Chuyên đề thực tập
Phần Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Trong nhiều thập kỷ qua, an ninh lương thực luôn là vấn đề bức xúc
của tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Tìm kiếm giải pháp đảm bảo an ninh lương thực cho tất cả mọi người
không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia nghèo mà nó đã trở
thành vấn đề thời sự mang tính toàn cầu. Nhiều sách báo, nhiều tổ chức và
cá nhân, nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế đã thường xuyên đề cập
và thảo luận về chương trình an ninh lương thực quốc gia và toàn cầu. Từ
đó họ đã rút ra một kết luận hết sức có ý nghĩa đó là: giải quyết kịp thời vấn
đề lương thực là trung tâm của mọi cố gắng hiện nay để phát triển kinh tế
xã hội một cách bền vững.
Ở Việt Nam, sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và
Chính phủ, sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lương thực nói
riêng đã có bước phát triển nhanh, liên tục và tương đối ổn định. Sản xuất
nông nghiệp tăng trưởng nhanh với tốc độ bình quân 4.3%/năm. Từ năm
1988 đến nay, sản lượng lương thực (gạo, ngô, sắn) liên tục tăng với mức
hơn 1 triệu tấn/năm, tốc độ tăng bình quân là 5%, gấp 2 lần mức tăng dân
số. Năm 2000 sản lượng lương thực đạt trên 34 triệu tấn, bình quân lương
thực đầu người đạt gần 450 kg. Nhờ vậy hầu hết dân cư đã có đủ lương
thực để dùng. Sản xuất các loại thực phẩm, như rau, quả, cá, thịt,… cũng
tăng nhanh đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nước và có dư để xuất
khẩu. Sau đổi mới, Việt Nam từ một nước thiếu lương thực phải nhập khẩu
hàng năm trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo chủ yếu trên thế
giới với số lượng lương thực xuất khẩu trên 3 triệu tấn/năm.
An ninh lương thực ở nước ta đang được thiết lập và đã đạt được
những thành công to lớn trên nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, việc đảm bảo an
Thiều Đình Trọng KTNN 47
1
Chuyên đề thực tập
ninh lương thực vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là khả năng tiếp cận lương
thực của mọi tầng lớp dân cư còn thấp và không đồng đều. Do khả năng
tiếp cận lương thực của các hộ gia đình còn hạn chế nên trên thực tế hiện
nay tại Việt Nam vẫn còn trên 17% hộ đói và trên 40% trẻ em dưới 5 tuổi
suy dinh dưỡng. Mức tiêu dùng bình quân nhiều loại thực phẩm còn thấp so
với thế giới. Một bộ phận dân cư có mức tiêu dùng lương thực thực phẩm
quá thấp (dưới 2100 kcal/ngày), bấp bênh và có sự chênh lệch giữa các
vùng, giữa thành thị và nông thôn.
Có thể nói an ninh lương thực hiện nay đã trở thành yêu cầu mang
tính pháp lý của mỗi quốc gia, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài vần đề
này trong quá trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước. Có thực mới vực được đạo, sự đúc kết kinh nghiệm đó cho thấy giữ
được an ninh về lương thực đảm bảo được an huy xã hội sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho tất cả các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, sản xuất, kinh doanh,
vượt qua mọi khó khăn, thách thức trước mắt tiếp tục đưa nền kinh tế trong đó
có sản xuất lương thực phát triển ổn định, bền vững.
Với tâm nguyện góp phần nâng cao nhận thức về an ninh lương thực,
đồng thời tìm ra những giải pháp hợp lý để đạt được an ninh lương thực
một cách bền vững, là một sinh viên kinh tế nông nghiệp, trước thực trạng
trên em xin mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài:
“ Thực trạng an ninh lương thực tại Việt Nam và các biện pháp khắc
phục”.
2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề an ninh lương thực
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, nghiên cứu vấn đề tại Việt Nam
Về thời gian, giai đoạn 2006-2009
Thiều Đình Trọng KTNN 47
2
Chuyên đề thực tập
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề an ninh lương thực tại Việt Nam nhằm phản ánh
thực tiễn tình hình an ninh lương thực quốc gia, đồng thời tìm hiểu những
ảnh hưởng của tình hình an ninh lương thực thế giới đối với Việt Nam, từ
đó góp phần làm sáng tỏ nội dung, yêu cầu về an ninh lương thực ở Việt
Nam trong quá trình phát triển đất nước. Đồng thời, góp phần bổ sung
phương pháp nghiên cứu, đánh giá an ninh lương thực quốc gia, phân tích
điều kiện, khả năng cũng như các trở ngại của Việt Nam trong quá trình phát
triển để đề ra giải pháp thực hiện an ninh lương thực một cách bền vững
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trước hết hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan vấn đề an ninh lương
thực. Sau đó, phản ánh thực tiễn tình hình an ninh lương thực tại Việt Nam,
khẳng định những thành công đã đạt được và tìm ra những khó khăn bất ổn
còn tồn tại trong hoạt động bảo đảm an ninh lương thực tại Việt Nam để có
những giải pháp phù hợp.
4. Vấn đề nghiên cứu
Tình hình an ninh lương thực tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài luận văn được viết ra dựa trên phương pháp nghiên cứu là phương
pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải các tài liệu thu được từ Tổng công ty
lương thực Miền Bắc và kết hợp với quan sát, phỏng vấn đề thu thập thông
tin thực tế .
Kết cấu của chuyên đề gồm có ba phần:
Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về an ninh lương thực.
Chương II : Thực tiễn tình hình an ninh lương thực tại Việt Nam
Chương III : Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những bất ổn.
Sau đây ta đi vào dàn ý chi tiết từng chương :
Thiều Đình Trọng KTNN 47
3
Chuyên đề thực tập
Phần Nội Dung
Chương I
Cơ sở lý luận và thực tiễn về an ninh lương thực
1. Khái niệm, vai trò của an ninh lương thực
1.1. Khái niệm an ninh lương thực
Khái niệm về an ninh lương thực được Tổ chức Lương - Nông Liên
Hiệp Quốc (FAO) đưa ra vào thập niên 80 của thế kỷ trước với ba nội dung
để một nước được cho là bảo đảm an ninh lương thực: (1) Có đủ lương
thực cho cả nước, (2) Có khả năng cung cấp lương thực ổn định và điều
hòa cho mọi người đang sống trên lãnh thổ và (3) tất cả mọi người dân có
đủ khả năng mua lương thực khi cần. Ba nội dung này đã được Ủy ban An
toàn lương thực thế giới và Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên Hiệp Quốc
thừa nhận sau một thời gian dài tranh cãi vì nhận thấy đây là những yêu cầu
khắc nghiệt. Một quan điểm khác cho rằng một quốc gia được xem là đạt
an ninh lương thực khi tỷ lệ tăng sản lượng lương thực hàng năm cao hơn
tỷ lệ tăng dân số.
An ninh lương thực là một trạng thái mà không lúc nào con người bị
đói, nghĩa là họ có đủ các chất dinh dưỡng cho một cuộc sống hiệu quả,
hoạt bát và khỏe mạnh. Tuy nhiên sẵn có nguồn lương thực chưa phải một
điều kiện để bảo đảm an ninh, bởi vì con người vẫn có thể bị chết đói khi
lương thực dồi dào. Trong một thế giới tiến bộ như ngày nay vẫn còn hơn
800 triệu người bị đói. Vấn đề chủ yếu ở chỗ việc phân phối lương thực
kém hiệu quả và con người thiếu khả năng mua hàng. Qua đó có thể thấy
ngoài nhân tố ảnh hưởng của thiên tai đối với khả năng sản xuất lương
thực, các chính sách và trình độ quản lý kinh tế của các chính phủ cũng
đóng góp một phần không nhỏ vào việc bảo đảm nguồn cung cấp lương
thực cũng như thu nhập cho người dân.
Thiều Đình Trọng KTNN 47
4
Chuyên đề thực tập
Mục tiêu chiến lược an ninh lương thực của Việt Nam đến năm 2020
là: “Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực ở từng hộ gia đình và trên
phạm vi toàn quốc trong mọi tình huống bằng việc đẩy mạnh phát triển sản
xuất lương thực, chủ yếu là lúa và ngô trên cơ sở ổn định diện tích đất lúa
nước, tăng cường thâm canh tăng năng suất, sản lượng, tăng hiệu quả và
thu nhập cho người sản xuất lương thực, tăng khả năng tiếp cận đủ lương
thực của mọi người dân trong mọi tình huống”.
1.2. Vai trò của an ninh lương thực đối với đời sống xã hội
Theo các tài liệu chính thức của Liên Hợp Quốc, an ninh lương thực là
một trong 7 nhân tố cấu thành an ninh con người cùng với các nhân tố khác
đó là: an ninh kinh tế, an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá
nhân, an ninh cộng đồng và an ninh chính trị.
An ninh lương thực đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống cũng
như trong hoạt động sản xuất kinh doanh của cong người. An ninh lương
thực đảm bảo cho người dân có đủ lương thực để dùng trong một thời gian
dài. Một nền kinh tế có an ninh lương thực tốt nghĩa là người dân sống
trong đó không còn phải lo về việc thiếu lương thực hay không đủ khả năng
để mua lương thực khi cần thiết. Đặc biệt trong quá trình đô thị hóa đang
diễn ra rất nhanh ở các nước đang phát triển cùng với việc sử dụng lúa gạo
vào những mục đích khác nhau thì vấn đề an ninh lương thực ngày càng
được quan tâm hơn bao giờ hết.Theo ông Jean Ziegler, một đại diện của
Liên Hợp Quốc nhận xét: “ việc dùng cây lương thực để sản xuất khối
lượng lớn nhiên liệu sinh học là một tội ác vì nó tác động trực tiếp tới giá
lương thực trên toàn cầu, đe doạ cuộc sống của hàng triệu người”. Hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều sử dụng gạo làm lương thực để dự trữ. Số lượng gạo
dự trữ này hàng năm đều tăng do vấn đề tăng dân số. Khi gặp sự cố bất ngờ
như thiên tai bão lũ... mùa màng thất bát thì Chính Phủ các nước sẽ sử dụng
dến lượng lương thực dự trữ này cứu trợ nhân dân.
Thiều Đình Trọng KTNN 47
5
Chuyên đề thực tập
Vấn đề an ninh lương thực hiện nay đang đứng trước những báo động
nghiêm trọng. Theo định nghĩa về an ninh lương thực: “an ninh lương thực
là khả năng tất cả mọi người ở mọi lúc có đủ lương thực cho việc duy trì
cuộc sống khỏe mạnh và đáp ứng yêu cầu hoạt động thể chất bình thường,
kể cả hoạt động lao động của con người ”. Song thực tế thì khả năng này
ngày nay đang dần bị đe dọa một cách nghiêm trọng. Bằng chứng xác thực
nhất là cuộc khủng hoảng lương thực trong năm 2008 vừa xảy ra. Hàng loạt
những tín hiệu về việc thiếu lương thực trên thế giới đã được phát đi. Kết
quả là cuộc chạy đua tăng giá lúa gạo trên thị trường thế giới. Vì vấn đề
này mà ở một số nước những biến động về chính trị, xã hội đã gây ảnh
hưởng đến đời sống người dân. Tại Thái Lan, chính phủ đã phải triển khai
quân đội để ngăn chặn tình trạng cướp lương thực trên cánh đồng và các
nhà kho. Trong tháng qua, nhiều vụ bạo động đã xảy ra tại các nước như Ai
Cập, Indonesia, Philippines, Bangladesh,... do cuộc khủng hoảng lương
thực. Tình trạng bất ổn vì thiếu lương thực cũng đã xảy ra tại nhiều nơi
thuộc châu Á. Sự cảnh báo về một "thời kỳ xung đột kéo dài" và sẽ xuất
hiện các dạng xung đột mới khác bắt nguồn từ việc thiếu lương thực và giá
cả tăng.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến an ninh lương thực
- Sản lượng lương thực:
Về lương thực, chủ yếu có ba loại ngũ cốc: lúa gạo, lúa mì, ngô với quá
nửa diện tích đất đai trồng trọt trên hành tinh. Chỉ riêng lúa gạo và lúa mì cung
cấp chừng 40% năng lượng về thức ăn của loài người.
Lúa gạo là cây lương thực quan trọng hơn cả do nó thích ứng với nhiều
điều kiện khí hậu và sinh thái rất khác nhau: nhiệt đới, ôn đới, vùng cao, khô,
vùng thấp có nước.
Lúa mì đứng hàng thứ hai sau lúa gạo về cây lương thực chủ yếu. Lúa mì
thích nghi với khí hậu ôn đới, mùa đông lạnh ẩm, năng suất bình quân khoảng
20 tạ/ha trên diện tích 210 triệu ha và tổng sản lượng thế giới là 355 triệu tấn.
Thiều Đình Trọng KTNN 47
6
Chuyên đề thực tập
Ngô là loại cốc đứng thứ ba, sản lượng ngô trên thế giới khoảng 322 triệu tấn
với 40% diện tích tập trung ở Bắc và Trung Mỹ. Xét về giá trị dinh dưỡng thì
lúa có năng lượng tổng số - 234 Kcal/100g và protein - 4,4%, còn ở ngô là 327
Kcal/100g và 7,6%. Tuy nhiên, lúa gạo có khá đầy đủ các loại axit amin cần
thiết, trong khi đó, ngô thiếu hẳn hai loại quan trọng mà cơ thể không thể tổng
hợp được là lizin và priptophan
Tuy nhiên, hiện nay an ninh lương thực đang đối diện với cuộc khủng
hoảng nghiêm trọng mà nguyên nhân chủ yếu là thiếu lương thực. Con người
không có đủ lương thực để sống vì sản lượng lương thực đang giảm sút đến
mức báo động. Chính vì vậy, sản lượng lương thực là nhân tố tiên quyết đến
vấn đề an ninh lương thực không chỉ cho mỗi quốc gia mà còn cho toàn cầu.
Muốn giải quyết được cuộc khủng hoảng lương thực hiện nay thì trước hết cần
có chiến lược tăng sản lượng lương thực, đảm bảo lương thực cho cả những
vùng khó khăn nhất trên thế giới.
- Khí hậu:
Khí hậu là một trong những yếu tố tác động đến sản lượng lương thực
bởi, từ xưa tới nay việc sản xuất gieo trồng các cây lương thực phần lớn
phụ thuộc vào thời tiết cụ thể là nguồn nước mưa và nhiệt độ. Hiện nay 2/3
dân số trên thế giới đang sống ở các khu vực nông thôn, đa số tại các nước
đang phát triển.
Biến đổi khí hậu sẽ gây ra tình trạng mất cân bằng về khí hậu, mưa
nhiều ở các khu vực khí hậu ôn hòa nhưng lại gây ra hạn hán ở các vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới. Hạn hán sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động
nông nghiệp làm giảm sản lượng lương thực. Châu Phi là châu lục dễ bị
ảnh hưởng nhất khi lượng mưa giảm. Sản lượng nông nghiệp đang giảm
sút, gây ra nạn đói kém. Theo TTXVN, Ủy ban Liên chính phủ về khí hậu
thay đổi của LHQ dự kiến vào cuối thế kỷ này, mực nước biển sẽ dâng cao
từ 18 đến 59 cm và các đảo quốc nhỏ thuộc vùng châu thổ Mega ở châu Á
nằm trong số những nơi bị đe dọa nghiêm trọng nhất.
Thiều Đình Trọng KTNN 47
7
Chuyên đề thực tập
- Dân số:
Dân số là một trong những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh
lương thực. Dân số tăng sẽ dẫn đến nhu cầu tiêu thụ lương thực tăng, diện
tích đất sử dụng cho nông nghiệp sẽ ít nhiều bị giảm đi do phải nhường cho
đất sinh hoạt. Khi cung về lương thực không kịp đáp ứng cầu lương thực
sẽ dẫn đến khủng hoảng lương thực( thiếu lương thực, giá lương thực
tăng…)
- Diện tích đất Nông nghiệp:
Cùng với dân số thế giới ngày càng tăng, các đô thị, trung tâm công
nghiệp ngày càng nhiều thì tỉ lệ nghịch với nó là diện tích đất nông nghiệp
ngày càng ít đi vì phải chuyển đổi mục đích sử dụng. Chưa kể đến những
tàn phá của con người gây ô nhiễm môi trường, đất bị xói mòn, bạc màu
hiệu quả sử dụng không cao. Đây là những tín hiệu không vui cho thế giới
về vấn đề tăng năng suất lương thực
Sự phát triển là tất yếu, nhưng điều đáng nói là sự phát triển lọn xộn,
thiếu quy hoạch đã làm cho nhiều quốc gia trên thế giới rơi vào tình trạng
mất đất đai dành cho trồng trọt. Vì vậy, mỗi quốc gia cần có những hành
động rõ ràng, cụ thể hơn để bảo vệ đất nông nghiệp nhằm đảm bảo an ninh
lương thực một cách bền vững.
- Tình hình kinh tế - xã hội trên thế giới:
Đây là một trong những nhân tố có tác động gián tiếp đến tình hình an
ninh lương thực. Nếu tình hình kinh tế - xã hội trên thế giới ổn định thì sẽ
là môi trường tốt để các ngành nông nghiệp phát triển và lương thực sẽ
được đảm bảo. Ngược lại, nếu có chiến tranh, bạo động, dịch bệnh…tàn
phá thì chắc chắn an ninh lương thực sẽ bất ổn.
3. Đặc điểm tình hình an ninh lương thực thế giới và những
ảnh hưởng đối với Việt Nam
3.1. Đặc điểm tình hình an ninh lương thực thế giới
Đặc điểm 1: Thế giới đang đối phó với cuộc khủng hoảng lương
Thiều Đình Trọng KTNN 47
8
Chuyên đề thực tập
thực gây hậu quả nghiêm trọng
Chưa bao giờ, vấn đề an ninh lương thực lại được thế giới đặt ra một
cách cấp bách như hiện nay. Theo thống kê, trong 3 tháng đầu năm 2008,
giá gạo luôn ở mức cao, hiện đã tăng khoảng 70% trong bối cảnh nguồn
cung giảm mạnh. Những bất ổn về an ninh lương thực ảnh hưởng trực tiếp
tới sự ổn định của các nước và an ninh quốc tế. Khủng hoảng lương thực có
thể kích động làn sóng di cư, bạo loạn, khủng bố, trồng cây thuốc phiện...
Ðó là chưa kể các cuộc chiến tranh do nạn đói gây ra. Các nhà phân tích
cho rằng, cuộc khủng hoảng lương thực vẫn đang hiện hữu và vấn đề an
ninh lương thực vẫn là bài toán khó giải.
Đánh giá mới nhất của FAO cho thấy tình hình khẩn cấp về lương
thực vẫn còn hiện diện ở 34 quốc gia trên toàn thế giới. Con số này đã giảm
so với 39 nước theo đánh giá trước của CFS. 26 trong số 34 nước này ở
châu Phi, số còn lại chủ yếu ở châu Á và các vùng khác.
Tổng Giám đốc FAO J. Diouf cho rằng, tình trạng mất an ninh lương
thực hiện nay trên thế giới là "quá sức chịu đựng" và ông đã kêu gọi triệu
tập Hội nghị cấp cao thế giới về khủng hoảng lương thực, dự kiến sẽ họp
vào tháng 11 năm 2009 tại Roma (Italy) nhân kỳ họp lần thứ 36 của FAO.
Ông Diouf cho biết, hội nghị nhằm tạo dựng sự đồng thuận của các quốc
gia về mục tiêu cắt giảm nhanh chóng, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn tình trạng
đói ăn trên toàn cầu, đồng thời hình thành một trật tự lương thực thế giới
mới. Ông hy vọng hội nghị này sẽ tạo ra sự phối hợp chặt chẽ hơn trên toàn
cầu trong nỗ lực bảo đảm an ninh lương thực thế giới. Dự kiến hội nghị
cũng thảo luận về các vấn đề chính sách và cơ cấu của hệ thống nông
nghiệp thế giới, đưa ra các giải pháp về chính trị, tài chính và kỹ thuật bền
vững, nhằm giải quyết tình trạng mất an ninh lương thực toàn cầu hiện nay.
Từng quốc gia và cộng đồng quốc tế với vai trò chủ đạo của Liên hợp
quốc đã và đang có nhiều nỗ lực, tăng cường hợp tác đấu tranh, chống chọi
với cuộc khủng hoảng lương thực.
Thiều Đình Trọng KTNN 47
9
Chuyên đề thực tập
Đặc điểm 2: Thiếu lương thực do những bất ổn về khí hậu. Liên
Hợp Quốc kêu gọi cả thế giới chung tay giải quyết nạn đói
Thị trường lương thực rất nhạy cảm với vấn đề khí hậu. Khí hậu tác
động đến hiệu quả thu hoạch lương thực và chất lượng của các sản phẩm
lương thực. Trong đó, hạn hán và rét đậm là hai nhân tố chính tác động trực
tiếp đến sản lượng lương thực thế giới.
Tại châu Phi, do chịu ảnh hưởng của yếu tố hạn hán đã dẫn đến tình
trạng giảm thiểu lương thực của Kenya vào thời điểm cuối năm 2008.
Tháng 09/2008, Chính phủ nước này cho biết, có tới 10 triệu dân trong tổng
số 35 triệu dân của họ phải đối mặt với nguy cơ mất mùa.
Để ứng phó với hạn hán đòi hỏi các quốc gia cần phải đưa ra các giải
pháp đảm bảo an ninh lương thực, góp phần làm giảm bớt những tổn thất
do nó mang lại.
Tại “vựa lúa” châu Á, chính phủ các nước cũng đang phải nỗ lực đảm
bảo an ninh lương thực. Thái Lan - nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới,
các doanh nghiệp đầu mối cũng phải tiếp tục gom hàng và huỷ hợp đồng
với đối tác xuất khẩu. Chính phủ Thái-lan dự định đề xuất ASEAN thành
lập "Quỹ và kho dự trữ thóc gạo" nhằm bảo đảm an ninh lương thực. Kế
hoạch trên nhằm ngăn chặn khả năng thiếu gạo trong các nước ASEAN,
nơi có tổng dân số lên tới 550 triệu người, khi giá gạo tăng đột biến trên thị
trường. Là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, Thái-lan sẽ lập các kho dự
trữ riêng để phục vụ kế hoạch an ninh lương thực của ASEAN. Bên cạnh
đó, mỗi nước thành viên cùng đóng góp vốn hoặc thóc gạo cho quỹ này.
Chính phủ các nước khu vực sẽ tính toán giá gạo dựa trên giá thị trường.
Thái-lan đề nghị quỹ gạo dự phòng của ASEAN mỗi năm sẽ ở mức khoảng
ba triệu tấn. Thái-lan đánh giá kế hoạch trên không chỉ giúp tăng cường vai
trò quản lý và bảo đảm an ninh lương thực cho ASEAN, mà còn nâng cao
năng lực điều hành chương trình dự trữ gạo của chính phủ và góp phần
Thiều Đình Trọng KTNN 47
10
Chuyên đề thực tập
bình ổn giá gạo trên thị trường, giúp Thái-lan có thêm kênh bán gạo cho
các nước thành viên ASEAN khác.
Tại Ấn Độ, quốc gia xuất khẩu 4 triệu tấn gạo/năm cũng áp đặt lệnh
cấm xuất khẩu tất cả các loại gạo, trừ gạo basmati, để đảm bảo có đủ lương
thực cung cấp cho hơn một tỉ người và giảm sức ép tăng giá trong nước...
Theo FAO, lượng dự trữ lúa mì của thế giới hiện ở mức thấp nhất trong
vòng 25 năm qua. Những năm trước, Quỹ Dự trữ an ninh lương thực thế giới là
140 triệu tấn gạo, nhưng đến năm nay chỉ còn 76 triệu tấn. Trong năm 2007,
nhu cầu lương thực trên thế giới cần 245 triệu tấn gạo, trong khi các nước sản
xuất lương thực chỉ có thể sản xuất khoảng 240 triệu tấn.
Với Pháp, đây là năm thứ ba liên tiếp nước này phải chứng kiến cảnh mất
mùa lúa mì. Năm 2006, đợt nắng nóng khủng khiếp đã làm cho ngành nông
nghiệp Pháp thất thu, sản lượng nông nghiệp sụt giảm nghiêm trọng. Bộ Nông
nghiệp Pháp thông báo, sản lượng lúa mì năm nay sẽ tiếp tục giảm, chỉ có thể
đạt 32,5 triệu tấn, thấp hơn 2,5% so với năm 2006.
Ở Australia, sản lượng ngũ cốc theo vụ trong năm 2007 đã giảm từ 25
triệu tấn xuống còn 10 triệu tấn. Ukraine cũng phải hạ chỉ tiêu xuất khẩu lương
thực xuống dưới mức 2,5 triệu tấn để bảo đảm an ninh lương thực quốc nội.
Chính sách tăng cường sản xuất nhiên liệu sinh học và giảm diện tích trồng cây
lương thực và thiên tai lũ lụt nặng nề cũng đang làm cho Mỹ và Ðức có nguy
cơ rơi vào tình trạng bất ổn về lương thực.
Nguy cơ thiếu lương thực đang đe dọa 28 quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
Zimbabwe và Lesotho ở châu Phi. An ninh bất ổn ở miền nam Somalia và
Sudan trở thành nguyên nhân chính khiến người dân ở các khu vực này khó
kiếm được thức ăn, nhất là ở vùng Darfur của Sudan.
Ðể bảo vệ người dân các nước nghèo, giải pháp duy nhất là thúc đẩy
nông nghiệp phát triển. Tuy nhiên, những năm gần đây, các dự án đầu tư
nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp ở nhiều nước đang phát triển vẫn
chưa đem lại hiệu quả. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay cũng hạn chế
Thiều Đình Trọng KTNN 47
11
Chuyên đề thực tập
khả năng vay vốn của nông dân, trong khi tình trạng sụt giảm trao đổi mậu
dịch toàn cầu khiến các nhà nhập khẩu lương thực lo ngại. Trước tình trạng
người dân các nước nghèo luôn phải sống trong cảnh thiếu ăn, các tổ chức
quốc tế đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi các nước giàu thể hiện trách nhiệm
của mình và tăng cường trợ giúp các nước nghèo. FAO cho biết, để đẩy lùi
nạn đói mỗi năm thế giới chỉ cần chi thêm khoảng 30 tỷ ơ-rô nhằm khuyến
khích sản xuất hộ gia đình ở khu vực nông nghiệp.
Trong bối cảnh này, mới đây, Tổng thống Mỹ B. Obama thông báo, do
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Mỹ sẽ tăng gấp đôi viện trợ lương thực và
nông nghiệp dành cho châu Phi, Mỹ la-tinh và các khu vực nghèo khác, lên
hơn một tỷ USD. Ông Obama nêu rõ, mục tiêu của Mỹ là "trao cho người
dân công cụ mà họ cần để tự thoát khỏi nghèo đói". Trong khi đó, Pháp dự
định thành lập một quỹ đầu tư để hỗ trợ phát triển nông nghiệp châu Phi.
Tuy nhiên, các chuyên gia của FAO chỉ rõ rằng, trong khi nhu cầu nông sản
thế giới gia tăng, hiện tượng biến đổi khí hậu làm trầm trọng thêm nguy cơ
thiếu ăn và bùng nổ giá cả, các nước giàu vẫn tiếp tục không chú ý đúng
mức tới vấn đề lương thực. Ðiều đó được thể hiện rõ tại Hội nghị cấp cao
Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G-20) mới đây khi an ninh
lương thực không phải là chủ đề ưu tiên. Các chuyên gia cảnh báo, những
hình ảnh về nạn đói và tình trạng bạo động do thiếu lương thực tại châu Á,
châu Phi, Mỹ la-tinh cách đây đúng một năm vẫn còn nóng hổi.
Đặc điểm 3: Giá lương thực tăng đến mức chóng mặt
Kể từ năm 2002, giá lương thực quốc tế bắt đầu có dấu hiệu tăng và thể
hiện rõ nét nhất qua những năm gần đây. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc,
chỉ tính riêng năm 2007, giá lương thực đã tăng 42%. Đến năm 2008, giá mặt
hàng này tiếp tục leo thang. Các chuyên gia đã đưa ra những nguyên nhân chủ
yếu đó là: nhu cầu về lương thực trên thế giới cao, sự phát triển của nhiên liêu
sinh học đã lấn át nguồn lương thực, giá dầu tăng dẫn đến việc gia tăng giá
thành sản xuất và vận chuyển lương thực, biến đổi khí hậu dẫn đến chất lượng
Thiều Đình Trọng KTNN 47
12
Chuyên đề thực tập
nguồn lương thực bị giảm sút và ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ trên thị
trường.
Đến cuối nửa năm 2008, tuy giá lương thực, dầu mỏ và các mặt hàng khác
có dấu hiệu lắng xuống nhưng vẫn duy trì ở mức cao. Theo thống kê của Tổ
chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), khoảng cách giá lương thực thế giới
đầu và cuối năm đã giảm 50%. Tuy nhiên so với những năm trước đây, giá gạo
trên thế giới vẫn cao. Tính đến tháng 10, chỉ số giá lương thực theo FAO tăng
28% so với năm 2006.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động không nhỏ đến giá lương
thực. Tháng 10 vừa qua, chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) Robert B. Zoellick
đã chỉ ra rằng: "trong khi nhân dân các quốc gia phát triển quan tâm chủ yếu
đến khủng hoảng kinh tế thì rất nhiều người thuộc các nước đang phát triển lo
lắng về ảnh hưởng của giá lương thực và nhiên liệu đang đè nặng lên nền kinh
tế của họ". Theo thống kê của WB, năm 2008 số người bị suy dinh dưỡng vì
thiếu lương thực đã tăng lên 44.000.000 người với tổng số là 967 triệu người.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế nên rất có thể kinh tế
của những quốc gia đang phát triển trong năm tới sẽ có dấu hiệu chậm lại,
nguồn thu từ kiều hối cũng giảm đi đáng kể. Từ đó dẫn đến việc kinh tế nông
thôn trở thành nguồn thu chính của những quốc gia này.
Hội nghị thượng đỉnh quốc tế về khủng hoảng lương thực được tổ
chức vào tháng 6-2008 tại Roma nhằm tìm giải pháp cấp bách cho vấn đề
này. Theo Ngân hàng Thế giới (WorldBank) cảnh báo giá lương thực sẽ
còn biến động mạnh trong năm 2008, 2009 và tiếp tục ở mức cao. Tại phiên
bế mạc Hội nghị mùa xuân của IMF và Ngân hàng Thế giới (WB) tại
Washington ông Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Dominique
Strauss-Kahn nhận đinh "Giá lương thực nếu vẫn tiếp tục đà gia tăng như
hiện nay sẽ gây ra những hậu quả khủng khiếp. Hàng trăm nghìn người có
nguy cơ bị chết đói, dẫn tới sự sụp đổ của các môi trường kinh tế".
Thiều Đình Trọng KTNN 47
13
Chuyên đề thực tập
Tại thời điểm này, tình trạng trì trệ của nền kinh tế Mỹ (đe doạ kéo
theo sự giảm sút về kinh tế của các nước khác) cũng không “nóng” bằng sự
thiếu hụt lương thực đang xảy ra tại nhiều quốc gia. Theo Tổ chức Lương
thực thế giới FAO vật giá leo thang là “thủ phạm” gây nên cuộc khủng
hoảng này. Giá cả leo thang có nghĩa là Chương trình Lương thực Thế giới
(WFP) phải cắt khẩu phần lương thực cung cấp cho 73 triệu người ở 78
nước. Mối đe doạ suy dinh dưỡng trên quy mô lớn đang lờ mờ hiện ra. Các
nước giàu cũng bắt đầu cảm thấy tác động của tình hình này. Giá bột mỳ
cao khiến cho giá mỳ ống và bánh mỳ ở Italia tăng mạnh. Bánh miso làm
bằng gạo và lúa mạch ở Nhật Bản cũng tăng; trong khi ở Pháp và
Ôtxtrâylia, chính phủ đang mở cuộc điều tra về giá lương thực và yêu cầu
các nhà sản xuất lương thực, các siêu thị không được tăng giá.
Theo đánh giá của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp LHQ (FAO),
năm 2009 có hơn một tỷ người trên thế giới bị thiếu ăn, so với 963 triệu
người năm 2008. Trước khi giá lương thực tăng, bình quân mỗi năm có 850
triệu người thiếu ăn. Sau khi lên tới mức cao nhất vào đầu năm 2008, giá
lương thực thế giới đã giảm, nhưng vẫn cao hơn khoảng 19% so với giá
trung bình năm 2006.
Các chuyên gia cảnh báo, cuộc khủng hoảng lương thực có thể biến
thành khủng hoảng cơ cấu nếu không có những hành động ngăn chặn kịp
thời, và sẽ "gây ra những hậu quả nghiêm trọng không chỉ đối với quan hệ
thương mại, mà ảnh hưởng cả tới quan hệ xã hội và quốc tế, hai yếu tố tác
động trực tiếp tới an ninh và sự ổn định của chính trị quốc tế". Theo Phó
Giám đốc Quỹ nghiên cứu MOMA của Pháp, giá một tấn lúa mì có thể sẽ
dao động từ 80 đến 320 ơ-rô trong vài năm tới. Trong những điều kiện như
vậy, rất khó hy vọng sản lượng lương thực thế giới ổn định vì nhà sản xuất
có xu hướng điều chỉnh lượng hạt gieo căn cứ vào giá cả. Một vấn đề khác
cản trở sự gia tăng sản lượng lương thực và làm tăng các rủi ro biến động
giá cả là khả năng vay vốn của người sản xuất bị hạn chế do khủng hoảng
Thiều Đình Trọng KTNN 47
14
Chuyên đề thực tập
tài chính. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) dự báo, trao đổi mậu dịch
toàn thế giới sẽ giảm mạnh trong năm 2009. Ðiều này gây lo ngại cho các
nhà nhập khẩu lương thực, nhất là đối với các nước nghèo. Chủ tịch Ngân
hàng các quốc gia Trung Phi nhấn mạnh: "Năm 2008, một số nước có thể
đưa ra giải pháp cho an ninh lương thực vì có thặng dư ngân sách nhờ
nguồn thu nhập từ dầu mỏ tăng. Nhưng năm 2009, họ không còn khả năng
can thiệp đó nữa". Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon nhấn mạnh, cuộc
khủng hoảng lương thực vẫn đang hiện hữu, dẫn đến tình trạng thiếu lương
thực ở nhiều nơi trên thế giới. Ông Ban Ki-moon kêu gọi các nước trên thế
giới tiếp tục ưu tiên cho sản xuất lương thực, nhất là tại những nước nghèo
nhất.
Hiện nay, cộng đồng quốc tế đang nỗ lực tìm mọi biện pháp để cải thiện
và khôi phục lại nền kinh tế chung, trong đó không thể không nói đến vấn đề
khủng hoảng lương thực. Giúp đỡ các quốc gia đang phát triển nâng cao chất
lượng lương thực, qua đó xây dựng cơ chế giao dịch lương thực ổn định luôn là
mục tiêu được quan tâm hàng đầu.
Tình hình an ninh lương thực hiện nay trên thế giới có ảnh hưởng rất
lớn đến tình hình an ninh lương thực Việt Nam
3.2. Những ảnh hưởng của tình hình an ninh lương thực thế giới đối
với Việt Nam
"Nhất sĩ nhì nông. Hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ”. Qua thực tế
cuộc sống ông cha ta đã đúc kết như vậy. Đối chiếu với tình hình khủng
hoảng thiếu lương thực dẫn đến bất ổn xã hội tại nhiều nước đang phát triển
ở châu Á, châu Phi càng thấy vai trò vị trí của nông nghiệp trong việc đảm
bảo an ninh lương thực nền tảng đảm bảo an ninh, ổn định chính trị. Theo
đánh giá của Liên hiệp quốc giá lương thực trên thị trường thế giới tăng
đến 5% và hiện đang có 33 quốc gia thiếu lương thực nghiêm trọng, cận kề
với cái đói cần được cứu trợ khẩn cấp.
Thiều Đình Trọng KTNN 47
15
Chuyên đề thực tập
Việt Nam chúng ta không nằm trong danh sách 33 quốc gia nói trên và
đang là một trong các nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới. Việt
Nam đang cùng Thái Lan, Ấn Độ chiếm 60% sản lượng gạo xuất khẩu của
thế giới. Bởi vậy, mới đây Thái Lan ngỏ ý cùng với Việt Nam, Ấn Độ hình
thành liên minh xuất khẩu gạo như mô hình tổ chức các nước xuất khẩu
dầu mỏ OPEC. Làm như vậy vừa thống nhất được giá gạo xuất khẩu trên
thị trường thế giới vừa ổn định được giá gạo tiêu dùng nội địa và bảo vệ lợi
ích của nông dân vì họ không thể dự báo được mặt bằng giá cả hợp lý khi
tham gia thị trường.
Việt Nam chúng ta tuy không phải đối đầu với tình trạng thiếu lương
thực nhưng giá lương thực cũng đã tăng khá cao do tác động của thị trường
thế giới. Trước tình hình đó Chính phủ đã chủ trương tạm ngừng xuất khẩu
gạo vừa để góp phần chống lạm phát vừa để đảm bảo an ninh lương thực
vừa theo dõi diễn biến tình hình thị trường gạo thế giới để có đối sách phù
hợp.
Một vấn đề khác liên quan đến sản xuất nông nghiệp phát sinh gần đây
cũng cần được đề cập. Đó là tình trạng huyện huyện, tỉnh tỉnh đua nhau lấy
đất nông nghiệp cả những vùng màu mỡ, “bờ xôi, ruộng mật” để lập khu
công nghiệp mà không ít khu lập xong không thu hút được các nhà đầu tư.
Con số thống kê cho thấy từ năm 2002 đến năm 2007, mỗi năm mất 73.000
ha đất nông nghiệp, 500.000 tấn lương thực, 2,5 triệu nông dân mất tư liệu
sản xuất rơi vào cảnh “ăn không, ngồi rồi” vì không thể chuyển nghề.
Cho đến bây giờ, mặc dù tỷ trọng nông nghiệp trong GDP (tổng sản
phẩm quốc nội) đã giảm nhưng nước ta vẫn là nước nông nghiệp, hơn 75%
dân số sống ở nông thôn. Bởi vậy công nghiệp hóa là cần thiết nhưng công
nghiệp hóa thế nào để nông nghiệp vẫn phát triển, nông dân được đổi đời,
an ninh lương thực quốc gia được đảm bảo.
Vấn đề an ninh lương thực đang thực sự nóng bỏng trên toàn cầu và
tác động trực tiếp đến nước ta. Trên thế giới nhu cầu tiêu dùng ngày càng
Thiều Đình Trọng KTNN 47
16
Chuyên đề thực tập
lớn và yêu cầu phát triển nhanh chăn nuôi, nhất là chăn nuôi gia súc, gia
cầm sử dụng lương thực vì dân số thế giới tăng nhanh (trong 10 năm qua
dân số thế giới đã tăng 2 lần), nhiều hơn mức tăng sản lượng lúa gạo, đồng
thời nhu cầu của thị trường cao cấp về lương thực thực phẩm như thịt -
trứng - sữa ngày càng tăng khiến cho một khối lượng lớn lương thực thực
phẩm được điều tiết để hỗ trợ ngành chăn nuôi. Chuyển dịch cơ cấu đất
trồng và sản phẩm lương thực thực phẩm cho mục tiêu sản xuất nhiên liệu
sinh học (biofue) thay thế xăng dầu ngày càng lớn: theo số liệu của Ngân
hàng thế giới, Mỹ đã sử dụng 20-40% lượng ngô (bằng 4-8% sản lượng
toàn cầu); Liên minh châu Âu dành 65% dầu thực vật cho mục tiêu sản
xuất biofue. Ở Trung Quốc, nhu cầu về nguyên liệu để sản xuất dầu nhờn
sinh học (biodiesel) đã làm cho giá dầu cọ giao dịch ở thị trường Malaysia
tăng kỷ lục từ 2000 ringit (tháng 3/2007) lên 4000 ringit (tháng 2/2008).
Biến đổi của khí hậu toàn cầu gắn với thiên tai, bão lụt, hạn hán, gây ra
khan hiếm nước sinh hoạt, nước cho trồng trọt, mất mùa, dịch bệnh,... làm
sụt giảm sản lượng lương thực thế giới. Tình trạng khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, giá dầu thô tăng cao đẩy giá phân bón và phí vận chuyển hàng
nông nghiệp lên cao; nguồn dự trữ thực phẩm khan hiếm cũng góp phần
làm tăng giá lương thực, thực phẩm.
Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng ảnh hưởng của việc tăng giá
lương thực thực phẩm trên thế giới mặc dù chúng ta đã quyết liệt đầu tư
cho nông nghiệp - nông thôn nhưng giá lương thực thực phẩm vẫn tăng vì
giá các loại vật tư đầu vào cho sản xuất lương thực, thực phẩm đều tăng
(xăng dầu, phân bón: DAP tăng gấp 3 lần năm 2007, Urê tăng gấp 1,5 lần;
các loại nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi phải nhập khẩu tăng mạnh
như khô dầu, ngô hạt, bột cá, thức ăn bổ sung,...) và công lao động đều tăng
(công thu hoạch lúa Đông xuân 2008 tại các tỉnh ĐBSCL tăng gấp 1,5 lần
so với năm 2007); Cộng với khó khăn do thiên tai như dịch bệnh, rét đậm
rét hại,... ảnh hưởng lớn đến sản xuất lúa gạo. Mặt khác, nước ta đang thời
Thiều Đình Trọng KTNN 47
17
Chuyên đề thực tập
kỳ công nghiệp hoá, việc chuyển đổi đất trồng cây lương thực sang cho nhu
cầu phát triển công nghiệp, đô thị hoá, phát triển cơ sở hạ tầng cũng khá
lớn. Theo Tổng cục Thống kê từ 2001-2006 đất lúa giảm 206,8 ngàn ha,
bình quân giảm 41 ngàn ha/năm, chủ yếu là đất 2 vụ lúa, làm giảm sản
lượng lúa mỗi năm khoảng 500 ngàn tấn.
Tình trạng thiếu hụt lương thực, thực phẩm đang diễn ra ở nhiều nơi
trên thế giới dẫn đến giá gạo tăng cao đồng thời đẩy ngành nông nghiệp
Việt Nam đối mặt với nhiều sức ép. Các lương thực khác như bắp, khoai,
sắn đã giúp bình quân lương thực đầu người của Việt Nam tăng mạnh từ
430 kg vào năm 1996 lên hơn 550 kg hiện nay, nhưng trong đó tiêu thụ lúa
gạo đang giảm xuống còn 150 kg/người/năm, cơ cấu thực phẩm cho bữa ăn
hàng ngày đã thay đổi, bớt dùng gạo hơn.
Mặc dù giá nông sản trong nước đang hồi phục sau đợt giảm sâu vào
cuối năm 2008, nhưng một vấn đề khác được quan tâm hơn, đó là an ninh
lương thực, như tại hội nghị do Tổ chức Lương nông Liên hợp quốc (FAO)
họp ở Thái Lan đã cảnh báo: dự trữ lương thực thế giới hiện ở mức thấp
nhất trong vòng 30 năm qua. Lúa bắp tăng nhưng vẫn còn hộ thiếu lương
thực
Tình hình đói lương thực và tái nghèo vẫn còn xảy ra ở các vùng khó
khăn như vùng núi cao, vùng biên giới hải đảo và vùng thường xuyên bị
thiên tai. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, cả nước hiện vẫn
còn có 6,7% số hộ thiếu lương thực; trong đó khu vực nông thôn là 8,7% và
ngay ở thành thị vẫn có 2,2% số hộ thiếu lương thực, đây là sự phát triển
không bền vững khi Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế giới
nhưng vẫn còn một bộ phận dân cư thiếu gạo ăn. Chất lượng, vệ sinh an
toàn một số loại lương thực thực phẩm chưa cao. Bên cạnh đó, hệ thống
chế biến, bảo quản lương thực còn nhiều bất cập, hệ thống kinh doanh
lương thực hoạt động với hiệu quả thấp và dễ dẫn tới những cơn sốt lương
Thiều Đình Trọng KTNN 47
18
Chuyên đề thực tập
thực như đã từng xảy ra vào tháng 4 năm 2008. Tiêu dùng lương thực vượt
quá sản xuất
Triển vọng ngành nông nghiệp Việt Nam 2009 vào ngày 24 và 25-3 tại
TPHCM, nhiều chuyên gia quốc tế nhận định rằng giá lương thực hiện nay
không tăng không phải do thế giới dư thừa, mà thực ra là do người tiêu
dùng vì kinh tế khó khăn nên cắt giảm chi tiêu cho lương thực.
Tại Việt Nam, dân số tiếp tục tăng đòi hỏi nguồn cung lương thực và
thực phẩm tăng theo tương ứng. Hiện Việt Nam có khoảng hơn 85 triệu dân
nhưng theo dự báo dân số nước ta tiếp tục tăng bình quân khoảng 1-
1,2%/năm trong vài thập niên tới. Đến năm 2020 dân số khoảng 100 triệu
người và 110- 120 triệu người sau năm 2030.
Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên đất và nước tác
động đến an ninh lương thực quốc gia.
Các nghiên cứu của Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu cuả
Liên hiệp quốc (IPPC) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã dự báo nếu nhiệt độ
tăng thêm 2°C, mực nước biển dâng cao thêm 1 m thì trong 100 năm tới
vùng ĐBSCL - trọng điểm sản xuất lúa gạo của Việt Nam, có 1,5 - 2 triệu
héc ta, vùng đồng bằng sông Hồng có 0,3-0,5 triệu héc ta đất nông nghiệp
(chủ yếu đất lúa) bị ngập hoặc nhiễm mặn không thể trồng lúa được.
Thiều Đình Trọng KTNN 47
19
Chuyên đề thực tập
Chương II :
Thực trạng vấn đề an ninh lương thực tại Việt Nam
1. Khái quát về đặc điểm kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-
2009
1.1. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai
đoạn 2006-2009
Bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 -
2010 nước ta đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi, nhưng cũng không ít khó
khăn, thách thức. Sự phát triển kinh tế - xã hội các năm 2006 và năm 2007
trong tình hình chính trị, xã hội ổn định và kế thừa được nhiều thành tựu to
lớn đã đạt được. Tuy nhiên, từ cuối năm 2007 và đặc biệt là năm 2008 tình
hình kinh tế thế giới diễn biến theo chiều hướng phức tạp và không ổn
định; sự biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,... xảy ra nhiều hơn đã tác
động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội nước ta.
Dự báo từ nay cho đến năm 2010, tình hình kinh tế thế giới và trong
nước tiếp tục có nhiều biến động tạo ra cả cơ hội và thách thức đối với
nước ta.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006-2008
Năm 2006 2007 2008
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
(%)
8,23 8,48 6.23
Nguồn: Niên giám thống kê 2006-2008
Về tăng trưởng kinh tế, trong hai năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm
2006-2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt mức cao hơn nhiều so với
mục tiêu đề ra. Tốc độ tăng GDP năm 2006 là 8,23%, năm 2007 tăng cao
hơn là 8,48%. Đến năm 2008 do tác động lớn của suy thoái kinh tế, cùng
với những khó khăn ở trong nước tăng trưởng kinh tế có chậm lại, chỉ đạt
6,23%. Bình quân 3 năm tăng trưởng kinh tế đạt 7,65%/năm, cao hơn mục
tiêu kế hoạch đề ra là 7,5-8% và cao hơn bình quân giai đoạn 2001-2005 là
Thiều Đình Trọng KTNN 47
20
Chuyên đề thực tập
7,5%. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2009 ước tính tăng 3,1% so
với cùng kỳ năm 2008, Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I năm
nay tuy thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ của một số năm gần đây,
nhưng trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hầu hết các nền kinh tế
trên thế giới bị suy giảm mạnh mà nền kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng
như trên là một cố gắng rất lớn.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 7,5-8% bình quân trong 5 năm
2006-2010, đòi hỏi sự quyết tâm cao và nỗ lực của tất cả các ngành, các
cấp, các doanh nghiệp và toàn dân.
Về cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế trong 2 năm 2006-2007 chuyển dịch
theo hướng tích cực, nhưng chậm so với mục tiêu đề ra. Đến năm 2008, do
sự giảm sút tốc độ tăng trưởng của công nghiệp và dịch vụ, tỷ trọng nông
nghiệp lại bị đẩy lên cao, trong khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ giảm
xuống: tỷ trọng nông nghiệp chiếm 22% GDP; công nghiệp và xây dựng
chiếm 39,9% GDP; dịch vụ 38,1% GDP.
Bảng 2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế các ngành trong giai đoạn 2006-
2008
Năm 2006 2007 2008
Tỷ trọng nông nghiệp (%) 20,4 20,9 22,0
Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng
(%)
41,4 41,1 39,9
Tỷ trọng dịch vụ (%) 38,2 38,0 38,1
Nguồn: Niên giám thống kê 2006-2008
Khả năng năm 2009 cơ cấu giá trị GDP khu vực nông nghiệp chỉ đạt
được khoảng 20%, không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra (15-16%); cơ cấu giá
trị GDP khu vực công nghiệp và xây dựng đến năm 2009 chỉ đạt 40,8%
(mục tiêu kế hoạch 43-44%); cơ cấu dịch vụ phấn đấu đạt kế hoạch (40-
42%).
Bảng 3: Cơ cấu lao động giai đoạn 2006-2008
Năm 2006 2007 2008
Thiều Đình Trọng KTNN 47
21
Chuyên đề thực tập
Tỷ lệ lao động trong Nông-Lâm-Ngư
(%)
57,3 55,2 53,4
Tỷ lệ lao động trong Công nghiệp-xây
dựng (%)
18,2 19,3 19,8
Tỷ lệ lao động trong dịch vụ (%) 24,5 25,5 26,8
Nguồn: Niên giám thống kê 2006-2008
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch, tỷ lệ lao động nông, lâm, ngư
nghiệp trong tổng lao động năm 2008 còn 53,4% so với năm 2006 là
57,3%; công nghiệp và xây dựng là 19,8% so với năm 2006 là 18,2%; dịch
vụ tăng lên 26,8% so với 24,5% năm 2006. Đến năm 2010 dự kiến cơ cấu
lao động các khu vực phấn đấu đạt mục tiêu đề ra, tỷ lệ nông lâm ngư
nghiệp trong tổng lao động khả năng đến năm 2010 dự kiến khoảng 49,5%.
Về xuất nhập khẩu, sau 2 năm gia nhập WTO, với việc thực hiện mạnh
mẽ chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng cả thị trường truyền thống và
phát triển thị trường mới có nhiều tiềm năng, đồng thời nhờ yếu tố tăng giá
nhiều mặt hàng chủ lực, đã giúp tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng
nhanh, gấp rưỡi chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tổng kim ngạch xuất khẩu 3 năm
2006-2008 đạt 151,3 tỷ USD, bình quân tăng 24,7%/năm. Năm 2009, giá
và lượng một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm hơn so với năm 2008, tình
hình kinh tế thế giới biến động, chi tiêu của người dân tại các nước là thị
trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như: Mỹ và EU ảnh hưởng bất lợi tới
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Theo Bộ Công thương, kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam năm 2009 chỉ tăng khoảng 5-6% so với năm 2008. Tuy
nhiên, khả năng xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng trở lại vào năm 2010,
khi thương mại toàn cầu năm 2010 dự báo phục hồi.
Về nhập khẩu, giá dầu và các nguyên vật liệu đầu vào thiết yếu (vật
liệu xây dựng, phân bón...) cho sản xuất có khả năng giảm, nhưng vẫn ở
mức cao, dự báo sẽ tác động không nhỏ tới hoạt động nhập khẩu của Việt
Nam. Với những nhận định trên, dự báo đến 2010 tăng trưởng kim ngạch
Thiều Đình Trọng KTNN 47
22
Chuyên đề thực tập
xuất khẩu sẽ đạt khoảng 22%, tương đương với 110 tỷ USD vào năm 2010,
phấn đấu giảm nhập siêu xuống khoảng 20-25% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tổng kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu
người đã đạt xấp xỉ mục tiêu kế hoạch 5 năm: năm 2008 tổng kim ngạch
xuất khẩu đã đạt 62,9 tỷ USD so với mục tiêu đề ra là đến năm 2010 đạt
68-69 tỷ USD; kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người đạt khoảng 735
USD/người so với mục tiêu đến năm 2010 là 770-780 USD/người.
Thu chi Ngân sách Nhà Nước ( NSNN), tỷ lệ huy động GDP vào
NSNN các năm 2006-2008 đạt mức cao, bình quân 3 năm đạt khoảng
27,7%, cao hơn nhiều so với mục tiêu Đại hội đề ra là 21-22% GDP, trong
đó tỷ lệ huy động từ thuế và phí bình quân đạt 25,4% GDP cao hơn chỉ tiêu
đặt ra 20-21% GDP. Tỷ lệ huy động đạt kết quả khá cao là nhờ vào sự tăng
trưởng khá nhanh của nền kinh tế và nguồn thu lớn về dầu thô do giá cả thị
trường thế giới tăng nhanh. Tổng thu NSNN 3 năm đạt trên 70% mục tiêu
đề ra. Quy mô thu NSNN năm 2008 tăng 1,7 lần so với năm 2006. Tốc độ
tăng thu bình quân đạt 20,6%/năm, gấp 2 lần kế hoạch đề ra; (nếu loại trừ
yếu tố tăng giá dầu, tốc độ tăng thu bình quân đạt 13,4%, cao hơn kế hoạch
đề ra là 10,8%/năm).
Chi NSNN tăng trung bình khoảng 21,3%/năm. Quy mô chi NSNN
năm 2008 tăng gần 80,5% so với năm 2006. Tỷ lệ chi NSNN so với GDP
bình quân đạt 32,1% (không kể chi chuyển nguồn từ năm trước sang năm
sau), cao hơn mục tiêu đề ra là 27,5% GDP.
An ninh tài chính quốc gia được tăng cường, trong 3 năm 2006-2008
mức bội chi đều giữ xấp xỉ 5% GDP và đang có xu hướng giảm dần; bố trí
đủ cân đối để chi trả các khoản nợ đến hạn theo các cam kết. Dư nợ Chính
phủ, dư nợ ngoài nước của Quốc gia so GDP nằm trong giới hạn an toàn
cho phép.
Về huy động vốn đầu tư phát triển, nhờ việc đổi mới và cải thiện môi
trường đầu tư trước hết là môi trường pháp lý trong đầu tư kinh doanh, sự
Thiều Đình Trọng KTNN 47
23
Chuyên đề thực tập
ổn định chính trị và uy tín tạo lòng tin trong phát triển trung hạn và dài hạn,
đã huy động được nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Trong 3 năm
2006-2008 tổng vốn đầu phát triển toàn xã hội đạt trên 1.514 nghìn tỷ
đồng. Tỷ lệ huy động vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP năm 2006 đạt
42,3%, năm 2007 đạt 45,6% và năm 2008 ước đạt khoảng 39% GDP, bình
quân 3 năm đạt 42,3% cao hơn mục tiêu đề ra. Trong đó: vốn đầu tư từ
NSNN 3 năm thực hiện khoảng 318,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,1% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội; vốn trái phiếu Chính phủ 3 năm thực hiện khoảng
34,6 nghìn tỷ đồng; vốn tín dụng đầu tư và tín dụng chính sách 3 năm thực
hiện khoảng 110 nghìn tỷ đồng, chiếm 7,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội;
khu vực doanh nghiệp nhà nước 3 năm thực hiện khoảng 187 nghìn tỷ
đồng, chiếm 12,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; nguồn vốn đầu tư của khu
vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và dân cư có tốc độ tăng trưởng nhanh, 3
năm thực hiện khoảng 502 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lớn nhất, bình
quân 3 năm chiếm 33,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng nhanh, trong 3 năm giải ngân được trên
23 tỷ USD (bao gồm cả phần đóng góp trong nước), đạt tới 92% mục tiêu
của 5 năm. Đáng chú ý là mức vốn đăng ký mới và tăng thêm đạt kết quả
khá cao, 2 năm 2006-2007 đều đạt tốc độ năm sau cao hơn năm trước gần 2
lần, riêng năm 2008 tăng hơn 3 lần so với năm 2007 (64 tỷ USD).
Công tác thu hút và vận động vốn ODA đạt được nhiều kết quả. Mặc
dù nguồn cung ODA thế giới có xu hướng giảm song công tác vận động,
thu hút vốn ODA trong các năm qua Việt Nam vẫn nhận được sự ủng hộ và
cam kết mạnh mẽ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế. Vốn ODA cam kết
của các nhà tài trợ đều tăng qua các năm và năm 2008 đạt mức kỷ lục cao
nhất từ trước tới nay (5,43 tỷ USD). Tổng vốn ODA cam kết 4 năm 2006-
2009 đạt 18,62 tỷ USD, trong đó đã ký kết các điều ước quốc tế với tổng
giá trị là 9,6 tỷ USD và giải ngân khoảng 6,1 tỷ USD.
Thiều Đình Trọng KTNN 47
24
Chuyên đề thực tập
Trong 2 năm 2009-2010, đầu tư phát triển ở các doanh nghiệp có thể
bị chậm lại so với 3 năm trước. Dự báo vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so
với GDP bình quân 5 năm đạt trên 40% GDP, vượt mục tiêu kế hoạch đề
ra.
Về giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội, trong 3 năm 2006-2008
đã giải quyết việc làm cho khoảng gần 5 triệu lượt lao động so với mục tiêu
5 năm 2006-2010 là 8 triệu lao động. Trong tình hình nền kinh tế đang
trong chiều hướng suy giảm, các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, do vậy
lượng cầu lao động cũng sẽ giảm sút, số lượng việc làm có thể sẽ bị cắt
giảm, dẫn đến việc tạo việc làm mới sẽ khó khăn hơn. Để thực hiện mục
tiêu kế hoạch đã đề ra, đi đôi với các biện pháp chính sách hỗ trợ phục hồi,
phát triển sản xuất kinh doanh, nhất là khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa,
cần phải tăng cường công tác đào tạo, nâng cao tay nghề, nâng cao chất
lượng lao động, phù hợp với yêu cầu phát triển.
Trong công tác xuất khẩu lao động, đã chú ý hoạt động đẩy mạnh phát
triển thị trường lao động, tăng cường đầu tư, mở rộng thị phần tại các thị
trường có thu nhập cao. Trong 3 năm 2006-2008, số lao động và chuyên
gia đi lao động ở các nước đạt gần 250 nghìn người, còn thấp hơn so với
mục tiêu đề ra là 100 nghìn người. Trong các năm tới, thị trường xuất khẩu
lao động của Việt Nam sẽ bị tác động bởi suy thoái kinh tế, làm giảm nhu
cầu lao động từ Việt Nam.
Công tác giảm nghèo tiếp tục được chú trọng, trong 3 năm tỷ lệ hộ
nghèo cả nước giảm gần 9%, năm 2008 ước tỷ lệ hộ nghèo còn 13,1% so
với năm 2005 là 22%; một số địa phương đã cơ bản xoá hết số hộ nghèo
theo chuẩn quốc gia, như Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh,... Tuy nhiên, trong
thời gian gần đây, do giá cả tăng cao (nhất là cuối năm 2007 và những
tháng đầu năm 2008), thiên tai, lũ lụt bệnh dịch liên tiếp xảy ra đã ảnh
hưởng xấu đến đời sống của nhân dân, nhất là đối với vùng bị thiên tai,
Thiều Đình Trọng KTNN 47
25