Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM cổ phần kỹ thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.43 KB, 111 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thị trường với cơ chế cạnh tranh đã và đang tạo ra sự phát triển ngày
càng đa dạng về chủng loại và hoàn thiện về chất lượng các loại hàng hóa, dịch vụ.
Thông qua cạnh tranh cả doanh nghiệp và người tiêu dùng đều được hưởng lợi, nền
kinh tế, xã hội ở mỗi quốc gia và thế giới đều phát triển. Đối với doanh nghiệp có
được ưu thế cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh tốt, doanh nghiệp sẽ có vị thế cao trên
thị trường, thu hút được nhiều khách hàng…phát triển bền vững, là cơ sở quan trọng
để có được lợi nhuận kinh doanh cao. Chính vì vậy các doanh nghiệp luôn hướng tới
mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh.
Trong bối cảnh hiện nay, tự do hóa tài chính, hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới không còn là sự lựa chọn của bất kỳ một quốc gia nào, mà là xu thế tất yếu bắt
buộc các quốc gia phải thực hiện để đưa nền kinh tế của quốc gia mình đi vào quỹ đạo
chung của kinh tế thế giới. Với Việt Nam tự do hóa tài chính là lựa chọn tất yếu trong
điều kiện thực hiện các cam kết hội nhập, đặc biệt các cam kết trong khuôn khổ WTO.
Việc gắn hội nhập kinh tế và tự do hóa tài chính với cải cách và nâng cao năng lực và
chất lượng hoạt động của khu vực tài chính trong một lộ trình thống nhất là việc làm
cần thiết, trong đó quan trọng nhất là năng lực của hệ thống ngân hàng. Bởi lẽ hệ
thống ngân hàng Việt Nam là trung tâm tài chính cốt lõi của nền kinh tế quốc gia, nó là
trọng tâm của việc thực thi các chính sách tài chính tiền tệ của Nhà nước, nhìn vào
thực trạng năng lực và hoạt động của hệ thống ngân hàng, ta có thể đánh giá được hiệu
quả của hệ thống tài chính và sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã có những thay đổi về chính sách giúp cho hệ
thống ngân hàng Việt Nam tiến gần đến điều kiện đủ cho thành công của quá trình hội
nhập và tự do hóa tài chính. Bản thân các ngân hàng cũng luôn nỗ lực, tuy nhiên, hệ
thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều yếu kém trên các mặt, thể hiện ở năng lực cạnh
tranh chưa thực sự mạnh so với các ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
Hiện tại và tương lai điều này sẽ đe dọa tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động của
các ngân hàng vì năng lực cạnh tranh của một NHTM là cơ sở cho hoạt động kinh
doanh hiệu quả và mức chịu đựng rủi ro cao. Do vậy, năng lực cạnh tranh của NHTM
phải không ngừng được nâng cao và hoàn thiện là điều kiện không thể thiếu ở bất cứ


một NHTM nào, trong đó có NHTMCP kỹ thương Việt Nam - Techcombank. Với
NHTMCP kỹ thương Việt Nam việc nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ là đòi hỏi
tất yếu của quá trình hội nhập và tự do hóa tài chính, mà còn là chiến lược, tầm nhìn
của ngân hàng nhằm tăng sức mạnh và khẳng định vị thế của ngân hàng trên thị
trường. Xuất phát từ nhận thức này tôi chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của
NHTM cổ phần kỹ thương Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình với mong
muốn đóng góp những ý kiến nhất định cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngân hàng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý thuyết về năng lực cạnh tranh của NHTM.
- Phân tích, đánh giá nhằm làm rõ thực trạng năng lực cạnh tranh của NHTMCP
Kỹ thương Việt Nam, những điểm mạnh và những hạn chế, nguyên nhân của những
hạn chế.
- Hình thành giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho
NHTMCP Kỹ thương Việt Nam phát triển bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của NHTMCP
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng năng lực cạnh tranh của NHTMCP Kỹ
thương Việt Nam giai đoạn 2004 – 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp với
các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, thống kê, thu thập và xử lý số liệu,
so sánh, biện luận…nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của đề tài
Tự do hóa tài chính đang diễn ra và có những tác động mạnh mẽ tới hoạt động
của ngành ngân hàng nước ta, đặt các ngân hàng vào thế tự chủ trong hoạt động kinh
doanh theo cơ chế của kinh tế thị trường với những áp lực cạnh tranh lớn từ phía các
ngân hàng nước ngoài, áp lực về các rủi ro thị trường...Điều này đòi hỏi các ngân hàng
phải có năng lực thực sự, thể hiện ở năng lực cạnh tranh vững mạnh. Chính vì vậy với
nghiên cứu này tôi mong muốn đóng góp cho NHTMCP Kỹ thương Việt Nam và các

NHTM khác những nhận thức nhất định về tính tất yếu phải nâng cao năng lực cạnh
tranh và một số những ý kiến về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngân
hàng, với mong muốn ngành ngân hàng Việt Nam hoạt động hiệu quả và ngày càng
vững mạnh.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và các danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 3 chương, như sau:
- Chương I: Tổng quan năng lực cạnh tranh của NHTM.
- Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của NHTMCP Kỹ thương Việt Nam.
- Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho NHTMCP Kỹ thương
Việt Nam.
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về NHTM
1.1.1. Khái niệm NHTM
Trong nghiên cứu có những cách tiếp cận khác nhau dẫn đến những khái niệm
khác nhau về ngân hàng:
- Theo Peter Rose trong cuốn “ Quản trị ngân hàng thương mại” thì: “Ngân hàng
là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ than toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”
- Theo từ điển tài chính ngân hàng thì: “NHTM là tổ chức chịu sự điều tiết về
luật lệ của một nước hoặc pháp luật của một nước và thuộc sở hữu của các cổ đông.
Ngân hàng có nhiệm vụ thu nhận tiền gửi, cấp tín dụng và một số loại dịch vụ tài chính
khác”
- Theo từ văn bản pháp luật gần đây nhất của Chính phủ Việt Nam: Điều 20
Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa: “NHTM là ngân hàng được
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan
vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.
Như vậy có thể hiểu NHTM là tổ chức tài chính trung gian chuyên hoạt động

kinh doanh tiền tệ với hoạt động chính là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác như:
bảo lãnh, bảo hiểm, mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá, môi giới chứng khoán, uỷ
thác và tư vấn đầu tư, quản lý ngân quỹ… Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, các
hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú, NHTM trở thành
một định chế tài chính trung gian đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân.
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM
1.1.2.1. Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn
Là nghiệp vụ hình thành nên vốn hoạt động của NHTM gồm các nguồn sau:
* Vốn điều lệ và các quỹ:
- Vốn điều lệ: Là nguồn vốn ghi trong điều lệ của ngân hàng và phải đạt mức
tối thiểu theo quy định của pháp luật. Vốn điều lệ của NHTM có thể tăng lên trong quá
trình hoạt động.
- Các quỹ của ngân hàng: Được hình thành từ nguồn lãi ròng hàng năm, khi
ngân hàng đã đi vào hoạt động, bao gồm các quỹ: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, các
quỹ dự phòng, quỹ đầu tư phát triển, và quỹ khác.
Vốn điều lệ và các quỹ được gọi là vốn tự có của ngân hàng, được xem là yếu
tố tài chính quan trọng cho thấy quy mô của ngân hàng.
* Nguồn tiền gửi: Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng
nguồn vốn kinh doanh của NHTM, gồm: tiền gửi tiết kiệm và thanh toán của khách
hàng, nguồn huy động thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá: kỳ phiếu, chứng
chỉ tiền gửi…
* Nguồn vốn đi vay: Để đáp ứng nhu cầu chi trả trong quá trình hoạt động,
NHTM có thể đi vay mượn từ ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng khác.
* Nguồn vốn khác: Vốn tiếp nhận từ ngân sách Nhà nước để thực hiện các
chương trình, dự án theo kế hoạch tập trung của Nhà nước, vốn tiếp nhận để cho vay
uỷ thác.
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
Thiết lập dữ trữ: Để đáp ứng nhu cầu mang tính thường xuyên của khách hàng

và bản thân ngân hàng, ngân hàng sử dụng một phần nguồn vốn lập các quỹ dự trữ
dưới hình thức: tiền mặt, tiền gửi tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác hoặc các
chứng khoán có tính thanh khoản cao…
Cấp tín dụng: Đây là hoạt động chính, sử dụng phần lớn nguồn vốn và tạo ra
thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, bao gồm các nghiệp vụ: Cho vay, chiết khấu thương
phiếu và chứng từ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán…
Đầu tư tài chính: NHTM sử dụng nguồn vốn ổn định để thực hiện các hình
thức đầu tư như góp vốn, liên doanh, mua cổ phần, chứng khoán và các giấy tờ có
giá…nhằm kiếm lời và chia sẻ rủi ro với nghiệp vụ tín dụng.
Sử dụng vốn cho các mục đích khác: mua sắm thiết bị, dụng cụ phục vụ cho
hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ sở, hệ thống kho bãi và các chi phí khác.
1.1.2.3. Nghiệp vụ trung gian
Là việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng để thu lệ phí hay các
khoản hoa hồng như: Dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ uỷ thác; dịch vụ thanh toán; quản lý
tài sản quý giá; kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ; mua bán hộ chứng khoán, phát
hành hộ cổ phiếu, trái phiếu; tư vấn về tài chính, đầu tư…
1.2. Năng lực cạnh tranh của NHTM
1.2.1. Cạnh tranh giữa các NHTM
1.2.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, khi có nhiều chủ thể
kinh tế cùng hoạt động trong một lĩnh vực và cùng hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận, cạnh tranh sẽ xảy ra trong đó những chủ thể này trở thành đối thủ của nhau.
Như vậy cạnh tranh xảy ra giữa nhiều chủ thể kinh tế có cùng mục tiêu hoạt động,
trong một môi trường kinh tế, xã hội, pháp luật.. cụ thể.
Đối với các NHTM, cạnh tranh là sự tranh đua giữa các ngân hàng thông qua
rất nhiều phương thức, yếu tố, hành động để giành phần thắng trên thị trường trong
việc thu hút khách hàng, mở rộng thị phần, xây dựng uy tín, thương hiệu…nhằm đạt
được mục tiêu lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng.
Các NHTM cạnh tranh với nhau trong tất cả các hoạt động: huy động vốn, cho
vay, cung cấp dịch vụ ngân hàng. Và đối thủ cạnh tranh của một NHTM là tất cả các

tổ chức kinh tế cung cấp sản phẩm dịch vụ giống với ngân hàng, chủ yếu là các
NHTM, tổ chức tín dụng khác và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
1.2.1.2. Đặc trưng cạnh tranh giữa các NHTM
- Đặc thù của môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng là các đối thủ
cạnh tranh có số lượng giới hạn và sự gia tăng hay giảm bớt số lượng này là rất khó
khăn và hạn chế, do việc cho phép một tổ chức được tham gia hoặc rút lui khỏi thị
trường dịch vụ ngân hàng đòi hỏi phải tuân thủ một quy trình kiểm soát chặt chẽ với
những điều kiện ngặt nghèo từ phía nhà nước, nhằm tránh cho nền kinh tế và công
chúng khỏi những tổn thất lớn do hoạt động yếu kém, không rõ ràng, minh bạch của
các tổ chức này mang lại và làm cho thị trường trở nên an toàn, lành mạnh hơn.
- Trong cạnh tranh các NHTM phải tuân theo các nguyên tắc, luật lệ thế giới:
Quá trình hội nhập đưa các hoạt động kinh tế thế giới theo một quỹ đạo chung trên cơ
sở các cam kết, hiệp định thương mại. Lĩnh vực ngân hàng rất nhạy cảm đối với nền
kinh tế của một quốc gia, phạm vi hoạt động và ảnh hưởng rộng trong khu vực và thế
giới, nên các NHTM muốn hoạt động lành mạnh và phát triển bền vững phải ký kết và
tuân thủ những nguyên tắc này.
- Công nghệ là nhân tố trung tâm của cuộc cạnh tranh giữa các NHTM: Cạnh
tranh giữa các NHTM đòi hỏi và chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở
tài chính, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng, có tính quyết định đối
với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Công nghệ đang làm thay đổi hàng ngày
phương thức hoạt động, mang lại nhiều cơ hội phát triển cho các NHTM. Các NHTM
phải thấy được hai khả năng công nghệ có thể là nhân tố giúp ngân hàng sử dụng tạo
lợi thế cạnh tranh riêng, mặt khác có thể giúp các đối thủ vuợt trước, dẫn đến nguy cơ
tụt hậu cho ngân hàng mình, để có chiến lược phát triển cho mình.
- Các NHTM cạnh tranh nhau gay gắt nhưng có sự hợp tác với nhau: Sự dễ
thay đổi của khách hàng trong quan hệ giao dịch và đặc điểm dịch vụ ngân hàng có
tính tương đồng, tính xã hội hóa và tính nhạy cảm cao là nguyên nhân làm cho cạnh
tranh giữa các NHTM trở lên quyết liệt. Mặt khác thị trường dịch vụ ngân hàng rất đặc
biệt, không ngân hàng nào có thể hoạt động bình thường nếu không có sự liên kết bình
đẳng và minh bạch với các đối thủ. Các điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ của

các ngân hàng đều có hạn trong khi nhu cầu về dịch vụ ngân hàng ngày càng cao đòi
hỏi các NHTM phải liên kết với nhau trong quá trình tác nghiệp. Đây là sự liên kết tự
nhiên, có tính quy luật và có thể dự báo trước. Trong điều kiện hội nhập sự hợp tác
giữa các NHTM sẽ càng được mở rộng cả về quy mô và chất lượng.
- Cạnh tranh giữa các NHTM phải hướng tới thị trường lành mạnh, tránh rủi ro
hệ thống: Hành vi cạnh tranh của các NHTM có tính nguy hiểm cao vì uy tín và lợi
ích, hoạt động của mỗi ngân hàng có ảnh hưởng mang tính dây truyền đến hệ thống
các quyền lợi khác nhau trong xã hội: người gửi tiền, người vay tiền, các ngân hàng, tổ
chức tín dụng khác. Đây là mối lo thường trực của cơ quan công quyền có chức năng
quản lí cạnh tranh ở mọi quốc gia, vì thế Nhà nước và các NHTM luôn hợp tác với
nhau vì mục tiêu tạo an toàn hoạt động cho toàn hệ thống.
- Cạnh tranh giữa các NHTM phụ thuộc nhiều vào môi trường bên ngoài: Lĩnh
vực kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, mặt khác các ngân hàng hoạt động trong một
môi trường nhất định ở đó có các đặc điểm kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội
riêng do đó trong cạnh tranh các NHTM sẽ chịu sự tác động từ các nhân tố trong môi
trường đó. Mỗi diễn biến thay đổi của các nhân tố này sẽ tác động nhanh chóng và
mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh và cạnh tranh của các ngân hàng.
- Các NHTM cạnh tranh trên cơ sở có sự can thiệp của ngân hàng Trung ương:
Trong thị trường dịch vụ ngân hàng, mặc dù Nhà nước khuyến khích sự cạnh tranh
nhưng vì mục tiêu giữ ổn định nền kinh tế và bảo vệ quyền lợi của công chúng, Nhà
nước có thể can thiệp vào quá trình cạnh tranh bằng việc thực thi những chính sách
đặc thù như chính sách tiền tệ hay chính sách kiểm soát đặc biệt. Sự can thiệp này có
thể khiến cho giới hạn cạnh tranh giữa các đối thủ trên thị trường dịch vụ ngân hàng có
phần bị thu hẹp, ảnh hưởng đến sự vận hành bình thường của quy luật cạnh tranh.
- Cạnh tranh giữa các NHTM chịu sự tác động của thị trường tài chính quốc tế:
Sự mở rộng quan hệ hợp tác và phạm vi hoạt động của các chủ thể kinh tế nói chung
và các NHTM nói riêng ra thị trường quốc tế làm cho hoạt động kinh doanh của các
NHTM chịu sự ảnh hưởng từ phía đối tác, đồng thời gắn chặt với các diễn biến về tỷ
giá, lãi suất...của thị trường tài chính quốc tế. Các NHTM phải có các chính kinh
doanh và cạnh tranh thích ứng với những diễn biến của thị trường tài chính quốc tế.

1.2.1.3. Nội dung cạnh tranh của các NHTM
* Cạnh tranh về chất lượng dịch vụ: Ngày nay, chất lượng hàng hoá là nhân
tố quan trọng nhất trong quyết định tiêu dùng của khách hàng. Các doanh nghiệp muốn
đạt mục tiêu kinh doanh phải nỗ lực nâng cao chất lượng hàng hoá. Hàng hoá mà
NHTM cung cấp là các dịch vụ ngân hàng, nên nâng cao chất lượng dịch vụ là nội
dung chính các ngân hàng sử dụng để tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ.
Công nghệ phát triển các ngân hàng đều có cơ hội để nâng cao chất lượng dịch vụ, và
khách hàng có nhiều thông tin, hiểu biết về dịch vụ ngân hàng nên nâng cao chất lượng
dịch vụ là nhân tố quyết định hướng khách hàng quan tâm, sử dụng dịch vụ của ngân
hàng, tạo ưu thế cạnh tranh. Đây là phương thức cạnh tranh lành mạnh và an toàn nhất
cho các NHTM.
Chất lượng dịch vụ ngân hàng do khách hàng sử dụng đánh giá chủ yếu trên các
mặt: sự đa dạng, các tiện ích đi kèm, tính nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi của
dịch vụ, thái độ phục vụ…Có nghĩa là để nâng cao chất lượng dịch vụ, ngân hàng phải
thực hiện những công việc để tạo ra những dịch vụ có các tính chất trên tốt hơn so với
đối thủ, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, các ngân hàng cũng cần
quan tâm tới tính độc đáo, riêng biệt của dịch vụ ngân hàng. Điều này đòi hỏi ngân
hàng phải tạo dựng được cơ sở công nghệ ngân hàng tốt, đội ngũ nhân lực ưu tú, kết
hợp chiến lược thị trường và chiến lược kinh doanh phù hợp, đúng lúc.
* Cạnh tranh về giá cả: Giá cả dịch vụ ngân hàng chính là lãi suất huy động
vốn, lãi suất cho vay, phí dịch vụ ngân hàng. Yếu tố giá cả, nhất là lãi suất tác động
mạnh đến tâm lý tiêu dùng của khách hàng, hơn nữa đây là lĩnh vực rất nhạy cảm, sự
dịch chuyển nhỏ của giá cả có thể tác động lớn tới quyết định sử dụng dịch vụ của
khách hàng. Do đó cạnh tranh về giá cả là nội dung cạnh tranh có thể tăng cường rất
tốt khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong việc thu hút khách hàng.
Trong việc xác định mức lãi suất và phí các NHTM phải đối mặt với mâu
thuẫn: nếu ngân hàng quan tâm tới khả năng cạnh tranh để mở rộng thị phần, thì các
mức lãi suất và phí phải thấp so với mặt bằng trên thị trường, điều này có nghĩa là thu
nhập của ngân hàng sẽ thấp, thậm chí thua lỗ. Ngược lại nếu ngân hàng chú trọng đến
thu nhập thì phải đưa ra mức lãi suất và phí cao đáp ứng được mục tiêu tăng thu nhập,

điều này lại dẫn đến mức giá cả không cạnh tranh. Trong khi đó mục tiêu của mọi tổ
chức kinh tế trong kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận, để đạt được điều đó cần tối thiểu
hoá chi phí và tối đa hóa thu nhập. Như vậy cạnh tranh về giá cả có nhiều hạn chế, vì
nó làm giảm bớt thu nhập của các ngân hàng.
* Cạnh tranh phát triển hệ thống phân phối: Nội dung cạnh tranh này là
việc các ngân hàng đẩy mạnh phát triển hệ thống kênh phân phối và các cách để tiếp
cận, thu hút khách hàng, bao gồm:
- Phát triển kênh phân phối truyền thống: mở rộng hệ thống các chi nhánh, đại
lý, tăng cường hợp tác với ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
- Phát triển kênh phân phối hiện đại: ATM, Home banking, Internet banking, E
Banking…các kênh phân phối hiện đại với ưu thế chi phí giao dịch thấp, tốc độ thực
hiện nhanh, đang dần trở thành xu hướng chung trong kinh doanh ngân hàng.
- Đẩy mạnh các hoạt động quảng cáo, giới thiệu, cung cấp thông tin về sản
phẩm ngân hàng đến với khách hàng. Thiết lập các kênh thông tin giúp khách hàng
tiếp cận và tìm hiểu về sản phẩm dịch vụ tài chính dễ dàng hơn.
Dịch vụ ngân hàng có đặc tính nhanh bão hoà, không thể lưu trữ nên việc xây
dựng các kênh phân phối rất quan trọng trong kinh doanh ở các NHTM, để nhanh
chóng tiếp cận, đưa dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng, giúp nắm bắt kịp thời
nhu cầu và phản ứng của khách hàng, nhằm chủ động hoàn thiện sản phẩm dịch vụ.
* Cạnh tranh về loại hình dịch vụ ngân hàng: Đa dạng hoá dịch vụ tạo ra
nhiều lựa chọn, thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng. Qua đó tạo cho ngân hàng lợi
thế cạnh tranh. Ngày nay kinh tế, xã hội phát triển nhu cầu dịch vụ ngân hàng gia tăng
nhanh chóng và thường xuyên thay đổi, đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng là nội dung
cạnh tranh bắt buộc các ngân hàng phải quan tâm.
* Cạnh tranh về công nghệ ngân hàng: Đây là nội dung cạnh tranh vô cùng
quan trọng, quyết định tính thành bại trong kinh doanh của một ngân hàng. Công nghệ
làm tăng năng suất lao động, giảm thiểu chi phí hoạt động cho ngân hàng, mặt khác
nâng cao chất lượng, tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ đa năng cung cấp cho khách hàng.
Vì thế các ngân hàng rất quan tâm đến vấn đề công nghệ của bản thân và đối thủ để có
chiến lược đầu tư phát triển hợp lý.

* Cạnh tranh về uy tín, thương hiệu: Các NHTM luôn cạnh tranh nhau về uy
tín, thương hiệu vì giữ được chữ tín, tạo dựng được lòng tin, thương hiệu mạnh trong
kinh doanh ngân hàng là những lợi thế rất lớn để giữ khách hàng cũ, thu hút khách
hàng mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
1.2.2. Năng lực cạnh tranh của NHTM
Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và
phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao
hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng, đồng thời đảm bảo hoạt động an toàn
và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi
trường kinh doanh.
Trong cạnh tranh những lợi thế NHTM đang có có thể thay đổi khi các đối thủ
không ngừng nỗ lực đổi mới, cải tiến để giành lợi thế cạnh tranh về phía mình. Do vậy
năng lực cạnh tranh của NHTM là một khái niệm động, bao gồm cả việc ngân hàng
phải liên tục duy trì và phát triển năng lực cạnh tranh.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM là nâng cao sức mạnh và lợi thế của
ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách
hàng để thu lợi ngày càng cao.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM nhằm mục đích tạo ra các dịch vụ
ngân hàng đa năng với giá cả cạnh tranh để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị trường
nhưng vẫn đảm bảo an toàn kinh doanh và đạt tỷ suất lợi nhuận cao. Đây là việc làm
thường xuyên của các NHTM để giành thế chủ động trong cạnh tranh, được coi là điều
kiện sống còn của các ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt của
ngành ngân hàng hiện nay.
1.2.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
1.2.3.1. Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của một NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng
vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đây là thước đo
sức mạnh của NHTM tại một thời điểm nhất định, đồng thời phản ánh tiềm năng, triển
vọng phát triển trong tương lai của ngân hàng, gồm các chỉ tiêu sau:
* Quy mô vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ bổ sung và
các tài sản khác. Quy mô vốn chủ sở hữu có thể thay đổi trong quá trình hoạt động của
NHTM.
Hoạt động ngân hàng gặp rất nhiều rủi ro do chịu tác động lớn từ môi trường
kinh tế và đối tượng khách hàng đa dạng, vốn chủ sở hữu là nguồn tài chính quan
trọng hàng đầu để chống đỡ các rủi ro. Đây là nguồn vốn quan trọng dùng để đánh giá
năng lực tài chính của ngân hàng vì nó cung cấp tài chính cho các hoạt động kinh
doanh của NHTM, quyết định sức mạnh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong
tất cả các hoạt động.
- Đối với hoạt động huy động vốn: vốn tự có lớn tạo niềm tin cho khách hàng
do có chức năng bảo vệ người gửi tiền nên được khách hàng lấy làm căn cứ khi lựa
chọn ngân hàng để gửi tiền, chỉ tiêu này càng lớn càng thu hút khách hàng gửi tiền.
- Đối với hoạt động cho vay và đầu tư: Quy mô vốn cho vay và đầu tư bị giới
hạn bởi các tỷ lệ về giới hạn tín dụng trong mối tương quan với vốn tự có, do đó vốn
tự có càng lớn, càng tăng khả năng cho vay của ngân hàng đối với nhiều đối tuợng
khách hàng và nhiều khách hàng lớn, đồng thời nó là cơ sở để khách hàng tin tưởng
vào năng lực cho vay và giải ngân của ngân hàng. Ngân hàng còn có thể đạt mức lãi
suất cho vay hợp lý, cạnh tranh nhờ vào lợi thế quy mô.
- Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng
khác: vốn chủ sở hữu là nguồn đầu tư công nghệ, trang thiết bị máy móc để phát triển
dịch vụ mới và tăng năng suất, tính nhanh chóng, hiệu quả, an toàn tiện cho các dịch
vụ ngân hang hiện tại tăng cường tính cạnh tranh của ngân hàng.
Mặt khác, vốn chủ sở hữu quyết định việc mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động
của ngân hàng. Vốn tự có còn được dùng xác định quy mô huy động vốn, các tỷ lệ giới
hạn tín dụng đối với khách hàng, các tỷ lệ về an toàn hoạt động để làm căn cứ quản lý
và kiểm soát hoạt động của các NHTM. Ở Việt Nam, các tỷ lệ này được quy định
trong luật ngân hàng sẽ được đề cập trong những phần sau. Trong xu thế hội nhập,
nâng cao tính cạnh tranh của vốn tự có là yêu cầu khách quan đối với mỗi NHTM để
đáp ứng các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng và mở rộng hoạt động ra
thị trường tài chính quốc tế.

* Chất lượng tài sản
Chất lượng tài sản nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh
lời và năng lực quản lý của NHTM, và được đánh giá bằng các chỉ tiêu sau:
Tổng tài sản sinh lời
- Tỷ lệ tài sản sinh lời trên tổng tài sản = 
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này nói hiệu quả sử dụng nguồn vốn vào các tài sản có sinh lời. Nhìn
chung tỷ lệ này càng lớn càng tốt, ngân hàng càng có thể có được nhiều nguồn thu, tuy
nhiên vì nó còn liên quan đến các rủi ro nên tỷ lệ này như thế nào là hợp lý nhất còn
phụ thuộc vào thực tế năng lực của mỗi ngân hàng.
- Tài sản của ngân hàng được thể hiện ở bên trái của bảng cân đối kế toán,
trong đó phần lớn tài sản tập trung ở khoản mục cho vay và đầu tư. Đây là phần tài sản
mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, đồng thời là tài sản có tính rủi ro cao
nhất. Vì vậy đánh giá chất lượng tài sản chủ yếu tập trung vào chất lượng của loại tài
sản này, chính là chất lượng hoạt động tín dụng, thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
Nợ quá hạn
+ Tỷ trọng nợ quá hạn = ———————
trên tổng dư nợ Tổng dư nợ
Theo quy định hiện nay của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nếu tỷ lệ nợ quá
hạn trên tổng dư nợ của một ngân hàng lớn hơn 5% thì ngân hàng đó được xem là có
chất lượng tín dụng kém.
Nợ quá hạn
+ Tỷ trọng nợ quá hạn = ————————
trên vốn chủ Vốn chủ sở hữu
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
+ Tỷ trọng nợ quá hạn không = ————————————————
có khả năng thu hồi Tổng nợ quá hạn
Ba chỉ số trên ở mức càng thấp càng tốt, phản ánh tình trạng hoạt động tín dụng
của ngân hàng tốt: nợ quá hạn, nợ không có khả năng thu hồi ở mức thấp cho thấy quy
trình cấp tín dụng và kiểm soát tín dụng của ngân hàng hiệu quả.

Ngoài ra còn có các chỉ tiêu: tỷ lệ nợ có tài sản đảm bảo, mức trích lập dự
phòng, mức độ tập trung và đa dạng hoá danh mục tín dụng. Ngược lại các chỉ tiêu
trên, những chỉ tiêu này càng cao càng tốt vì chúng đảm bảo cho việc cấp và thu hồi
các khoản vay của ngân hàng.
* Khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh và khả năng phát
triển của NHTM, qua đó phản ánh năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường
vì nó cho thấy năng lực hoạt động kinh doanh của ngân hàng so với các đối thủ. Để
đánh giá khả năng sinh lời của NHTM người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
+ Quy mô lợi nhuận sau thuế: là giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế của
ngân hàng trong một thời gian nhất định, thường là một quý, năm. Chỉ tiêu này càng
lớn càng tốt.
+ Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận: là chỉ tiêu cho biết tốc độ tăng trưởng lợi
nhuận của kỳ này so với kỳ trước. Tốc độ này càng cao càng tốt, chứng tỏ ngân hàng
hoạt động ngày càng hiệu quả.
+ Cơ cấu thu nhập: Cho biết thu nhập được hình thành từ nguồn nào, từ hoạt
động kinh doanh thông thường hay từ các khoản bất thường. Cơ cấu thu nhập trong đó
có tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động chính của ngân hàng lớn là cơ cấu tốt, phản ánh
tính ổn định của nguồn thu nhập và tính hiệu quả trong hoạt động.
+ Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản: ROA (Return on Assets): Tỷ lệ này cho biết
một đồng tài sản của ngân hàng có thể tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập.
Lợi nhuận ròng sau thuế
ROA = ——————————— x 100%
Tổng tài sản có bình quân
ROA thể hiện khả năng sinh lời trên tổng tài sản của NHTM và là thông số chủ
yếu về tính hiệu quả của công tác quản lý, cho thấy khả năng của hội đồng quản trị
trong quá trình chuyển đổi tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Do đó ROA
càng lớn càng tốt.
+ Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu – ROE (Return on Equity): Là thước đo
hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu, hay nói cách khác nó thể hiện thu nhập mà các cổ

đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng.
Lợi nhuận ròng sau thuế
ROE = ———————————— x 100
Vốn chủ sở hữu và các quỹ
Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời phán ánh năng lực cạnh tranh của NHTM vì
có năng lực cạnh tranh tốt ngân hàng mới giành được thắng lợi, tạo ra mức sinh lời
cao. Mặt khác NHTM có mức sinh lời cao có điều kiện tăng quy mô lợi nhuận giữ lại,
làm gia tăng vốn tự có để mở rộng mạng lưới giao dịch, nâng cấp công nghệ, phát triển
các hoạt động để duy trì và tăng cường khả năng cạnh tranh. Khả năng sinh lời cao
cũng là yếu tố để khách hàng tin tưởng và gửi tiền vào ngân hàng, tạo ra lợi thế cạnh
tranh cho ngân hàng trong những kỳ hoạt động tiếp theo.
Ngoài ra thu nhập của ngân hàng xuất phát từ hai nguồn chủ yếu là thu nhập từ
lãi và thu nhập ngoài lãi nên có thể tính các chỉ tiêu về mức sinh lợi trong mối tương
quan với chi phí. Với thu nhập từ lãi, có thể đo lường bằng các chỉ tiêu:
Thu nhập ròng từ lãi
+ Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên- NIM: NIM = ———————————
Tổng tài sản sinh lời
Đây là chỉ tiêu đo lường thu nhập lãi ròng trên một đồng tổng tài sản sinh lời,
phản ánh năng lực của hội đồng quản trị, ban lãnh đạo và cán bộ, nhân viên ngân hàng
trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu so với mức tăng chi phí. Do đó
được các NHTM quan tâm theo dõi để dự báo khả năng lãi thông qua việc kiểm soát
chặt chẽ tài sản sinh lời và việc tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp.
+ Chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra:
Thu từ lãi Tổng chi phí trả lãi
Chênh lệch lãi suất = ———————— - ———————————
đầu vào- đầu ra Tổng tài sản sinh lãi Tổng nguồn vốn phải trả lãi
Chênh lệch lãi suất đo lường khả năng thu lợi nhuận từ lãi và phản ánh hiệu quả
hoạt động trung gian của ngân hàng trong huy động và cho vay, đồng thời cũng đo
lường cường độ cạnh tranh trong thị truờng ngân hàng. Mức chênh lệch này càng lớn
càng đảm bảo khả năng thu nhập.

Đối với thu nhập ngoài lãi, là các thu nhập thu được từ các hoạt động cung cấp
dịch vụ, ủy thác, cho thuê…. đánh giá qua các chỉ tiêu:
+ Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên: MN – Non Interest Margin:
Thu ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi
MN = ———————————————
Tổng tài sản
+ Thu nhập cận biên trước các giao dịch đặc biệt – NRST: là chỉ tiêu phản ánh
khách quan khả năng sinh lời do đã loại bỏ các nguồn thu từ hoạt động bất thường.
Tổng thu nhập – Thu nhập bất thường
NRST = —————————————————
Tổng tài sản
Nhìn chung các chỉ tiêu về khả năng sinh lời gắn với chi phí phải đạt mức lớn
hơn 0 thì ngân hàng mới có lợi nhuận. Các chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, chứng tỏ
việc tối đa hóa thu nhập và tối thiểu hoá chi phí được ngân hàng thực hiện hiệu quả,
thể hiện ở mức chênh lệch giữa thu nhập và chi phí cao.
* Khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh. Tính an toàn
trong hoạt động kinh doanh về mặt tài chính là nhân tố quan trọng quyết định khả năng
cạnh tranh của NHTM.
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: Năm 1987, Hội đồng dự trữ liên bang Mỹ đại
diện cho Mỹ và đại biểu 11 quốc gia công nghiệp hóa hàng đầu tuyên bố hiệp định sơ
bộ về tiêu chuẩn vốn – Hiệp định Basel áp dụng đối với các ngân hàng, tổ chức tài
chính. Theo đó, mức độ an toàn của vốn được xác định qua hệ số CAR như sau:
Vốn chủ sở hữu
CAR = ——————————————————
Tổng tài sản có quy đổi theo mức độ rủi ro
Hệ số CAR theo hiệp định Basel tối thiểu phải đạt 8% mới tạo an toàn hoạt
động cho các NHTM. Ở Việt Nam Điều 4 mục 2, quyết định 457/2005/QĐ- NHNN
Về việc ban hành "Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức
tín dụng" quy định: Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy
trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản "Có" rủi ro.

Hệ số CAR chỉ ra mức tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu với tài sản rủi ro có thể đảm
bảo an toàn hoạt động cho ngân hàng. Tỷ lệ này lớn hơn 8% mức an toàn hoạt động
của ngân hàng cao, khi có rủi ro ngân hàng có khả năng gánh chịu được tổn thất, mà
không bị ảnh hưởng quá nặng dẫn đến nguy cơ phá sản. Tỷ lệ này càng cao càng tốt,
cho thấy năng lực tài chính của ngân hàng mạnh, tạo sự tin cậy cho khách hàng.
- Các chỉ tiêu về an toàn thanh khoản: Khả năng thanh khoản của ngân hàng
hiểu theo nghĩa rộng là tình trạng tiền mặt sẵn sàng chi trả và để gia tăng tài sản có vì
nhu cầu tiền mặt có từ 2 phía khách hàng gửi tiền và khách hàng vay tiền. Khi có
khách hàng lớn, an toàn đến vay mà ngân hàng không đủ tiền mặt để cho vay, khách
hàng có thể có suy nghĩ không tốt về khả năng tài chính và năng lực hoạt động hiện tại
của ngân hàng, làm giảm uy tín của ngân hàng. Hơn nữa tính thanh khoản thấp có thể
dẫn đến nguy cơ phá sản. Nên khả năng thanh khoản nói lên năng lực tài chính và khả
năng đảm bảo an toàn hoạt động của NHTM, thể hiện ở các chỉ tiêu sau:
+ Tỷ lệ dự trữ sơ cấp trong tổng tài sản. Dự trữ sơ cấp của ngân hàng thương
mại gồm tiền mặt, các khoản coi như tiền mặt và các khoản tiền gửi, đây là các tài sản
có tính thanh khoản cao nhất, do đó tỷ lệ này càng cao khả năng thanh khoản của ngân
hàng càng tốt.
+ Tỷ lệ dư nợ tín dụng /Tiền gửi của khách hàng: Hệ số này được duy trì ổn
định, không vượt quá 1 là dấu hiệu cho thấy khả năng thanh khoản của ngân hàng luôn
được duy trì. Tuy nhiên duy trì cụ thể ở mức nào còn phụ thuộc vào khả năng quản lý,
quản trị rủi ro và khả năng huy động của từng ngân hàng.
+ Tiền gửi của khách hàng/tổng nợ phải trả. Tỷ lệ này càng cao, khả năng thanh
khoản càng tốt vì lượng tiền gửi của khách hàng lớn sẽ đáp ứng được cầu thanh khoản
thường xuyên của ngân hàng.
Để duy trì an toàn thanh khoản ngân hàng cần phải duy trì các tỷ lệ về thanh
khoản ở mức phù hợp, tuy nhiên việc duy trì mức thanh khoản thế nào cần phải tính
đến sự hợp lý giữa việc đáp ứng cầu thanh khoản và việc sử dụng nguồn vốn một cách
tốt nhất vì tính thanh khoản liên quan trực tiếp đến tính sinh lời của NHTM. Điều này
đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có chiến lược quản trị, quản lý thanh khoản hợp lý trong
từng thời kỳ kinh doanh.

Ngoài ra có thể đánh giá định tính về khả năng an toàn thanh khoản của một
NHTM thông qua năng lực quản trị điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý thanh khoản,
và các trang thiết bị công nghệ phục vụ cho công tác quản lý thanh khoản.
- Các chỉ tiêu an toàn tín dụng: Cho vay là hoạt động có nhiều rủi ro nhất nên
các chỉ tiêu an toàn hoạt động tín dụng là các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức an
toàn hoạt động của NHTM. Chất lượng tín dụng tốt là cơ sở khẳng định tính bền vững
trong hoạt động của ngân hàng, tạo tính cạnh tranh cho ngân hàng trong việc thu hút
khách hàng vay vốn do tin tưởng ở khả năng cung cấp vốn và duy trì cung cấp vốn
trong quá trình giải ngân. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá an toàn tín dụng của một
NHTM là:
Dự nợ có tài sản đảm bảo
+ Tỷ lệ nợ có tài sản đảm bảo: = ———————————— x 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này phản ánh mức độ an toàn của khoản vay, tỷ lệ này càng cao mức an
toàn càng được đảm bảo. Vì khi có tổn thất xảy ra với các khoản vay thì các tài sản
đảm bảo sẽ được thanh lý để bù đắp thiệt hại cho ngân hàng.
Dư nợ quá hạn trong kỳ
+ Tỷ lệ nợ quá hạn: = ——————————— x 100%
Tổng dư nợ trong kỳ
Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh giới hạn an toàn hoạt động của ngân hàng, vượt quá
giới hạn này ngân hàng có nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản cao. Theo thông lệ quốc tế,
tỷ lệ này ở mức 5% sẽ đảm bảo an toàn, lành mạnh hoạt động tín dụng. Tỷ lệ này càng
thấp chất lượng tín dụng của ngân hàng càng tốt và ngược lại.
Nợ xấu trong kỳ
+ Tỷ lệ nợ xấu – NPL = ————————
Tổng dư nợ
Cũng như tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu càng thấp càng tốt.
Tóm lại trong hoạt động kinh doanh các NHTM phải luôn đảm bảo các chỉ số
về an toàn hoạt động ít nhất ở mức yêu cầu của pháp luật, là cơ sở duy trì và phát triển
hoạt động của ngân hàng một cách an toàn, bền vững.

1.2.3.2. Năng lực hoạt động
* Khả năng huy động: Hoạt động huy động vốn cung cấp nguồn vốn chủ yếu
cho các hoạt động sinh lời của ngân hàng. NHTM có khả năng huy động vốn tốt có
nhiều cơ hội để mở rộng quy mô kinh doanh, tăng lợi nhuận…do đó phán ánh năng
lực hoạt động, uy tín và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Các chỉ
tiêu phán ảnh khả năng huy động vốn của NHTM:
- Quy mô, thị phần và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của tiền gửi
thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và vốn vay
- Tính cạnh tranh của lãi suất huy động.
- Sự đa dạng hóa về kỳ hạn gửi
- Sự thuận tiện trong khi giao dịch
- Hiệu quả của các chương trình marketing.
- Cơ cấu nguồn huy động, nhóm nguồn và sự thay đổi cơ cấu
- Triển vọng phát triển các nhóm nguồn vốn huy động trong tương lai
Các chỉ tiêu kể trên càng cao thì quy mô nguồn vốn huy động được càng lớn,
tính ổn định cao là cơ sở để giảm lãi đầu vào, hạ lãi suất và mở rộng cho vay, đầu tư,
thực hiện các dịch vụ ngân hàng tăng thu nhập cho ngân hàng
* Khả năng cho vay và đầu tư: Phán ánh năng lực sử dụng vốn của ngân
hàng, thể hiện qua các chỉ tiêu định lượng và định tính sau:
- Quy mô, thị phần, tốc độ tăng trưởng hoạt động tín dụng, đầu tư: Đây là các
chỉ tiêu tuyệt đối và tương đối phán ánh mức độ mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Quy
mô và thị phần lớn hơn so với các kỳ trước, tốc độ tăng trưởng tín dụng, đầu tư cao,
đồng nghĩa với việc khả năng cho vay và đầu tư càng được mở rộng.
- Chất lượng tín dụng, khả năng kiểm soát rủi ro tín dụng: tỷ lệ nợ quá hạn trên
tổng nợ, tỷ lệ nợ có tài sản đảm bảo...nội dung này thể hiện khả năng thu hồi vốn, khả
năng luân chuyển nguồn vốn để duy trì năng lực cho vay với khách hàng cũ và mở
rộng cho vay đối với khách hàng mới.
- Mức độ đáp ứng nhu cầu vay vốn khác nhau của khách hàng như loại hình
cho vay, kỳ hạn, lãi suất, loại tiền, điều kiện cho vay, cách giải ngân, trả lãi…Mức độ
đáp ứng càng cao càng thu hút khách hàng, khả năng cạnh tranh càng lớn.

- Mức độ đa dạng hóa các ngành nghề, lĩnh vực cho vay và đầu tư.
- Quy mô, tốc độ tăng trưởng thu nhập từ hoạt động cho vay và đầu tư: Các chỉ
tiêu này càng lớn càng tốt, cho thấy hiệu quả hoạt động cho vay và đầu tư cao, mang
lại nguồn thu lớn cho ngân hàng.
Thu từ hoạt động cho vay và đầu tư chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng nguồn
thu của ngân hàng, nhưng là hoạt động rủi ro cao. Việc tìm kiếm, khai thác và lựa chọn
được nhiều khách hàng, lĩnh vực tốt để cho vay và đầu tư sẽ giúp hạn chế rủi ro, hơn
nữa mang lại thu nhập lớn, tăng cường khả năng cạnh tranh cho ngân hàng.
* Khả năng mở rộng và phát triển các sản phẩm dịch vụ: Mở rộng và phát
triển sản phẩm dịch vụ là việc tăng cường số lượng và chất lượng, khả năng tiếp cận
cho các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, phản ánh qua các mặt:
- Số lượng dịch vụ cung cấp: Kinh tế càng phát triển tính đa dạng của nhu cầu
về loại hình dịch vụ ngân hàng càng cao, việc tạo được nhiều sản phẩm dịch vụ đáp
ứng mức độ phát triển của nhu cầu sẽ tạo ra khả năng thu hút khách hàng và tăng thu
nhập cho ngân hàng. Do đó bên cạnh các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống,
các NHTM cần tập trung nghiên cứu và đưa ra các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới
đáp ứng nhu cầu khách hàng, và phù hợp với năng lực của ngân hàng.
- Chất lượng sản phẩm, thể hiện ở tính tiện ích, tính chính xác, tính nhanh
chóng và an toàn của sản phẩm dịch vụ. Chất lượng sản phẩm dịch vụ đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng sẽ thu hút được khách hàng đến giao dịch với ngân hàng.
- Giá cả dịch vụ: Giá cả cạnh tranh giúp đẩy mạnh việc thu hút và sử dụng sản
phẩm dịch vụ, mở rộng quy mô hoạt động dịch vụ của ngân hàng.
- Khả năng tiếp cận và thu hút khách hàng, thể hiện ở số lượng sở giao dịch, chi
nhánh, đại lý trong và ngoài nước; số lượng và hiệu quả các hoạt động marketing;
thông tin cung cấp cho khách hàng...Các yếu tố này hỗ trợ tích cực việc đưa dịch vụ
của NHTM đến với khách hàng. Mặt khác giúp nắm bắt nhu cầu, tiếp nhận chính xác,
nhanh chóng thông tin phản hồi của khách hàng để phát triển sản phẩm dịch vụ.
Hoạt động dịch vụ mang lại thu nhập lớn, đồng thời có độ rủi ro và chi phí thấp
do đó phạm vi và mức độ cạnh tranh ngày càng lớn, việc mở rộng và phát triển các sản
phẩm dịch vụ ngày càng được các NHTM quan tâm.

1.2.3.3. Năng lực quản trị, điều hành
* Cơ cấu tổ chức: Mô hình tổ chức phụ thuộc rất lớn vào quy mô và chức năng
hoạt động của ngân hàng, phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực phù hợp với quy
mô, trình độ quản lý của ngân hàng, phù hợp với đặc trưng cạnh tranh và yêu cầu của
thị trường. Sự phù hợp thể hiện ở sự phân chia phù hợp nhiệm vụ và quyền hạn của
các phòng ban chức năng, các bộ phận quản lý và tác nghiệp, các đơn vị trực thuộc,
vừa có tính liên kết, hỗ trợ và mức độ phối hợp giữa các bộ phận này trong việc triển
khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày và khả năng thích
nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến động. Cơ cấu tổ chức có khả năng phát
huy năng lực của đội ngũ cán bộ nhân viên cao sẽ giúp ngân hàng thực hiện hiệu quả
các công việc và tiết kiệm chi phí hoạt động.
* Cơ chế vận hành: Cơ chế vận hành của ngân hàng thể hiện ở cơ chế quản lý,
quy chế tổ chức, điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bao gồm hệ thống
các quy chế, quy trình nghiệp vụ của ngân hàng. Cơ chế vận hành tốt sẽ phát huy sức
mạnh tổng hợp của ngân hàng. Hệ thống các quy trình nghiệp vụ đầy đủ, thống nhất là
cơ sở để nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng.
* Năng lực của bộ máy lãnh đạo, cán bộ và nhân viên: Bộ máy lãnh đạo,
cán bộ và nhân viên là nhân tố kết nối các nguồn lực của ngân hàng, năng lực của họ
thể hiện ở các yếu tố: trình độ đào tạo, số năm kinh nghiệm, khả năng tự học tập, mức
thành thạo nghiệp vụ, động cơ phấn đấu, mức độ cam kết, tác phong làm việc...
Bộ máy lãnh đạo đề ra phương hướng hoạt động, quản trị, kiểm soát và điều
hành toàn bộ hoạt động của ngân hàng do đó hiệu quả hoạt động kinh doanh và triển
vọng phát triển của NHTM phụ thuộc chủ yếu vào năng lực của bộ máy lãnh đạo.
Trong điều kiện cạnh tranh, năng lực của bộ máy lãnh đạo càng được coi trọng hơn do
cơ hội của các NHTM là như nhau, sự phát triển của ngân hàng sẽ phụ thuộc nhiều
hơn vào tầm nhìn và khả năng nắm bắt cơ hội, đề ra chiến lược phù hợp của ban lãnh
đạo. Ngoài chỉ tiêu về trình độ, năng lực của bộ máy lãnh đạo còn thể hiện qua các yếu
tố: mức độ chi phối và khả năng giám sát của hội đồng quản trị; chất lượng và hiệu lực
thực hiện của các chiến lược kinh doanh; khả năng ứng phó với những thay đổi của thị
trường; sự tăng trưởng trong kết quả hoạt động kinh doanh...

Cán bộ, nhân viên ngân hàng là những người trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ
ngân hàng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng, thực hiện chiến lược,
định hướng của ban lãnh đạo ngân hàng. Vì vậy năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân
viên còn được phản ánh ở khả năng ứng phó xử lý các tình huống nhanh, đạo đức và
thái độ phục vụ, tác phong chuyên nghiệp, mức độ thành thạo nghiệp vụ...
1.2.3.4. Năng lực công nghệ
Công nghệ ngân hàng bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp như hệ
thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động và các hệ
thống trong nội bộ ngân hàng: hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ thống báo cáo các
rủi ro...Các hệ thống này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho
khách hàng cũng như khả năng quản lý, quản trị hoạt động của nhà quản lý ngân hàng.
Theo tính toán và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài, công nghệ thông tin có
thể làm giảm 76% chi phí hoạt động ngân hàng. Do đó công nghệ là nhân tố quan
trọng phản ánh năng lực cạnh tranh của NHTM, thể hiện qua các mặt sau:
* Khả năng trang bị công nghệ mới: Với tốc độ phát triển nhanh của công
nghệ ngân hàng, sự bùng nổ thông tin, và mức độ thay đổi thường xuyên nhu cầu dịch
vụ ngân hàng trong nền kinh tế, công nghệ hiện tại không đủ khả năng cung cấp thông
tin, công cụ phục vụ công tác quản lý, điều hành và phát triển dịch vụ sẽ làm mất đi cơ
hội kinh doanh của ngân hàng. Vì thế, năng lực công nghệ phải bao gồm khả năng đổi
mới các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật, kinh tế và trang bị công nghệ mới, hiện
đại, thể hiện ở mức đầu tư về vốn, nhân lực cho phát triển công nghệ, các kế hoạch
chiến lược trong việc tập trung nguồn lực phát triển công nghệ mới.
* Mức độ đáp ứng của công nghệ ngân hàng đối với nhu cầu của khách
hàng và nhu cầu quản lý của ngân hàng: Thể hiện ở số và chất lượng các công cụ,
các báo cáo, các thông tin mà công nghệ thực hiện phục vụ cho công tác quản trị, quản
lý cho ngân hàng. Và số, chất lượng các dịch vụ được tạo ra từ hệ thống công nghệ
hiện tại của ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu về dịch vụ ngân hàng của khách hàng.
Ngân hàng sở hữu một cơ sở công nghệ tốt và biết phát huy tối đa chức năng của công
nghệ đó khả năng cạnh tranh sẽ được tăng cường mạnh mẽ.
* Tính liên kết và độc đáo của công nghệ: Do đặc tính phải đổi mới, chi phí

đổi mới rất cao và ảnh hưởng của công nghệ rất lớn đến hoạt động kinh doanh nên
không NHTM nào có thể ngay lập tức thay thế toàn bộ công nghệ cũ bằng công nghệ
mới. Điều này đòi hỏi công nghệ cũ và mới phải có tính liên kết cao để giảm thiểu chi
phí và rủi ro trong quá trình cải tiến, đổi mới mà vẫn phát huy được tính năng của công
nghệ mới. Ngoài ra các ngân hàng cần đầu tư phát triển, trang bị những công nghệ độc
đáo nhằm tạo sự khác biệt cho sản phẩm dịch vụ để thu hút khách hàng.
1.2.4. Lý thuyết kinh tế học về phân tích năng lực cạnh tranh của các NHTM
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung, của các NHTM nói riêng
phải được phân tích, đánh giá trong môi trường hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, bao gồm môi trường vĩ mô bên ngoài doanh nghiệp, môi trường cạnh tranh
ngành và môi trường nội bộ doanh nghiệp.
Hình 1.1: Mô hình phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
- Môi trường vĩ mô: Đây là những nhân tố khách quan trong môi trường hoạt
động của ngân hàng, nằm bên ngoài và không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
ngân hàng. Những nhân tố này chủ yếu tác động qua việc tạo ra các cơ hội và thách
thức cho NHTM, bao gồm yếu tố: chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội, công nghệ.
- Môi trường cạnh tranh ngành: Đây cũng là những nhân tố bên ngoài NHTM,
song tác động của nó lên hoạt động của ngân hàng trực tiếp, nhanh và mạnh mẽ hơn,
chính vì vậy tạo áp lực cạnh tranh rất lớn cho ngân hàng, bao gồm đối thủ tiềm ẩn, đối
thủ cạnh tranh hiện tại, nhà cung cấp, khách hàng, và các sản phẩm thay thế.
MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ
Môi Môi
trường trường
pháp công
luật nghệ

Môi
trường
kinh
tế Môi

trường
Môi quốc
trường tế
văn
hóa
MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH NGÀNH
Đối Đối
thủ thủ
tiềm hiện


ẩn tại

Các
Khách
sản
hàng phẩm

thay
thế
Nhà cung cấp
MÔI TRƯỜNG NỘI BỘ
- Năng lực tài chính
- Bộ máy tổ chức và nguồn nhân lực
- Công nghệ
- Năng lực quản trị, điều hành
- Uy tín, thương hiệu
- Văn hóa doanh nghiệp
…..
- Môi trường nội bộ ngân hàng: Đây là những nhân tố chủ quan thuộc về nội tại

của NHTM, bao gồm: loại hình ngân hàng; cơ cấu tổ chức; năng lực điều hành; các
nguồn lực tài chính, công nghệ, nhân lực; danh tiếng và uy tín của NHTM.
Năng lực cạnh tranh của NHTM trước hết được tạo ra, xây dựng và phát triển
từ những yếu tố nội tại của ngân hàng. Những yếu tố này ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của NHTM thông qua việc quyết định quy mô hoạt động, khả năng phát
triển dịch vụ, đối tượng khách hàng, các chính sách đường lối phát triển. Ngân hàng
không thể thu hút và thực hiện tốt việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng nếu không
dựa vào các nhân tố này. Ngân hàng là ngành dịch vụ phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro
nên đòi hỏi rất cao về các điều kiện mang tính nhân tố nhân lực, tri thức, năng lực
quản trị, điều hành, công nghệ, vốn…chính là những yếu tố nội tại của ngân hàng nên
việc xác định đúng các nhân tố này trong cạnh tranh sẽ giúp ngân hàng phát huy được
thế mạnh, chủ động khắc phục yếu kém để tiến hành kinh doanh hiệu quả.
1.2.4.1. Mô hình PEST trong phân tích môi trường vĩ mô ảnh hưởng tới năng
lực cạnh tranh của NHTM
Hình 1.2: Mô hình PEST

Khi phân tích các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô có ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh của NHTM, người ta thường sử dụng mô hình PEST. PEST là tập hợp
những chữ đầu tiên của các từ tiếng Anh Political – Chính trị, luật pháp, Economics –
Kinh tế, Sociocultrural – Văn hóa, xã hội và Technological – Công nghệ. Đây là mô
hình kinh tế học hiện đại nghiên cứu các tác động của môi trường vĩ mô lên năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung, của các NHTM nói riêng, các doanh nghiệp
dựa vào những phân tích này để hoạch định chiến lược kinh doanh phù hợp.
(Yếu tố chính trị, pháp luật)
(Yếu tố kinh tế)
(Yếu tố văn hóa, xã hội)
(Yếu tố công nghệ)
- Yếu tố chính trị, pháp luật: NHTM là một chủ thể có ảnh hưởng lớn đến nền
kinh tế, do đó các NHTM trước hết phải chịu sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật.
Thể chế pháp luật và hệ thống pháp luật tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh

và cạnh tranh của NHTM ở tất cả các mặt từ các điều kiện thành lập, các quy định hoạt
động, đến các chính sách phát triển ngành, các ưu đãi... Mặt khác hệ thống pháp luật
mặt khác tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các NHTM bằng
cách tạo khung pháp lý để phát triển môi trường cạnh tranh, đảm bảo lợi ích chính
đáng và hợp pháp của các ngân hàng, ngăn chặn và xử phạt hoạt động cạnh tranh
không lành mạnh...Những điều này tạo ra cơ hội hay thách thức cho các ngân hàng làm
gia tăng hay kìm hãm khả năng cạnh tranh, trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả cạnh tranh
của ngân hàng.
- Yếu tố kinh tế: Tình trạng nền kinh tế, đặc biệt các yếu tố kinh tế vĩ mô: tỷ
giá, lạm phát, lãi suất, tăng trưởng GDP…tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực đến
tất cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại, dịch vụ trong nền kinh tế, do đó
ảnh hưởng đến khả năng huy động và cho vay, đầu tư, phát triển dịch vụ của NHTM,
qua đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của các ngân hàng.
- Yếu tố văn hóa, xã hội: Các yếu tố thuộc môi trường xã hội tác động tới năng
lực cạnh tranh của NHTM là: lòng tin của dân chúng với các ngân hàng, thói quen tiêu
dùng, tiết kiệm của người dân; trình độ dân trí, khả năng hiểu biết các dịch vụ ngân
hàng, mức thu nhập của người dân, các quan điểm và tinh thần kinh doanh, đạo đức
nghề nghiệp…Những đặc điểm đó tác động đến ngân hàng ở hai mặt là cầu và cung
đối với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng và chất lượng nguồn nhân lực.
- Yếu tố công nghệ: Môi trường công nghệ có tác động lớn tới hoạt động của
NHTM vì công nghệ là nhân tố quan trọng tạo nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật để các ngân
hàng thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ cho khách hàng, quản lý và bảo mật thông
tin, giám sát và cảnh bảo rủi ro...Sự phát triển của công nghệ có thể mở ra nhiều cơ hội
cho các NHTM ứng dụng vào hoạt động kinh doanh, giúp ngân hàng giành ưu thế
trong cạnh tranh. Nếu không nắm bắt được công nghệ ngân hàng sẽ nhanh chóng bị tụt
hậu, làm suy yếu năng lực cạnh tranh.
Ngoài ra, người ta còn mở rộng thêm yếu tố hội nhập vào mô hình PEST, yếu
tố này tác động xuyên suốt với cả 4 yếu tố trên. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã
gắn các hoạt động kinh tế, bao gồm cả hoạt động của ngân hàng với các diễn biến
trong nền kinh tế thế giới. Có nghĩa là mọi hoạt động của một NHTM ở một quốc gia

có thể bị ảnh hưởng bởi mọi diễn biến, tình hình kinh tế, chính trị và xã hội trên thế
giới. Sự ổn định của môi truờng quốc tế là điều kiện cho các NHTM mở rộng và phát
triển các hoạt động kinh doanh quốc tế, nâng cao thu nhập.
1.2.4.2. Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Michael E. Porter trong phân
tích môi trường ngành của NHTM
Để phân tích môi trường cạnh tranh ngành, người ta thường sử dụng mô hình
năm lực lượng cạnh tranh của Michael E. Porter – Mô hình này là công cụ hữu hiệu để
đánh giá áp lực cạnh tranh cũng như năng lực cạnh tranh thực sự của doanh nghiệp,
bao gồm 5 yếu tố: Đối thủ tiềm ẩn, đối thủ cạnh tranh hiện tại, Nhà cung cấp, khách
hàng, các dịch vụ thay thế.
Hình 1.3: Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Michael E. Porter
- Đối thủ cạnh tranh hiện tại: Năng lực cạnh tranh của một NHTM ảnh hưởng
lớn bởi các hoạt động và chiến lược kinh doanh của đối thủ bởi nó là nguy cơ trực tiếp
làm giảm thị phần hoạt động, chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng bằng việc thu
hút khách hàng và nhân viên của ngân hàng. Số lượng đối thủ cạnh tranh càng nhiều,
năng lực của các đối thủ và mức độ phát triển của ngành càng cao ngân hàng càng gặp
Mối đe dọa của
những đối thủ mới
Quyền lực Quyền lực
của người của người
cung ứng mua
Mối đe dọa từ các
sản phẩm thay thế
Các đối thủ
cạnh tranh tiềm ẩn
Cạnh tranh trong
ngành
Cạnh tranh giữa
các đối thủ
hiện tại

Người


cung
ứng
Khách
hàng
Sản phẩm
thay thế

×