Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Giải pháp hạn chế nợ quá hạn tại chi nhánh ngân hàng Hằng Hải Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361 KB, 76 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tín dụng là hoạt động chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản ,là
hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng thương mại.Đi kèm
với hoạt động này là rủi ro tín dụng trong đó nợ quá hạn luôn tồn tại song hành
với quá trình hoạt động của các ngân hàng,ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng.Vì thế mục tiêu lớn nhất mà các ngân hàng thương mại đặt ra là tăng
trưởng tín dụng đi kèm với phát triển an toàn bền vững.Chỉ tiêu quan trọng
phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng là tỷ lệ nợ quá hạn.Việc ngăn
ngừa và hạn chế nợ quá hạn được xem là vấn đề cấp bách đối với nền kinh tế
nói chung,đối với các ngân hàng thương mại cũng như đối với các doanh
nghiệp nói riêng.Việc nền kinh tế duy trì tỷ lệ nợ quá hạn cao thực chất cho
thấy sự suy giảm của hệ thống tài chính,phản ánh chất lượng tín dụng,đầu tư
của nền kinh tế thực sự không có hiệu quả.Hệ thống ngân hàng có hoạt động
lành mạnh mới phục vụ hiệu quả cho sự phát triển kinh tế,ngược lại sự thiếu an
toàn dẫn đến phá sản một ngân hàng sẽ có nguy cơ kéo theo sụp đổ hàng loạt
các ngân hàng,các doanh nghiệp phá sản,khủng hoảng tài chính…Và thực tế
là,nền kinh tế thế giới nói chung va Việt Nam nói riêng đang ở trong giai đoạn
của khủng hoảng.Nguyên nhân bắt đầu từ sự sụp đổ của các ngân hàng,tập
đoàn tài chính lớn của Mỹ.Bài học đặt ra là làm sao ngăn ngừa và hạn chế nợ
quá hạn.Tuy nhiên,việc xử lý nợ quá hạn trong hoạt động ngân hàng thực sự
khó khăn và chưa làm triệt để,dứt điểm.Vì vậy đề tài “Hạn chế nợ quá hạn tại
chi nhánh ngân hàng Hằng Hải Đống Đa” sẽ xem xét thực trạng công tác xử lý
nợ quá hạn cũng như đề ra một số phương pháp nhằm hạn chế nợ quá hạn tại
chi nhánh.
Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp gồm ba chương:
Chương 1:Tổng quan về nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
Chương 2:Thực trạng nợ quá hạn tại chi nhánh ngân hàng Hằng Hải Đống
Đa 2007-2009
Chương 3:Giải pháp hạn chế nợ quá hạn tại chi nhánh ngân hàng Hằng Hải
Đống Đa


Để hoàn thiện đề tài này,em đã nhận được sự giúp đỡ quí báu của cô giáo
THS.Lê Thị Tuấn Nghĩa.Bên cạnh đó,trong thời gian thực tập,em cũng được sự
chỉ bảo nhiệt tình của các cô chú,anh chị cán bộ tại Chi nhánh ngân hàng Hằng
Hải Đống Đa.
Em xin chân thành cảm ơn và mong tiếp nhận được sự chỉ bảo của thầy
và các anh chị ngân hàng.

CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ NỢ QUÁ HẠN TRONG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỢ QUÁ HẠN
1.1.1.Chất lượng tín dụng
1.1.1.1.Khái niệm chất lượng tín dụng:
Trong bất cứ nền kinh tế nào,doanh nghiệp muốn đứng vững trong hoạt
động kinh doanh thì việc phải cải thiện chất lượng tín dụng là điều tất
yếu.Trong ba yếu tố:chất lượng,giá cả và lượng hàng bán thì chất lượng yếu tố
quan trọng nhất vì chất lượng được nâng lên,giá thành sẽ hạ,đảm bảo thỏa mãn
cho khách hàng cả về chất lượng ,giá cả,tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh
thị trường.Các nhà kinh tế nói đến chất lượng bằng nhiều cách:Chất lượng là
“Sự phù hợp với mục đích hoặc sự sử dụng” là “Một trình độ dự kiến trước về
độ đồng đều và tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường” hoặc theo
hội chuẩn hóa pháp (tiêu chuẩn NFX50-104) thì chất lượng là năng lực của một
sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thỏa mãn những nhu cầu của người sử
dụng.Từ những quan niệm chất lượng có thể hiểu:
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng(người gửi tiền
và người vay tiền ) phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng.
Như vậy đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng phải được thực hiện ở
ba góc độ.
*Đối với Ngân hàng thương mại:Phạm vi,mức độ,giới hạn tín dụng phải
phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh

trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
*Đối với khách hàng:Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng
vốn của khách hàng,với lãi suất và kỳ hạn hợp lý,thủ tục đơn giản,thuận
tiện,thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
*Đối với sự phát triển kinh tế-xã hội:Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu
thông hàng hóa,góp phần giải quyết công việc làm,khai thác khả năng tiềm tàng
trong nền kinh tế,thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất,giải quyết tốt
mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu
có thể tính toán được kết quả kinh doanh,nợ quá han…)vừa trừu tượng (thể
hiện qua khả năng thu hút khách hàng,tác động đến nền kinh tế…).
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp,nó phản ánh mức độ thích
nghi của Ngân hàng Thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài,nó
thể hiện sức mạnh của Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng xác định qua nhiều yếu tố:Thu hút được khách hàng
tốt,thủ tục đơn giản,thuận tiện đơn giản mức độ an toàn của vốn tín dụng,chi
phí tổng thể về lãi suất,chi phí nghiệp vụ…
Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có,nó là kết quả của một qui trình
kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức giữa các tổ chức với nhau
vì mục đích ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt qui trình quản lý chất lượng.
Vậy để có chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và
quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt
động.Hay nói cách khác chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và tin cậy
trong hoạt động tín dụng.Hiểu đúng bản chất,chất lượng tín dụng phân tích và
đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như chính xác các nguyên
nhân của những hạn chế chất lượng,sẽ giúp cho Ngân hàng tìm được biện pháp
quản lý thích hợp để có thể đững vững trong nền kinh tế thị trường hoạt động
sôi nổi và có tính cạnh tranh gay gắt.
1.1.1.2.Các chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng:Chỉ tiêu đánh giá chất lượng
tín dụng vừa có chỉ tiêu mang tính định tính vừa có chỉ tiêu mang tính định

lượng.Cụ thể:
1.1.1.2.1.Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ nợ phần trăm giữa NQH và tổng dư nợ của Ngân
hàng thương mại ở một thời điểm,nhất định,thường là cuối tháng của một
quí,cuối năm.
Xét về mặt bản chất,tín dụng là sự hoàn trả,do đó tính an toàn(khả năng
hoàn trả của người vay) là yếu tố quan trọng nhất để cấu thành chất lượng tín
dụng.Khi khoản vay không được hoàn trả đúng hạn như đã cam kết,mà không
có lý do chính đáng thì nó vi phạm nguyên tắc tín dụng quan trọng nhất của
Ngân hang và nó bị chuyển sang người quan hệ với mức lãi suất cao hơn lãi
suất bình thường.Trên thực tế,phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ
có vấn đề,có khả năng mất vốn có nghĩa là tính an toàn thấp.
Trong nền kinh tế thị trường,rủi ro trong hoạt động kinh doanh là do
khách quan và chủ quan nên rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi,tỷ lệ nợ quá
hạn thấp bảo đảm sự phát triển của Ngân hàng thương mai.Song nếu một Ngân
hàng thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh
vì vậy có nguy cơ mất vốn và đây là điều tệ hại dẫn đến mất khả năng thanh
toán và giảm thu nhập.Ngân hàng Thương mại nào có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị
đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp,đây là chỉ tiêu hiện nay thường được sử
dụng khi phân tích đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
Trên thực tế các ngân hàng thương mại luôn cố gắng hạ đến mức thấp nhất
tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ này mà dưới 3% là có thể coi là chấp nhận được.Tỷ lệ
này được tính theo công thức sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn= (Nợ quá hạn/tổng dư nợ).100%
Chỉ tiêu này cao chứng tỏ tín dụng của Ngân hàng là thấp,khi nợ quá hạn
mà tính đến trên 1 năm thì khoản nợ đó được coi là khoản nợ khó đòi.
1.1.1.2.2.Nợ xấu
Chỉ tiêu về nợ xấu trên tổng dư nợ=Nợ xấu/tổng dư nợ
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống
đốc NHNN ban hành qui định về phân loại nợ,trích lập và sử dụng dự phòng để

xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng thì:
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm:3,4,5 qui định tại điều 6 và điều 7
qui định này.Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín
dụng của tổ chức tín dụng.
*Nhóm 3(Nợ dứoi tiêu chuẩn) bao gồm:
+Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
+Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn đã được cơ cấu lại.
+Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo qui định tại khoản 3
và 4 điều này.
*Nhóm 4(Nợ nghi ngờ) bao gồm:
+Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
+Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời gian
đã cơ cấu lại.
+Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo qui định tại khoản 3
và 4 điều này.
*Nhóm 5(Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
+Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
+Cac khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
+Các khoản nợ cơ cấu loại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời
gian đã cơ cấu lại.
+Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo qui định tại khoản 3
và 4 điều này.
Đây là chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động tín dụng nói riêng và của
Ngân hàng nói chung.Hệ số này càng lớn thì khả năng thu hồi vốn của Ngân
hàng càng thấp,Ngân hàng sẽ gặp rất nhiều rủi ro.Trong trường hợp này vì cả
vốn và lãi cho vay đều không thu hồi được trong khi vốn và lãi đi huy động vẫn
phải trả.Theo qui định thì chất lượng hoạt động tín dụng được coi là an
toàn,hiệu quả và tốt khi tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ bé hơn 3%
Chỉ tiêu về nợ xấu trên nợ quá hạn=nợ xấu/nợ quá hạn

Tỷ lệ này có thể cung cấp một cái nhìn về khoản vay có khả năng bị mất
và các khoản vay bị mất thực sự của Ngân hàng thương mại,cung cấp một cái
nhìn về mối tương quan giữa số vốn cho vay bị mất trong tổng số vốn cho vay
ra bình quân.Tỷ lệ này có thể dùng để so sánh các thời kỳ khác nhau để xem
xét như là một phần trăm của chất lượng dư nợ cho vay là tăng hay giảm.
1.1.1.2.3.Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng là một chỉ tiêu thường được các Ngân hàng
Thương mại tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín
dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng,giải
quyết hợp lý giữa 3 lợi ích:Nhà nước,khách hàng và Ngân hàng.Công thức tính
vòng quay vốn tín dụng được xác định như sau:
Vòng quay vốn tín dụng=doanh số thu nợ/dư nợ bình quân
Hệ số này phản ánh vòng chu chuyển của vốn tín dụng(thường là 1
năm).Hệ số này càng tăng phản ánh hình thức tổ chức quản lý vốn tín dụng
càng tốt,chất lượng tín dụng càng cao và ngược ại.
1.1.1.2.3.Hiệu quả sử dụng vốn
Một trong các chỉ tiêu khi xem xét và đánh giá chất lượng tín dụng của
Ngân hàng thương mại là chỉ tiêu cơ cấu vốn đầu tư,việc phân tích cơ cấu vốn
đầu tư chính là việc xem xét đánh giá tính tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả
năng đáp ứng của bản thân ngân hàng cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế
chưa.Trên cơ sở đó,các ngân hàng có thể quyết định qui mô,tỷ trọng đầu tư vào
các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa đảm bảo an toàn vốn cho vay vừa để thu
lại lợi nhuận cao nhất.
Căn cứ vào các chỉ tiêu trên,hàng quí,năm các Ngân hàng thương mại
phân tích đánh giá để xác định mức độ an toàn và chất lượng tín dụng của hệ
thống.Qua đó,Ngân hàng thương mại có cơ sở để chỉ đạo Ngân hàng thương
mại nâng cao chất lượng tín dụng trong từng khâu,từng mặt nghiệp vụ hoặc có
các biện pháp bắt buộc cụ thể đối với Ngân hàng Thương mại trong hoạt động
tín dụng.
1.1.2.Khái niệm “Nợ quá hạn”

Trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài nguồn vốn tự có
của mình,các doanh nghiệp phải sử dụng một nguồn vốn bên ngoài,đó là vốn
vay của các ngân hàng thương mại.Đây là nhu cầu vay vốn rất cần thiết nhằm
đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh
doanh một cách bình thường.Tùy đặc điểm và tính chất hoạt động của từng loại
hình doanh nghiệp,việc sử dụng vốn vay ngân hàng thương mại cũng có sự
khác nhau.Thông thường các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại-dịch vụ
sử dụng vốn vay ngân hàng nhiều hơn các doanh nghiệp thuộc khu vực sản
xuất.
Về phía ngân hàng thương mại,nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng theo
nguyên tắc đi vay để cho vay.Như vậy,việc phát sinh nhu cầu vay vốn ngân
hàng của các doanh nghiệp và vấn đề cho vay vốn của ngân hàng đối với các
doanh nghiệp là một tất yếu khách quan diễn ra thường xuyên trong quá trình
thực hiện mọi hoạt động kinh doanh cả về phía doanh nghiệp và ngân hàng
thương mại.
Doanh nghiệp vay vốn ngân hàng và ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn
được thực hiện bằng những cam kết thỏa thuận theo những nội dung đã ấn định
phù hợp với các nguyên tắc tín dụng.Mỗi khoản cho vay được xác định một
thời hạn trả nợ nhất định.Thời hạn trả nợ là bao nhiêu,ngắn hay dài là do đặc
điểm của vốn vay tham gia vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn của
doanh nghiệp.
Về nguyên tắc,trong phạm vi thời hạn nợ qui định khi đến hạn trả
nợ,doanh nghiệp vay vốn phải có trách nhiệm hoàn trả nợ gốc và lãi cho ngân
hàng thương mại.Nếu thực hiện đúng nguyên tắc này thì cả doanh nghiệp và
ngân hàng coi như thực hiện đúng cam kết,vốn cho vay của ngân hàng thương
mại được thu hồi để sử dụng vòng luân chuyển khác.Doanh nghiệp trả nợ hết
ngân hàng và thực sự vốn vay này đã giúp doanh nghiệp hoàn thành nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh của mình,nhìn chung là rất tốt cho doanh nghiệp,cho ngân
hàng và cho cả nền kinh tế.Nhưng thực tế lại không diễn ra suôn sẻ như vậy,có
nhiều doanh nghiệp không trả được nợ và lãi cho ngân hàng khi nợ đã đến hạn

trả.Trong trường hợp này,ngân hàng thượng mại không thu hồi được vốn và
lãi .Người ta gọi đó là nợ quá hạn.Như vậy,nợ quá hạn được hiểu một cách tổng
quát là:Đó là một khoản nợ mà người đi vay đến hạn phải trả cho ngân hàng
thương mại cả vốn và lãi theo cam kết,nhưng không trả được cho ngân hàng.Nợ
quá hạn có tác dụng xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn.Riêng
đối với ngân hàng thương mại,nợ quá hạn là biểu hiện của rủi ro tín dụng,có thể
gây cho ngân hàng rủi ro đọng vốn(khách hàng chậm trả),hoặc rủi ro mất
vốn(khách hàng không trả được vốn)
1.1.3.Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn
Có rất nhiều nhân tố gây ra nợ quá hạn của ngân hàng,có thể chia làm ba
nhóm nguyên nhân chủ yếu,đó là:
1.1.3.1.Nhóm nguyên nhân thuộc về ngân hàng thương mại
Tăng trưởng tín dụng luôn đi kèm với nguy cơ phát sinh nợ quá hạn vì vậy
vấn đề đặt ra với ngân hàng thương mại là tăng qui mô tín dụng đồng thời đảm
bảo được an toàn tín dụng.Tuy nhiên có tình trạng các ngân hàng tăng doanh số
cho vay bằng cách cấp tín dụng ồ ạt,không có chọn lọc làm nợ quá hạn phát
sinh cao gây nên tổn thất cho ngân hang,nguy hiểm hơn có thể dẫn tới nguy cớ
phá sản.Rủi ro có thể phát sinh từ chính bản thân ngân hàng thương mại do các
nguyên nhân sau:
Qui trình tín dụng chưa tốt:Các ngân hàng thương mại muốn thực hiện có
hiệu quả hoạt động tín dụng nhất thiết phải xây dựng qui trình tín dụng đầy
đủ,đồng bộ và khoa học.Cán bộ tín dụng căn cứ vào qui trình tín dụng để thực
hiện cấp tín dụng cho khách hàng.Thiếu rõ ràng,hợp lí trong các bước của qui
trình tín dụng sẽ dẫn đến tình trạng cán bộ tín dụng làm sai,lợi dụng sơ hở để
móc ngoặc với khách hàng gây nên tổn thất cho ngân hàng.Qui trình tín dụng
phải thống nhất đồng bộ giữa các bưóc thực hiện,có như thế công tác phân
tích,kiểm tra đánh giá khách hàng mới đạt hiệu quả cao.Qui trình cho vay
không hợp lý sẽ tạo cho ngân hàng những khó khăn sau cho vay đó là:do công
tác kiểm tra xét duyệt phương án sản xuất kinh doanh của khách hang có thể bị

bỏ qua,hồ sơ về tài sản bảo đảm không đầy đủ có thể dẫn tới tình trạng nợ quá
hạn phát sinh,ngân hàng không có đủ cơ sở pháp lý để xử lý TSBĐ dễ xảy ra
tranh chấp với khách hàng,Khách hàng có thể tận dụng những sơ hở trong qui
trình tín dụng để làm giả giấy tờ,qua mắt cán bộ tín dụng lừa đảo và chiếm
dụng vốn của ngân hang.Khi những rủi ro xẩy ra,ngân hàng sẽ gặp rất nhiều
khó khăn trong việc thu hồi vốn vay từ khách hàng.
Chính sách tín dụng chưa hợp lý:Trước hết,ở tầm quản lý,ban quản trị
ngân hàng phải đưa ra được một chính sách cho vay phù hợp với thực tế.Bởi
chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân
hàng.Chính sách đưa ra đồng bộ,thống nhất,đầy đủ nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế-xã hội của hoạt động tín dụng nếu không sẽ dẫn đến việc cấp tín dụng
không đúng đối tượng,tạo ra khe hở cho người sử dụng vốn,như vậy sẽ không
đem lại hiệu quả kinh tế,dẫn đến rủi ro tín dụng-NQH.Chính sách tín dụng phải
phù hợp nguồn vốn và mục đích của ngân hàng thương mại.Ngân hàng có chủ
trương cho vay trung và dài hạn trong khi qui mô vốn nhỏ,vốn huy động từ dân
cư chủ yếu là vốn ngắn hạn sẽ dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán khi
khách hàng không trả được lãi và nợ gốc đúng hạn cho ngân hàng.Ngân hàng
có thể có cơ chế khá thông thoáng trong chính sách cho vay có đảm bảo,tài sản
đảm bảo có giá trị thấp có thể được cấp mức tín dụng cao,xẩy ra tình trạng
khoản vay không đảm bảo nhưng vẫn được cấp tín dụng…Tất cả các nguyên
nhân xuất phát từ chính sách tín dụng không hợp lý đều dẫn tới nguy cơ phát
sinh nợ quá hạn.NHTM đều phải chú trọng xây dựng chính sách tín dụng đồng
bộ,phù hợp với thực tế hoạt động của ngân hang để có thể hạn chế NQH phát
sinh.
Hạn chế của cán bộ tín dụng:Chất lượng cán bộ kém,không đủ trình độ
đánh giá khách hang hoặc đánh giá không tốt,cố tình làm sai…là một trong
những nguyên nhân của rủi ro tín dụng.Nhân viên ngân hang phải tiếp cận với
nhiều ngành nghề,nhiều vùng,thậm chí nhiều quốc gia,để cho vay tốt họ phải
am hiểu khách hang,lĩnh vực mà khách hang kinh doanh,môi trường mà khách
hàng sống.Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay…

Như vậy họ cần phải được đào tạo và đào tạo kĩ lưỡng,liên tục và toàn diện.Khi
nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu
kỹ lưỡng,rủi ro tín dụng luôn rình rập họ.Sống trong môi trường tiếp xúc nhiều
với đồng tiền,nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ,họ tiếp
tay cho khách hàng rút ruột ngân hang.Như vậy,chất lượng nhân viên ngân
hang bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân
của rủi ro tín dụng-NQH.
Công nghệ ngân hàng chưa cao:Công nghệ ngân hang có thể kể đến ở đây
là quá trình thu thập thông tin khách hang,xử lý thông tin,ra quyết định về thời
hạn cấp tín dụng,chu kì trả nợ…Thực trạng nền kinh tế diễn biến phức tạp,ngân
hàng không nhanh nhạy nắm bắt và xử lý thông tin có thể gây ra tình trạng
ngân hàng cho vay những khoản vay kém chất lượng và vì thế nguy cơ phát
sinh nợ quá hạn là rất cao.Hoặc các ngân hang thương mại tính toán thời hạn và
chu kì trả nợ đối với khách hang không hợp lý,thời hạn trả lãi không phù hợp
với vòng luân chuyển vốn làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách
hàng không thuận lợi vì thế khả năng trả nợ đúng hạn cho khách hàng bi giảm
đi.Biện pháp thu hồi và xử lý nợ cũng thuộc về yếu tố công nghệ của ngân
hang,ngân hàng có chính sách kiểm tra giám sát,đôn đốc thu hồi nợ không tốt
dẫn đến tình trạng khách hang có thể chây ì,chiếm dụng vốn và không trả nợ
cho ngân hàng,ngân hàng gặp phải rủi ro phát sinh nợ quá hạn.
1.1.3.2.Nhóm nguyên nhân thuộc về khách hàng
Khách hàng không thể trả được nợ:Trong điều kiện phát triển như hiện
nay,rủi ro trong kinh doanh là rất dễ xảy ra,do thi trường luôn biến động cộng
vào đó là sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt.Khi khách hang được phép vay một
khoản để thực hiện một phương án sản xuất kinh doanh hay một dự án đầu tư
đối với khách hàng là doanh nghiệp hoặc để tiêu dùng đối với khách hàng là cá
nhân,thì phần chi phí để trả cho ngân hang được trích từ lãi mà dự án này thu
được hoặc các khoản thu nhập của cá nhân ,ở đây chúng ta chủ yếu xét khách
hang là các doanh nghiệp.Như vậy,chất lượng của khoản tín dụng phụ thuộc và
tính khả thi của dự án.Cũng có nghĩa là bất kì một rủi ro nào trong quá trình sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp(đang sử dụng vốn ngân hàng) cũng đều ảnh
hưởng xấu đến khả năng trả nợ ngân hàng của khách hàng.Tính rủi ro trong
công việc kinh doanh của doanh nghiệp cũng có thể do việc triển khai dự án
đầu tư sản xuất kinh doanh không khoa học,chưa thực hiện kỹ càng xác
thực.Các số liệu về mức tiêu thụ sản phẩm trên thị trường,chất lượng nguyên
vật liệu đầu vào,các yếu tố cấu thành nên giá thành sản phẩm chưa đầy
đủ.Ngoài ra,cũng có thể có nguyên nhân bất khả kháng,ngoài ý muốn,gây nên
tình trạng khó khăn trong làm ăn,mang lại rủi ro cho doanh nghiệp và điều đó
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ ngân hàng ở các mức độ khác
nhau.Nếu giá cả của nguyên vật liệu đầu vào tăng do khan hiếm hay do môt lí
do nào khác mà doanh nghiệp không thể không tiến hành sản xuất,như vậy sẽ
đẩy giá thành của mỗi đơn vị sản phẩm tăng lên,trong khi đó giá bán sản phẩm
trên thị trường không thay đổi sẽ làm cho tổng doanh thu giảm xuống lợi nhuận
thu được từ dự án cũng giảm so với kế hoạch.Còn nếu như tăng giá bán sản
phẩm để bù đắp phần chi phí tăng them thì sẽ làm cho việc tiêu thụ gặp khó
khăn,khả năng thu hồi vốn chậm,dễ dàng vi phạm việc trả nợ ngân hang về mặt
thời hạn.Sự biến động của thị trường đầu ra cũng gây nên khó khăn cho khách
hàng trong việc trả nợ ngân hàng.Nếu kế hoạch sản xuất của dự án sản xuất
kinh doanh không thể thực hiện một cách kỹ lưỡng,chính xác thì sẽ làm nảy
sinh hai vấn đề gây rủi ro trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,bởi nền
kinh tế thị trường là nền kinh tế rất nhạy cảm.Thứ nhất,nếu khối lượng sản
phẩm sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu thị trường tiêu thụ,gây nên tình
trạng ứ đọng hàng hóa,hậu quả là vốn bị ứ đọng do khả năng thu hồi vốn
chậm.Thứ hai,nếu chất lượng sản phẩm kém,không đáp ứng được nhu cầu ngày
càng cao của khách hàng cũng gây nên tình trạng ứ đọng vốn do không bán
được hàng.Nếu doanh nghiệp phải bán với giá thấp hơn giá trị của hàng
hóa,cộng them chi phí quảng cáo,chi phí bảo quản,sửa chữa…như vậy sẽ càng
làm tăng them rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp và việc trả nợ ngân
hang đúng thời hạn khó mà thực hiện được.
Khách hang không muốn trả nợ:Nhu đã biết,đối với loại khách hàng này

thường họ có ý muốn lừa đảo,chiếm đoạt tài sản của ngân hàng ngay từ khi
lập hồ sơ vay vốn,họ làm mọi cách để che mắt cán bộ tín dụng.Do vậy,ngân
hàng rất dễ gặp rủi ro nếu như không có biện pháp hợp lý và khi đó NQH phát
sinh là điều chắc chắn.Trường hợp còn lại,người vay kinh doanh có lãi song
vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn.Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt
nợ,hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt làm phát sinh nợ quá hạn cho ngân
hàng.
1.1.3.3.Nguyên nhân khách quan bất khả kháng
Sự thay đổi chính sách vĩ mô của nhà nước:Để thực hiện quản lý vĩ mô
nền kinh tế,Chính phủ thông qua hệ thống chính sách,văn bản pháp luật điều
chỉnh sự thay đổi nền kinh tế cho phù hợp với chủ trương đường lối đề
ra.Những thay đổi này có thể tác động trực tiếp đến cả ngân hang lẫn hoạt động
sản xuất kinh doanh của khách hang,vượt qua tầm kiểm soát của người vay lẫn
người cho vay.Những thay đổi này thường xuyên xẩy ra,tác động lien tục tới
người vay,tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay.Nhiều người vay,với bản
lĩnh của mình có khả năng dự báo,thích ứng hoặc khắc phục những khó
khăn.Trong trường hợp khác,người vay co thể bị tổn thất song vẫn có khả năng
trả nợ cho ngân hàng đúng hạn,đủ gốc và lãi.Tuy nhiên khi tác động của những
nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề,khả năng trả nợ của
họ bị suy giảm dẫn đến phát sinh nợ quá hạn cho ngân hang.
Thảm họa tự nhiên:thiên tai hay chiến tranh là vấn đề nghiêm trọng nếu
xẩy ra với nền kinh tế.Hoạt động của ngân hang có thể bị đình trệ,tinh hình san
xuất kinh doanh của khách hang gặp nhiều khó khăn có thể dẫn tới phá sản làm
cho khả năng trả nợ cho khách hàng vì thế cũng giảm đi.Nó là nguyên nhân
thuộc nhóm bất khả kháng nên khi gặp phải ngân hang cùng với khách hang
nên thống nhất,cùng chia sẻ rủi ro làm sao tổn thất xẩy ra được hạn chế.
1.1.4.Tác động của nợ quá hạn tới hoạt động của ngân hàng thương mại
NQH có tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại cũng như hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
1.1.4.1.Tác động của NQH đối với ngân hàng thương mại

NQH luôn luôn là mối nguy hiểm tiền ẩn cho các NHTM,nó ấp ủ từ khi
giải ngân nhưng sau khi cho vay ít nhất từ 6 tháng đến 12 tháng,NQH mới phát
sinh.NHTM xử lý NQH rất phức tạp nhất là khi bên vay cố ý lừa đảo ngay từ
khi lập hồ sơ xin vay vốn.
Nếu NQH của một NHTM chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ,thì NHTM
đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn.Khó khăn đối nội:NHTM giảm thu nhập dẫn đến
thu nhập của cán bộ công nhân viên thấp,nộp ngân sách Nhà nước không hoàn
thành,không có lợi nhuận sau thuế để thiết lập quĩ khen thưởng và phúc lợi cua
NHTM.
NQH phản ánh chất lượng tín dụng của một ngân hàng và nếu quá lớn đó
là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của ngân
hàng.Tuy nhiên,ảnh hưởng của nó không phải chỉ trong phạm vi hệ thống ngân
hàng mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế,bởi NHTM là trung gian cung
ứng vốn cho nền kinh tế,luân chuyển tiền tệ cho nền kinh tế,tạo sự phát triển ổn
định cho nền kinh tế.Chính vì vậy mà mọi thành phần kinh tế rất quan tâm đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng đặc biệt là ảnh hưởng của NQH.
NQH cao không được kiêm soát tốt sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn do
nợ quá hạn phát sinh khi khách hàng không trả được nợ vay ngân hang tại thời
điểm đáo hạn.Như vậy,cũng có nghĩa là một phần vốn của ngân hang bị lãng
phí do bị tồn đọng trong các khoản nợ.Việc tồn đọng này làm cho ngân hang
mất đi cơ hội kinh doanh kiếm lời khác.Hơn nữa,nợ quá hạn còn làm giảm
vòng quay vốn của ngân hàng.
Vòng quay vốn tín dụng=doanh số thu nợ/số dư nợ bình quân
Doanh số thu nợ có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với số dư nợ bình quân.Nếu
doanh số thu nợ càng cao thì sẽ làm cho số dư nợ bình quân giảm.Hay nói cách
khác,NQH phát sinh làm cho doanh số cho vay giảm,từ đó làm giảm hiệu quả
sử dụng vốn.
Hoạt động tín dụng tạo ra cho ngân hang tới 80%-85% thu nhâp,mà nguồn
vốn của ngân hàng chủ yếu được huy động từ bên ngoài với chi phí huy động
lớn,để bù đắp cho khoản chi phí này,ngân hàng phải lấy từ thu nhập của những

khoản cho vay.Do vậy nếu khoản cho vay không thu hồi được dẫn đến một bộ
phận tài sản của ngân hàng bị đóng băng trong khi các khoản chi phí hoạt động
vẫn phải chi trả,vậy NQH đã làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.Bên cạnh đó
nếu tài sản của ngân hang bị đóng băng sẽ làm giảm dư nợ tín dụng,giảm khả
năng thanh toán.
Nếu khoản vay của khách hang bị xếp vào NQH thì ngân hàng sẽ áp dụng
mức lãi suất NQH cao hơn mức lãi suất thường.Vậy tại sao các NHTM luôn
phải hạn chế thấp nhất tình trạng này trong khi có thể kiếm được khoản thu
nhập tốt từ lãi suất phạt NQH.Bởi thực tế thì đây chỉ là khoản thu nhập ảo,ngân
hàng khó có thể thu hồi ngay được.Mặt khác,ngân hàng còn phải bỏ ra một
khoản chi phí quản lý,giám sát thanh lý khoản nợ này trong tương lai,đây là
một điều mà không một ngân hàng thương mại nào muốn bởi nó còn làm ảnh
hưởng tới uy tín ngân hàng.Trong hợp đồng cho vay giữa ngân hang với khách
hang có một điều khoản là:Nếu như khách hàng không trả được khoản nợ vay
và có những hành vi vi phạm đến các điều khoản trong hợp đồng thì ngân hàng
có thể đưa ra các cơ quan pháp luật để xử lý.Việc có xử lý được hay không
cũng làm ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng mà trong điều kiện cạnh tranh của
nền kinh tế thị trường ngày nay,uy tín của ngân hàng cũng là một lợi thế kinh
doanh rất có giá trị.
Một điều nguy hiểm hơn nữa,nếu NQH không được hạn chế thì nguy cơ
phá sản của ngân hàng là rất cao.NQH của ngân hàng là nguyên nhân chủ yếu
gây ra rủi ro tín dụng,mà ngân hang sống được là nhờ có hoạt động tín dụng
lành mạnh.Chính vì thế ma NQH là vấn đề bức xúc cần giải quyết của các
NHTM.
1.1.4.2.Tác động của nợ quá hạn đối với nền kinh tế
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng
nhất của nền kinh tế.Nếu coi nền kinh tế là một hệ thống,thi ngân hàng thương
mại đóng vai trò là mạch máu chảy trong nó có chức năng chu chuyển,điều tiết
vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Tỷ lệ NQH cao sẽ làm tăng chi phí của ngân hàng,do đó cũng làm tăng chi

phí của món vay.Từ đó sẽ dẩn đến giá cả của việc đi vay tăng lên,các hoạt động
đầu tư sẽ bị hạn chế.Việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua ngân hàng cũng
trở nên kém hiệu quả hơn.
Ở mức độ cao hơn,việc duy trì một tỷ lệ nợ quá hạn quá cao không chỉ gây
ra sụp đổ cho một ngân hàng mà nó còn đe doạ đến cả hệ thống các ngân hàng
thương mại. Điều đó gây rối loạn lưu thông tiền tệ trong nước,gây đình trệ và
khủng hoảng kinh tế.
1.2.CÁC BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ NỢ QUÁ HẠN
Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng thương mại
nhưng luôn tiềm ẩn những rủi ro.Rủi ro tín dụng trong đó có NQH luôn tồn tại
song hành với quá trình hoạt động của các ngân hàng, ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng.Khi những rủi ro xảy ra sẽ gây nên tổn thất làm giảm thu nhập
dự tính và có thể gây thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng.Vì thế nghiên cứu và
tìm giải pháp để hạn chế phát sinh nợ quá hạn,giải quyết và bù đắp tổn thất đã
xảy ra là một trong những nội dung chính của quản lý rủi ro trong ngân hàng
thương mại.Xuất phát từ qui trình tín dụng và các nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ nợ
quá hạn cao,để có thể ngăn ngừa và hạn chế NQH một cách tích cực,ngân hàng
thương mại cần nhận biết các dấu hiệu của NQH,có biện pháp phòng ngừa,hạn
chế và xử lý nợ quá hạn.
1.2.1.Nhận biết các khoản nợ có nguy cơ là nợ quá hạn
Nếu như ngay từ trong khâu thẩm định dự án,ngân hàng thương mại có thể
nhận thấy những khoản vay tiềm ẩn rủi ro cao sẽ không dẫn đến tình trạng ngân
hàng cho vay và gặp phải những khoản NQH sau cho vay.Một trong những
biện pháp tích cực nhằm ngăn ngừa và hạn chế NQH đó là nhận biết các khoản
nợ tiềm ẩn rủi ro cao một cách sớm nhất thông qua các dấu hiệu trong phần phụ
lục.
1.2.2.Biện pháp ngăn ngừa và hạn chế nợ quá hạn
Cách tốt nhất để hạn chế nợ quá hạn mới phát sinh đó là ngăn ngừa và có
các biện pháp phòng tránh phù hợp.Khi rủi ro đã phát sinh,NHTM sẽ gặp khó
khăn hơn trong việc xử lý các khoản NQH này.Ngân hàng phải căn cứ vào qui

trình tín dụng và chính sách tín dụng để xây dựng các biện pháp ngăn ngừa và
hạn chế cụ thể,xuất phát từ đó các giải pháp mới có tính thực tiễn và hiệu quả
cao.
1.2.2.1.Xây dựng chính sách tín dụng và qui trình phân tích tín dụng
Hoạt động tín dụng liên quan đến nhiều bộ phận trong ngân hàng,đòi hỏi
phải có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sách,qui tắc và sự kiểm
soát chung.Chính sách tín dụng với mục tiêu chính là mở rộng tín dụng đồng
thời hạn chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao thu nhập cho ngân hàng.Chính sách
tín dụng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao thu nhập cho ngân
hàng.Chính sách tín dụng nhằm hạn chế rủi ro như:Chính sách bảo lãnh,chính
sách đồng tài trợ…Vì thế hạn chế và có thể phòng ngừa NQH phát sinh,ngân
hàng thương mại luôn phải xây dựng chính sách tín dụng rõ ràng,phù hợp với
tình trạng nguồn vốn và mục tiêu hoạt động của bản thân ngân hàng.Cán bộ tín
dụng sẽ căn cứ vào chính sách tài sản đảm bảo để hạn chế cho vay đối với
những khoản nợ không có tài sản đảm bảo,tăng tỷ trọng của dư nợ có đảm
bảo.Việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản cố định,quyền sử dụng đất,giấy tờ có
giá…sẽ đảm bảo an toàn và tất nhiên hạn chế được NQH,do đó hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng sẽ cao hơn.Ngân hàng có thể phòng ngừa và hạn chế rủi
ro thông qua đa dạng hóa sản phẩm cho vay và danh mục đầu tư tức là ngân
hàng cần phân tán nguồn vốn của mình,không nên tập trung vào một khách
hàng,một ngành nghề hay một lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào đó,để có điều
kiện phân tán rủi ro cho mình.Điều đó có nghĩa là ngân hàng cần đa dạng hóa
sản phẩm dịch vụ,thường xuyên nghiên cứu,cải tiến sản phẩm của mình đáp
ứng nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất.Ngân hàng luôn ý thức được
rằng vốn tín dụng của ngân hàng chỉ là vốn bổ sung cho bên vay.Tức là ngân
hàng chỉ nên đầu tư và các dự án,phương án sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp,cá nhân có tỷ trọng vốn tự có cao bởi những phương án,dự án có tỷ
trọng vốn tự có cao sẽ giúp cho khách hàng tự chủ trong kinh doanh,nâng cao
hiệu quả kinh doanh cho khách hàng và từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc trả nợ vay của ngân hàng.Chính sách cho vay hợp lý sẽ tạo điều kiện hạn

chế rủi ro đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng an toàn,có hiệu quả luôn đi kèm với quy trình tín dụng
đầy đủ,chặt chẽ và đồng bộ.Xây dựng và hoàn thiện qui trình tín dụng chính là
điều kiện cần để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay trong các ngân hàng
thương mại.Qui trình tín dụng thể hiện chính sách tín dụng của ngân hàng,là
kim chỉ nam cho hoạt động của cán bộ tín dụng.Một qui trình tín dụng hoàn
chỉnh sẽ không chỉ có tác dụng đẩy hoạt động tín dụng mà đó còn tạo điều kiện
cho ngân hàng phát triển một cách bền vững.Nguyên nhân xuất phát từ:Qui
trình tín dụng đầy đủ và đồng bộ giúp cán bộ tín dụng hạn chế được những
khoản vay không đạt yêu cầu,tránh được nguy cơ cán bộ tín dụng móc ngoặc
với khách hàng để làm lơị riêng gây tổn thất tới ngân hàng,việc kiểm tra kiểm
soát trong nội bộ ngân hàng cũng trở nên dễ dàng và vì thế tiêu cực phát sinh là
thấp nhất.Tuân thủ chặt chẽ các bước của qui trình tín dụng làm tăng tính an
toàn của các khoản cho vay.
Chính sách tín dụng của ngân hàng cũng được hình thức hóa trong qui
trình tín dụng mà áp dụng các bước cho vay phù hợp.Các loại khách hàng khác
nhau ,các đối tượng cho vay khác nhau sẽ có rủi ro khác nhau.Xác định danh
mục các khoản tài trợ với các mức rủi ro khác nhau từ đó áp dụng vào qui trình
tín dụng bằng cách qui định các bước cho vay đối với từng đối tượng cụ thể
không những giúp cho cán bộ tín dụng thực hiện dễ dàng mà còn có hiệu quả
giảm thiểu rủi ro.Khi khách hàng của ngân hàng là cá nhân,người tiêu dùng,rủi
ro sẽ liên quan tới thu nhập của người vay và khó thu hồi nợ,các bước thực hiện
cho vay đối với khách hàng sẽ tỷ mỷ,và đòi hỏi nhiều chứng từ chứng minh thu
nhập của cá nhân người đi vay.Khi khách hàng của ngân hàng là các doanh
nghiệp,rủi ro liên quan tới khả năng đánh giá tình trạng kinh doanh của doanh
nghiệp.Doanh nghiệp cần có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả tốt
mới đủ điều kiện để cấp tín dụng.Công tác thẩm định dự án của doanh nghiệp
vay vốn được thực hiện rõ ràng,đầy đủ sẽ giúp cán bộ tín dụng dễ dàng hơn
trong thực hiện nghiệp vụ,tránh được tình trạng nhầm lẫn,thiếu sót dẫn đến việc
cho vay ồ ạt,không chất lượng làm phát sinh nợ quá hạn.Đó là lý do hoàn thiện

qui trình tín dụng luôn là mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng thương mại.
1.2.2.2.Nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ hỗ trợ khách hàng sau cho vay
Một trong những nguyên nhân dẫn tới phát sinh nợ quá hạn là ngân hàng
không kiểm soát được khoản cho vay của mình.Vấn đề đặt ra là làm sao ngân
hàng khắc phục được tình trạng này.Thông thường,NHTM thường giám sát vốn
vay của khách hàng thông qua các báo cáo tài chính:
BCĐKT,BCKQKD.BCLCTT nhưng những con số mà ngân hàng nhận
được không phản ánh đúng tình trạng hoạt động của doanh nghiệp.Khách hàng
có thể làm giả các báo cáo này,biến chúng tốt đẹp hơn so với con số thực tế để
che dấu tình trạng kinh doanh kém hiệu quả của mình.Như vậy rủi ro ngân
hàng gặp phải là rất lớn.
Tuy nhiên,ngân hàng có thể đi sâu,đi sát với tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp bằng cách cung cấp cho doanh nghiệp các dịch vụ hỗ trợ sau
cho vay.Với lợi thế về trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng,kinh nghiệm
trong giải quyết các vấn đề tài chính cùng các mối quan hệ cuả ngân
hàng,những khó khăn của khách hàng gặp phải sẽ được giải quyết một cách có
hiệu quả hơn.Khi khách hàng gặp gỡ doanh nghiệp với tư cách là chủ nợ,ngân
hàng sẽ gặp khó khăn trong vấn đề thu thập thông tin,nhưng ngân hàng với
doanh nghiệp là những đối tác,rõ ràng ngân hàng sẽ gặp nhiều thuận lợi
hơn.Việc thu thập thông tin để hiểu rõ tình hình sản xuất kinh doanh của khách
hàng là việc làm hữu hiệu hạn chế tình trạng nợ quá hạn phát sinh.Nắm bắt
được diễn biến của khoản cho vay,ngân hàng biết được khoản vay có được sử
dụng đúng mục đích hay không,có hiệu quả và an toàn không,từ đó có biện
pháp xử lý kịp thời nếu rủi ro phát sinh.Nguy cơ về rủi ro mất vốn được giảm
thiểu.
Tuy nhiên việc tạo được niềm tin với khách hàng,có thể để khách hàng tự
nguyện hợp tác với ngân hàng trong việc chia sẻ thông tin cần sự nỗ lực của
bản thân ngân hàng.Ngân hàng nên tạo chính sách tín dụng phù hợp,cung cấp
dịch vụ tư vấn tài chính,quản lý tài sản…có uy tín và hiệu quả để khách hàng
có thể tin tưởng và sử dụng.Làm như thế,bản thân ngân hàng không những tăng

doanh thu,hạn chế được NQH phát sinh mà còn giúp khách hàng họat động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả hơn từ đó khẳng định và tăng thêm uy tín cho ngân
hàng,làm lợi không những cho bản thân ngân hàng mà cho cả nền kinh tế.
1.2.2.3.Xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên giỏi về chuyên môn,có kinh
nghiệm tư cách đạo đức tốt
Con người luôn là chủ thể của mọi hoạt động,vì thế trình độ cán bộ tín
dụng quyết định tới chất lượng tín dụng.Chính sách cho vay hợp lý,qui trình
cho vay đồng bộ,khoa học nhưng không có đội ngũ cán bộ thực thi hiệu quả
không tạo được kết quả kinh doanh mong muốn mà còn có thể gây ra tổn thất
cho ngân hàng.Công tác đào tạo cán bộ tín dụng luôn được ngân hàng thương
mại chú trọng.Không những chọn lọc trong quá trình thi tuyển đầu vào,ngân
hàng phải thường xuyên đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ tín
dụng trong quá trình làm việc bằng cách tổ chức thi tuyển lại,tổ chức cho cán
bộ tín dụng các lớp đào tạo ngắn hạn để trau dồi và cập nhật kiến thức.Ngoài
ra,thông qua công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ,ngân hàng cũng có thể hạn chế
được những khoản cho vay không hợp lệ và tình trạng cán bộ tín dụng móc
ngoặc với khách hàng gây nên tổn thất cho ngân hàng.Kiểm tra việc chấp hành
các kế hoạch dư nợ ngắn hạn,trung và dài hạn xem có phù hợp với cơ cấu
nguồn vốn,có những biện pháp để khơi tăng nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu
mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế trên địa bàn,kiểm tra hồ
sơ vay,đánh giá chính xác về tính hợp lý hợp lệ của hồ sơ đặc biệt là tính pháp
lý và tính thực tiễn của những tài liệu trong hồ sơ vay,đơn xin vay,phương án
sản xuất kinh doanh,giấy phép kinh doanh,giá trị của tài sản đảm bảo,hợp đồng
mua bán vật tư…Kiểm tra về một số chỉ tiêu như:thời hạn cho vay,thời hạn gia
hạn nợ,hạn mức tín dụng được cấp,kiểm tra thơì hạn cho vay phải xác định cơ
sở của thời hạn cho vay có phù hợp với sự luân chuyển vốn của đôi tượng vay
hay không,gia hạn nợ phải đảm bảo qui trình gia hạn nợ,đặc biệt là hướng giải
quyết khoản nợ sau khi gia hạn cho khách hàng.Việc kiểm soát được thực hiện
trên mọi lĩnh vực hoạt động của tín dụng song các ngân hàng cần tập trung vào
một số vấn đề có sai sót trong quá trình thực hiện.Bằng cách này,ngân hàng

vừa hướng cán bộ tín dụng trung thực trong quá trình làm việc,vừa hạn chế
được rủi ro phát sinh nợ quá hạn,chất lượng tín dụng cũng vì thế được tăng lên.
1.2.2.4.Thực hiện tốt việc đôn đốc thu hồi nợ và trả lãi phù hợp với từng khoản vay
Đi cùng với hoạt động tín dụng là hoạt động quản lý và thu hồi nợ.Khi
ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng,ngân hàng hy vọng vào lãi thu được
sau cho vay đồng thời kỳ vọng rằng khách hàng sẽ trả đủ cả nợ gốc và lãi cho
mình.Không một ngân hàng nào cho vay mà biết chắc khoản nợ đó có vấn đề,vì
thế để hạn chế rủi ro nợ quá hạn các NHTM đều có phòng ban thực hiện nghiệp
vụ quản lý và thu hồi nợ vay.Thực hiện tốt việc đôn đốc thu hồi nợ và lãi phù
hợp với từng khoản vay là biện pháp hạn chế NQH phát sinh.Đối với những
khoản vay có khả năng thu hồi ngân hàng chỉ cần đôn đốc việc trả nợ khi thời
điểm đáo hạn sắp đến.Đối với những khoản vay có dấu hiệu xấu thì phải có các
biện pháp kịp thời như:đưa ra những lời khuyên,cố vấn cho doanh nghiệp về
sản phẩm,biện pháp thu hồi nợ,phương án sản xuất kinh doanh,quản lý tài
chính…Tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu hồi được vốn và trả nợ vay cho
ngân hàng đúng hạn,hay có thể gia hạn nợ,rút bớt mức chi trả định kì trong một
thời gian.Đối với doanh nghiệp có nguy cơ phá sản,hay vi phạm hợp đồng thì
ngân hàng có thể chủ động đời nợ trước hạn tránh tình trạng NQH xảy ra.
Nói tóm lại mục tiêu trong kinh doanh tín dụng của các NHTM là hạn chế
tới mức thấp nhất rủi ro tín dụng nói chung,rủi ro về NQH nói riêng.Chính vì
thế mà việc đưa ra các biện pháp hạn chế,phòng ngừa NQH là không bao giờ
thừa đối với các NHTM trong nền kinh tế phát triển mạnh như hiện nay.
1.2.3.Xử lý nợ quá hạn
Sau khi phát sinh các khoản nợ quá hạn,vấn đề đặt ra cho các ngân hàng
thương mại là xử lý các khoản NQH này để tổn thất xẩy ra với ngân hàng là
thấp nhất.Ngoài một số biện pháp quen thuộc,các ngân hàng thương mại có thể
áp dụng một số giải pháp sau.
1.2.3.1.Qui trách nhiệm đối với cán bộ tín dụng
Một trong những nguyên nhân dẫn đến NQH xuất phát từ yếu tố cán bộ tín
dụng.Trình độ yếu kém,hời hợt trong hoạt động thẩm định dự án hoặc cố ý móc

ngoặc đối với khách hàng của cán bộ tín dụng nhằm cầu lợi riêng cho bản thân
có thể dẫn đến tình trạng cho vay ồ ạt,người sử dụng vốn không đúng mục
đích,không có hiệu quả và tất yếu dẫn tới NQH cho ngân hàng.Để hạn chế tình
trạng này,NHTM có thể qui trách nhiệm cho cán bộ tín dụng nếu không thể đòi
được nợ bằng các hình thức kỷ luật,bồi thường cho ngân hàng.Trường hợp gây
hậu quả nghiêm trọng,ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp cứng rắn như
đuổi việc,truy tố trước pháp luật…Đây là biện pháp vừa có tính hiệu quả cao
trong việc thu hồi nợ,vừa có tính chất giáo dục cán bộ tín dụng làm việc hiệu
quả và an toàn hơn cho ngân hàng.Việc áp dụng biện pháp này không những
làm trong sạch đội ngũ cán bộ tín dụng,mà nó còn có tác dụng nâng cao khả
năng,trình độ của các bộ tín dụng.Đó là một giải pháp tốt để ngân hàng có thể
hạn chế được tình trạng nợ quá hạn,phát triển an toàn bền vững hơn.
1.2.3.2.Đôn đôc thu hồi nợ
Mỗi một ngân hàng đều cần đến ban đôn đốc thu hồi nợ để đưa ra chính
sách khuyến khích khách hàng bằng các biện pháp tâm lý hoặc kinh tế.
Đối với các khỏan nợ còn có khả năng thu hồi được,cách tốt nhất để ngân
hàng có thể giảm thiểu tổn thất là đàm phán với khách hàng.Ngân hàng xem
xét khả năng hồi phục của khách hàng,sau đó tiến hành thương lượng với khách
hàng các biện pháp thực hiện cũng như yêu cầu khách hàng cam kết trong việc
trả nợ.Khi khach hàng gặp rủi ro trong kinh doanh,không thể trả nợ lãi và gốc
cho ngân hàng đúng hạn,có thể nguyên nhân xuất phát từ yếu tố chủ quan của
khách hàng hoặc những biên động khách quan của thị trường,chính sách vĩ mô
của chính phủ,hay ngân hàng áp dụng phương án trả nợ đối với khách hàng
không phù hợp với chu kỳ kinh doanh.Lúc này ngân hàng cần phát huy chính
sách hỗ trợ sau bán hàng đối với khách hàng tích cực nhất.Có như vậy,khách
hàng có thể thoát khỏi nguy cơ phá sản,ngân hàng cũng có khả năng thu hồi đủ
nợ gốc và lãi.Một số chính sách mà ngân hàng có thể áp dụng:
Cho vay thêm hay đảo nợ:ngân hàng có thể xem xét đến khả năng cấp
thêm vốn cho khách hàng vượt qua khó khăn hiện thời đồng thời tọa khả năng
thu hồi được các khoản nợ trước.Về nguyên tắc,muốn được cho vay

thêm,khách hàng phải trả hết các khỏan nợ cũ.Biện pháp này không được
khuyến khích vì tính rủi ro và chỉ áp dụng trong một số trường hợp nhất định vì
mục đích cho vay là nhằm để sản xuất kinh doanh chứ không phải để trả nợ
cũ.Khi xem xét cho khách hàng tiếp tục cho vay thêm ngân hàng phải nắm chắc
khả năng phục hồi của khách hàng.
Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ:Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ là việc ngân hàng và
khách hàng thỏa thuận về việc thay đổi các kỳ hạn trả nợ đã thỏa thuận trước
đó trong hợp đồng tín dụng.Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc khách
hàng không trả được nợ đúng hạn cho ngân hàng là do xác định kỳ hạn trả nợ
đối với khách hàng chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh,số tiền phải
trả trong mỗi kỳ phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng sẽ tạo điều kiện
cho khách hàng thoát khỏi khả năng mất khả năng thanh toán,thúc đẩy sản xuất
và do đó ngân hàng cũng dễ dàng hơn trong việc thu nợ với khách hàng.Ngân
hàng có thể điều chỉnh kỳ hạn trả nợ trong các trường hợp:chu kỳ sản xuất kinh
doanh của khách hàng thay đổi,biến động của thị trường,các yếu tố về kinh tế
chính trị thay đổi làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh…
Gia hạn nợ:Ngân hàng có thể áp dụng biện pháp gia hạn nợ đối với khách
hàng tức là chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian ngoài thời hạn cho
vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.Nếu biện pháp này được chấp nhận
thì khách hàng có thể tránh được áp lực trả nợ để tiếp tục kinh doanh còn ngân
hàng có khả năng giảm nợ quá hạn.Tuy nhiên việc áp dụng biện pháp này mang
nhiều rủi ro với ngân hàng,khách hàng không có khả năng trả nợ vì bản thân dự
án sản xuât kinh doanh của khách hàng có vấn đề,không hiệu quả gây ra thua lỗ
hay chính do tình trạng quản lý yếu kém của khách hàng dẫn đến không trả
được nợ cho ngân hàng,vì thế quan trọng nhất là ngân hàng xem xét khách
hàng của mình còn có khả năng phuc hồi hay không,từ đó mới có thể có quyết
định giãn nợ đối với khách hàng.
Chuyển nợ thành vốn góp:Ngân hàng có thể chuyển các khoản nợ thành
vốn góp của ngân hàng trong các doanh nghiệp của khách hàng là các công ty
cổ phần.Ngân hàng cũng có thể trở thành trung gian,tạo điều kiện hỗ trợ việc

sang nhượng cổ phần của con nợ cho người thứ ba để ngân hàng có thể thu hồi
được nợ.Đây là biện pháp tạo nên sự linh hoạt trong việc xử lý nợ quá hạn của
ngân hàng những vẫn đảm bảo cho doanh nghiệp tiếp tục sản xuất kinh
doanh.Biện pháp này áp dụng đối với các khách hàng gặp rủi ro do nguyên
nhân khách quan và có triển vọng phục hồi hoạt động kinh doanh.
Bán các khoản nợ:Khi ngân hàng không muốn kéo dài thời gian đòi nợ với
khách hàng,muốn thu hồi vốn nhanh chóng hơn,NHTM thường bán các khoản
nợ này cho công ty mua bán nợ hoặc cá nhân.Khi thực hiện biện pháp này,

×