
Sau mỗi bài, HS sẽ tự nhận thức thêm một mảng nhỏ về cuộc sống, tạo
điều kiện để các em mở rộng vốn sống, vốn hiểu biết của mình giúp các em phát
triển tư duy, óc sáng tạo.
Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả trong rèn kĩ năng nói ở tiểu học nói chung
và ở lớp 2 nói riêng cần phải được đẩy mạnh quan tâm hơn nữa.
1.1.3. Vai trò của rèn kĩ năng nói đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách trẻ em
1.1.3.1. Kĩ năng nói là một phương tiện giáo dục lao động
Con người được đánh giá cao nhất, trước tiên đó là một người lao động, một
người hoạt động và một người sáng tạo. Nhà sư phạm thiên tài người Nga
A.X.Makarencô cho giáo dục lao động là phương pháp chủ đạo trong hệ thống giáo
dục của mình. Ông nói: “Dạy lao động có sáng tạo là một nhiệm vụ đặc biệt của
giáo dục. Lao động chỉ có thể có được khi con người có lòng yêu thích công việc,
khi con người nhận thấy một cách có ý thức niềm vui trong lao động, khi lao động
trở thành một hoạt động cơ bản thể hiện nhân cách và tài năng con người. Thái độ
10
đối với lao động như vậy chỉ có thể có được khi con người hình thành được một
cách vững chắc thói quen nỗ lực lao động, khi con người yêu thích bất cứ một hình
thức lao động nào, nếu như hình thức đó có một ý nghĩa nhất định”.
Quan điểm trên đây của A.X.Makarencô hoàn toàn có thể áp dụng vào
việc rèn kĩ năng nói. Bởi vì, kĩ năng nói là một hoạt động lao động sáng tạo. Nó
đòi hỏi người ta phải vận động những cơ quan hô hấp, bộ máy phát âm, thị giác,
thính giác,… và huy động các chức năng tâm lí như: tư duy, trí tưởng tượng, để
có thể hình dung, nghe thấy, nhìn thấy, sáng tạo, phát triển những hình tượng
nghệ thuật chứa đựng trong tác phẩm và thể hiện nó trước người nghe, giúp
người nghe nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy, hiểu và thưởng thức những giá trị
phong phú chứa đựng trong tác phẩm.
1.1.3.2. Kĩ năng nói là một phương tiện giáo dục đạo đức, thẩm mĩ
Kĩ năng nói là một phần đầu của chương trình giáo dục thẩm mĩ, nhưng
giáo dục thẩm mĩ và giáo dục đạo đức bao giờ cũng gắn liền với nhau. Người
đọc cần phải chân thành rung cảm với nhà thơ những cảm xúc cao độ tràn ngập
tâm hồn nhà thơ.
Rèn kĩ năng nói giúp cho các em thêm yêu thích văn học và từ đó nảy
sinh ra ý muốn đọc thật diễn cảm tác phẩm nghệ thuật mình đã rung động. Hình
thành, phát triển khả năng hoạt động nghệ thuật là hình thành, phát triển những
kĩ năng cơ bản của trẻ em.
1.1.3.3. Kĩ năng nói là một phương tiện nâng cao trình độ ngôn ngữ nói
Trong chương trình giáo dục phổ thông, việc rèn kĩ năng nói gắn liền với
phần phát triển ngôn ngữ. Kĩ năng nói trở thành động lực phát triển tình cảm
ngôn ngữ và thính giác ngôn ngữ cho trẻ. Kĩ năng nói chính là hình thức,
phương tiện trực quan sinh động đối với sự phát triển của trẻ, đặc biệt là phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Kĩ năng nói bao giờ cũng gắn với việc đọc thuộc lòng và sau đó là kể
chuyện có nghệ thuật, có tác dụng làm phong phú và trau dồi ngôn ngữ nói cho
các em.
1.1.3.4. Kĩ năng nói là một phương tiện rèn thính giác ngôn ngữ
Trong hoạt động nói, cùng với người nói luôn luôn có người nghe tiếp thu
dòng ngôn ngữ. Chính bản thân người nói cũng tiếp thu lời nói của mình, nhưng
sự tiếp thu của người nói khác với sự tiếp thu của người nghe. Sự cảm thụ về nói
11
diễn cảm hay kể chuyện nghệ thuật là một quá trình phức tạp, trong đó có sự
tham gia của cơ quan thính giác, cơ quan thị giác, cơ quan phát âm, hệ thống tín
hiệu thứ nhất và thứ hai. Nhưng cơ quan thính giác vẫn chiếm địa vị ưu thế.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khảo sát thực trạng rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho HS lớp 2
1.2.1.1. Mục đích khảo sát
Khảo sát thực trạng các lỗi nói chưa đúng, chưa chuẩn thường mắc của
HS lớp 2; thực trạng dạy và học trong việc rèn kĩ năng nói trong giờ tiếng Việt,
để từ đó tìm hiểu và khảo sát nguyên nhân mắc lỗi nói của HS.
1.2.1.2. Nội dung khảo sát
Trong khóa luận, chúng tôi tiến hành khảo sát các nội dung sau:
- Tìm hiểu về SGK Tiếng Việt lớp 2
- Tìm hiểu về SGV Tiếng Việt lớp 2
- Tìm hiểu về việc áp dụng các TBDH trong giờ luyện nói
- Tìm hiểu về kĩ năng nói và khả năng nhận thức của HS
- Khảo sát thông qua giáo án Tiếng Việt 2 của GV
1.2.1.3. Phương pháp khảo sát
- Phương pháp dự giờ trực tiếp
- Phương pháp điều tra bằng phiếu
- Phỏng vấn trực tiếp GV và HS
- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
1.2.1.4. Đối tượng khảo sát
- Thực trạng của việc rèn kĩ năng nói của GV đối với HS trong giờ
tiếng Việt.
- Khảo sát GV dạy tiếng Việt lớp 2 và 116 HS khối lớp 2 (gồm 4 lớp).
1.2.1.5. Thời gian, địa điểm khảo sát
Chúng tôi thực hiện khảo sát tại trường Tiểu học Trần Phú - thị trấn Yên Thế
- huyện Lục Yên - tỉnh Yên Bái trong thời gian từ 18/2/2013 đến 05/4/2013.
12
1.2.2. Kết quả khảo sát
1.2.2.1. Chương trình SGK Tiếng Việt lớp 2
Chương trình và SGK Tiếng Việt cải cách ở lớp 2 được dạy học trong 33
tuần, SGK đều được in thành 2 tập (Tập 1 và Tập 2) và phân phối chương trình
như sau: Mỗi tuần học 4 tiết, mỗi tiết học 35 phút.
Chương trình Tiếng Việt mới, phân môn Tập đọc ở lớp 2 được học trong 31
tuần (không kể 4 tuần ôn tập), tất cả các bài tập đọc đều được phân bố xen kẽ
với các môn học khác. Ở lớp 2 có 15 chủ điểm, mỗi chủ điểm học trong 2 tuần
(riêng chủ điểm Nhân dân học trong 3 tuần).
Sách được xây dựng theo 2 trục là chủ điểm và kĩ năng, trong đó chủ điểm
được lấy làm khung cho cả cuốn sách. Còn kĩ năng được lấy làm khung cho
từng tuần, từng đơn vị học.
Môn Tiếng Việt lớp 2 bao gồm các phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính
tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Mỗi phân môn có nội dung chương
trình riêng và bố trí xen kẽ nhau trong từng bài học.
Sách bao gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với 1 chủ điểm, học trong 2
tuần (riêng chủ điểm Nhân dân học trong 3 tuần).
Chương trình Tiếng Việt lớp 2 gồm 35 tuần lễ. Mỗi tuần học 9 tiết, học kì I
gồm 18 tuần (162 tiết), học kì II gồm 17 tuần (153 tiết). Được chia làm 2 tập:
Sách Tiếng Việt lớp 2 tập I và Sách Tiếng Việt lớp 2 tập II.
Tập I tập trung vào chủ đề “Học sinh + Nhà trường + Gia đình” gồm 8 đơn
vị học, các chủ điểm có tên gọi như sau:
- Em là học sinh (tuần 1, 2)
- Bạn bè (tuần 3, 4)
- Trường học (tuần 5, 6)
- Thầy cô (tuần 7, 8)
- Ông bà (tuần 10, 11)
- Cha mẹ (tuần 12, 13)
- Anh em (tuần 14, 15)
- Bạn trong nhà (tuần 16, 17)
Tuần 9 dành để ôn tập giữa học kì I.
13
Tuần 18 ôn tập cuối học kì I.
Tập II tập trung vào chủ đề “Thiên nhiên + Đất nước” gồm 7 đơn vị học với
các chủ điểm sau:
- Bốn mùa (tuần 19, 20)
- Chim chóc (tuần 21, 22)
- Muông thú (tuần 23, 24)
- Sông biển (tuần 25, 26)
- Cây cối (tuần 28, 29)
- Bác Hồ (tuần 30, 31)
- Nhân dân (tuần 32, 33, 34)
Tuần 27 dành để ôn tập giữa học kì II.
Tuần 35 ôn tập cuối học kì II.
Chương trình và SGK Tiếng Việt mới có sự cụ thể, chi tiết hơn chương
trình và SGK Tiếng Việt cải cách. Số lượng chủ điểm nhiều hơn với những tên
gọi rất phong phú và hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý của HS. Các chủ điểm được sắp
xếp khá hợp lí và có nội dung phù hợp với trình độ nhận thức của các em. Đối
với lớp 2, chủ điểm học thường xoay quanh những lĩnh vực rất gần gũi với HS
như: Gia đình, Nhà trường, Thiên nhiên, Xã hội với nội dung ngắn gọn, dễ nhớ
rất thuận lợi cho việc rèn kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói cho HS lớp 2.
1.2.2.2. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2
SGV được cấu tạo 2 tập tương ứng với SGK (Tập 1 và Tập 2). Nội dung
chương trình SGV gồm 2 phần là phần hướng dẫn chung và phần hướng dẫn cụ thể.
Phần hướng dẫn chung là phần trình bày các mục tiêu, quan điểm dạy học,
biên soạn, nội dung, phương pháp dạy học tiếng Việt và hướng dẫn dạy học từng
phân môn cụ thể.
Phần hướng dẫn cụ thể là phần chủ yếu trình bày các bài hướng dẫn. GV có
định hướng soạn bài tương ứng với các bài học trong SGK, SGV.
Ngoài ra, GV còn có một số tài liệu dạy học khác như: Vở bài tập tiếng
Việt, trò chơi thực hành tiếng Việt. Những tài liệu này giúp HS luyện tập, thực
hành các kĩ năng: nghe - nói - đọc - viết phục vụ cho quá trình học tập.
SGV Tiếng Việt 2 bám sát chương trình SGK của HS, là tài liệu đóng vai
14
trò quan trọng giúp GV định hướng quá trình dạy - học của GV và HS nhằm
thực hiện việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của các tiết học.
1.2.2.3. Vận dụng các thiết bị dạy học vào việc rèn kĩ năng nói
a, Vai trò của thiết bị dạy học trong việc nâng cao chất lượng dạy và học
rèn kĩ năng nói
TBDH bao gồm các loại hình khác nhau như: tranh, ảnh, dụng cụ thí
nghiệm, băng ghi âm, phim, đèn chiếu… Mỗi loại hình TBDH phát huy tính
năng, tác dụng khác nhau trong quá trình dạy học. TBDH chính là công cụ lao
động của GV và học HS, chúng là những yếu tố không thể thiếu trong quá trình
dạy học. Với tư cách là công cụ lao động của GV và HS, trong từng trường hợp
sẽ được sử dụng đúng quy trình với đặc trưng bộ môn. TBDH đóng vai trò cung
cấp nguồn thông tin học tập, tạo ra nhiều khả năng để GV trình bày bài học một
cách xuất sắc, thuận lợi, hình thành cho HS những phương pháp học tập tích
cực, chủ động. Sử dụng TBDH trong quá trình dạy học là con đường kết hợp
chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng. Bằng hành động kết hợp với ngôn
ngữ bên trong (tư duy) phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS tiểu học, đặc
biệt là HS lớp 2.
Thực tế cho thấy, các phương pháp dạy học nếu được sự hỗ trợ của các
TBDH thì sẽ có kết quả cao hơn. Và cũng xuất phát từ thực tiễn này, các nhà
giáo dục dạy học đã coi hoạt động dạy học trong nhà trường là một hệ thống. Hệ
thống này có 4 yếu tố thống nhất với nhau:
+ Mục đích, nội dung, chương trình, nhiệm vụ dạy học.
+ Việc giảng dạy của GV với những phương pháp đặc trưng của môn học.
+ Hoạt động học tập của HS với những cách thức chiếm lĩnh kiến thức
dưới sự hướng dẫn, định hướng của GV.
+ Thiết bị dạy học.
Như vậy, bốn yếu tố có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo nên chất lượng
của quá trình dạy học.
Mục đích, nhiệm vụ của dạy học
Hoạt động giảng dạy của GV Hoạt động học tập của HS
Thiết bị dạy học
15
Có thể nói, quá trình dạy học ở tiểu học thường bắt đầu từ những hình ảnh
cụ thể của sự vật , hiện tượng. Trên cơ sở đó, hình thành các khái niệm.
Sử dụng các TBDH chính là con đường kết hợp giữa cái cụ thể và cái trừu
tượng bằng hành động vật chất và ngôn ngữ bên ngoài để chuyển thành ngôn ngữ
bên trong HS (kiến thức, tư duy) sao cho phù hợp với đặc điểm tiếp nhận.
Sử dụng TBDH phải coi trọng việc xây dựng cho HS biết quan sát một
cách có tổ chức, có kỷ luật, có sự suy nghĩ và biết ghi nhớ một cách hợp lí,
tưởng tượng đúng hướng và phong phú.
Chính vì vậy, sử dụng các TBDH chính là tạo điều kiện thuận lợi để GV
đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học và hoạt động theo hướng tích cực
hóa, cá thể hóa người học, phát huy hết được tài năng ở mỗi GV và tiềm năng ở
mỗi HS.
Sử dụng các TBDH còn góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học
nói chung, nó phát triển nhận thức, tư duy, trí tuệ, nhân cách cho HS.
b, Sử dụng hệ thống thiết bị dạy học trong việc rèn kĩ năng nói cho HS lớp
2 trong giờ tiếng Việt
Các TBDH gồm nhiều loại khác nhau: tranh, ảnh, mô hình, mẫu vật, biểu
bảng… Mỗi loại có một tính năng riêng. Có loại TBDH chủ yếu tác động vào thị
giác của con người (tranh, ảnh, bản đồ, biểu bảng, bộ chữ), có loại chỉ tác động
vào thính giác (băng ghi âm, đĩa ghi âm), có loại tác động đồng thời vào cả thị
giác và thính giác (phim, đèn chiếu, băng ghi hình, đĩa ghi hình), có loại tác
động vào nhiều giác quan khác nhau… Do đó, GV cần nắm vững tính năng, tác
dụng của từng thiết bị để sử dụng đúng cách, có hiệu quả.
Các thiết bị phổ biến:
+ Tranh, ảnh: là những tác phẩm nghệ thuật hội họa phản ánh hiện thực
bằng màu sắc, hình mảng, đường nét. Tranh, ảnh mô tả hiện thực bằng thông tin
hình tượng và ở trạng thái tĩnh tác động vào thị giác. Tranh, ảnh sử dụng nhiều ở
phân môn Học vần, Tập đọc, Kể chuyện.
+ Biểu bảng: là những bảng hệ thống hóa, liệt kê số liệu có đối chiếu để
trình bày vấn đề một cách có tính khái quát, tổng hợp. Biểu bảng giúp HS nắm
được những biểu hiện cụ thể của vấn đề một cách có hệ thống, thấy được quy
luật chung. Đồng thời cũng nắm được những biểu hiện cụ thể của đối tượng
nghiên cứu.
16
+ Bộ chữ cái: Gồm các chữ cái được in hai màu xanh, đỏ trên những tấm
nhựa trắng, cắt rời, dùng để hướng dẫn HS ghép vần, ghép tiếng tiếng Việt. Bộ
chữ có hai loại: Bộ chữ học vần biểu diễn dùng cho GV (có kích thước lớn, đảm
bảo cho HS toàn lớp có thể nhìn rõ khi GV hướng dẫn ghép âm, vần, từ khóa
trên bảng lớp) và Bộ chữ học vần thực hành dùng cho HS (có kích thước nhỏ
hơn, dùng cho HS thực hành ghép vần, ghép tiếng hoặc tham gia các trò chơi
học tập ở lớp hoặc ở nhà).
+ Thiết bị hiện đại: máy tính, máy chiếu, đĩa mềm, băng đĩa ghi âm (ghi
lại giọng đọc tác phẩm theo thể loại có tác dụng rèn kĩ năng đọc; ghi lại giọng
kể, có tác dụng lôi cuốn, hấp dẫn, kích thích HS hứng thú học tập, dễ tiếp nhận
được tính diễn cảm của ngôn ngữ văn chương, bồi dưỡng kĩ năng kể cho GV và
HS), ghi hình
Các em vừa chú ý xem, vừa lắng nghe để lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng
thực hành, tạo tâm thế chủ động, hứng thú, tích cực hơn trong học tập và rèn luyện.
+ Dụng cụ, thiết bị: bảng lớp, bảng con, bảng phụ, bảng gài chữ cái, bảng
nỉ, bảng gài nam châm…
Lưu ý: Các TBDH không phải là đối tượng trực tiếp thể hiện nội dung bài
học, mà nó có tác dụng chuyển tải nội dung thông tin bài học giúp GV giới thiệu
những kiến thức, những nội dung bài học cần truyền đạt tới cho HS.
1.2.2.4. Khả năng nói của học sinh
a, Hứng thú học tập của học sinh
Địa bàn khảo sát có 20 lớp với tổng số HS là 544 em, 100% đi học đúng độ
tuổi. Trong đó có 19 lớp bán trú. Khối lớp 2 gồm 4 lớp với 116 HS (29 HS / lớp).
Nghiên cứu thực trạng trẻ lớp 2 hiện nay có kiến thức, ý thức ra sao trong
giao tiếp hàng ngày cũng như sự bày tỏ quan điểm nhận thức của bản thân trước
những vấn đề mà trẻ phải tự bộc lộ bản thân qua những lời nói, lời phát biểu trả lời
theo nội dung bài học và sự giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở lớp.
Qua phân tích tổng hợp khả năng giao tiếp của HS, chúng tôi thống kê
chất lượng HS như sau:
17
Bảng 1: Thống kê khả năng nói - giao tiếp của 29 HS lớp 2A
năm học 2012-2013.
Khả năng
Số học sinh
Tỷ lệ %
Nói tốt
11 HS
37,9 %
Tạm được
12 HS
41,4 %
Chưa được
6 HS
20,7 %
Bảng 2: Thống kê khả năng nói - giao tiếp của 29 HS lớp 2B
năm học 2012-2013.
Khả năng
Số học sinh
Tỷ lệ
Nói tốt
9
31,0%
Tạm được
13
44,8%
Chưa được
7
24,2%
Để tìm hiểu mức độ hứng thú của HS trong các giờ học luyện nói, chúng tôi
đã đưa ra phiếu điều tra đối với 58 HS lớp 2A và 2B kết quả thu được như sau:
Bảng 3: Mức độ hứng thú với các giờ học luyện nói của HS
Mức độ
Có
Bình thường
Không
Số lượng
30
21
7
Tỉ lệ
51,7%
36,2%
12,1%
Bảng 4: Nhận thức của HS về tầm quan trọng trong việc luyện nói
Mức độ
Có
Không
Số lượng
54
4
Tỉ lệ
93,1%
6,9%
18
Bảng 5: Hứng thú của HS đối với việc sử dụng trò chơi trong các giờ học
luyện nói
Các trò chơi
Có
Không
Số lượng
56
2
Tỉ lệ
96,6%
3,4%
Bảng 6: Mức độ luyện nói ở nhà của HS
Mức độ
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không bao giờ
Số lượng
38
17
3
Tỉ lệ
65,5%
29,3%
5,2%
Kết quả khảo sát bằng phiếu điều tra cho thấy:
Đa số các em thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc luyện nói
trong học tập cũng như trong đời sống. Do vậy, các em đã có hứng thú và ý thức
khá cao với việc luyện nói trong giờ học tiếng Việt.
Qua việc khảo sát kết quả điều tra cho thấy:
Địa bàn nghiên cứu là thị trấn - khu vực kinh tế tương đối phát triển nên các
gia đình có điều kiện quan tâm và chăm lo cho quá trình học tập của HS. Chính vì
vậy, các em có những điều kiện tốt nhất để học tập và rèn luyện. Từ đó, các em có
được hứng thú và niềm đam mê với việc học tập và rèn luyện kĩ năng nói.
Hầu hết các em cảm thấy thích và hứng thú với việc luyện nói (51,7%).
Đó chính là lý do để các em có ý thức tự học và tự rèn luyện thường xuyên ở nhà
(65,5%). Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có số ít HS chưa có phương pháp học tập
đúng đắn, cũng như sự quan tâm chưa đúng mức từ phía gia đình nên việc luyện
nói với các em chưa thực sự được đề cao. Cụ thể, có 12,1% HS chưa có hứng thú
với việc luyện nói trong giờ học tiếng Việt và 5,2% HS không luyện nói ở nhà.
Chúng tôi cũng đã đặt ra một số câu hỏi với HS để khảo sát, làm rõ thêm
vấn đề mà chúng tôi quan tâm - việc rèn kĩ năng nói của HS.
Các câu hỏi đó như sau:
- Em có những sách gì phục vụ cho việc học - luyện nói ?