Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Triết học ( dành cho khối không chuyên ngành triết học trình độ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học tự nhiên công nghệ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 89 trang )

CHƢƠNG I
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC
I.TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Triết học và đối tượng của triết học
a. Quan niệm về triết học.
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trƣớc CN, đồng thời ở cả
Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại.
Theo ngƣời Ấn Độ, triết học là darshana: sự chiêm ngƣỡng dựa trên lý trí, là
con đƣờng suy ngẫm để dẫn dắt con ngƣời đến lẽ phải. Theo gốc Hán tự, thuật ngữ
“triết” có nghĩa là “trí”, “có trí tuệ”, “sáng suốt”, chỉ sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng
về vũ trụ và nhân sinh. Theo chữ Hy Lạp, philosophia: yêu mến sự thông thái
Nhƣ vậy, dù ở phƣơng Đông hay phƣơng Tây, ngƣời ta đều quan niệm triết học
là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, nắm bắt đƣợc chân lý, hiểu
đƣợc bản chất của sự vật, hiện tƣợng; nó tồn tại với tƣ cách là một hình thái ý thức xã
hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có trình độ khái quát hóa và tƣ duy trìu
tƣợng cao.
Theo quan điểm mácxít, triết học là hình thái ý thức xã hội đặc thù, là học
thuyết chung nhất về tồn tại và nhận thức; là khoa học về những quy luật chung nhất
của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tƣ duy. Vì vậy, có thể khái quát
rằng: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị
trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
b. Nguồn gốc của triết học
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội.
Về nhận thức: triết học chỉ ra đời khi con ngƣời đã đạt đến trình độ trừu tƣợng
hoá, khái quát hoá, hệ thống hóa để xây dựng nên các học thuyết lý luận.
Về xã hội: xã hội xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ- xã hội có giai cấp đầu tiên
của nhân loại
c. Đối tượng của triết học
Thời cổ đại: đối tƣợng nghiên cứu của triết học là mọi lĩnh vực tri thức (Triết
học là khoa học của các khoa học)


Thời Trung cổ: do sự chi phối của tôn giáo, triết học trở thành một bộ môn của
thần học, có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho giáo lý Kinh thánh
Thế kỷ XVII- XVIII: sự phát triển của khoa học tự nhiên, triết học vẫn gắn liền
với khoa học tự nhiên, chƣa tách độc lập. Đầu thế kỷ XIX, Hêghen quan niệm, triết
1


học là hệ thống phổ biến của các tri thức khoa học, là khoa học của các khoa học, các
ngành khoa học khác chỉ là những mắt khâu của triết học.
Với tƣ cách là một khoa học, Triết học Mác nghiên cứu những quy luật chung
nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự
nhiên và tinh thần là vấn đề cơ bản của triết học.
Tại sao đây là vấn đề cơ bản, vì:
+ Đây là vấn đề cơ sở, nền tảng, xuyên suốt mọi học thuyết triết học trong lịch
sử, quyết định sự tồn tại của triết học;
+ Quyết định sự hình thành thế giới quan, phƣơng pháp luận của các triết gia,
xác định bản chất của các trƣờng phái triết học;
+ Là điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
Nội dung vấn đề cơ bản:
+ Mặt thứ nhất: (bản thể luận)
+ Mặt thứ hai: (nhận thức luận)
3. Chức năng cơ bản của triết học
a. Chức năng thế giới quan.
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí, vai trò của
con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
Về nguồn gốc, thế giới quan là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, song
suy cho cùng nó là kết quả của những yếu tố chủ quan và những yếu tố khách quan,
của cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Hình thành thế giới quan là một

quá trình tất yếu mà chủ thể của nó có thể là một cá nhân hay cộng đồng xã hội.
Về nội dung, thế giới quan phản ánh thế giới ở ba góc độ:
1. Các đối tƣợng bên ngoài chủ thể;
2. Bản thân chủ thể và;
3. Mối quan hệ giữa chủ thể và các đối tƣợng bên ngoài chủ thể.
Về hình thức, thế giới quan có thể biểu hiện dƣới dạng các quan điểm, quan
niệm rời rạc, cũng có thể biểu hiện dƣới dạng hệ thống lý luận chặt chẽ.
Về cấu trúc, là hiện tƣợng tinh thần, thế giới quan có cấu trúc phức tạp và đƣợc
tiếp cận dƣới nhiều góc độ khác nhau, song hai yếu tố cơ bản của thế giới quan là tri
thức và niềm tin.
Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song tri thức chỉ
gia nhập vào thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin để hình thành lý tƣởng, động
cơ thôi thúc con ngƣời hành động. Thế giới quan tạo nên cơ sở vững chắc cho con
ngƣời tiếp tục tìm hiểu thế giới, cho con ngƣời xác định thái độ, cách thức hoạt động,
cách thức sống nói riêng và xác lập nhân sinh quan nói chung. Nhƣ vậy, chức năng

2


bao trùm của thế giới quan là chức năng định hướng cho toàn bộ hoạt động sống
của con người.
Thế giới quan có nhiều trình độ khác nhau:
Thế giới quan huyền thoại là thế giới quan có nội dung pha trộn một cách
không tự giác giữa thực và ảo.
Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của
lực lƣợng siêu nhiên đối với thế giới, đƣợc thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để
suy tôn, sùng bái lực lƣợng siêu nhiên ấy.
Thế giới quan triết học là thế giới quan đƣợc thể hiện bằng hệ thống lý luận
thông qua hệ thống các khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Nó không chỉ nêu ra các
quan điểm, quan niệm của con ngƣời về thế giới và về bản thân con ngƣời, mà còn

chứng minh các quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận.
Triết học ra đời với tính cách là hệ thống lý luận chung nhất về thế giới quan, là
hạt nhân lý luận của thế giới quan, đã làm cho thế giới quan phát triển lên một trình độ
tự giác dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học mang lại.
b. Chức năng phương pháp luận.
Phương pháp luận là một hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất
phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Phƣơng pháp luận đƣợc phân chia thành cách cấp độ:
+ Phƣơng pháp luận bộ môn là những quan điểm, nguyên tắc xác định các
phƣơng pháp nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của các ngành khoa học cụ thể.
+ Phƣơng pháp luận chung là những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo việc xác
định phƣơng pháp của một nhóm các ngành khoa học có những điểm chung nhất định.
+ Phƣơng pháp luận triết học là những quan điểm, nguyên tắc chung nhất; là
xuất phát điểm cho việc xác định phƣơng pháp luận bộ môn, các phƣơng pháp luận
chung, các phƣơng pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn.
Các hình thức phƣơng pháp luận vừa độc lập tƣơng đối với nhau, vừa bổ sung,
xâm nhập vào nhau, do đó cần vận dụng tổng hợp các phƣơng pháp luận trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Phương pháp luận biện chứng duy vật là hệ thống những quan điểm, những
nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như trong
việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa.
Phƣơng pháp luận biện chứng duy vật là học thuyết về phƣơng pháp nhận thức
khoa học và cải tạo thế giới.
II. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC TRONG LỊCH SỬ

1. Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học
trong lịch sử
3



Trên cơ sở thế giới quan, phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
có thể thấy, lịch sử triết học có hai đặc điểm về tính quy luật:
1. Tính quy luật phản ánh của lịch sử triết học đƣợc khái quát từ các điều kiện
kinh tế- xã hội, sự phát triển của văn hóa và khoa học trong các giai đoạn lịch sử.
2. Tính quy luật giao lưu, bao gồm giao lƣu đồng loại và giao lƣu khác loại.
Giao lƣu đồng loại bao gồm giao lƣu theo lịch đại và giao lƣu đồng đại. Giao lƣu khác
loại bao gồm giao lƣu giữa triết học với các hình thái ý thức xã hội khác.
Theo đó, sự phát sinh, phát triển của lịch sử tƣ tƣởng triết học chịu sự quy định
của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan mang tính quy luật.
+ Điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội;
+ Sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội;
+ Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hƣớng triết học cơ bản- CNDV và CNDT;
+ Cuộc đấu tranh giữa hai phƣơng pháp nhận thức trong lịch sử là phƣơng pháp
biện chứng và phƣơng pháp siêu hình;
+ Sự kế thừa các tƣ tƣởng triết học trong tiến trình lịch sử;
+ Sự liên hệ, ảnh hƣởng, kế thừa, kết hợp giữa các học thuyết triết học của các
dân tộc, các quốc gia trên thế giới;
+ Mối quan hệ với các hình thái tƣ tƣởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật….
2. Sự ra đời và phát triển của triết học phương Đông
a. Quan niệm về triết học phương Đông
„„Triết học phƣơng Đông” là khái niệm chỉ nền triết học của các quốc gia châu
Á. Triết học phƣơng Đông bắt nguồn từ Ai Cập, Babilon, tới Ấn Độ, Trung Quốc…
với hai trung tâm lớn là Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại.
b. Một số đặc điểm triết học phương Đông
Triết học phƣơng Đông ra đời từ rất sớm, vào khoảng thiên niên kỷ thứ III TCN
trong các nền văn minh Ai Cập, Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại.
+ Lấy con ngƣời và các vấn liên quan đến con ngƣời làm đối tƣợng nghiên cứu.
+ Thế giới quan bao trùm là thế giới quan duy tâm.
+ Sự phân chia niên đại, thời kỳ thƣờng theo các triều đại phong kiến.

+ Khuynh hƣớng chung là hƣớng nội.
+ Tính đại chúng và tính nhân dân là nét nổi bật của triết học phƣơng Đông.
Nghiên cứu sự ra đời và phát triển của triết học Ấn Độ, cổ, trung đại chúng ta sẽ thấy
rõ cơ sở khoa học của những nhận định trên.
Ngay từ khi mới ra đời và suốt cả quá trình tồn tại, phát triển, triết học Ấn Độ
hƣớng trọng tâm vào nghiên cứu, luận giải các vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo
và tâm linh; xu hướng chung, nổi trội là “hướng nội”. Các nhà triết học đều có chung
4


một mục đích là đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân, lấy cái
bên trong để giải thích cái bên ngoài.
Tư duy triết học của người Ấn Độ có tính trìu tượng, khái quát cao và trí tƣởng
tƣợng của ngƣời Ấn Độ rất phát triển, những “niết bàn”, “thế giới c ực lạc”, “sắc, sắc,
không, không”…là kết quả sự phát triển tƣ duy trìu tƣợng của họ.
Tính bút chiến, chiến đấu và phê phán trong triết học Ấn Độ là khá rõ ràng
nhưng không triệt để. Điều đó phản ánh trạng thái trì trệ của “phương thức sản xuất
châu Á” ở Ấn Độ vào triết học, và đến lƣợt mình, triết học lại trở thành một trong
những nguyên nhân của trạng thái trì trệ đó.
Sự giống và khác nhau cơ bản giữa các trường phái triết học chính thống trong
triết học Ấn Độ cổ, trung đại. Trƣờng phái nào về cơ bản thống nhất với kinh Veda,
thừa nhận vai trò của đạo Brahamane (Bà la môn) đƣợc coi là trƣờng phái chính thống
và ngƣợc lại là không chính thống. Nhƣ vậy, triết học Ấn Độ có 6 trƣờng phái chính
thống, 3 trƣờng phái không chính thống.
Trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại, Phật giáo là một trƣờng phái triết học
không chính thống, nhƣng tƣ tƣởng triết học của Phật giáo có một vị trí rất quan trọng.
Về bản thể luận, Phật giáo đƣa ra tƣ tƣởng “nhất thiết duy tâm tạo” hay “vận
pháp duy tâm tạo” (mọi sự vật, hiện tƣợng từ tâm mà sinh ra, phụ thuộc vào diễn biến
của hoàn cảnh, điều kiện cụ thể); “tam giới duy thức” (ba thế giới: sắc giới, dục giới và
vô sắc giới đều do ý thức quyết định); tƣ tƣởng “vô thường”, “vô ngã” và luật nhân

duyên quả báo.
Về nhân sinh, Phật giáo đƣa ra tƣ tƣởng luân hồi và nghiệp báo, tứ diệu đế, thập
nhị nhân duyên và niết bàn. “Luân hồi, nghiệp báo”: con ngƣời xuất hiện là do nghiệp.
Khi còn nghiệp, con ngƣời phải quay trở lại tái sinh. Tái sinh không phải là sự đầu thai
của linh hồn mà là sự kết tập mới của ngũ uẩn: nghiệp đƣợc phân thành 2 loại: thiện
nghiệp và ác nghiệp. Tổng hợp bù trừ 2 loại đó thành nghiệp lực. Nghiệp lực là thiện
hay ác sẽ quyết định con ngƣời tái sinh vào kiếp nào: thiên, nhân, atula, súc sinh, quỷ,
địa ngục. Phật giáo chỉ ra lối thoát khỏi luân hồi ở thuyết “tứ diệu đế”.
Triết học Trung Quốc cổ, trung đại hƣớng vào giải quyết các vấn đề chính trịxã hội, đạo đức, luân lý, lấy con ngƣời, lợi ích của con ngƣời và xã hội làm trung tâm.
Tƣ tƣởng triết học xuyên suốt chiều dài lịch Trung Quốc là tƣ tƣởng “thiên
nhân hợp nhất”, “vạn vật đồng nhất thể”. Sự thống nhất con ngƣời với thế giới là sự
thống nhất toàn bộ, triệt để, cả về thể xác và tinh thần, cả đời sống nhận thức cũng nhƣ
đời sống luôn lý, đ ạo đức; nếu thế giới đƣợc xem là “cái một”, là “thái cực”, thì con
ngƣời cũng đƣợc xem là “một thái cực”- “đạo trời và đạo người”.
Tƣ duy của hầu hết các trƣờng phái triết học Trung Quốc là rất cụ thể, có nhiều
yếu tố dân sinh, trực quan tâm linh, luôn hƣớng vào giải quyết các vấn đề thƣờng nhật,
bức thiết đang xảy ra. Do đó, yếu tố duy lý triết học thƣờng ít đƣợc quan tâm, tuy về

5


sau này, các trƣờng phái triết học Trung Quốc có tiếp thu, kế thừa tƣ tƣởng triết học
của các trƣờng phái khác để bổ sung, nâng tầm tƣ duy duy lý triết học của mình.
Cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và triết học duy tâm tuy có diễn ra trong
triết học Trung Quốc, song không thực sự nổi bật. Thế giới quan duy tâm, tôn giáo bao
trùm triết học Trung Quốc thời kỳ cổ, trung đ ại. VD: Nho giáo từ chỗ ngả nghiêng
giữa duy tâm và duy vật phát triển sang duy tâm nhất nguyên; Lão giáo từ duy vật nhất
nguyên phát triển thành hai phái: duy vật duy lý và duy tâm tôn giáo có ma thuật.
Nhìn chung, các trƣờng phái triết học Trung Quốc đồng loạt xuất hiện vào thời
Xuân Thu, phát triển mạnh trong thời Chiến Quốc và đạt đƣợc những thành tựu rất

quan trọng. Tiêu biểu trong các trƣờng phái là Nho gia, Pháp gia, Đạo gia và Mặc gia.
Tƣ tƣởng triết học của Khổng Tử (551- 479 Tcn) và trƣờng phái Nho gia thể
hiện rõ nét trong “Lục kinh”: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc,
Kinh Xuân thu (đời nhà Tần, Kinh Nhạc bị thất truyền) và “Tứ thƣ”: Luận Ngữ (ghi lại
những lời nói của Khổng Tử với học trò và ngƣời đƣơng thời, cũng những lời bàn của
học trò Khổng Tử), Đại học (Tăng Sâm viết), Trung dung (Tử Tƣ viết), Mạnh Tử
(Mạnh Tử viết). Với việc hệ thống hóa những tri thức tƣ tƣởng đời trƣớc và trình bày
quan điểm nhân, lễ và chính danh, Khổng Tử đã xây dựng nên học thuyết đạo đứcchính trị nổi tiếng là Nho giáo.
Tư tưởng cơ bản của triết học Đạo gia: Đạo gia là trƣờng phái triết học có
nhiều yếu tố duy vật và biện chứng sơ khai. Tƣ tƣởng của Đạo gia thể hiện ở phạm trù
Đạo và Đức. Đạo là bản thể, là cội nguồn sinh ra trời, đất, ngƣời và vạn vật. Đạo là cái
khởi nguyên- cái ban đầu, thống nhất nên gọi là “cái một”. Đạo sinh một, một sinh hai,
hai sinh ba, ba sinh vạn vật, vạn vật sinh đến vô cực lại quay về Đạo. Đức là thế tiềm
tàng của Đạo ở thế giới hiện hữu, phụ thuộc vào Đạo, Đức là tính chất của mọi sự vật,
hiện tƣợng. Do vậy, Đạo là bản thể, bản chất tiềm ẩn ở bên trong. Còn Đức là tính chất
thế lực của Đạo, biểu hiện ra bên ngoài. Nhờ Đức mà ngƣời ta biết có Đạo.
Tƣ tƣởng biện chứng của Đạo gia thể hiện ở chỗ: vạn vật luôn biến đổi không
ngừng theo quy luật phản phục âm- dương, thể hiện qua nhiều luận điểm về tính tƣơng
đối của sự vật, hiện tƣợng và sự chuyển hóa của các mặt đối lập nhƣ phúc- họa, caothấp, thiện- ác,…
Tư tưởng cơ bản của Triết học Mặc gia là tin tưởng tuyệt đối vào thiện ý của
trời, trời thƣơng yêu con ngƣời và luôn mong muốn con ngƣời hạnh phúc. Vì vậy,
Mặc Tử và học trò của ông đã xây dựng học thuyết Kiêm ái. Hạt nhân của thuyết Kiêm
ái là kiêm tương ái, giao tương lợi, tức là mọi ngƣời cùng yêu thƣơng nhau, cùng làm
lợi cho nhau không phân biệt đẳng cấp, sang hèn, mọi ngƣời đều phải thƣơng yêu,
giúp đỡ lẫn nhau; giữ điều lành; tránh, bỏ điều ác, không làm hại nhau và chém giết
lẫn nhau. Làm đƣợc nhƣ thế là đúng với “thiện chí” của trời. Biện pháp để làm đƣợc
điều đó là kiêm ái.

6



Tư tưởng cơ bản của triết học Pháp gia thể hiện khác rõ trong học thuyết Pháp
trị với việc đề cao tinh thần duy vật, vô thần và phép biện chúng sơ khai. Các nhà triết
học Pháp gia chủ trƣơng dùng pháp trị để thực hiện chính danh và phê phán những hạn
chế của thuyết Đức trị.
Nội dung tƣ tƣởng Pháp gia là tổng hợp ba phạm trù: Pháp, Thuật, Thế. Đây là
công cụ của đế vƣơng. Pháp phải rõ ràng minh bạch, thời cuộc thay đổi thì pháp luật
cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. Muốn quyền lực nhà nƣớc thi hành đƣợc pháp
luật thì đế vƣơng phải có Thế, tức là nắm đƣợc quyền lực nhà nƣớc và phƣơng pháp,
cách thức, thủ đoạn để thực hiện Pháp là dựa vào Thế. Vua phải có Thuật của vua, tức
là thuật cai trị và điều khiển bộ máy nhà nƣớc.
3. Sự ra đời và phát triển của triết học phương Tây
a. Quan niệm về triết học phương Tây
Triết học phương Tây có thể hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng, triết học phƣơng
Tây là hệ thống quan điểm, quan niệm của ngƣời phƣơng Tây thể hiện qua các trào lƣu,
tƣ tƣởng triết học từ triết học Hy Lạp cổ đại đến ngày nay. Nghĩa hẹp, triết học phƣơng
Tây đƣợc xem nhƣ là các trào lƣu, quan điểm triết học đƣơng đại và thƣờng đƣợc hiểu
là triết học ngoài mácxit
b. Bối cảnh ra đời, thành tựu và đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
Bối cảnh ra đời:
+ Là một chế độ nô lệ rất điển hình, xã hội phân hóa giai c ấp sâu sắc: chủ nô và
nô lệ. Trong giai cấp chủ nô phân hóa thành chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc. Phân
công lao động rõ rệt: lao động trí óc và chân tay; thành thị và nông thôn
+ Có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và khoa học. Địa thế rất thuận lợi cho
giao lƣu, buôn bán với Bắc Phi, Trung Quốc, Ấn Độ. Do đó, những con số mà ta quen
gọi là số Ả rập, thực tế những con số đó không phải do ngƣời Ả rập phát minh ra mà
lấy của ngƣời Ấn Độ cổ đại. Khoa học phát triển: Asimet, Talet, Pitago...quê hƣơng
của toán học
Đặc điểm chủ yếu của triết học Hy Lạp cổ đại
+ Là triết học của giai cấp chủ nô, triết học chủ yếu xuất hiện trong cuộc đấu

tranh giữa chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc với 2 trƣờng phái: chủ nghĩa duy vật (chủ
nô dân chủ) và chủ nghĩa duy tâm (chủ nô quý tộc).
+ Gắn chặt với khoa học tự nhiên, lấy giới tự nhiên làm đối tƣợng nghiên cứu.
+ Thế giới quan bao trùm là duy vật và vô thần. Triết học Hy Lạp ngay từ đầu
đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Tiêu biểu là
cuộc đấu tranh giữa đƣờng lối Đêmôcrit và đƣờng lối Platôn.
+ Phép biện chứng tự phát, ngây thơ ra đời và phát triển cùng với chủ nghĩa duy
vật mộc mạc, chất phác.
7


+ Triết học Hy Lạp chứa đựng mầm mống của hầu hết các thế giới quan sau
này. Ngay từ khi xuất hiện chúng luôn đƣợc giải quyết theo hai quan điểm đối lập
nhau: hoặc là duy vật hoặc là duy tâm.
+ Sự phát triển mang tính “cách mạng”, “ đột biến”. Thầy theo một trƣờng phái,
nhƣng trò có thể mở ra một trƣờng phái riêng.
+ Coi con ngƣời là ngƣời chinh phục thiên nhiên, phục vụ cho mình. Con ngƣời
phƣơng Tây rất khó thích nghi, cái tôi r ất mạnh; Pitago: con ngƣời là thƣớc đo của vạn
vật. Con ngƣời phƣơng Đông dễ hòa hợp
c. Bối cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ
Bối cảnh ra đời
+ Sự thống trị của chế độ phong kiến V- XV
+ Thế kỷ XII, kỹ thuật thủ công nghiệp và dân cƣ tăng mạnh, nhiều thành phố
ra đời; nhà thờ Kitô giáo phát triển mạnh.
Đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ
+ Thế giới quan bao trùm là duy tâm và tôn giáo
+ Cuộc đấu tranh giữa “phái duy danh” và “phái duy thực” thể hiện khuynh
hƣớng duy vật và duy tâm (phái duy danh gần gũi với chủ nghĩa duy vật, phái duy thực
là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm).
d. Bối cảnh ra đời và đặc điểm của triết học thời kỳ Phục hưng

Bối cảnh ra đời
+ Là thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chế độ tƣ bản chủ nghĩa, thời kỳ
chuẩn bị cho một nền văn hóa mới- văn hóa tƣ sản sơ khai đƣợc hình thành.
+ Cuộc đấu tranh của nông dân và thợ thủ công chống đặc quyền đặc lợi phong
kiến nhằm phát triển công nghiệp và thƣơng nghiệp. Tuy nhiên, giai cấp tƣ sản mới ra
đời còn non yếu, muốn làm cách mạng nhƣng chƣa đủ sức buộc phải thỏa hiệp với giai
cấp địa chủ phong kiến.
Một số đặc điểm triết học thời kỳ Phục hưng
+ Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại đƣợc khôi phục và khẳng định chỗ đứng của
mình trong đời sống tinh thần của xã hội.
+ Xuất hiện những học thuyết chính trị- xã hội phê phán xã hội đƣơng thời và
mơ ƣớc, khát vọng về một tƣơng lai tốt đẹp hơn.
+ Các nhà triết học chủ trƣơng cải cách giáo hội, kịch liệt phê phán các giáo lý
trung cổ, bảo vệ các di sản của triết học Hy Lạp cổ đại.
+ Chủ nghĩa nhân đạo tƣ sản đề cao con ngƣời. Họ cho rằng, con ngƣời là sản
phẩm tối cao và tinh túy nhất trong sự sáng tạo của Thƣợng đế, vì con ngƣời là thƣợng
đế- con ngƣời. Trong đó có Copernicus với thuyết Nhật tâm
đ. Bối cảnh ra đời và một số thành tựu, đặc điểm của triết học Tây Âu cận đại
8


Bối cảnh ra đời
+ Thế kỷ XVII- XVII, hàng loạt cuộc cách mạng tƣ sản nổ ra khắp châu Âu
+ Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật.
Một số thành tựu và đặc điểm của triết học Tây Âu cận đại
+ Là thế giới quan và ngọn cờ lý luận của giai cấp tƣ sản đang lên với chủ
trƣơng phát triển chủ nghĩa tƣ bản, chống lại trật tự phong kiến và giáo hội.
+ Về con ngƣời và giải phóng con ngƣời là vấn đề trung tâm và đối tƣợng
nghiên cứu của triết học. Triết học duy vật gắn bó chặt chẽ với khoa học, nhất là với
khoa học tự nhiên nhằm chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo.

+ Phƣơng pháp nhận thức, xem xét các hiện tƣợng tự nhiên theo phƣơng pháp
trực quan, siêu hình, máy móc.
+ Là triết học duy vật không triệt để, tức là quan niệm duy vật về giới tự nhiên
và duy tâm khi quan niệm về đời sống xã hội và lịch sử.
e. Bối cảnh ra đời và một số thành tựu, đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Bối cảnh lịch sử cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX
+ Cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX, Anh và Pháp là những nƣớc tƣ bản, trong
khi đó nƣớc Đức vẫn là phong kiến lạc hậu (dân tộc Giéc-manh gồm gần 300 nƣớc).
+ Do ra đời từ nền công nghiệp chƣa phát triển lại bị quan hệ phong kiến chèn
ép, giai cấp tƣ sản không dủ mạnh, không thống nhất, thậm chí hèn nhát buộc phải
thỏa hiệp với giai cấp địa chủ phong kiến.
+ Khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghiệp phát triển đã vạch ra phép biện
chứng của tự nhiên. Triết học cổ điển Đức còn là sự kế thừa các trào lƣu tƣ tƣởng triết
học tiên tiến từ thế kỷ XVII- XVIII.
Một số thành tựu và đặc điểm của triết học cổ điển Đức
+ Vấn đề con ngƣời thực sự trở thành trung tâm, là đối tƣợng nghiên c ứu của
triết học (đỉnh cao là triết học nhân bản của Feuerbach).
+ Phép biện chứng duy tâm với hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật (Hegel)
4. Khái lược về sự ra đời, phát triển của tư tưởng triết học Việt Nam thời kỳ
phong kiến
a. Điều kiện hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
Điều kiện tự nhiên: Việt Nam nằm ở phía Đông- Nam châu Á. Vị trí địa lý đó
đã tạo lập cơ sở tự nhiên cho khả năng giao lƣu, thông thƣơng về kinh tế, chính trị, văn
hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc và Ấn Độ trong nhiều thế kỷ trƣớc thời cận đại.
Do đó, đã chịu ảnh hƣởng sâu sắc các học thuyết tƣ tƣởng của Trung Quốc và Ấn Độ
Điều kiện kinh tế- xã hội: Nền kinh tế nƣớc ta là một nền nông nghiệp lạc hậu
tồn tại hàng ngàn năm, lại đƣợc bảo tồn bằng một cơ cấu xã hội khép kín của các làng
xã đã trở thành cơ sở hiện thực của một “nền văn hóa dân dã” hay “văn hóa làng mạc”.
9



Điều này, đã làm hạn chế sự phát triển t ƣ duy độc lập, sáng tạo, cản trở sự phát triển tƣ
duy triết học của ngƣời Việt Nam.
b. Những đặc điểm chủ yếu của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
Đặc điểm của quá trình hình thành, phát triển tư tưởng triết học Việt Nam
Quá trình phát triển của lịch sử t ƣ tƣởng triết học Việt Nam là quá trình phát
triển song trùng hợp nhất giữa hai xu hƣớng: xu hƣớng tự thân và xu hƣớng tiếp biến
các tƣ tƣởng triết học đƣợc du nhập từ bên ngoài.
Rất nhiều quan điểm triết học của các học thuyết nói trên đã trở thành nhân tố
hữu cơ của tƣ duy triết học, quan điểm triết học của ngƣời Việt Nam. Nhiều nội dung
của các quan điểm đó đã đƣợc biến đổi cho phù hợp với tƣ duy triết học truyền thống
của ngƣời Việt Nam.
Đặc điểm về nội dung tư tưởng triết học Việt Nam
Trong cấu trúc ý thức hệ Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước với nội dung cơ bản là
tư tưởng về cố kết cộng đồng và độc lập chủ quyền quốc gia đã thường được xác định
ở vào vị trí trung tâm của lịch sử tƣ tƣởng và văn hóa.
Đặc điểm về hình thức thể hiện các tư tưởng triết học Việt Nam
Các tƣ tƣởng triết học ở tầm hệ thống các quan điểm, thƣờng đƣợc trình bày
dƣới hình thức trƣớc tác của các triết gia và theo phƣơng thức lý luận.
Những tƣ tƣởng triết học Việt Nam, ngoài các trƣớc tác của các nhà tƣ tƣởng
còn đƣợc thể hiện qua rất nhiều hình thức phong phú. Ngay cả hoạt động của các
phong trào dân tộc cũng là một hình thức và là một phƣơng thức thể hiện tƣ tƣởng ở
chiều sâu của tƣ duy triết học. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam cần đến
phƣơng pháp của các khoa học liên ngành, mà trƣớc hết là liên ngành các khoa học xã
hội và nhân văn.
c. Những nội dung cơ bản của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
(1). Những tư tưởng triết học chính trị, đạo đức và nhân văn trong lịch sử tư
tưởng triết học Việt Nam
- Tư tưởng yêu nước trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
Trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, tƣ tƣởng yêu nƣớc không chỉ là một tƣ tƣởng

chính trị mà còn là một tƣ tƣởng đạo đức và nhân văn cao cả. Đồng thời, tƣ tƣởng yêu
nƣớc của ngƣời Việt Nam còn thƣờng đƣợc các nhà tƣ tƣởng Việt Nam trong suốt
chiều dài lịch sử suy tƣ ở chiều sâu của những triết lý và trở thành chủ nghĩa yêu nƣớc
Việt Nam. Vì vậy, đây chính là một nội dung của lịch sử tƣ tƣởng triết học Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam là một hệ thống các quan niệm ở chiều sâu triết
học về dân tộc và độc lập dân tộc; về một quốc gia độc lập ngang hàng với phƣơng
Bắc và những quan niệm về nguồn gốc, động lực của cuộc chiến tranh cứu nƣớc và

10


giữ nƣớc. Những tƣ tƣởng này trở thành những nội dung cốt lõi của lịch sử tƣ tƣởng
triết học Việt Nam:
+ Ý thức về dân tộc và dân tộc độc lập đã nẩy sinh rất sớm ở các cƣ dân ngƣời
Việt. Tƣ tƣởng độc lập này đến thời Lý đã đƣợc Lý Thƣờng Kiệt kế thừa và khẳng
định “Nam quốc sơn hà nam đế cƣ”. Trên lĩnh vực nhận thức lý luận, sự bức bách của
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm buộc các nhà tƣ tƣởng phải có sự đi sâu hơn, khái quát
cao hơn, toàn diện hơn về khối cộng đồng dân tộc Việt. Nguyễn Trãi là ngƣời đã thực
hiện đƣợc sứ mệnh này. Và tƣ tƣởng này đạt đến trình độ cao hơn, mang một chất mới
hơn ở thời đại Hồ Chí Minh.
+ Những quan niệm về Nhà nước của một quốc gia độc lập ngang hàng với
phương Bắc cũng là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam. Xây
dựng Nhà nƣớc phải tính tới các yếu tố quốc hiệu, quốc đô, đế hiệu, niên hiệu.... Thực
hiện điều này, Lý Bí đã đặt tên nƣớc ta là Vạn Xuân. Nhà Đinh đặt tên nƣớc ta là Đại
Cồ Việt, nhà Lý lại đặt quốc hiệu là Đại Việt… “Hiệu” của ngƣời đứng đầu quốc gia
cũng đƣợc chuyển từ Vƣơng sang Đế hiệu để chứng tỏ sự độc lập ngang hàng với
Hoàng Đế phƣơng Bắc. Kinh đô cũng đƣợc chuyển từ Cổ Loa đến Hoa Lƣ, rồi từ Hoa
Lƣ đến Thăng Long để có đƣợc nơi “Trung tâm của bờ cõi đất nƣớc…”.
+ Nhận thức về nguồn gốc, về động lực của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Lập luận về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền là một vũ khí quan trọng

trong tay các lực lƣợng kháng chiến. Song muốn chiến thắng kẻ thù đông đ ảo và hùng
mạnh hơn gấp nhiều lần thì vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để động viên đƣợc sức
mạnh của toàn dân, để chuyển sức mạnh của ngƣời Việt Nam từ yếu thành mạnh. Do
đó, ông cha ta rất coi trọng sức mạnh cộng đồng. Trần Quốc Tuấn yêu cầu: “Trên dƣới
một lòng, lòng dân không chia”, vì “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nƣớc nhà
góp sức, giặc tự bị bắt”. Nguyễn Trãi cũng viết: “Thết quân rƣợu hòa nƣớc, trên dƣới
một dạ cha con”. Và đến Hồ Chí Minh nêu thành nguyên lý “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết- Thành công, thành công, đại thành công”
Trong lịch sử tƣ tƣởng dân tộc phải tính đến các quan điểm tích cực coi trọng
vai trò của dân. Lý Công Uẩn nhấn mạnh “Trên vâng mệnh trời, dƣới theo ý dân, thấy
thuận tiện thì thay đổi”. Nguyễn Trãi cũng viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đến
thời đại Hồ Chí Minh, quan niệm về dân đã đƣợc phát triển đến một trình độ cao hơn
và có cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin
(2).Quan niệm về đạo làm người trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
Một trong những vấn đề đƣợc các nhà tƣ tƣởng Việt Nam trong lịch sử đặc biệt
quan tâm là vấn đề về đạo làm người. Bởi lẽ, đây là vấn đề có liên quan mật thiết với
việc xác định cơ sở tƣ tƣởng của hành động chính trị, đạo đức và nhân sinh.
Quá trình suy tƣ về đạo làm ngƣời đã dẫn các nhà tƣ tƣởng Việt Nam trong lịch
sử tiếp thu tinh hoa của cả ba đạo Nho, Phật, Lão – Trang và kết hợp chúng trong một
hệ tƣ tƣởng thống nhất cho phù hợp với điều kiện lịch sử chính trị, đạo đức và cuộc
11


sống của con ngƣời Việt Nam. Có thể nhận thấy, hầu nhƣ trong các trƣớc tác và trong
lối sống của các nhà tƣ tƣởng lớn Việt Nam thời phong kiến đều có sự thấm nhuần
những tinh túy của cả ba đạo Nho, Phật và Lão – Trang. Tùy theo, các điều kiện lịch
sử cụ thể mà có thể nhận thấy vai trò trội hơn của mỗi đạo trong mỗi nhà tƣ tƣởng
cũng nhƣ trong mỗi tình huống cụ thể.
Trong giai đoạn lịch sử Lý– Trần, đạo Phật và đạo Lão– Trang có xu hƣớng
phát triển và ảnh hƣởng trội hơn đạo Nho. Ngƣợc lại, trong giai đoạn lịch sử thời Lê–

Nguyễn, đạo Nho lại có xu hƣớng đƣợc tôn vinh. Mỗi nhà tƣ tƣởng, khi nhập thế vào
đời phù vua, giúp nƣớc thƣờng chịu nhiều ảnh hƣởng của những tƣ tƣởng đạo Nho.
Ngƣợc lại, khi lui về ở ẩn hoặc trong thời kỳ thanh bình của đất nƣớc lại có xu hƣớng
tôn vinh những tƣ tƣởng của đạo Phật và đạo Lão– Trang.
(3). Tư tưởng triết học Phật giáo trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
Có thể khái quát tƣ tƣởng triết học Phật giáo Việt Nam ở hai bộ phận cấu thành
là Siêu hình học và Nhân sinh quan. Những triết lý trong bộ phận siêu hình học là lớp
tƣ tƣởng triết học ở chiều sâu, trở thành nội dung c ăn bản trong tƣ tƣởng triết học của
các trí thức thời Lý - Trần. Đây là những tƣ tƣởng triết học Ấn Độ đã đƣợc Trung Hoa
hóa và truyền bá vào Việt Nam, đƣợc giới trí thức đƣơng thời đặc biệt coi trọng.
Phạm trù triết học trung tâm của Thiền tông là “Bản Thể Chân Nhƣ” hay “Thực
Tƣớng” các pháp hoặc bản thể “Nhƣ Lai”. Theo luận giải của Thiền tông, Bản Thể
Chân Nhƣ chính là nguyên lý thống nhất của thế giới. Thế giới các hiện t ƣợng (Pháp
hữu vi) luôn biến đổi không ngừng. Tất cả các hiện tƣợng đó chỉ là biểu hiện của Bản
Thể Chân Nhƣ. Do vậy, về lý luận nhận thức, theo triết học Thiền tông cần phải vƣợt
qua thế giới các hiện tƣợng để đạt tới Bản Thể Chân Nhƣ, khi đó sẽ đạt tới sự giác ngộ
cứu cánh. Nhƣng sự giác ngộ này không phải đạt đƣợc bằng con đƣờng đi từ trực quan
sinh động (tức là từ nhận thức các hiện tƣợng) đến bản chất trừu tƣợng mà là bằng con
đƣờng siêu việt qua các hiện tƣợng. Vì vậy, phạm trù “Vô trụ” trở thành phạm trù căn
bản trong lý luận nhận thức của Thiền tông. Đây thực chất là phép biện chứng của
Thiền học. Theo tinh thần của phép biện chứng này, thế giới đƣợc biểu hiện ra trong
tính đa dạng của những khác biệt và mâu thuẫn, nhƣng xét theo bản chất chúng thống
nhất với nhau.
Phạm trù trung tâm trong triết học nhân sinh Phật giáo Việt Nam là phạm trù
“Từ bi”. Đây là phạm trù cơ bản trong triết học Phật giáo Đại thừa. Nội dung cơ bản
của phạm trù này là tinh thần bao dung giữa con ngƣời với nhau cũng nhƣ với muôn
loài vô tình và hữu tình. Bản chất triết học sâu xa của phạm trù này là phạm trù “vô
ngã” trong triết học Phật giáo cổ đại Ấn Độ. Đây cũng chính là tƣ tƣởng triết học nhân
văn của Phật giáo. Tinh thần cứu độ chúng sinh là một tinh thần thực tiễn. Tinh thần
đó là hệ quả tất yếu từ sự giác ngộ từ bi.


12


Nhƣ vậy, với tƣ tƣởng từ bi, triết học Phật giáo Việt Nam đã góp phần tạo dựng
một cơ sở lý luận cho tƣ tƣởng nhân ái Việt Nam; tƣ tƣởng nhân ái này vốn đã có cơ
sở hiện thực từ lịch sử cố kết cộng đồng dân tộc.
(4). Tư tưởng triết học Nho giáo trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
Triết học Nho giáo bao gồm hai bộ phận cấu thành là “Hình nhi thượng học” và
“Hình nhi hạ học”. Bộ phận thứ nhất có khuynh hƣớng đi sâu vào triết lý ở tầm siêu
hình học, gắn liền với sách Trung Dung và những chú giải của các nhà Nho Trung Hoa
đối với bộ Chu Dịch. Những tƣ tƣởng triết học này có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với các nhà tƣ tƣởng lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô
Thời Nhậm và nhiều nhà tƣ tƣởng khác.
Bộ phận thứ hai của Nho giáo có xu hƣớng đi sâu vào những luận điểm triết học
về chính trị và đạo đức, nhằm xác lập ý thức hệ cai trị phong kiến theo mô hình chế độ
trung ƣơng tập quyền cao độ.
Nhiều tƣ tƣởng tiến bộ trong các quan điểm về chính trị đạo đức của Nho giáo
đã đƣợc các nhà tƣ tƣởng Việt Nam kế thừa theo tinh thần thực tiễn của dân tộc. Đó là
tƣ tƣởng thân dân, trọng dân, coi dân là gốc của quốc gia; đó là tƣ tƣởng nhân nghĩa
trong đời sống chính trị- xã hội; đó là mối quan hệ biện chứng song trùng giữa vua–
tôi, cha– con, chồng– vợ; đó là các phạm trù đạo đức trung, hiếu, tiết, nghĩa...Trong
khi kết thừa và sử dụng các tƣ tƣởng tiến bộ đó, các nhà tƣ tƣởng Việt Nam đã bổ sung
và làm thay đổi các nội hàm một số khái niệm vốn có của Nho giáo Trung Hoa.
(5). Sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và duy tâm, triết học và tôn giáo
trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
Sự phát triển của lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam luôn diễn ra trong mối quan hệ
song trùng, giao thoa và tổng hợp nhƣng trong sự thống nhất đó vẫn có những biểu
hiện của sự đối lập và đấu tranh giữa các loại thế giới quan duy vật và duy tâm, triết
học và tôn giáo. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhƣng có một nguyên nhân

cơ bản là do sự phát triển của nó luôn có sự giao lƣu, tiếp biến với các hệ tƣ tƣởng
đƣợc du nhập từ bên ngoài, nhƣng vẫn nằm trong hệ quy chiếu của tƣ tƣởng triết học
phƣơng Đông vùng châu Á. Vì vậy, cuộc đấu tranh giữa thế giới quan duy vật với thế
giới quan duy tâm; giữa triết học với tôn giáo, tín ngƣỡng thƣờng xuyên diễn ra dƣới
các hình thái biểu hiện rất đặc biệt. Cuộc đấu tranh đó không có điểm kết thúc trong
suốt chiều dài lịch sử thời phong kiến, cho đến khi bắt đầu có sự thâm nhập của các hệ
tƣ tƣởng triết học phƣơng Tây cận đại và đặc biệt là từ khi có hệ tƣ tƣởng triết học
Mác- Lênin đƣợc truyền bá vào Việt Nam.
Cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học theo lập trường duy vật và duy
tâm không được phân định rõ ràng giữa các trường phái và giữa các nhà tư tưởng; và
cũng không phải chỉ với việc giải quyết một vấn đề cụ thể mà trải rộng trên nhiều vấn
đề, nhƣnaôcs thể khẳng định

13


chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam mang màu sắc tôn giáo có
nguồn gốc từ tín ngưỡng dân gian cổ truyền và “tam giáo” là thế giới quan bao trùm,
còn thế giới quan duy vật và chủ nghĩa vô thần chỉ thể hiện mờ nhạt và chỉ trong phạm
vi giải quyết một số vấn đề cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể.
Về mặt hình thái biểu hiện, cuộc đấu tranh giữa các quan điểm duy vật và duy
tâm trong lịch sử tƣ tƣởng triết học Việt Nam đƣợc biểu hiện trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa các phạm trù “Tâm” - “Vật”; “Linh hồn” - “Thể xác”; “Lý” - “Khí”;
v.v…; trong việc kiến giải về nguyên nhân và nguồn gốc của các sự kiện trong đời
sống chính trị của đất nƣớc và số mệnh của con ngƣời trong xã hội. Đó là những vấn
đề nhƣ nguồn gốc của sự an, nguy, hƣng, vong đối với các triều đại; vấn đề về bản tính
và số mệnh của mỗi con ngƣời; vấn đề “Đạo Trời” và “Đạo Ngƣời”, v.v…
III. TRIẾT HỌC MÁC– LÊNIN VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1. Triết học Mác- Lênin

a. Khái niệm triết học Mác- Lênin
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự ra đời của triết học
Mác không phải là một ngẫu nhiên mà là sự kết tinh có tính quy luật của quá trình phát
triển lịch sử tƣ tƣởng triết học nhân loại và trên cơ sở các điều kiện kinh tế- xã hội
cũng nhƣ trình độ phát triển khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX, là kết quả của sự thống
nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Triết học Mác- Lênin là hệ thống
quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy- thế giới quan và phương
pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận
thức và cải tạo thế giới.
Triết học Mác- Lênin là triết học duy vật biện chứng theo nghĩa rộng. Đó là hệ
thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự nhiên, cả về xã hội. Trong triết học MácLênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau
b. Đối tượng của triết học Mác- Lênin
Triết học Mác- Lênin xác định đối tƣợng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải
quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để;
nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định
hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người nhằm cải tạo tự
nhiên, cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ.
Triết học Mác- Lênin và các khoa học cụ thể có quan hệ chặt chẽ với nhau:
+ Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt
của tự nhiên, xã hội và tƣ duy. Triết học Mác- Lênin nghiên cứu những quy luật chung
nhất, phổ biến nhất, tác động đến cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tƣ duy.
+ Các khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề, cơ sở cho
sự phát triển triết học Mác- Lênin. Triết học Mác- Lênin cung cấp cơ sở thế giới quan,
14


phƣơng pháp luận cho các khoa học cụ thể. A.Anhxtanh viết: “Các khái quát của triết
học cần phải dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, mỗi khi đã xuất hiện và đƣợc
truyền bá rộng rãi, chúng thƣờng ảnh hƣởng đến sự phát triển của tƣ tƣởng khoa học
khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phƣơng hƣớng phát triển có thể có”

c. Chức năng của triết học Mác- Lênin
- Chức năng thế giới quan.
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và vị trí, vai trò của con
ngƣời trong thế giới đó. Triết học Mác- Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện
chứng, là hạt nhân thế giới quan khoa học và cách mạng.
Thế giới quan duy vật biện chứng là nhân tố định hướng cho con người nhận
thức đúng đắn thế giới hiện thực; nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người ;
là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa
học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt
nhân trong hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lƣợng tiến bộ, cách mạng, là
cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh chống các tƣ tƣởng phản cách mạng, phản động,
chống diễn biến hòa bình, tự diễn biến do các thế lực thù địch gây ra.
Chức năng phương pháp luận
Phƣơng pháp luận là một hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất
phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn. Triết học
Mác- Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và thực
tiễn. Phƣơng pháp luận duy vật biện chứng trang bị cho con ngƣời hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc, yêu cầu của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Triết học Mác- Lênin trang bị cho con ngƣời hệ thống các khái niệm, phạm trù,
quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con ngƣời phát triển tƣ duy khoa học,
đó là tƣ duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
2. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội
a. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong sự phát triển của triết học nhân loại và
trong chủ nghĩa Mác- Lênin
Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
Mác và Ăngghen đã tạo ra cuộc cách mạng trong lịch sử triết học nhân loại. Triết học
của Mác và Ăngghen là triết học duy vật triệt để nhất, hoàn bị nhất.
Sự ra đời của triết học Mác đã làm cho chủ nghĩa xã hội không tƣởng có căn cứ
khoa học để trở thành thực sự khoa học. Qua đó, phong trào công nhân đã tìm thấy ở
triết học Mác vũ khí tinh thần của mình, còn triết học Mác tìm thấy ở phong trào công

nhân vũ khí vật chất của mình : «Giống nhƣ thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của
mình, giai cấp vô sản thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình»
15


Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
triết học Mác và Ăngghen đã khắc đƣợc sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực
tiễn của con ngƣời. Đúng nhƣ Mác nhận định: «Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế
giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới ».
Với việc đƣa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức nói riêng vào triết học
nói chung, Mác và Ăngghen đã tạo ra sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
triết học của mình.
Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
Mác và Ăngghen đã khắc phục đƣợc sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể;
đã chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Triết học Mác có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phƣơng pháp biện
chứng, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính đảng với tính khoa học cho nên nó là họ c
thuyết mở, luôn tự đổi mới, phát triển cùng với sự phát triển của tƣ tƣởng nhân loại.
b. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong giải quyết những nhiệm vụ cấp thiết của
đời sống xã hội Việt Nam
Triết học Mác- Lênin là cơ sở thế giới quan và phƣơng pháp luận khoa học để
Đảng ta phân tích xu hƣớng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại đang phát triển mạnh mẽ, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế
tri thức trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.
c. Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của sự nghiệp đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học, trong đó
hạt nhân là phép biện chứng duy vật.
d. Vai trò của triết học Mác – Lênin rất quan trọng còn do chính yêu cầu đổi mới
nhận thức triết học hiện nay.

Triết học Mác- Lênin là học thuyết mở, do đó, việc tiếp tục bổ sung, đổi mới là
một nhu cầu tự thân và bức thiết của triết học này trong giai đoạn hiện nay.
IV. SỰ KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO TRIẾT HỌC MÁCLÊNIN TRONG THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Hồ Chí Minh với việc kế thừa, vận dụng và phát triển triết học Mác- Lênin
Sự hình thành tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh dựa vào sự kế thừa nguồn gốc lý
luận: tƣ tƣởng triết học, văn hóa phƣơng Đông, phƣơng Tây; triết học Mác- lênin và
nguồn gốc thực tiễn, nhân cách Hồ Chí Minh. Ngƣời đã phát triển tƣ tƣởng triết học
truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung, chủ nghĩa yêu nƣớc nói riêng lên một
tầm cao mới, gắn với dân tộc và thời đại.
16


Tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, về cách mạng Việt Nam,
về chủ nghĩa xã hội, về con đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…bắt nguồn từ
truyền thống văn hóa Việt Nam, nổi bật là chủ nghĩa yêu nƣớc, tinh thần nhân ái,
khoan dung của dân tộc Việt Nam. Đây là một trong những tiền đề khách quan để tạo
nên tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã trang bị cho cán bộ, đảng viên thế giới quan duy vật biện
chứng, giúp họ nhìn nhận, xem xét, đánh giá đúng tình hình, đề ra đƣờng lối, chủ
trƣơng, chính sách sát thực tiễn, có hiệu quả.
Hồ Chí Minh đã dựa chắc vào vấn đề cơ bản của tiết học để giải quyết mối quan
hệ giữa việc nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân; giữa phát
triển sản xuất với củng cố hệ thống chính trị; giữa tăng trƣởng kinh tế với phát triển
giáo dục, văn hóa; giữa xây dựng đất nƣớc với đấu tranh chống kẻ thù, bảo vệ tổ quốc;
kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại;…
Về khuynh hƣớng tƣ duy, tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh đi sâu giải quyết các
vấn đề nhân sinh; lấy cái cốt lõi là giải phóng con ngƣời khỏi áp bức, bất công, đem lại
cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào là mục đích hƣớng tới.
Có thể nêu những cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc phát triển triết học
Mác- Lênin là: tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng di

lên chủ nghĩa xã hội; về phƣơng pháp cách mạng và nghệ thuật chỉ đạo cách mạng; ...
Khái quát lại, tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm, quan niệm
duy vật biện chứng về con đƣờng cách mạng Việt Nam, thực hiện cách mạng giải
phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua giai đo ạn phát triển tƣ bản
chủ nghĩa nhằm xây dựng một nƣớc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần vào cách mạng thế giới.
2. Sự vận dụng sáng tạo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thực tiễn cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân
tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài giành độc lập, từng bƣớc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, việc kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là nắm
vững và vận dụng sáng tạo thế giới quan, phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào sự nghiệp đổi mới, xây dự ng và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

17


CHƢƠNG II
BẢN THỂ LUẬN
I. KHÁI NIỆM “BẢN THỂ LUẬN” VÀ NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC.
1. Khái niệm “bản thể luận”
Bản thể luận (ontology) là lý luận nghiên cứu về bản chất của tồn tại. Về mặt
nguyên từ, trong tiếng Hy Lạp, khái niệm này là một từ ghép giữa “on” (ontos) là “hữu
thể, tồn tại” với “logos” là “khoa học, nghiên cứu, học thuyết”, có nghĩa là một học
thuyết về tồn tại tự thân.
Khái niệm bản thể luận đƣợc dùng trong các trƣờng phái triết học phƣơng Tây
trƣớc Mác gồm hai nghĩa. Bản thể luận theo nghĩa rộng, chỉ bản chất tối hậu của mọi
tồn tại, mà bản chất này phải thông qua nhận thức luận mới nhận thức đƣợc. Cách tiếp

cận này tạo ra sự đối lập tƣơng đối giữa bản thể luận và nhận thức luận. Bản thể luận
theo nghĩa hẹp, tức là trong bản thể luận theo nghĩa rộng lại có hai nội dung, một là
nghiên cứu khởi nguyên và kết cấu của vũ trụ, hai là nghiên cứu bản chất của vũ trụ,
cái thứ nhất là vũ trụ luận, cái thứ hai là bản thể luận. Cách tiếp cận này tạo ra sự đối
lập tƣơng đối giữa bản thể luận và vũ trụ luận.
Học thuyết ý niệm của Plato là bản thể luận, song ông cũng nói đến lý luận hồi
ức của ý niệm. Thuyết bốn nguyên nghân của Aristotle là bản thể luận, song c ũng liên
hệ với quan điểm nhận thức luận của ông.
Johann Friedrich Herbart (1776- 1841) cho rằng phƣơng pháp luận là nghiên
cứu các sự vật mâu thuẫn tồn tại trong nhận thức cảm tính, còn bản thể luận là tìm hiểu
các tồn tại chân thực không mâu thuẫn.
2. Một số nội dung cơ bản về bản thể luận trong lịch sử triết học phương Đông
a. Bản thể luận trong triết học Phật giáo Ấn Độ
Bản thể luận trong triết học Phật giáo Ấn Độ có sự phát triển không ngừng, tạo
nên sự khác biệt lớn giữa thời kỳ đầu và thời kỳ sau, song về căn bản học thuyết bản
thể luận này có ba nội dung chính: thuyết bản thể “Thực hữu”, thuyết bản thể “Tính
không” và thuyết bản thể “Tâm thức”.
Thứ nhất, thuyết bản thể “Thực hữu”
Phật tổ không quan tâm, cũng không bàn đến cái tôi (“ngã”) với tƣ c ách là một
thực thể có tồn tại hay không. Ông chủ trƣơng “vô ngã”, yêu cầu không đƣợc chấp ngã
là chỉ không đƣợc chấp trƣớc vào quan niệm về “cái tôi” hay quan niệm về “cái của
tôi”, yêu cầu giải thoát từ trong quan niệm tự ngã. Ông yêu cầu “vô ngã” với ý nghĩa là
chứng ngộ khi tu tập đạo đức tôn giáo chứ không hề cho rằng cái tôi (“ngã”) với tƣ
cách là thực thể không tồn tại.

18


Phái Nhất thiết hữu bộ với mệnh đề “ngã không hữu pháp” (cái ta là không còn
vạn pháp là có) cho rằng sự tồn tại của đời sống con ngƣời là do “ngũ uẩn” hòa hợp

với nhau mà thành hoàn toàn không có bản chất thực tại chân chính.
Một trong những luận điểm quan trọng của phái này là mọi tồn tại có thể chia
thành hai phƣơng diện là bản thể và hiện tƣợng, đem các loại tồn tại khác nhau quy về
hai yếu tố cuối cùng là thể tính và công năng. VD nhƣ lấy cứng, ẩm, nóng, động làm
bản tính của đất, nƣớc, lửa, gió (“tứ đại”), những yếu tố cuối cùng chính là “pháp thế”
mang tính vĩnh cửu. Còn bản thể với tƣ cách là yếu tố đa dạng của bản thể thƣờng
hằng khi phát sinh tác dụng sẽ biểu hiện ra thành hiện tƣợng. Bản thể là vĩnh hằng, bất
biến, bản thể có khi phát sinh tác dụng, có khi không phát sinh tác dụng từ đó mà
khiến cho tồn tại có các hình dáng và vị trí khác nhau. Bản thể đã phát sinh tác dụng là
“quá khứ pháp”, đang phát sinh tác dụng là “hiện tại pháp”, sẽ phát sinh tác dụng là
“vị lai pháp”.
Thứ hai, thuyết bản thể “Tính không”
Phái Trung Quán chủ trƣơng “nhân pháp nhị không” có nghĩa là tất cả mọi tồn
tại bao gồm con ngƣời và sự vật, vật chất và tinh thần đều do nhân duyên hòa hợp mà
sinh ra, đều không có bản chất cố định của mình (“tự tính”), tất cả đều là “không”. Tuy
nhiên, học thuyết “không”, song không bài trừ có (“hữu”- tồn tại), mà lấy không làm
có, không và có gắn liền với nhau.
Long Thọ (Trung Quán) định nghĩa về “không”: “Chúng nhân duyên sinh pháp,
ngã thuyết tức thị không (vô)”, có nghĩa là mọi sự vật do nhân duyên sinh ra đều là
không. Long Thọ cho rằng nếu nhƣ vũ trụ vạn vật đều là duyên khởi thì rõ ràng tất cả
đều không có bản chất của mình (“tự tính”). Kinh Bát nhã, Huyền Trang có viết: “Sắc
bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thụ, tƣởng, hành,
thức diệc phục nhƣ thị” (Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc chính là
không, không chính là sắc. Thụ, tƣởng, hành, thức cũng đều nhƣ thế). Điều này có
nghĩa là mọi tồn tại (hữu) bao gồm các yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần đều gắn với
“không” và ngƣợc lại, “không” cũng gắn chặt với các yếu tố vật chất và yếu tố tinh
thần; mọi tồn tại đều là “không” vô tự tính, “không” vô tự tính cũng không tách rời
mọi tồn tại. Ở đây, cần lƣu ý học thuyết “Tính không”, không phải là sự phủ định sự
tồn tại của bản thể hay chủ trƣơng bản thể luận vô bản thể, mà là tách tƣ duy và ngôn
ngữ con ngƣời khỏi bản chất của thế giới trực giác. Và không hay tính không là phạm

trù triết học về bản chất của thế giới, có nội dung đặc biệt và ý nghĩa phong phú, chứ
không phải là “không” theo nghĩa thông thƣờng, trống rỗng.
Thứ ba, thuyết bản thể “Tâm thức”
Tìm hiểu mối quan hệ giữa chủ thể và bản thể, đƣa bản thể vào trong chủ thể,
thậm chí quy về chủ thể có hai lối tƣ duy trong lý luận này: Một là, chú trọng tìm hiểu
bản tính của tâm là phái Nhƣ Lai. Hai là, chú trọng phát triển hoạt động tâm thức là
phái Duy Thức. Phái Nhƣ Lai coi Phật tính là tính không, coi Phật tính không chỉ là
19


căn nguyên để chúng sinh thành Phật mà còn là bản tính của vạn sự vạn vật, do đó
cũng mang ý nghĩa bản thể của vạn vật trong vũ trụ. Phái Duy Thức coi thế giới là
biểu tƣợng, quy tồn tại thành nhận thức, từ đó tiến thêm một bƣớc coi tâm thức là căn
nguyên, là bản thể của vũ trụ vạn vật trong đó có chúng sinh.
Mệnh đề căn bản của Duy thức học là “vạn pháp duy thức” (tất cả mọi s ự vật
chỉ là tâm thức), mệnh đề này có nhiều cách thể hiện khác nhau nhƣ “nhất thiết duy
thức”, “duy thức sở biến”, “duy thức vô cảnh”. Ý nghĩa của mệnh đề này là tâm thức
là tiền đề của nhận thức, vạn vật do tâm thức phân biệt ra (“vạn pháp”) đề u là sự biến
thiên và biểu hiện của tâm thức, đều không tách khỏi tâm thức. Duy thức tam thập
luận tụng viết: “Thị chƣ thức chuyển biến, phân biệt sở phân biệt, do bỉ thử giai vô, cố
nhất thiết duy thức”, có nghĩa là thế giới hiện tƣợng đƣợc hình thành từ hai yếu tố tâm
thức chủ quan và đối tƣợng khách quan đều là sự biểu hiện của duy thức, đều không
tách rời sự biến động của tâm thức, vạn pháp đều là tâm thức, tất cả đều là tâm thức.
b. Bản thể trong triết học Kinh Dịch
Theo Kinh Dịch, bản thể của vũ trụ là Thái cực. Thái cực chính là khởi nguyên
của vũ trụ, là nguyên nhân đầu tiên, là nguyên lý tối hậu của trời đất muôn vật. “Hệ từ
thƣợng” có viết: “Dịch có Thái cực, Thái cực sinh Lƣỡng nghi, Lƣỡng nghi sinh Tứ
tƣợng, Tứ tƣợng sinh Bát quái ”
3. Một số nội dung cơ bản về bản thể luận trong lịch sử triết học phương Tây
a. Bản thể luận trong triết học Hy Lạp cổ đại

Democritus (460- 370 TCN)
Theo Democritus, bản nguyên của thế giới gồm có hai thứ là nguyên tử (tồn tại)
và chân không (không tồn tại). Ông nêu ra ba bƣớc luận chứng để chứng minh nguyên
tử và chân không là bản nguyên của thế giới.
Thứ nhất, lấy sự vật có thể cảm giác đƣợc là tiêu chuẩn thì sự vật có nhiều, vô
cùng, vô tận và luôn vận động. Xuất phát từ kinh nghiệm thì chúng ta có thể chia tách
các sự vật tồn tại, do đó giữa các sự vật phải có khoảng không, và vì có khoảng không
thì các sự vật mới có thể sinh thành và biến hóa đƣợc.
Thứ hai, chia tách có điều kiện, điều kiện đó chính là chân không. Vì nếu không
có chân không thì giữa các sự vật sẽ không có không gian, nếu không có không gian
thì không những sự vật không thể chia tách đƣợc mà còn không thể phát triển đƣợc.
Thứ ba, nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất của tồn tại. Không phải vật nào cũng có
thể làm bản nguyên dƣợc, mà nguyên tử phải tồn tại bất sinh, bất diệt.
Nguyên tử có những tính chất sau:
Một là, lúc ban đầu, nguyên tử lƣu động khắp nơi theo mọi hƣớng trong không
gian, và từ những đơn vị đơn độc, chúng va chạm với nhau, gắn kết với nhau mà hợp
thành vạn vật.

20


Hai là, sự lƣu động của nguyên tử là tất nhiên và không theo một trật tự,
nguyên tắc nào cả.
Ba là, nguyên tử có hình cầu, vì “hình cầu là trạng thái vận động dễ dàng nhất”.
Bốn là, vị trí và trật tự sắp xếp các nguyên tử khác nhau sẽ quyết định nên các
sự vật khác nhau.
Năm là, chúng ta không thể quan sát đƣợc nguyên tử. Bằng quan niệm này,
nguyên tử với tƣ cách bản nguyên thế giới đã đƣợc trừu tƣợng hóa đến cao độ.
Plato (427- 347 TCN)
Với Plato, tri thức có bốn cấp độ: Ảnh tƣợng- Hiện tƣợng- Tri thức toán học- Ý

niệm. Ý niệm là tri thức có cấp độ cao nhất, chính vì vậy, nhiệm vụ của các nhà triết
học là phải đi tìm cái tuyệt đối, chính là ý niệm.
Theo Plato, về mặt logic: Ý niệm là khái niệm chung, phổ quát nhất; về mặt bản
thể luận: Ý niệm là nguyên lý tồn tại cho vạn vật; về mặt giá trị luận: Thế giới hiện
tƣợng chia sẻ hoàn thiện tuyệt đối ở thế giới ý niệm. Ý niệm cao nhất là “Thiện”, là
căn nguyên của mọi tồn tại, nhận thức và giá trị.
Aristotle (384- 322TCN)
Theo Aristotle, mọi sự vật tồn tại đều là một sự vật cá thể và cụ thể, và mọi sự
vật đều là thể thống nhất của vật chất và hình thức. Ông nêu bốn nguyên nhân tồn tại
của sự vật:
Thứ nhất, nguyên nhân chất liệu, lý giải sự vật đƣợc làm bằng vật liệu gì.
Thứ hai, nguyên nhân hình thức, xác định sự vật có hình dạng nhƣ thế nào.
Thứ ba, nguyên nhân tác thành, tìm ra cái làm nên sự vật.
Thứ tư, nguyên nhân mục đích, nêu lên cái đích mà sự vật hƣớng tới.
Trong bốn nguyên nhân, nguyên nhân mục đích là nguyên nhân cuối cùng,
cũng là nguyên nhân quan trọng nhất, vì Aristotle quan niệm, tất cả sự vật trong giới tự
nhiên đều có mục đích của mình.
b. Bản thể luận trong triết học phương Tây trung đại
Thomas Aquinas (1225- 1274)
Cũng nhƣ Aristote, Thomas Aquinas, “hữu thể” có hai tầng ý nghĩa, thứ nhất là
một khái niệm trìu tƣợng phổ biến. Thứ hai mang nghĩa ngôi vị, tức là, tự hữu thể là
chỉ Thƣợng đế hoặc Thƣợng đế chính là hữu thể. Ông nêu ra năm con đƣờng luận
chứng khác nhau để chứng minh cho sự tồn tại của Thƣợng đế.
1. Chứng minh xuất phát từ vận động, theo Thomas Aquinas, vật thúc đẩy đầu
tiên cho mọi sự vận động đó là Thƣợng đế.
2. Chứng minh từ nguyên nhân tác thành, hữu thể tác thành cho mọi sự tồn tại
đó chính là Thƣợng đế.

21



3. Chứng minh từ hữu thể khả năng và hữu thể tất yếu, hữu thể tất yếu là
nguyên nhân (tự thân) cho tất cả mọi sự tồn tại- Thƣợng đế.
4. Chứng minh từ mức độ hoàn mỹ, sự vật tồn tại có mục đích, mục đích này
khiến nó tốt, đẹp- hoàn mỹ. Sự hoàn mỹ tuyệt đối là nguyên nhân cho mọi sự hoàn mỹ
khác, Thomas Aquinas gọi hoàn mỹ tuyệt đối là Thƣợng đế.
5. Chứng minh từ trí tuệ tuyệt đối, vũ trụ vô cùng phong phú, phức tạp, song lại
trật tự và hài hòa, các sự vật trong vũ trụ có thể vận hành theo đúng đặc tính của mình
một cách có quy luật. Thomas Aquinas cho rằng một quy luật nhƣ vậy nhất định phải
do đỉnh cao trí tuệ- Thƣợng đế.
c. Bản thể luận trong triết học nước Anh và Pháp cận đại
Francis Bacon (1561- 1626)
Francis Bacon cho rằng chân lý triết học khác với chân lý thần học. Ông đƣa ra
bốn quan điểm của mình.
Thứ nhất, về bản thể luận, Francis Bacon cho rằng toàn thể thế giới vạn vật là
do các phân tử mang tính vật chất cấu thành.
Thứ hai, Francis Bacon cho rằng bản thân tự nhiên có quy luật mang tính khách
quan, không bị tác động bởi ý chí con ngƣời, thậm chí đến Thƣợng đế. Do đó, để nhận
thức một cách tốt hơn bản chất của tự nhiên, Francis Bacon đƣa ra một giả định là phải
cho rằng tự nhiên có tính quy luật bất biến, mang tính phổ biến và tất yếu và nếu nhƣ
vậy thì tri thức mới có sức mạnh.
Thứ ba, con ngƣời có thể nhận thức đƣợc hình thức và bản chất của giới tự
nhiên bằng lý tính và thông qua các phƣơng pháp khoa học.
Thứ tư, Francis Bacon cho rằng bản thân vật chất và các hình thái vận động của
nó mang tính đa dạng.
René Descartes (1596- 1605)
Vấn đề bản thể luận của Descartes đƣợc xuất phát từ phƣơng pháp hoài nghi.
Descartes coi “tôi tƣ duy, vậy tôi tồn t ại” là nguyên lý thứ nhất của triết học. Từ “tôi tƣ
duy” mới dẫn đến “tôi tồn tại”, vì vậy “tôi tồn tại” ở đây hoàn toàn không có sự tồn tại
về mặt thân thể mà thuần túy là tồn tại về mặt tƣ tƣởng.

Descartes đƣa ra ba luận chứng để chứng minh sự tồn tại của Thƣợng đế.
Thứ nhất, tôi có một quan niệm chí thiện, theo Descartes “tôi” thì không phải
chí thiện, vì vậy “tôi” không thể nào tạo ra quan niệm chí thiện nhƣ vậy đƣợc. Song
trên thực tế, tôi hiện đang có một quan niệm chí thiện nhƣ vậy, do đó, bắt buộ c phải có
một tồn tại chí thiện, bằng không tôi sẽ không thể có một quan niệm nhƣ vậy.
Thứ hai, “tôi” có một quan niệm chí thiện do đâu mà có . “Tôi” không phải chí
thiện, song tôi lại có một quan niệm chí thiện. “Tôi” không thể tự sinh ra đƣợc, tất yếu
phải do một bậc chí thiện hoàn hảo sáng tạo ra. Cũng do quan hệ này mà “tôi” chỉ có
đƣợc quan niệm chí thiện chứ không trở thành chí thiện.
22


Thứ ba, quan niệm chí thiện bao gồm tồn tại. Sự tồn tại và bản chất của Thƣợng
đế (bậc chí thiện) không tách rời nhau, giống nhƣ quan niệm hang động trong núi
không thể tách rời quan niệm về ngọn núi
Như vậy, Descartes đã hạ tác dụng của Thƣợng đế xuống thấp nhất, thuần túy
chỉ còn thuộc tính chí thiện hoàn mỹ. Và thực thể Thƣợng đế chỉ mang ý nghĩa sáng
tạo mang tính bản thể luận chứ không có tác dụng thực tế đối với trí tuệ con ngƣời.
d. Bản thể luận trong triết học cổ điển Đức
Immanuel Kant (1724- 1804)
Toàn bộ lý luận của Kant đƣợc trình bày trong bộ ba tác phẩm nổi tiếng: Phê
phán lý tính thuần túy, Phê phán lý tính thực tiễn, Phê phán năng lực phán đoán. Ba
công trình lớn trả lời cho những nhiệm vụ triết học của Kant và cũng chính là cho cả
loài ngƣời- đó là ba mặt đầy đủ của lăng kính con ngƣời và lăng kính xã hội loài
ngƣời. Ba công trình là ba mặt Chân- thiện- Mỹ, là cấu trúc hoàn thiện của con ngƣời
và xã hội loài ngƣời vƣơn tới những giá trị ấy là vƣơn tới thế giới văn hóa, vƣơn tới
giá trị của bản thể ngƣời.
Georg Wihelm Friedrich Hegel (1770- 1831)
Theo Hegel, sự phát triển của tinh thần trải qua ba bậc thang từ thấp đến cao,
thang bậc sau bao hàm trọn vẹn thang bậc trƣớc.

1. Tinh thần chủ quan- tinh thần trong quan hệ với chính bản thân mình, là đối
tƣợng nghiên cứu của nhân học, hiện tƣợng học và tâm lý học. Học thuyết về tinh thần
chủ quan bàn về cuộc sống của từng con ngƣời đơn lẻ;
2. Tinh thần khách quan- tinh thần dƣới hình thức thực tại thể hiện trong pháp
luật, luân lý và đạo đức. Vƣơng quốc của tinh thần khách quan là gia đình, xã hội công
dân và nhà nƣớc;
3. Tinh thần tuyệt đối là sự thống nhất (tồn tại tự nó và cho nó) giữa tính khách
quan của tinh thần và khái niệm của nó, là tinh thần trong chân lý tuyệt đối của mình,
biểu hiện ở nghệ thuật, tôn giáo và triết học.
II. NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
1. Cách tiếp cận và giải quyết vấn đề bản thể luận trong triết học Mác- Lênin
Triết học Mác- Lênin chứng minh bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất. Điều này thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới
vật chất tồn tại khách quan, có trƣớc và độc lập với ý thức của con ngƣời.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kế t cấu
vật chất, do vật chất sinh ra và chịu sự chi phối của các quy luật khách quan phổ biến
của thế giới vật chất.

23


Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Vật chất không đƣợc
sinh ra và không bị mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Trong thế giới
không có nơi nào và lúc nào có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi
và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
2. Quan niệm của triết học Mác- Lênin về vật chất
Định nghĩa vật chất của Lênin. Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan đƣợc đem lại cho con ngƣời trong cảm giác, đƣợc cảm giác của

chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Nội dung cơ bản của định nghĩa: Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan, tức
là tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, có thật và không phụ thuộc vào ý thức. Thứ
hai, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con ngƣời khi bằng cách nào đó (trực tiếp hoặc
gián tiếp) tác động lên giác quan con ngƣời. Thứ ba, vật chất là cái mà cảm giác, tƣ
duy, ý thức chẳng qua là sự phản ánh của nó.
Ý nghĩa của định nghĩa: Thứ nhất, định nghĩa đã chỉ ra rằng vật chất là thực tại
khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con ngƣời, kiên định và triệt để quan điểm
nhất nguyên của chủ nghĩa duy vật, vạch ra đƣờng ranh giới với chủ nghĩa duy tâm và
nhị nguyên luận. Thứ hai, định nghĩa đã chỉ ra rằng vật chất có thể đƣợc ý thức phản
ánh, khẳng định năng lực nhận thức của con ngƣời, vạch ra đƣờng ranh giới với thuyết
bất khả tri. Thứ ba, định nghĩa đã chỉ ra đặc tính duy nhất của vật chất là thực tại
khách quan, khắc phục đƣợc hạn chế của chủ nghĩa duy vật trƣớc đây đồng nhất vật
chất với hình dạng cụ thể hoặc kết cấu của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Theo Ph.Ăngghen, vận động
hiểu theo nghĩa chung nhất (…) bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn
ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tƣ duy.
Vật chất tồn tại bằng cách vận động, trong vận động và thông qua sự vận động
mà các dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình. Không có vật chất không vận động,
không có sự vận động nào là không phải là sự vận động của vật chất hoặc bắt nguồn từ
vật chất. Vận động là sự tự thân vận động của vật chất, đƣợc tạo nên do sự tác động
lẫn nhau của các tồn tại vật chất. Sự vận động của vật chất là vô cùng, vô tận.
Vận động của vật chất còn bao hàm cả hiện tƣợng đứng im tƣơng đối; không có
hiện tƣợng đứng im tƣơng đối thì không có sự vật nào tồn tại đƣợc.
Các hình thức vận động cơ bản của vật chất. Dựa trên những thành tựu khoa
học thời đại mình, Ph.Ăngghen chia vận động thành 5 hình thức cơ bản: cơ học, vật lý,
hoá học, sinh học, xã hội.
Mối quan hệ giữa các hình thức vận động: Thứ nhất, các hình thức vận động
nói trên khác nhau về chất. Thứ hai, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở
các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó các hình thức vận động thấp hơn. Thứ

ba, trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động

24


khác nhau. Tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trƣng bằng
một hình thức vận động cơ bản.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Mọi sự vật tồn tại khách quan đều có vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài,
ngắn, ngang, dọc, cao, thấp... của nó và tồn tại trong các mối tƣơng quan nhất định với
những dạng vật chất khác. Tất cả những thuộc tính đó gọi là không gian.
Mọi sự vật đều ở trong trạng thái không ngừng biến đổi, mà mọi sự biến đổi
diễn ra đều có quá trình, có độ dài của sự diễn biến, nhanh, chậm kế tiếp nhau... Tất cả
những thuộc tính đó đƣợc gọi là thời gian.
Những tính chất của không gian và thời gian: tính khách quan; tính vĩnh cửu;
tính vô tận và vô hạn; không gian có ba chiều còn thời gian chỉ có một chiều
3. Quan điểm của triết học Mác- Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhƣng không phải của mọi dạng vật chất,
mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con ngƣời; là hình
thức phản ánh đặc trƣng riêng có của con ngƣời, đƣợc phát triển từ thuộc tính phản
ánh có ở mọi dạng vật chất.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Trong quá trình ấy, vật
nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp. Phản ánh đƣợc thể hiện dƣới nhiều hình thức: phản ánh vật
lý, hóa học, sinh học, phản ánh Tâm lý và phản ánh Ý thức. Những hình thức này
tƣơng ứng với quá trình tiến hóa của vật chất. Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản

ánh thế giới hiện thực.
Như vậy, bộ óc ngƣời (cơ quan phản ánh thế giới vật chất xung quanh) cùng với
thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức
Những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên rất quan trọng, không thể thiếu, song điều
kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Trong đó,
cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con ngƣời sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con ngƣời. Lao động
làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng đi thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay,
phát triển khí quan và não bộ…của con ngƣời.

25


×