Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Việc làm, thất nghiệp ở đô thị thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.34 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay dân tộc ta, nhân dân ta đang bước vào một cuộc chiến đấu
mới vì cuộc sống âm no hạnh phúc, vì cơng bằng xã hội. Đất nước ta, thời
cơ lịch sử phát triển đã đến. Công cuộc đổi mới đang diễn ra nhanh chóng
và vững chắc. Chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trừơng có sự quản lý của nhà nước theo
định hớng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra động lực va môi trường thuận lợi cho
mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh thật sự
bình đẳng trước pháp luật và hoạt động có hiệu quả. Nhiều tiền đề cần thiết
cho cơng nghiệp hiện đại hố được tạo ra. Nhưng thách thức lớn đối với
nước ta là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực là nguy cơ nổi lên rất gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp kéo
theo hiệu quả xấu về công ăn việc làm.
Việc làm và thất nghiệp là một trong những vấn đề xã hội có tính chất
tồn cầu, là mối quan tâm lớn của hầu hết các quốc gia. Việc làm ở nước ta
được coi là một trong những vấn đề xã hội gốc rễ quan trọng nhất. Giải quyết
đủ việc làm cho ngời lao động tiến tới việc làm có hiệu quả, được tự do lựa
chọn việc làm chính là giải quyết tận gốc những căn nguyên, nguồn gôc sâu
xa nhất của các vấn đề xã hội gay cấn, đảm bảo giữ gìn kỷ cương và an tồn
xã hội.
Nhận biết được tầm quan trọng và cấp thiết về vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm trong giai đoạn hiện nay cùng với sự giúp đỡ và hướng dẫn
chỉ bảo tận tình của thầy cô giáo, em đã đi sâu nghiên cứu thực hiện đề tài :
"Việc làm, thất nghiệp ở đô thị thực trạng và giải pháp"
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
- Phần 1: Những khái niệm chung.
- Phần 2: Thực trạng việc làm và thất nghiệp ở đô thị.
- Phần 3: Mục tiêu phương hướng và các giải pháp về vấn đề
việc làm và thất nghiệp.
1



NỘI DUNG

PHẦN 1: NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG
I- KHÁI NIỆM
1- Việc làm
Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung người lao động được
coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận là ngưới làm việc trong thành
phần kinh tế quốc doanh, khu vực nhà nước và khu vực kinh tế tập thể.
Trong cơ chế đó nhà nước bố trí việc làm cho người lao động.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, quan niệm về việc làm đã thay đổi một cách căn bản cụ thể như
sau :
Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm
gọi là việc làm.
Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm:
-Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật
-Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu
nhập cho gia đình mình, nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc hiện
vật) cho công việc đó.
2- Dân số hoạt động kinh tế:
-Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm:
Toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc khơng có
việc làm nhưng có nhu câù làm việc.
Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động (lực lượng lao động
trong độ tuổi) bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 15
đến hết 60 tuổi, nữ từ đủ 15 đến hết 55 tuổi) đang có việc làm hoặc khơng
có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc.
2



Dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua là những
người từ đủ 15 tuổi trở lên có tổng số ngàylàm việc và nhu cầu làm việc lớn
hơn hoặc bằng 183 ngày.
3- Dân số không hoạt động kinh tế.
-Bao gồm toàn bộ số người từ đủ 15 tuổi trở lên khơng thuộc bộ phận
có việc làm và khơng có việc làm. Những người này khơng hoạt động kinh
tế vì các lý do sau:
-Đang đi học
-hiện đang làm cơng việc nội trợ gia đình.
-Già cả, ốm đau.
-Tàn tật, khơng có khả năng lao động.
-Hoặc ở vào tìng trạng khác.
4- Thất nghiệp :
Thất nghiệp là hiện tượng những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động, đang khơng có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm
tại thời điểm điều tra. Số người khơng có việc làm sẽ ảnh hưởng đến số
người làm việc và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế.Thất
nghiệp là vấn đề trung tâm của mọi quốc gia vì nó khơng chỉ tác động về
mặt kinh tế mà nó cịn ảnh hưởng đến vấn đề xã hội.
Theo cách tính thơng thường tỷ lệ thất nghiệp tính bằng tỷ lệ % giữa
tổng số người thất nghiệp với tổng số nguồn lao động. Nhưng đối với các
nước đang phát triển tỷ lệ thất nghiệp này chưa phản ánh đúng sự thực về
nguồn lao động chưa sử dụng hết. Trong thống kê thất nghiệp ở các nước
đang phát triển, số người nghèo thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ và khi họ thất
nghiệp thì họ cố gắng khơng để thời gian kéo dài. Bởi vì họ khơng có các
nguồn lực dự trữ, họ phải chấp nhận mọi việc nếu có. Do đó ở các nước
đang phát triển biểu hiện tình trạng chưa sử dụng hết lao động người ta sử
3



dụng khái niệm thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Thất nghiệp
trá hình bao gồm bán thất nghiệp và thất nghiệp vơ hình
-

Thất Nghiệp Vơ Hình :

Là tình trạng những người lao động có việc làm , nhưng làm việc với mức
lương thấp và thời gian làm việc thực tế thấp .
- Thất nghiệp Hữu Hình :
Là tình trạng những người lao động đến tuổi lao động , có khả năng tham
gia lao động nhưng không tìm được việc làm
- Thất Nghiệp Trá Hình :
Là tình trạng người lao động có việc làm , nhưng không sử dụng hết năng
suất làm việc của mình , ví dụ 1 công việc chỉ cần 1 -2 người làm thì lại bố
trí 4-5 người làm việc đó . Đây là hậu quả của việc thừa lao động tại chỗ .
- Phân loại thất nghiệp :
Thất nghiệp là 1 hiện tượng phải phân loại . Để hiểu rõ về thất nghiệp
thì ta phân loại thất nghiệp theo các tiêu thức sau đây :
Phân theo loại hình thất nghiệp :
Thất nghiệp là 1 ghánh nặng nhưng ghánh nặng đó rơi vào bộ phận dân cư
nào ? ngành nghề nào ? giới tuổi nào ? Cần biết những điều đó để hiểu rõ
đặc điểm , đặc tính , mức độ tác hại của nó , đến nền kinh tế , đến các vấn
đề liên quan :
- Thất nghiệp chia theo giới tính ( nam , nữ )
- Thất nghiệp chia theo lứa tuổi ( tuổi , nghề )
- Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ ( thành thị , nông thôn )
- Thất nghiệp chia theo ngành , nghề ( ngành kinh tế , nông nghiệp )
- Thất nghiệp chia theo dân tộc , chủng tộc .


4


Phân theo lý do thất nghiệp :
Do bỏ việc : Tự ý xin thôi việc vì những lí do khác nhau như gia đình , con
cái , lương thấp , không hợp vùng …
Do mất việc : Các hãng , cơ quan cho thôi việc cho lý do kinh tế , cắt giảm
lao động , khủng hoảng ..
Do mới vào : lần đầu bổ xung vào lao động nhưng chưa tìm được việc làm (
thanh niên đến tuổi lao động nhưng chưa có việc , sinh viên mới tốt nghiệp
đang tìm việc làm … )
Quay lại công tác : Những người đã thôi làm việc , nay muốn quay lại làm
việc nhưng chưa tìm được công việc ,
Như vậy có thể tổng kết lại : Thất nghiệp là một con số mang tính thời
điểm , nó luôn biến đổi theo thời gian . Thất nghiệp kéo dài thì như những
lý do trên nó nằm trong nền kinh tế kém phát triển , trị trệ , hoặc đang có
lạm phát cao , khủng hoảng kinh tế …
Phân theo nguồn gốc thất nghiệp :
Thất nghiệp tạm thời : Xảy ra trong trường hợp có 1 số người lao động
đang trong thời gian tìm kiếm việc làm hoặc là đang tìm kiếm một công
việc tốt hơn ( như lương cao hơn , chỗ công tác tốt hơn …v…v…)
Thất nghiệp cơ cấu : Thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi có sự mất cân đối cung
cầu giữa các thị trường lao động ( ngành , nghề , khu vực … ) loại này gắn
liền với biến động về kinh tế và khả năng điều chỉnh cung giữa các thị
trường lao động . Khi sự lao động này là mạnh và kéo dài sẽ dẫn theo thất
nghiệp cũng trở nên trầm trọng và kéo dài .
Thất nghiệp do thiếu cầu : Do sự suy giảm tổng cầu . Loại này còn gọi là
thất nghiệp chu kỳ vì nó gắn với thời kỳ suy thoái theo chu kỳ của các nền
kinh tế . Sảy ra tại tất cả các ngành nghề , các khu vực .


5


Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường : Sảy ra khi tiền ấn định không bởi
các lực lượng thị trường và cao hơn mức thực tế của thị trường lao đợng
5- Tỷ lệ người có việc làm
Là tỷ lệ % của số ngưịi có việc làm so với dân số hoạt động kinh tế
6- Tỷ lệ người thất nghiệp
Là tỷlệ % số người thất nghiệp so với dân số hoạt động kinh tế.
II- SỰ CẦN THIẾT PHẢI TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO
ĐỘNG Ở KHU VỰC ĐÔ THỊ.
-Tạo việc làm cho người lao động ở khu vực đô thị nhằm tăng thêm
thu nhập. Chúng ta biết rằng khu vực đơ thị - Trung tâm văn hố và phát
triển kinh tế sơi động nhất, cịn con người vừa là mục tiêu vừa la động lực
của sự phát triển kinh tế xã hội. Song con người chỉ trở thành động lực cho
sự phát triển khi và chỉ khi họ có điều kiện đã sử dụng sức lao động của họ
để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Quá trình kết hợp sức lao
động và điều kiện để sản xuất là quá trìng người lao động làm việc hay nói
cách khác là khi họ có được việc làm. Như vậy nếu khơng có việc làm,
nguồn nhân lực sẽ bị lãng phí, tăng trưởng kinh tế bị kìm hãm, thu nhập
của người lao động bị giảm sút, phân hố giàu nghèo tăng nhanh vậy thì có
việc làm thu nhập của ngươì lao động tăng nhanh, đời sống của họ được cải
thiện, xã hội phát triển góp phần đẩy nhanh q trình đơ thị hố tại khu vực
đó. Đi đôi với thất nghiệp là tệ nạn xã hôị và tội phạm phát triển. . . Khơng
có việc là và thiếu việc làm gia tăng, kéo dài sẽ trở thành mầm mống gây
nên “những điểm nóng” có thể dẫn đến mất ổn định về kinh tế xã hội.
- Ở khu vực thành thị lực lượng lao động đang có sự gia tăng đáng kể
cả về tương đối và tuyệt đối. Sự gia tăng này khơng chỉ thuần t mà cịn
do tác động của q trình đơ thị hố, cịn do quá do ảnh hưởng của luồng di
dân lao động tự do từ nơng thơn ra thành thị tìm kiếm việc làm. Sự phát


6


triển quá nhanh của lực lưưọng lao động ở khu vực thành thị trong bối cảnh
hiện tại đang gây sức ép lớn về nhu cầu đào tao và việc làm, làm nảy sinh
nhiều vấn đề xã hội vốn đã phức tạp lại cang phức tạp vì thế tạo việc làm cho
người lao động ở khu vực đô thị để giảm bớt các tệ nạn xã hội. Khu vực đô thị
tâjp trung rất nhiều người dễ nảy sinh các tệ nạn nếu không tạo công ăn việc
làm cho họ.
Như vậy tạo việc làm cho người lao động ở khu vực đô thị là quan
trọng và rất cần thiết.

7


PHẦN 2
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ THẤT NGHIỆP Ở ĐÔ THỊ
I- ĐẶC ĐIỂM NGUỒN NHÂN LỰC Ở KHU VỰC ĐÔ THỊ.
Dân số và lao động thành thị nước ta không lớn. Song tình trạng việc
làm ở khu vực thành thị luôn luôn diễn ra căng thẳng và cấp bách, do tính
chất và quy mơ số người chưa có việc làm rất lớn và nghiêm trọng. Theo
tính tốn của liên hiệp quốc năm 1993 tỷ thất nghiệp ở Việt Nam khoảng
trên 6% so với tổng số lao động, riêng khu vực thành thị tỷ lệ đó là tư 9%12% gấp đơi so với cả nước. Tỷ lệ lực lượng lao động ở khu vực thành thị
chiếm trong tổng lực lượng lao động cả nước có xu hướng tăng dần với tỷ
lệ tăng thêm hàng năm là 0, 7%. Năm 1998, lực lượng lao động ở thành thị
có khoảng 6838, 2 ngàn người chiếm 19, 06%, năm 1999 có 7333, 1 ngàn
người chiếm khoảng 20, 2%, năm 2000 có 7649, 6 nghàn người chiếm 20,
45%.
Số lượng lao động ở khu vực đô thị mỗi năm một tăng, trong khi đó về

chất lượng lao động ở khu vực thành thị thì :
-Năm 2000 số lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật ở thành thị
là: 2578, 4chiếm 33, 7% so với tổng lực lượng trong khu vực; so với năm
1998 bình quân hàng năm tăng thêm được 210, 25 người, với tốc độ tăng là
9, 31% và tỷ lệ so với tổng số lực lượng trong khu vực tăng thêm được 1,
07%.
Cùng với những thành quả của sự nghiệp đổi mới và sự phát triển
nguần nhân lực đã đạt được nhiều tiến bộ trên các lĩnh vực từ đào tạo dạy
nghề đến tuyển dụng, bố trí sử dụng và phát huy năng lực của đội ngũ lao
động đã qua đào tạo. Tuy nhiên do chưa quy hoạch một cách tỏng thể và
đông bộ ở tầm vĩ mô nên cũng để lại những hậu quả không tốt gây nên
những trở ngại cho quá trình phát triển. Quá trình chuyển dịch cơ cấu số

8


lượng và chất lượng của lực lượng lao động cũng như cơ cấu lao động theo
hướng cơng nghiệp hố chưa theo kịp được yêu cầu cua sự nghiệp phát
triển.
II- THỰC TRẠNG VỀ VIỆC LÀM VÀ THẤT NGHIỆP Ở ĐÔ THỊ
HIỆN NAY.
1- Một số đặc điểm của tình trạng lao động chưa có việc làm và thất
nghiệp ở khu vực thành thị
Số người chưa có việc làm phần lớn (80%)tập trung vào lứa tuổi thanh
niên. đó là lực tượng lao động trẻ, mới bước vào tuổi lao động, đại bộ phận
chưa lập thân mà sống dựa vào gia đình là chính. Trong đó về cơ bản là
chưa có nghề (80%) mặc dù trình độ văn hố thường là cấp ii, iii trở lên,
cao hơn cá vùng nông thôn, họ rất thụ động trong tìmkiếm việc làm và tâm
lý lựa chọn nghề khá phổ biến. Có nhiều việc thu nhập thấp, tính chất lao
động nặng nhọc. . . thì thanh niên thành thị thà chịu thất nghiệp khơng

muốn làm, nhường việc đó cho thanh niên nônh thôn tràn ra làm. Rất nhiều
nhười lao vào con đường chờ thi cử vào các trường đại học, xơ vào học
ngoại ngữ, vi tính. . để mong tìm được việc làm có thu nhập cao, làm cho
thị trường lao động thành thị càng căng thẳng.
Hiện tượng thất nghiệp trong giới có học có xu hướng ngày cang mở
rộng ở khu vực thành thị. Đó là hiện tượng hcọ sinh tất nghiệp các trường
đại học không muốn xa thành phố hoặc khong muốn chấp nhận việc làm có
thu nhập thấp. theo báo cáo hàng năm có khoảng hàng nghàn học sinh tốt
nghiệp ra trường chen nhau tìm việc làm ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh. . nhưng khơng tìm được việc rơi vào tình trạng thất nghiệp. Thậm
chỉ ở thành phố Hồ Chí Minh hàng trăm bác sĩ khong có việc làm. Trng khi
đó các vùng nông thôn, vùng miền núi lại thiếu nghiêm trọng lao động
khoa học kỹ thuật. Số này muốn có việc làm với thu nhập cao phẩi học

9


thêm ít nhất 2-3 băng nữa như :ngoại ngữ, vi tính, lái xe. . để thi, tuyển vào
các văn phịng đại diện nước ngồi, cơng ty có vơn đầu tư nược ngồi.
Tái tất nghiệp tất nghiệp ở đơ thị cũng là hiện tượng đáng lưu ý. Bởi
vì trong cơ chế thị trường để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp (kể cả
doanh nghiệp nhà nứơc ) buộc phải thay đổi cơng nghệ và từ đó địi hỏi đội
ngũ lao động mới có chất lượng cao hơn, từ đó dẫn đến việc sa thải lao
động cũ. Số lao động này muốn có việc làm nhất thiết phải đào tạo lại hoặc
nâng cao trình độ tay nghề. Điều tra các doanh nghiệp ở Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh cho thấy, về cơ bản phải đào tạo lại hoặc nâng cao trình độ
tay nghề cho hầu hết đọi ngũ cán bộ hiện có. Song cơng tác này dang là
khâu yếu và chưa có một cơ quan nào của nhà nước chuyên lo. Trong khi
khu vực thành thị đang dư thừa rất lớn lao động phổ thông, lại thiếu
nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao cấp, lao động chất xám để cung cấp

cho các xí nghiệp, liên doanh nước ngồi các khu chế xuất. . Nhu cầu đào
tạo loại lao động này cũng rất bức bách và ngày càng lớn. Nhiều nước phải
xây dựng các trung tâm huấn luyện cao cấp để cung ứng loại lao động này.
ViÊT NAM bây giờ mới đặt vấn đề là đã rất muộn. Nếu chúng ta khơng
quan tâm đúng mức thì trên tổng thể sẽ thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật
cao, đồng thời sẽ diễn ra hiện tượng “chảy máu chất xám “từ khu vực nhà
nước ra ngồi, sang các khu chế xuất, xí nghiệp liên doanh. .
Vấn đề nhức nhối đối với khu thành thị là cần phải giải quyết việc
làm cho số người mắc phải các tệ nạn xã hội (cờ bạc, số đề, nghiện hút, mại
dâm. ) số tội phạm mãn hạn tù, dịng người từ nơng thơn vào thành phố tìm
kiếm việclàm hình thành các chợ lao động. Số người sống lang thang, sống
bụi đời. . . Đó là hiện tượng xã hội rất phức tạp cần phải có chính sách và
biện pháp giải quyết có hiệu quả đẻe đảm bảo văn minh mỹ quan đơ thị và
an tồn xã hội. Hiện nay cả nước có khoảng trên 80 nghàn gái mại dâm (số
kiểm soát được khoảng 26 ngàn) 70-80 ngàn người nghiện, 50 ngàn người
lang thang cơ nhỡ, ăn xin sống bụi đời. . chủ yếu tập trung ở các thanh phố,
10


thị xã khu công nghiệp tập trung và du lịch số này thường rơi vào lứa tuổi
thanh niên, đa số chưa có việc làm. Dịng di chuyển lao động tự do từ nơng
thơn vào thành phố tìm kiếm việc làm cũng đang tăng lên nhanh chóng. Tại
thời điểm điều tra ở Hà Nội năm 1993 là 16340 người trong đó:
- Đạp xích lơ có

: 2157 người

- Làm thợ mộc

: 1872 người


- Làm thợ xây : 4324 người
- Bới rác, đồng nát :1044 người
- Làm cơ khí sửa chữa vặt : 2355 người
- Nghề khác: 4023 người
Theo báo cáo của thành phố Hồ Chí Minh, có lúc cao điểm lên tới 4045 vạn lao động tự do vào thành phố tìm cơng ăn việc làm
Tạo việc và tái hồ nhập người xuất trái phép hồi hương, người lao
động hợp tác trở về là vấn đề rất lớn đối với nước ta, song lại càng khó
khăn với thành thị. Hơn chục năm qua chúng ta đã đưa gần 30 vạn lao động
đi làm việc có thời hạn ở nước ngồi, hiện nay số này về cơ bản đã trở về
cần có việc làm.
Có thể nói, việc làm ở khu vực thành thị nhày càng căng thẳng và bức
bách, vì nótập trung vào thanh niên, đại bộ phận khơng có nghề, một số lớn
rơi vào đối tuợng tệ nạn xã, nếu không được giải quyết sẽ dẫn đến bất ổn
đinhj về kinh tế xã hội.
2- Việc làm và thất nghiệp cần được nghiên cứu trên các giác độ.
Trên các vùng, tổng số người thất nghiệp trong 7 ngày qua tính đến
thời điểm điều tra1/9/97của lựclượng lao động trong độ tuổi ở khu
vựcthành thị trong cả nước là 427067 người chiếm 6, 01% tăng so với năm
1998 là 38615 người hay 0, 13%. Trong 7 vùng lãnh thổ, 4vùng có tỷ lệ
thất nghiệp giảm nhẹ so với năm 1998 (Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung
Bộ, Duyên Hải miên Trung và Đồng băng sông cửu long ) 3 vùng còn lại
11


trừ vùng núi và trung du phía Bắc tăng khơng đáng kể, cịn tây ngun và
Đơng nam Bộ, tỷ lệ gia tăng ở mức trên dưới 0, 5%.
Các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu,
Cần Thơ, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng. Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh tỷ lệ thất nghiệp vẫn đang ở mức báo động (7-8%).

Nghiên cứu xu hướng biến động về tỷ lệ thất nghiệp của các nhóm lưc
lượng lao động trong độ tuổi chia theo trinh độ chuyên môn kỹ thuật năm
1999 so với năm 1998 cho thấy: nguyên nhân của sự gia tăng tỷ lệ thất
nghiệp là do tỷ lệ thất nghiệp cao ở nhóm lựclượng lao động khong có
chun mơn kỹ thuật, dịch vụ tăng thêm 13, 61% với quy mô tăng là 996, 6
nghàn người và tỷ lệ so với tơng số tăng bình quân hàng năm là 2, 47%.
Như vậy số lao động làm việc thường xuyên trong nhóm nghành dịch vụ
tăng nhanhhơn khá nhiều so vơí quy mơ và tốc độ tăng của số lao động làm
việc thường xuyên trong nhóm nghành Công nghiệp và xây dựng.
Tuy nhiên, sự gia tăng của số lao động làm việc trong nhóm nghành
cơng nghiệp và xây dựng vẫn còn chậm và chưa đủ mức để tạo việc làm.
Sự tăng trưởng việc làm chập chạp trong các khu vực đã làm cho con số
thất nghiệp và thiếu việc làm ở thành thị cao.
II- NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THỰC TRẠNG THẤT NGHIỆP.
- Cuộc khủng hoảng tài chíng ở Châu A bắt đầu từ năm 1999 đang
làm đông tiền ở đa số các nước Đông Nam A bị sụt giá mạnh, thị trường
sức lao động bị mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu, thất nghiệp
nặng nề ở khắp các nước trong khu vực. Trong khi đó tình trạng thất nghiệp
ở thủ đo Ha Nội cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Vào đầu tháng 4/2000 Sở
lao động thương binh và xã hội phối hợp với cục thống kê Hà Nội tiến hành
cuộc điều tra việc làm ở khu vực Hà Nội. Theo báo cáo kết quả điều tra :Số
thất nghiệp ở khu vực đô thị là 51000 người (khong tính số người từ nơng
thơn vào đơ thị tìm việc làm) tỷ lệ vào thời điểm này là 8, 64% so với năm
12


1999 tăng 0, 08%, tỷ lệ thất nghiệp cao nhất so với các thành phố trong cả
nước do chất lượng lao động thấp, cơ cấu đào tạo không hợp lý. Hơn nữa
nhu cầu việc làm ngày càng lớn với khả năng giải quyết còn rất hạn chế
trong tiềm năng phát triển kinh tế, tạo mở việc làm cũng rất lớn song lại

chưa được khai thác và phát huy. Giữa lao động và việc làm ngày càng gay
gắt khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới cùng với điều chỉnh cơ cấu
kinh tế phải tổ chức lại lao động trên phạm vi toàn xã hội, chuyển dịch cơ
cấu lao đọng cho phù hợp với cơ cấu mới của nền kinh tế. Trong quá trình
dịch chuyển này chúng ta vừa thiéu lao động có kỹ thuật, lại vừa thừa khá
lớn lao động phổ thông. Điều này đã dẫn đến nạn “thất nghiệp kết cấu “ rất
nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao, lao động chất xám lại thiếu nghiêm
trọng vì vậy để giải quyết vấn đề này phải thông qua việc đào tạo lại, phổ
cập nghề cho người lao động song cần phải có thời gian. Nguyên nhân chủ
yếu là nhà nước chưa có chính sách vĩ mơ như:thuế, đất đai tín dụng, thị
trường. . . chưa có các chính ssáh cụ thể khuyến khích các lĩnh vực, nghành
nghề và hình thức thu hút được nhiều lao động theo yêu cầu của thị trường
lao động, chưa có hệ thống đào tạo, đào tạo lại và phổ cập nghề phù hợp
với cơ chế thị trường.
Lực lượng lao động thành thị đang ngày một tăng ngồi ra do dicư từ
nơng thơn ra thành thị đã gây ra tỷ lệ thất nghiệp cao ở đơ thị.
Khơng những người thất nghiệp do trình độ chun môn thấp không theo
kịp sự phát triển của khoa học cơng nghệ. Bên cạnh đó cịn có thất nghiệp
trong số người được đào tạo. Mức thất nghiệp trong số những người được
giáo dục liên quan tới việc thị trường điều chỉnh theo dịng người tốt
nghiệp phổ thơng, giáo dục mở rộng nhưng hiến khi có đủ việc làm cho họ
khi ra trường. Nguyện vọng về việc làm trong những người được giáo dục
khong đáp ứng được. Trạng thái diễn ra ở các đô thị hiện nay là tốc độ tăng
của nguần nhân lực lớn hơn tốc độ tăng công việc làm.

13


- Nhân lực ở nông thôn thiếu việc làm, thu nhập thấp do đó tràn ra đơ
thị kiếm việclàm và một cuộc sống dễ chịu hơn so với nông thôn. Đây là

nguyên nhân thường gặp ở nhiều nước chậm phát triển. Trong khi đó ở đơ
thị, nhười ta lại chú trọng nhiều đến loại doanh nghiệp công nghiệp hệ số
vốn đầu tư cao nhưng thường chỉ số có chỉ số sử dụng nhân lực thấp, coi
nhẹ tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, các hoạt động dịch vụvà tổ chức sản
xuất của các hộ gia đình. ở đơ thị tồn tại một khu vực, được gọi là “khu vực
không kết cấu “. Đặc điểm của khu vực này :
Chứa đựng một nguần nhân lực lao động đông đảo (bên cạnh nguần
nhân lực làm việc tại các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước
hoặc liên doanh, các doanh nghiệp nước ngồi )
Có kết cấu về nghề nghiệp, về dạng hoạt động rất đa dạng, phức tạp
và thường năng động trong sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ đến sửa chữa,
buân bán vừa và nhỏ, dịch vụ các loại. Khong tạo được giá trị tổng sản
phẩm và thu nhập quốc dân gì lớn mà nhiều hoạt động chỉ là hoạt đoọng tái
phân phối nhằm có thu nhập để sống (nhiều người có mức thu nhập dưới
mức sống tối thiểu ). Ngồi ra, vấn đề quan trọng được đặc biệt chú ý tại đơ
thị là cịn tồn tại nạn thất nghiệp, tỷ lệ số người này nhiều khi chiếm khá
cao (12-15% các nguần nhân lực ở đô thị ). Cơ cấu cũng biến đổi nhưng
thường thanh niên chiếm đại bộ phận. Sự mất cân bằng giữa cung và cầu về
các nguần nhân lực ở đô thị là một trong nhiều nguyên nhân làm nảy sinh
những vấn đề phức tạp về kinh tế, xã hội ở đô thị và cuộc sống của những
người thất nghiệp.
Việc sử dụng nguần nhân lực đơ thị cịn biểu hiện ra ở một dạng thất
nghiệp khác gọi là “thất nghiệp trá hình “ ẩn náu trong biên chế của các cơ
quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước có q nhiều người so với u
cầu của cơng việc.

14


Khả năng tạo ra cầu về công việc làm của doanh nghiệp lớn hiện đại

để sử dụng nguần nhân lực mới tăng hàng năm ở cả nước chậm phát triển
còn yếu. Đó là bức tranh chưa có gì sáng sủa tại đô thị ở nước châm phát
triển.
III-

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC LÀM THẤT NGHIỆP LÊN ĐỜI

SỐNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở ĐÔ THỊ VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ XÃ HỘI.
Thật vậy, khi nói đến ảnh hưởng cửa thất nghiệp, người ta tập thường
trung vào ảnh hưởng tiêu cực của nó, thất nghiệp ảnh hưởng đến kinh tế lẫn
xã hội. Việc xác định cụ thể và chính xác ảnh hưởng của nó đến phát triển
kinh tế xã hội rất khó khăn và phức tạp. Xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn
chặt với nghèo đói. Tỷ lệ thát nghiệp cao khơng những gây thiệt hại lớn
cho nền kinh tế mà còn gây nhiều khó khăn đối với cuộc sống cá nhân
người lao đoọng. Những người thâts nghiệp tuy không sản xuất ra sản
phẩm nhưng vẫn phải tiêu dùng một lượng nhất địng, đặc biệt ở độ tuổi
trưởng thành, mức tiêu dùng thương lớn hơncác độ tuổi khác. Bởi lẽ ở đô
thị dân số trẻ có nhu cầu làm việc nếu họ khơng có việc làm thì đây là một
vấn đề phức tạp.
Thất nghiệp khơng chỉ ảnh hưởng nền kinh tế mà cịn ảnh hưởng đến
cuộc sống của những người thất nghiệp. Đói với nước ta, những người thất
nghiệp là những người khơng có thu nhập phải sống nhờ vào thu nhập cửa
những người khác trong gia đình. Hơn nữa những người thất nghiệp phần
lớn là những người chủ trong gia đình nguần thu nhập của họ ảnh hưởng rất
lớn nhiều khi có tính quyết định đến đời sốngkinh tế của cả gia đình họ
nữa. Do tính chất quyết định của kinh tế, khi đời sống kinh tế gia đình khó
khăn, thất nghiệp tác động đén mọi mặt củacuộc sống gia đình. Đây chính
là nguyên nhân và nguần gốc của những phức xã hội. Xét về mặt xã hội
thất nghiệp gây nên những hậu quả nặng nề. Khi xét các nguyên nhân cỷa

tệ nạn xã hội người ta nhận thấy rằng những người thất nghiệp tham gia
một cách đáng kểvào các tệ nạn đó. ở thành những người thất nghiệp tham
gia vào các tệ xã hội như:cờ bạc, ma tuý, số đề, trộm cướp. . đều mang lại

15


thu nhập ít nhiều cho người tham gia. Trong lúc các con đường khác để tạo
việc làm mọt cách chính đáng bị khép lại, thì con đường đến với các tệ nạn
xã hội lại rộng mở hơn và khó bị kiểm soát và ngăn chặn hơn. Thất nghiệp
đẩy con người đến một sự lựa chọn bắt buộc hoặc chịu ngồi chết đói hoặc
phải tìm cách làm bất cứ cơng việc gì kể cả tham gia vào các tệ nạn xã hội
để có thu nhập khỏi chết đói. Vì thế, thất nghiệp gây nhiều khó khăn phức
tạp cho cơng tác quản lý xã hội, làm đảo lộn nhiều nếp sống lành mạnh và
ảnh hưởng xấu thuần phong mỹ tục của một dân tộc. Đến lượt nó, chính nó
lại tác động trở lại nền kinh tế, kìm hãm nền kinh tế phát triển. Thất nghiệp
cịn tác động đến tâm tư tình cảm, suy nghĩ của người lao động, người thất
nghiệp gây cho người lao động tâm lý luân luân lo lắng, bị de doạ bởi thất
nghiệp làm mất niềm tin của họ vào sự tốt đẹp của tương lai.

16


PHẦN 3
MỤC TIÊU PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP VỀ
VẤN ĐỀ VIỆC LÀM VÀ THẤT NGHIỆP.
I- MỤC TIÊU VỀ VẤN ĐỀ VIỆC LÀM VÀ THẤT NGHIỆP Ở ĐÔ
THỊ
Các mục tiêu phấn đấu:
-Khống chế tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị không vượt quá 7%. Nâng

cao tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 20%trong đó tỷ lệ lao động được đào tạo
nghề đạt 14%, tăng 19%so với năm 2000, giảm tỷ lệ số hộ đói nghèo. Tạo
mọi điều kiện để đến năm 2005 có cơng có mức sống bằng và cao hơn mức
sống trung bình của dân cư cùng phường nơi cư trú.
-Nhằm khắc phục tình trạng thất nghiệp Chính phủ đã phê duyệt
“Chương trình quốc gia về việc làm thời kỳ 2000-2005” nhằm tạo việc làm
mới, duy trì bảo đảm việc làm cho người lao động có khả năng lao động có
yêu cầu làm việc. Thực hiện các biện pháp trợ giúp người thất nghiệp
nhanh chóng có việc làm, người thiếu việc làm hoặc người làm việc có hiệu
quả thấp sẽ có việc làm đủ hơn và hiệu quả cao hơn. Đồng thời từng bước
giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc
làm cho người lao động, góp phần thực hiện cơng bằng và tiến bộ xã hội
nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động để làm việc có hiệu quả.
-Mục tiêu giải quyết vệc làm thời kỳ 2000-2005 và 2010 là làm sao giảm
tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn và 3% vào năm 2010.
-Trong 13 năm (1988-2005) giải quyết việc làm cho gần 30 triệu lao
động, riêng 3 năm 2000-2005 giải quyết việc làm cho gần 6 triệu lao động.
Đào tạo nghề cho lao động, để người lao động có trình độ, chun mơn.
Bên cạnh đó sắp xếp và bố trí lao động một cách hợp lý, quy mô và cơ cấu

17


nghành phù hợp. Bên cạnh đó thu hút vốn đầu tư nước ngồi để tạo việc
làm thơng qua các chính sách, luật lệ phù hợp.
II- PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ VẤN
ĐỀ VIỆC LÀM VÀ THẤT NGHIỆP Ở ĐÔ THỊ.
1- Phương hướng chủ yếu giải quyết việc làm hiện nay trong thời
gian tới ở khu vực đô thị.
Phương hướng cơ bản có tính chất chiến lược để sử dụng hiệu quả

nhuần lao động và giải quyết việc làm ở nước ta thực tốt chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, tổ chức lại toàn bộ lao động xã hội để phát huy tiềm
năng các thành phần kinh tế kết hợp giải quyết việc làm tại chỗ là chính với
phân bố lại lao động theo vùng lãnh thổ, xây dựng các vùng kinh tế xã hội,
đồng thời mở rộng sự nghiệp lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ lao động hiện có và phổ cập lao
động xã hội, trước hết là cho thanh niên nhăm hình thành đội ngũ lao động
có cơ cấu, số lượng và chất lượng phù hợp với cấu trúc của hệ thống kinh
tế mới và yêu cầu lao động của thị trường lao động đang hình thành và phát
triển ở nước ta. Đa dạng hố việc làm trên cơ sở đó mà đa dạng hố thu
nhập, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phong phú và đa
dạng trong mối quan hệ đan xen giữa các thành phần kinh tế, coi trọng
khuyến khích các hình thức thu hút được nhiều lao động và phù hợp với
quy luật phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta (xí nghiệp vừa và nhỏ,
khu vực phi kết cấu ). Thành thị bao gồm các thành phố, thị xã, các khu
công nghiệp tập trung và du lịch. . mặc dù có tỷ trọng về dân số và lao
động không lớn so với khu vực nông thôn (khoảng 20-22% dân số cả nước)
nhưng lại là địa bàn tạp trung có mật độ dân cư, lao động cao, cũng là nơi
chịu tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường, thường dễ nảy sinh những
điểm nóng về các vấn đề kinh tế-xã hội, nhất là vấn đề việc làm. Vì vậy
giải quyết việc làm cho lao động thành thị vừa có tính chất cơ bản lâu dài,

18


vừa rất cấp bách trước mắt, đặc biệt là giải quyết việc làm cho lao động
thơi việc trong q trình sắp xếp lại lao động khu vực nhà nước, bộ đội xuất
ngũ, lao động ở nước ngoài trở về, thanh niên mới đến tuổi lao động, đối
tượng tệ nạn xã hội.
-Phương hướng rất quan trọng để giải quyết việc làm cho lao động

thành thị là phải gắn với chương trình phát triển các doanh nghiệp quy mô
lớn, nhất là ở các địa bàn có điều kiện lập các khu chế xuất, khu cơng
nghiệp tập trung, phát triển các tập đồn sản xuất mạnh của nhà nước ở các
vùng hoặc trên phạm vi cả nước, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn, các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngồi để tạo việc làm có giá trị
kinh tế cao và giá trị lao động cũng cao, phải phù hợp tính chất đặc thù của
lao động thành thị. Hướng này tuy phải đầu tư lớn, xuất đầu tư cho một
xuất làm việc cao, nhưng giải quyết được lao động có tay nghề, đồng thời
cũng tạo ra các tầng thu hút trình độ thấp trước hết là lao động dịch vụ.
Theo hướng này phải đặc biệt quan tâm đào tạo và hoàn thiện kỹ năng nghề
nghiệp cho người lao động thành thị ở trình độ cao thơng qua phát triển các
trung tâm huấn nghiệp cao cấp ở một số địa bàn trọng điểm. Các trung tâm
này chuyên bổ túc, nâng cao trình độ tay nghề phù hợp với cơng nghệ cao
hoặc hồn thiện kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động để cung ứng cho
các khu chế xuất, các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi (ngoại ngữ, sử
dụng máy vi tính, kiến thức về quản lý doanh nghiệp. . . ). Trung tâm hoạt
động theo cơ chế thị trường, người học và người sử dụng lao động phải trả
tiền. Cũng có thể dùng các trung tâm này để đào tạo (người ) đội ngũ lao
động đưa đi làm việc có thời hạn ở nước ngồi, từng bước hoà nhập với thị
trường thế giới.
- Giải quyết việc làm cho lao động thành phố, trước hết là thanh niên,
theo hướng trên tuy có nhiều khả năng nhưng khơng phải là hướng thu hút
nhiều lao động. Vì vậy cần thiết phải phát triển các lĩnh vực, các nghành
nghề có khả năng thu hút được nhiều lao động và phù hợp với đặc điểm của
19


lao động thành thị. Trong đó, phát triển các khu vực phi kết cấu, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực sản xuất-kinh doanh và dịch vụ
là hướng cần được đặc biệt quan tâm. Theo kinh nghiệm của các nước phát

triển như cộng hoà liên bang Đức, Nhật Bản, Malaysia. . , khu vực này
thường giải quyết viẹc làm cho khoảng 55-75% lực lượng lao động xã hội.
Đó là loại hình hoạt động rất phát triển, linh hoạt, tính thích nghi cao, con
đường phát triển là từ thấp lên cao phù hợp với khả năng tích luỹ và huy
động vốn trong dân. Khi nền kinh tế dang trong quá trình chuyển đổi, trong
khu vực nhà nước đang sắp xếp lại sản xuất và lao động, lao động dư thừa
tăng lên rất lớn, thì đây là lĩnh vực thu hút vốn lao động và giải quyết việc
làm cho nhiều người nhất. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích lĩnh
vực này phát triển và tạo điều kiện cho dân tự do sản xuất kinh doanh theo
pháp luật, mặt khác cần tổ chức và quy hoạch lại phố phường, vỉa hè, chợ ở
các thành phố, lợi dụng triệt để các nhà mặt phố để tổ chức sản xuất-kinh
doanh, tạo thêm việc làm cho người lao động. Phát triển hình thức gia cơng
sản xuất hàng hố tiêu dùng cho xuất khẩu cũng là hướng rất lớn để giải
quyết việc làm cho lao động thành thị. Phải coi gia công xuất khẩu cũng là
một quốc sách và lợi dụng tối đa ưu thế của nước ta là lao động rẻ, dễ tiếp
thu kỹ thuật và cơng nghệ mới, lại có nguồn nguyên liệu trong nước, tại
chỗ dồi dào. Vì vậy hướng phát triển gia công sản xuất ở Việt Nam là phải
đa dạng hố mặt hàng có cơng nghệ sử dụng được nhiều lao động như: may
mặc, giầy da, gốm sứ, lắp ráp điện tử. . và mở rộng thị trường, nhất là thị
trường các nước phát triển, trong đó coi trọng thị trường Châu á-Thái Bình
Dương. Bước đi của hướng này là từ thấp đến cao, có thể theo các giai
đoạn sau:
Giai đoạn 1: Chúng ta có lao động, đất, mặt bằng nhận gia cơng cho
nước ngồi để có việc làm, lấy tiền cơng là chủ yếu, cịn cơng nghệ, trang
thiết bị, vốn thị trường do đối tác nước ngoài lo.

20


Giai đoạn 2. Sau khi tích luỹ được vốn, chúng ta có một phần vốn

cùng với đối tác nước ngồi tổ chức sản xuất-kinh doanh, xuất khẩu để lấy
tiền công là chủ yếu và một phần ăn chia theo lợi nhuận. ở giai đoạn này
đối tác nước ngoài vẫn là người chủ yếu đảm bảo đầu tư vốn, công nghệ,
trang thiết bị và thị trường tiêu thụ.
Giai đoạn 3. Khi trong nước chủ động thị trường, tích luỹ vốn đadàu tư
ban đầu thì chuyển sang giai đoạn liên doanh với đối tác nước ngoài hoặc tự
tổ chức sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, tiến tới hội nhập với thị trường thế
giới.
Trong những năm trước mắt, hình thức gia cơng ở giai đoạn một là
chủ yếu, vì vậy chúng ta phải tích tốn giá gia cơng để để có thể cạnh tranh
đúng đối tác nước ngoài, thu hút được nhiều nguồn đầu tư. Trong điều kiện
đó nhiều khi chúng ta phải chấp nhận giá gia công thấp hơn so với một so
nước khác trong khu vực. Theo hướng đó có thể áp dụng được hình thức
làm việc tại nhà cho phụ nữ, vừa để kết hợp với phát triển kinh tế, vừa tạo
điều kiện cho phụ nữ chăm sóc con cái, phục vụ gia đình.
Phát triển các cơ sở dịch vụ công cộng và sự nghiệp nhà ở trong các
thành phố, thị xã sẽ tạo ra rất nhiều việc làm cho thanh niên thành thị đặc
biệt là ở một số thành phố lớn ( Hà Nội, Hải Phòng, . . ), các khu công
nghiệp tập trung kể cả khu chế xuất. Nhà nước cần sớm có quy hoạch tổng
thể mặt bằng, có chính sách hợp lý về đất đai tạo điều kiện cho dân được
phép xây nhà hợp pháp. . Sẽ tạo ra khả năng to lớn trong việc huy động vốn
trong dân để phát triển việc làm thông qua việc phát triển nhà ở, các dịch
vụ công cộng. . Khai thác tiềm năng kinh tế vùng ven thành phố, thị xã
trong mối quan hệ và liên kết kinh tế giữa nội ngoại thành là hướng quan
trọng để tạo việc làm cho lao động thành thị. Theo hướng này cần hình
thành các vành dai cung cấp và tiêu thụ sản phẩm giữa thành thị và nông
thôn đồng thời chuyển những cơ sở sản xuất cơng nghiệp thích hợp từ nội

21



thành ra ngoại thành, tạo cụm kinh tế vệ tinh của các thành phố thị xã. Mặt
khác, hình thành hệ thống dịch vụ con thoi giữa nội, ngoại thành để giải
quyết việc làm cho lao động thành thị.
Ban hành và tổ chức hệ thống pháp luật, chủ trương chính sách đồng
bộ nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển hướng về xuất khẩu và phát triển
bền vững để tạo mở việc làm mới, kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với
giải quyết việc làm.
Duy trì, bảo đảm việc làm cho người lao động, chống sa thải công
nhân, từng bước hình thành chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để tạo việc làm cho người
thất nghiệp, thiếu việc làm.
2- Các giải pháp chủ yếu về vấn đề việc làm và thất nghiệp ở đô thị.
Giải quyết việc làm phảo được coi là quốc sách hàng đầu của chính
phủ, chính sách giải quyết việc làm phải được đặt thành một hệ thống
xuyên suất từ giáo dục đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khoẻ đến tạo việc
làm bố trí sử dụng hợp lý lực lượng lao động và được xem xét đồng bộ
trong hệ thống các chính sách kinh tế- xã hội phù hợp với mục tiêu của
chiến lược phát triển đã được nêu ra trong văn kiện đại hội Viii của đảng.
Do vậy giải quyết việc làm không chỉ đơn thuần là nhiệm vụ của nghành
lao động mà còn trách nhiệm của tất cả các cấp các nghành, các đơn vị cơ
sở phường quận cũng như của mỗi gia đình và cá nhân của mỗi người lao
động. Chỉ có trên cơ sở huy động đồng bộ trong một thể thống nhất mọi
nguồn lực xã hội mới có thể tạo được mơi trường và điều kiện thuận lợi về
kinh tế, xã hội và pháp lý nhằm khuyến khích duy trì làm việc, tự tạo việc
làm và tạo mở thêm nhiều chỗ làm việc mới phát triển việc làm thường
xuyên, ổn định và có hiệu quả.
Tổ chức có hiệu quả các cuộc điều tra lao động việc làm của trung
ương quy định. Từ cuộc điều tra của nghành lao động-Thương Binh xã hội
22



thành phố về lao độngchưa có việc làm, việc thực hiện công tác thống kê,
tổng hợp, lập danh sách lao động chưa có việc làm của thành phố để
chuyển giao cho quận, huyện, phường đồng thời hướng dẫn quy trình tổ
chức cập nhập lao động chưa có việc làm thành phố theo địng hướng 6
tháng, năm.
Hướng dẫn các doanh nghiệp báo cáo nhu cầu thu hút lao động theo định
kỳ 6 tháng, năm. Từ đó đối chiếu cung cầu thị trường lao động để cung cấp
những thông tin lập kế hoạch dự báo nhu cầu đào tạo gắn giải quyết việc làm
trên địa bàn thành phố. Phát triển hoạt động tổ thông tin thống kê dự báo lao
động.
Tổ chức thực hiện và giám sát thi hành các chính sách đối với lao động
nữ.
Tiếp tục phát triển chương trình xuất khẩu lao động, tổ chức có hiệu
quả các chương trình dự ánnhỏ vay vốn quỹ việc làm quốc gia, chương
trình xố đối giảm nghèo và các chương trình liên tục về việc làm giữa
nghành lao động-thương binh xã hội và các đoàn thể.
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp việc làm nâng cao thu nhập trong cá
doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực kinh tế phi chính quy.
Giải quyết việc làm phải gắn liền với việc đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng cơng nghiệp hố.

23


KẾT LUẬN
Với tồn bộ nội dung đã trình bày ở trên chúng ta thấy rằng việc xem
xét thực trạng đưa ra các phương hướng giải quyết vấn đề về việc làm, thất
nghiệp ở đơ thị có vai trị quan trọng trong giai đoạn hiện nay của nước ta.

Vì cùng với q trình đơ thị hố thì vấn đề giải quyết sắp xếp việc làm cho
người lao động ở đô thị là cần thiết, người lao động có thu nhập dẫn đến
thu nhập quốc dân hàng năm tăng. Một xã hội có nền kinh tế phát triển tỷ lệ
thát nghiệp thấp, những người thất nghiệp được bảo hiểm thất nghiệp, kỷ
luật, kỷ cương xã hội được thiết lập, duy trì và đẩy mạnh thì các tệ nạn xã
hội bị đẩy lùi dần.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề này trong nhiều năm qua
Đảng và nhà nứơc ta đã kiên trì thực hiện chính sách đổi mới, phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nên đã làm thay đổi đáng kể cơ cấu
việc làm và gia tăng việc làm trong mọi thành phần kinh tế. Trong điều
kiện hiện nay- việc làm thát nghiệp ở đô thị luôn được các nhà lãnh đạo
quan tâm hàng đầu và đưa ra những phương pháp giải quyết phù hợp với
tình hình thực tế.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Ngọc Linh đã tận tình hướng
dẫn em hồn thành bài viết này.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-/

Giáo trình kinh tế lao động - NXB Giáo dục

2-/

Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam

3-/


Đề cương báo cáo vấn đề giải quyết việc làm và xố đói giảm

nghèo.
4-/

Tạp chí lao động và xã hội.

5-/

Tạp chí thơng tin thị trường lao động

6-/

Tạp chí con số và sự kiện

25


×