Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Khảo sát trường ngữ nghĩa trong tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.34 KB, 108 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ học đề cập đến rất nhiều vấn đề: âm vị, hình vị, từ, câu...
khả năng kết hợp của từ, ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp... trường nghĩa là
một trong những lí thuyết quan trọng được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm
nghiên cứu. Tìm hiểu về trường nghĩa, chúng ta có thể làm sáng tỏ nhiều vấn
đề của hệ thống từ vựng như mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ trong cùng
một hệ thống, hiện tượng nhiều nghĩa và sự chuyển biến ý nghĩa của từ. Các
vấn đề nói trên đều gắn bó chặt chẽ với quá trình sử dụng ngôn ngữ, do đó
nghiên cứu về trường nghĩa sẽ giúp ta thấy rõ các đặc điểm của ngôn ngữ
trong hoạt động hành chức.
1.2. Theo cách cảm thụ truyền thống, người đọc thường chỉ chú ý đến
nhân vật, bối cảnh, tình huống, cốt truyện... mà ít chú ý đến ý nghĩa từ vựng,
ý nghĩa ngữ pháp của từ, khả năng kết hợp của từ, ý nghĩa của từ nằm trong
trường nghĩa nào... Việc dạy học trong nhà trường phổ thông hiện nay, dạy và
học ngôn ngữ không tách rời việc phân tích các tác phẩm văn học. Xu hướng
hiện nay dạy học theo quan điểm tích hợp ngữ - văn đang được đề cao, các lí
thuyết ngôn ngữ càng được quan tâm ứng dụng vào nghiên cứu tác phẩm, góp
phần giải mã tín hiệu ngôn ngữ ở một dạng đặc biệt - ngôn ngữ nghệ thuật.
Thực tế bấy lâu nay, người dạy và người học tiến hành phân tích cách sử dụng
từ ngữ của nhà văn trong các sáng tác văn chương đều phải dùng đến những
kiến thức có liên quan đến lí thuyết về trường nghĩa nhưng chưa thực sự ý
thức được điều đó. Cũng vì thế việc cảm thụ nhiều khi khó tránh khỏi cảm
tính, chưa có cơ sở khoa học rõ ràng hoặc chưa thấy hết những biểu hiện đặc
sắc cũng như các mối quan hệ trong lòng hệ thống của các từ ngữ. Bởi vậy,

1


nghiên cứu lí thuyết về trường nghĩa trong quan hệ với việc phân tích tác
phẩm văn học là điều cần thiết.


1.3. “Mảnh đất lắm người nhiều ma” là sáng tác thành công của Nguyễn
Khắc Trường. Đặc biệt, ngôn ngữ tác phẩm chứa đựng những nét riêng đặc
sắc, được nhiều nhà phê bình đánh giá cao. Nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm
này trong cấu trúc tổng thể của nó để làm nổi bật các giá trị nội dung cũng
như nghệ thuật là việc làm có ý nghĩa. Hệ thống từ ngữ phong phú, có giá trị
nghệ thuật là nguồn tư liệu tốt góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lí thuyết về
trường nghĩa và làm rõ hướng tiếp cận tác phẩm văn học dựa vào trường
nghĩa.
Từ những lí do nói trên, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài Khảo sát trường
ngữ nghĩa trong tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc
Trường.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu tác phẩm văn học dựa trên lí thuyết về
trường nghĩa
Thực tế đã có nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu về trường
nghĩa và các ứng dụng của nó. Ở đây chúng tôi chỉ điểm lại một số công trình,
bài viết của những người đã đề xuất việc ứng dụng lí thuyết về trường nghĩa
vào việc phân tích tác phẩm văn học.
Trước hết phải kể đến các công trình của nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu.
Song song với việc giới thiệu, nghiên cứu về trường nghĩa dưới góc độ lí
thuyết, ông cũng đã đề cập đến hướng ứng dụng lí thuyết về trường nghĩa vào
phân tích văn học. Trên tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1974, Đỗ Hữu Châu có
bài viết "Trường từ vựng ngữ nghĩa và việc dùng từ ngữ trong tác phẩm nghệ
thuật". Trong các cuốn sách của Đỗ Hữu Châu như "Từ vựng ngữ nghĩa tiếng
Việt" (NXB GD, 1999), "Từ vựng học tiếng Việt'' (NXB ĐHSP, H, 2004), sau

2


khi trình bày lí thuyết về trường nghĩa, nhà nghiên cứu này đều gợi mở hướng

nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm văn học theo trường nghĩa bằng việc lựa chọn
một số trích đoạn văn chương để phân tích. Đó là những đóng góp quí báu có
ý nghĩa mở đường của Đỗ Hữu Châu cho một hướng nghiên cứu văn học. Tuy
nhiên các bài viết của ông đều theo hướng gợi mở, lấy một vài dẫn chứng làm
ví dụ chứ chưa thực sự đi vào phân tích một tác phẩm cụ thể nào.
Tác giả Phạm Minh Diện trong luận văn thạc sĩ "Tìm hiểu một số phương
pháp phân tích ngôn ngữ tác phẩm văn học (một thử nghiệm so sánh các
phương pháp qua việc phân tích một bài thơ)" (1985) đã phân tích bài thơ 'Từ
ấy" của Tố Hữu theo một số hướng phân tích của các tác giả Hoàng Tuệ, Đái
Xuân Ninh, Nguyễn Thái Hòa và theo trường từ vựng ngữ nghĩa của Đỗ Hữu
Châu. Phạm Minh Diện đã nhận xét rằng: "Phương pháp ngôn ngữ học thực
thụ (như phương pháp ngữ nghĩa học của Đỗ Hữu Châu) bao giờ cũng cho
phép ta bắt đầu từ các từ ngữ với những ý nghĩa rõ ràng của nó, trên cơ sở
đó mới tuần tự chỉ ra các lớp nghĩa do phối hợp hay do đôi lập với ngữ cảnh.
Bởi vậy những hình ảnh, cảm xúc bao giờ cũng được hiện ra với tư cách là
những "ý nghĩa" thuộc các lớp khác nhau. Và cũng do vậy chúng có một cấu
trúc cực kì tinh vi phức tạp nhưng lại khá rõ ràng. Đó chính là chỗ mạnh của
phương pháp ngôn ngữ học" [ , 46]. Theo Phạm Minh Diện, tuy phương pháp
này không phải không có hạn chế (tác phẩm bị chẻ ra thành những yếu tố nhỏ,
dễ làm mất đi tính chỉnh thể) nhưng sự phân tích đạt tới trình độ chính xác,
khoa học như vậy là khá tối ưu. Chúng tôi cho rằng những nhận xét trên là
xác đáng.
Như vậy có thể thấy, rõ ràng phân tích tác phẩm văn học dựa vào trường
nghĩa là một hướng đi đúng đắn nhưng chưa thực sự được nhiều người, đặc
biệt là các giáo viên quan tâm đúng mức và thực hiện một cách có hệ thống.
Tác giả Phạm Minh Diện trong luận văn của mình cũng đã thử nghiệm phân

3



tích một tác phẩm thơ ca. Tuy nhiên các tác phẩm văn xuôi - vốn chiếm một
số lượng lớn lại chưa hề được phân tích theo phương pháp này. Hơn thế, luận
văn của Phạm Minh Diện cũng mới chỉ trình bày một cách hết sức sơ lược về
hướng phân tích văn học theo trường nghĩa, việc phân tích lại chủ yếu nhằm
so sánh giữa các phương pháp cho nên chưa thực sự đi sâu được vào hướng
phân tích này. Tìm hiểu đầy đủ các cơ sở lí thuyết của phương pháp và tiến
hành phân tích cụ thể một tác phẩm văn xuôi chính là điều chúng tôi sẽ làm
trong luận văn này.
2.2. Lịch sử nghiên cứu tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma” –
Nguyễn Khắc Trường
Tác giả Nguyễn Khắc Trường đã được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải
thưởng cho tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” vào năm 1991. Tác
phẩm này từng gây ra nhiều dư luận bởi có nhiều luồng ý kiến trái chiều nhau
về giá trị nội dung của nó, cụ thể là trong cái nhìn về nông thôn Việt Nam
đang trong thời kì đổi mới. Tuy nhiên sau gần hai mươi năm ra đời, giá trị của
cuốn tiểu thuyết đã thực sự được thừa nhận. Năm 2002, đạo diễn Nguyễn Hữu
Phần đã dựa theo tác phẩm này để dựng thành bộ phim “Đất và người”; bộ
phim được phát sóng trên kênh VTV1 Đài truyền hỡnh Việt Nam. Xung
quanh tác phẩm này, đã cú những bài viết của các nhà nghiên cứu đề cập đến
những khía cạnh nổi bật nhất về nội dung và nghệ thuật.
Trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8, năm 2006, trong bài viết Thế
giới kì ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường từ
điểm nhìn văn hóa, tác giả Lê Nguyên Cẩn cho rằng tác phẩm Mảnh đất lắm
người nhiều ma là một quyển tiểu thuyết có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với
người đọc. Một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên sức hấp dẫn đó
chính là sự tham gia của yếu tố kì ảo trong tác phẩm. Yếu tố kì ảo trong tiểu
thuyết này chủ yếu nhằm tạo dựng một thế giới ma quỷ trong huyền thoại,

4



trong tâm thức con người và thế giới ma quỷ ngay trong cuộc sống đời
thường. Hai thế giới đó nhiều khi hòa lẫn vào nhau khiến người đọc khó nhận
biết đâu là thực, đâu là ảo, khó phân biệt được đâu là người, đâu là ma. Nhà
văn Nguyễn Khắc Trường vẫn có thể phản ánh được hiện thực của nông thôn
Việt Nam mà không cần sử dụng yếu tố kì ảo, nhưng chắc chắn hiệu quả thẩm
mỹ sẽ không cao bằng. Thế giới kì ảo trong truyện làm sống dậy cả chiều sâu
văn hóa tâm linh, văn hóa ứng xử sâu rễ bền gốc ở nông thôn và góp phần vẽ
lên bức tranh toàn cảnh về đời sống nông thôn thời kì đổi mới. Nhà văn đã
mượn thế giới ma quỷ để phản ánh thế giới thực tại mà chúng ta đang sống,
giúp chúng ta nhận thức hiện thực một cách tỉnh táo và sâu sắc, đặc biệt là
phản ánh được phần chìm khuất của tâm hồn con người.
Trên Webside: http: tusachvanhoc.com.vn ngày 9 tháng 5 năm 2011, có
đăng bài viết Bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết “Mảnh đất
lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, của tác giả Lê Nguyên Cẩn,
khi bàn về nội dung, Lê Nguyên Cẩn đã tìm hiểu những yếu tố làm nên thành
công của tác phẩm là những câu chuyện li kì và những tín ngưỡng dân gian;
những mâu thuẫn họ tộc; là thân phận con người dưới đáy xã hội và khát vọng
dân chủ; là số phận người phụ nữ sau lũy tre làng... trước những thế lực tranh
giành địa vị, quyền lực, danh dự. Tất cả những tình huống bi kịch trong tiểu
thuyết được tác giả Nguyễn Khắc Trường giải thích dưới hình thức châm
biếm, hài hước. Đằng sau giọng điệu cười đùa bỡn cợt là một tấm lòng yêu
thương ưu ái với đời. Tác giả cũng đã rất thành công khi xây dựng tính cách
nhân vật đối lập nhau, những cảnh huống trái ngược nhau làm nổi bật vấn đề
được phản ánh.
Tác giả Lưu Thị Ngọc trong khóa luận tốt nghiệp Đại học tại trường Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2009, đã tìm hiểu đề tài Đặc điểm vai giao tiếp
trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường.

5



Khóa luận của Lưu Thị Ngọc đã khảo sát vai giao tiếp trong tiểu thuyết Mảnh
đất lắm người nhiều ma để thấy được các yếu tố: tuổi tác, nghề nghiệp, giới
tính, địa vị xã hội... có ảnh hưởng như thế nào trong việc chọn lựa “vai” của
các nhân vật, đồng thời chỉ ra cách vận dụng các phương tiện ngôn ngữ như:
từ ngữ xưng hô, hành vi ngôn ngữ... sao cho phù hợp với vai giao tiếp của
nhân vật đó. Từ việc tìm hiểu đó, Lưu Thị Ngọc rút ra được cách sử dụng từ
ngữ xưng hô đặc trưng của người miền Bắc trong giai đoạn đầu đổi mới đất
nước.
Điểm qua các bài nghiên cứu, bài viết về tác phẩm của Nguyễn Khắc
Trường, chúng tôi nhận thấy các tác giả tìm hiểu về Nguyễn Khắc Trường đã
tiếp cận từ góc độ lí luận phê bình và ngôn ngữ học. Tuy nhiên dưới góc độ
ngôn ngữ học, chưa có bài viết nào tìm hiểu về trường ngữ nghĩa của tiểu
thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma. Đây là cơ sở để chúng tôi đi vào tìm
hiểu đề tài Khảo sát trường ngữ nghĩa trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người
nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích:
- Xác lập được các trường nghĩa sự vật, hoạt động, tính chất được sử
dụng trong tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma.
- Tìm ra đặc điểm riêng của từng trường nghĩa và giá trị của chúng trong
việc thể hiện chủ đề tác phẩm.
3.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là toàn bộ các danh từ (trường nghĩa
sự vật), động từ, tính từ (trường nghĩa hoạt động, tính chất) có mặt trong tác
phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma. Phạm vi tư liệu khảo sát là cuốn “Mảnh
đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, Nxb Thông tin, 2007.


6


4. Đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài này chúng tôi mong muốn có những đóng góp sau:
- Về lí luận: Luận văn cố gắng làm rõ những vấn đề cơ bản về trường
nghĩa và khả năng ứng dụng lí thuyết này trong phân tích tác phẩm văn học.
- Về thực tiễn: Những kết quả chúng tôi thu được khi tìm hiểu tiểu thuyết
Mảnh đất lắm người nhiều ma dựa vào lý thuyết về trường nghĩa có thể áp
dụng vào quá trình dạy học theo hướng tích hợp Ngữ - văn ở nhà trường phổ
thông.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau đây:
- Phương pháp thống kê, phân loại: phương pháp nghiên cứu này được
dùng để thống kê và phân loại trường nghĩa về sự vật và trường nghĩa về hoạt
động, tính chất trong tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn
Khắc Trường.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: phương pháp nghiên cứu này được
sử dụng để nghiên cứu, phân tích nội dung ý nghĩa các từ ngữ trong trường
nghĩa về sự vật và trường nghĩa về hoạt động, tính chất trong tiểu thuyết
“Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường và quá trình biến
đổi ý nghĩa của chúng.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: phương pháp nghiên cứu này được
dùng để phân tích lời thoại, tổng kết các kết quả nghiên cứu.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm có ba chương:
Chương I : Cơ sở lí luận
Chương II : Trường nghĩa sự vật

Chương III : Trường nghĩa hoạt động, tính chất

7


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Một số vấn đề về trường nghĩa
1.1. Khái niệm
Trường nghĩa là một trong những học thuyết hết sức quan trọng của ngôn
ngữ học và đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến từ sớm. Lí thuyết này ra
đời dựa trên cơ sở những luận điểm về ngôn ngữ học đã được hình thành từ
trước đó. Trước hết phải kể đến giả thuyết về "tính tương đối ngôn ngữ mà hai
người được coi là có công lao lớn trong việc nghiên cứu là Sapir (1921) và
Whorf (1956). Các nhà nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ quan niệm coi ngôn
ngữ là cái phản ánh tinh thần của một dân tộc nào đó. Mỗi ngôn ngữ có một
hệ thống từ vựng riêng. Hệ thống từ vựng này phản ánh cách chia cắt thực tế
khách quan và phạm trù hóa hiện thực riêng của từng dân tộc ngay trong bản
thân ý nghĩa của các từ. Mỗi cá nhân khi ra đời và học cách dùng một thứ
ngôn ngữ (trước hết là tiếng mẹ đẻ) chính là được tiếp thu một cách tự nhiên
nhất quan niệm về thế giới của dân tộc là chủ nhân của thứ ngôn ngữ đó. Mặc
dù quan niệm này có phần duy tâm song đứng từ góc độ tiếp nhận ngôn ngữ
của mỗi cá nhân, đây là quan niệm hợp lí. Tiếp theo đó hàng loạt các nhà
nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu về ngữ nghĩa của ngôn ngữ, tiêu biểu là Talmy
(1981), Langacker (1987) và Lakoff (1987). Những nghiên cứu trên đã góp
phần bước đầu tìm ra những nhân tố cho hệ thống khái niệm về ngữ nghĩa.
Một luận điểm quan trọng khác làm tiền đề cho sự ra đời khái niệm
trường nghĩa là những phát hiện về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ trong
ngôn ngữ học. Pokrovxkij (1896) - nhà khoa học người Nga đã từng cho rằng:
"Từ và ý nghĩa của chúng không tách rời nhau mà liên kết với nhau trong tư

tưởng chúng ta và độc lập với ý thức chúng ta thành những nhóm nhất định.
Cơ sở để tập hợp những nhóm như vậy là sự đồng nhất hoặc trái ngược trực

8


tiếp giữa chúng về ý nghĩa. Chúng ta đã biết một cách tiên nghiệm rằng các
từ như vậy hoặc giống nhau hoặc song hành với nhau trong sự biến đổi ý
nghĩa và trong lịch sử của chúng, chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng ta cũng
biết rằng những từ này được dùng trong những tổ hệ cú pháp giống nhau" [dt
9, 243]. Đặc biệt Ferdinand de Saussure - người được coi là cha đẻ của ngôn
ngữ học hiện đại đã đưa ra một luận điểm có ý nghĩa phương pháp luận:
"ngôn ngữ là một hệ thống trong đó mọi yêu tố đều gắn bó khăng khít với
nhau, và trong đó giá trị của yếu tô này chỉ là hệ quả của sự tồn tại đồng thời
của những yếu tố khác" [46, 222]. Ông cũng cho rằng "chính phải xuất phát từ
cái toàn thể làm thành một khối để phân tích ra những yếu tố mô nó chứa
đựng" [dt 9, 243]. Những luận điểm nói trên đã giúp những người nghiên cứu
ngôn ngữ sau này có cơ sở để xác lập các trường nghĩa dựa trên sự khảo sát từ
vựng một cách có hệ thống. Sau khi xuất hiện vào những năm 20 - 30 của thế
kỉ XX, khái niệm trường nghĩa nhanh chóng được phổ biến và đạt được
những thành tựu quan trọng. Lí thuyết về trường nghĩa gắn với tên tuổi các
nhà nghiên cứu như G. Ipsen (1924), J. Trier (1934), W. Porzig(1934),... Tư
tưởng cơ bản của lí thuyết này là khảo sát từ vựng một cách hệ thống.
J. Trier là nhà nghiên cứu đầu tiên đưa ra thuật ngữ "trường" trong ngôn
ngữ học. Ông không dùng khái niệm trường ngữ nghĩa mà chỉ nói tới trường
khái niệm và trường từ vựng. Trường khái niệm là một hệ thống rộng gồm
những khái niệm có quan hệ với nhau, được tổ chức lại xung quanh một khái
niệm trung tâm. Mỗi trường khái niệm được các từ phủ lên trên, mỗi từ tương
ứng với một khái niệm. Trường từ vựng là tập hợp các từ phủ lên trên một
trường khái niệm.

J. Trier chia toàn bộ từ vựng thành những trường cấp cao, trường cấp cao
lại chia thành những trường cấp thấp hơn... cho đến những từ rời. Trong hệ
thống đó, từ chỉ có vai trò phụ. Ông cũng cho rằng trong ngôn ngữ mỗi từ tồn

9


tại trong một trường, "giá trị của nó là do quan hệ với các từ khác trong
trường quyết định" [ 9, 248]. Cũng theo Trier, sự thay đổi ý nghĩa của một từ
trong trường nghĩa kéo theo sự thay đổi ý nghĩa của các từ khác trong trường.
Nhà nghiên cứu này đã tỡm ra sự thống nhất giữa đồng đại và lịch đại bằng
cách đưa phương pháp cấu trúc vào việc miêu tả sự biến đổi ngữ nghĩa của
cùng một trường trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Thực chất việc tập
hợp các khái niệm để lập thành các trường từ vựng của Trier chỉ dựa trên cơ
sở lôgic học, không liên quan đến ý nghĩa của từ. Có thể nói những quan điểm
của J. Trier mặc dù còn có phần võ đoán, sa vào tư tưởng thuần túy (đồng
nhất giữa khái niệm và ý nghĩa), nhưng cũng đã trở thành cơ sở quan trọng
cho các nhà ngôn ngữ học sau ông nghiên cứu về trường nghĩa. Với các thành
tựu của mình, J. Trier đã "mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử ngữ nghĩa
học" [9, 244] .
Sau J. Trier, một số nhà nghiên cứu khác như Weisgerber, J.Lyons... cũng
đã cố những quan niệm bổ sung cho lí thuyết của ông J.Lyons trong cuốn
"Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết đã đưa ra được một định nghĩa về ý nghĩa
của từ có phần khoa học hơn: "Cái mà ta cho là ý nghĩa của một đơn vị từ
vựng là toàn bộ tập hợp các quan hệ ý nghĩa giữa nó với các đơn vị khác
trong từ vựng" [3 1, 672]. Trên cơ sở quan niệm này, Lyons đã miêu tả cấu
trúc ngữ nghĩa của các từ trong các hệ thống từ vựng bằng các quan hệ đồng
nghĩa, đồng âm, trái nghĩa, đa nghĩa...
Một số nhà ngôn ngữ học sau này đã chia hệ thống từ vựng của một ngôn
ngữ thành các trường nghĩa ở nhiều cấp độ lớn nhỏ khác nhau dựa vào nét

nghĩa phạm trù chung nhất đến các nét nghĩa phạm trù nhỏ hơn rồi các nét
nghĩa loại, hạng và các nét nghĩa riêng biệt.
Nhìn chung, những quan niệm về trường nghĩa của các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ mà chúng ta vừa xem xét đều dựa vào quan hệ dọc của ngôn ngữ.

10


W.Porzig - nhà ngôn ngữ học người Đức lại dựa trên quan hệ ngang giữa các
tín hiệu ngôn ngữ để đề xuất lí thuyết về trường nghĩa. Theo ông khái niệm
trường nghĩa dựa trên cơ sở các mối quan hệ về nghĩa giữa các cặp từ có quan
hệ ngữ đoạn với nhau (quan hệ ngang). Với Porzig, ý nghĩa cửa từ có thể
được chỉ ra một cách độc lập trong những trường hợp sử dụng cú pháp khác
biệt. Khả năng kết hợp về mặt cú pháp của một từ, tức khả năng cùng một số
từ khác kết hợp thành một cấu trúc cú pháp có nghĩa là bằng chứng cho ý
nghĩa độc lập của từ. Porzig đã lấy sự liên tưởng làm nguyên tắc phân chia
trường nghĩa. Theo cơ chế liên tưởng, một từ nào đó xuất hiện thế nào cũng
gợi đến những từ khác trong hệ thống ngôn ngữ. Chẳng hạn từ "khóc" chỉ có
thể gợi liên tưởng đến một đối tượng duy nhất là con người, không thể là một
loài thực vật hay động vật khác, từ "bay" lại gợi liên tưởng đến nhiều từ, ví dụ
"chim","ruồi,, "muỗi"... (những động vật biết bay). Điều đó có nghĩa xuất hiện
cùng các động từ hành động là các danh từ chủ thể tương ứng (nếu không
theo qui luật này tức là dùng từ theo lối chuyển nghĩa, chuyển từ vựng từ
trường nghĩa gốc sang trường mới. Tương tự như vậy một tính từ cũng chỉ
chọn danh từ bổ ngữ phù hợp, ví dụ: "điếc - tai", "mù - mắt"... Như thế những
từ có khả năng kết hợp với động từ hoặc tính từ đã cho được ngầm định trong
chính từ trung tâm đó. Với cách nhìn nhận như vậy, Porzig xác định sự sắp
xếp của những từ có đặc điểm ngữ pháp giống nhau (có khả năng kết hợp
giống nhau với các từ khác) tạo thành trường từ vựng - cú pháp. Dựa trên cơ
sở này từ vựng được chia ra thành "các trường ngữ nghĩa cơ bản" mà hạt nhân

của nó bao giờ cũng là động từ hoặc tính từ.
Trường theo quan niệm của J. Trier là trường theo quan hệ dọc - trường
trực tuyến - trường hệ thống hay trường đẳng lập còn trường theo quan niệm
của W. Porzig là trường theo quan hệ ngang - trường tuyến tính - trường tập
hợp hay trường từ vựng - cú pháp .

11


Lí thuyết trường nghĩa được giới thiệu vào Việt Nam từ 1970. Trên cơ sở
tiếp thu thành tựu của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài, nhiều nhà nghiên
cứu cũng đã đề cập đến vấn đề trường nghĩa: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện
Giáp, Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu... Đỗ Hữu Châu trong bài viết "Khái
niệm "trường" và việc nghiên cứu hệ thống từ vựng" đăng trên tạp chí Ngôn
ngữ số 2, năm 1976 có viết: "Trường từ vựng là một tập hợp các đơn vị từ
vựng căn cứ vào một nét đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa" [ , 328]. Nhìn
chung, các nhà nghiên cứu nói trên đều dựa trên cơ sở quan điểm của các nhà
ngôn ngữ học nước ngoài đi trước và căn cứ vào thực tế tiếng Việt để đưa ra
cách nhìn của mình về trường nghĩa.
1. 2. Phân loại trường nghĩa
1.2.1. Khái quát
Mỗi nhà nghiên cứu khi đưa ra quan niệm riêng về trường nghĩa cũng
đồng thời có cách phân loại riêng. Do đó trên thực tế, sự phân loại trường
nghĩa rất phong phú. Ngoài quan niệm của Trier và Porzig như đã nêu ở trên,
chúng tôi chỉ điểm qua một vài loại trường nghĩa tiêu biểu khác. Mỗi loại
trường này được xác lập dựa trên những tiêu chí nhất định:
Căn cứ vào hình thái và chức năng của các từ, Ipsen xây dựng các trường
từ vựng ngữ pháp. Mỗi trường nghĩa thuộc loại này bao gồm những từ họ
hàng với nhau về ý nghĩa và hình thức.
Hicking lại xây dựng trường nghĩa căn cứ vào các từ ghép, trong đó các

từ rời là thành viên của trường. Theo nhà nghiên cứu này, trong phạm vi một
trường từ vựng duy nhất, tức là trong các từ ghép, chỉ có thể tập hợp các từ
thuộc cùng một phạm vi biểu tượng. Những trường như thế gọi là trường cấu
tạo từ.
Kiểu trường nghĩa phổ biến nhất được gọi là nhóm từ vựng - ngữ nghĩa.
Tiêu chuẩn để thống nhất các từ thành một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa có thể

12


rất khác nhau. Chẳng hạn, có thể dựa vào sự tồn tại của các từ khái quát, biểu
thị các khái niệm ở dạng chung nhất, trừu tượng nhất và trung hòa. Từ này
mang ý nghĩa phạm trù chung, trên cơ sở đó, tập hợp tất cả các thành phần
còn lại của trường. Ví dụ như ta có từ mang ý nghĩa phạm trù chung là "thực
vật". Từ này sẽ có thể tập hợp quanh nó các từ chỉ các loại thực vật khác nhau
như: thông, sồi, ngô, lúa... Ngoài ra người ta cũng có thể tập hợp các từ thành
một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa trên cơ sở một khái niệm chung có mặt ở trong
mỗi một từ của nhóm này. Ví dụ các từ chỉ quan hệ thân tộc, những động từ
cảm nghĩ, nói năng... Một số người còn xếp cả từ loại và tiểu loại vào những
nhóm từ vựng - ngữ nghĩa do các từ thuộc vào một từ loại hoặc một tiểu loại
cũng có cùng một ý nghĩa khái quát chung (ý nghĩa sự vật ở danh từ , ý nghĩa
hoạt động ở động từ, ý nghĩa tính chất ở tính từ). Mỗi từ loại này lại có thể
chia ra thành các tiểu loại, mỗi tiểu loại cũng đều có các ý nghĩa khái quát
chung.
Dựa vào các từ mà người ta liên tưởng tới khi nghe một từ nào đó, người
ta lập thành các trường liên tưởng (quan điểm của Ch. Bally). Theo Bally, mỗi
từ phát ra là một kích thích có thể làm trung tâm của một trường liên tưởng
ngữ nghĩa, chẳng hạn từ "bò" trong tiếng Pháp có thể là trung tâm của một
trường liên tưởng: 1. Bò cái, bò mộng, bê, sừng, gặm cỏ... 2.Sự cày bừa, cái
ách, cái cày... 3. Những ý niệm về tính thụ động... Như vậy dựa trên kết quả

nghiên cứu về trường nghĩa ở từng khía cạnh khác nhau, mỗi nhà ngôn ngữ
học lại đưa ra một kiểu trường nghĩa. Giữa các kiểu này hiển nhiên phải có sự
thống nhất ở bản chất trường nghĩa (các từ trong mỗi hệ thống có quan hệ với
nhau về mặt ý nghĩa) chúng cũng có những nét khác biệt nhất định do nguyên
tắc tập họp riêng của từng trường. Chính sự khác biệt đó đã cũng đã chứng
minh cho tính đa dạng, phong phú của ngôn ngữ trong thực tiễn sử dụng.
1.2.2. Phân loại

13


Dựa trên quan điểm của các nhà nghiên cứu, đặc biệt là của tác giả Đỗ
Hữu Châu - người có công đầu trong việc nghiên cứu, giới thiệu học thuyết về
trường nghĩa, chúng tôi xác định có các loại trường nghĩa như sau: trường
nghĩa dọc, trường nghĩa ngang và trường liên tưởng.
1.2.2.1. Trường nghĩa dọc
Trường nghĩa dọc được chia thành trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa
biểu niệm.
- Trường nghĩa biểu vật: Quan niệm về các trường biểu vật bắt nguồn từ
sự phê phán các cuốn từ điển thông thường sắp xếp các từ theo thứ tự chữ cái.
Cách sắp xếp này dựa theo nguyên tắc từ từ ngữ đến khái niệm chứ không
theo nguyên tắc từ khái niệm đến từ ngữ. Để tránh nhược điểm này, một số
nhà từ điển học chủ trương xây dựng những cuốn từ điển, trong đó từ ngữ
không được sắp xếp theo thứ tự chữ cái mà theo từng phạm vi sự vật, hiện
tượng mà chúng biểu thị. Đó là một sự sắp xếp theo trường nghĩa biểu vật.
Một trường biểu vật là một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu
vật. Các từ cùng chỉ những sự vật thuộc một phạm vi sự vật nào đó lập thành
một trường biểu vật. Từ điển hình của trường thường là các danh từ có tính
khái quát cao, gần như là tên gọi của các phạm trù biểu vật, như người, động
vật, thực vật, vật thể, chất liệu... Mặt khác một trường biểu vật lại có thể chia

thành các trường khác nhỏ hơn. Chẳng hạn trường biểu vật người trong tiểu
thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” có thể được chia thành các trường:
trường nghĩa giới tính, trường nghĩa nghề nghiệp, trường nghĩa tuổi tác,
trường các từ chỉ cấp bậc, chức vụ... Vì từ có tính nhiều nghĩa biểu vật cho
nên một từ có thể nằm trong nhiều trường khác nhau. Do đó các trường có thể
thẩm thấu, giao thoa nhau (chẳng hạn các từ "nỗi buồn","niềm vui" vừa thuộc
trường nghĩa người - trạng thái tinh thần con người, vừa thuộc trường các
khái niệm, phạm trù trừu tượng).

14


- Trường nghĩa biểu niệm: Căn cứ để phân lập các trường biểu niệm là các
ý nghĩa biểu niệm của từ. Trường nghĩa biểu niệm chính là tập hợp các từ có
chung một cấu trúc biểu niệm. Các trường biểu niệm có thể giao thoa với
nhau, thẩm thấu vào nhau và cũng có lõi trung tâm với các từ điển hình và
những từ ở những lớp kế cận trung tâm, những từ ở lớp ngoại vi.
Nói tóm lại vì các ý nghĩa biểu niệm tuy có nguồn gốc ở các khái niệm
nhưng không đồng nhất với khái niệm, cho nên các trường biểu niệm cũng
không đồng nhất với tập hợp các khái niệm, không phải là những sự kiện tư
duy thuần tuý mà là những sự kiện ngôn ngữ. (Ví dụ: Trường biểu niệm của
chủ thể A:
A vận động tại chỗ một cách cơ giới: đảo, lảo đảo, cựa quậy, cọ quậy,
động đậy, rùng mình…
A dời chỗ hoặc dừng lại một cách cơ giới: đi, chạy, ra, vào, lên, bò, lê,..
bơi, lội, bay, dừng, ngừng….
A là thiết bị cơ khí: chạy, hoạt động, vận hành, nổ (máy nổ)…
A là trạng thái tâm lí: xao xuyến, bồi hồi, rung động, e ấp, băn khoăn,
băn khoăn, bối rối…
1.2.2.2. Trường nghĩa ngang (trường nghĩa tuyến tính)

Để lập nên các trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc rồi
tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến tính (cụm
từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ.
Ví dụ: Trường tuyến tính của từ tay là búp măng, mềm, ấm, lạnh… nắm,
cầm, khoác... Trường nghĩa tuyến tính của từ đi là nhanh, chậm, tập tễnh,
khấp khểnh… ra, vào, lên, xuống… chợ, làm, học, buôn, dày, dép, găng, tất…
Ta nhận thấy: Các từ trong một trường tuyến tính là những từ thường xuất
hiện với từ trung tâm trong các loại ngôn bản. Phân tích ý nghĩa của chúng,

15


chúng ta có thể phát hiện được nội dung ngữ nghĩa của các của các quan hệ cú
pháp và tính chất của các quan hệ đó.
Ví dụ: Các từ nằm trong trường tuyến tính của từ cắt là dao, kéo,… bánh,
vải, giấy,… đứt, không đứt… và không có các từ chỉ “nơi chốn”. Trái lại, trong
trường tuyến tính của các từ như chạy, đứng, nằm, ở… thường gặp những từ
chỉ nơi chốn như ngoài sân, trong làng, giữa nhà, trên đường…
Cùng với các trường nghĩa dọc, trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa
biểu niệm, các trường nghĩa tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ
và cấu trúc ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những
đặc điểm hoạt động của từ.
1.2.2.3. Trường liên tưởng
Ch. Bally là tác giả đầu tiên của khái niệm trường liên tưởng. Theo ông
mỗi từ có thể là trung tâm của một trường liên tưởng. Các từ trong một trường
liên tưởng là sự hiện thực hóa, sự cố định bằng từ các ý nghĩa có thể có của từ
trung tâm. Trước hết đó phải là các từ cùng nằm trong trường biểu vật trường
biểu niệm và trường tuyến tính, tức là những từ có quan hệ cấu trúc đồng nhất
và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung tâm. Song, trong trường liên tưởng còn
có nhiều từ khác được liên tưởng tới do xuất hiện đồng thời với từ trung tâm

trong những ngữ cảnh có chủ đề tương đối đồng nhất, lặp đi lặp lại. Điều này
khiến cho các trường liên tưởng có tính dân tộc, tính thời đại và tính cá nhân.
Ý nghĩa biểu vật có những từ trong trường liên tưởng giống nhau, nhưng
cũng có những từ khác nhau về nghĩa.
Do những tính chất trên, các trường liên tưởng thường không ổn định, nên
ít có tác dụng phát hiện những quan hệ cấu trúc về ngữ nghĩa của các từ và từ
vựng. Nhưng, trường liên tưởng có hiệu lực lớn giải thích sự dùng từ, nhất là
sự dùng từ trong các tác phẩm văn học, giải thích các hiện tượng sáo ngữ, sự

16


ưa thích lựa chọn những từ nào đây để nói hay viết, sự tránh né đến kiêng kị
những từ nhất định...
2. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ và các phương thức chuyển nghĩa
2.1. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ
Ngôn ngữ được coi là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con
người. Muốn giao tiếp được bằng ngôn ngữ, con người phải nhận thức, lĩnh
hội được cả hai mặt âm và nghĩa trong từng từ ngữ. Tuy nhiên nếu như mỗi từ
chỉ có một nghĩa duy nhất, tức là ứng với mỗi hình thức âm thanh chỉ có một
nghĩa duy nhất, thì chúng ta sẽ phải tạo ra và lĩnh hội một số lượng từ ngữ vô
cùng lớn để có thể diễn đạt được hết cái phong phú của muôn mặt đời sống.
Thực tế ngôn ngữ có một qui luật tiết kiệm vô cùng kì diệu là dùng cái hữu
hạn để biểu hiện cái vô hạn. Với cùng một hình thức ngữ âm, người sử dụng
có thể diễn đạt nhiều nội dung khác nhau. Hiện tượng từ có nhiều nghĩa như
vậy phổ biến ở mọi ngôn ngữ trên thế giới. Lúc mới xuất hiện, các từ đều chỉ
có một ý nghĩa biểu vật. Trong quá trình sử dụng, để phục vụ mục đích giao
tiếp của mình, con người có thể cấp cho nó những ýnghĩa biểu vật mới. Bùi
Minh Toán đã nhận xét: "Các nghĩa biểu vật mới xứ hiện ngày càng nhiều thì
nghĩa biểu niệm của nó có khả năng biến đổi” [55, 146]. Trong quá trình

chuyển nghĩa đó có những những biến đổi ngữ nghĩa mang tính lâm thời, tức
là chỉ được sử dụng một lần trong một bối cảnh giao tiếp nhất định. Song
cũng có những sự biến đổi ngữ nghĩa có tính chất ổn định, dần dần được cả xã
hội thừa nhận và sử dụng như tài sản chung: "Sự chuyển nghĩa này có thể mãi
mãi trong phạm vi lời nói cá nhân nhưng cũng có thể là khởi đầu cho việc
hình thành các nghĩa mới nêu được xã hội chấp nhận và dùng theo" [55, l02].
Nhìn chung sự biến đổi ngữ nghĩa luôn diễn ra theo những cách thức và
qui tắc chung. Trong nhiều trường hợp, chúng ta có thể lí giải được quan hệ

17


giữa nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ. Đỗ Hữu Châu trong cuốn "Từ vựng
ngữ nghĩa tiếng Việt" đã tổng kết như sau :
- "Phần lớn các trưng hợp của từ chuyển biến theo lối toả ra nghĩa là các
nghĩa mới đều dựa vào nghĩa đầu tiên mà xuất hiện" [lo, 147].
- "Các từ có ý nghĩa biểu vật cùng một phạm vi hoặc có ý nghĩa biểu niệm
cùng một cấu trúc thì chuyển biên ý nghĩa theo cùng một hướng giống nhau
[10,148]. Chẳng hạn các từ: tim, gan, lòng, dạ vốn chỉ các bộ phận cơ thể
người đều có thể chuyển nghĩa chỉ tinh thần, tình cảm.
Nhìn chung, có thể khẳng định sự chuyển nghĩa diễn ra trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội nhưng nhiều nhất vẫn là trong ngôn ngữ văn chương.
Để đáp ứng yêu cầu sử dựng từ ngữ một cách cô đúc và mang tính nghệ thuật,
không phải lúc nào nhà văn cũng chỉ sử dụng các từ ngữ theo nghĩa gốc, tức
là dùng từ theo đúng trường nghĩa gốc của nó. Nhiều lối chuyển nghĩa đã
được các nhà văn vận dụng một cách linh hoạt để tăng giá trị biểu đạt của hệ
thống từ ngữ. Trong số đó có những từ được dùng theo nghĩa chuyển đã ổn
định, quen thuộc với số đông. Nhưng cũng có nhiều trường hợp, người viết có
những cách diễn đạt riêng tạo hiệu quả nghệ thuật cao, đem đến cảm nhận
mới mẻ cho độc giả. Nhiều khi sự chuyển nghĩa còn kéo theo cả sự chuyển

loại của từ , ví dụ trong cuốn tiểu thuyết mà chứng tôi đang tiến hành nghiên
cứu, tác giả dùng danh từ "thú rừng" để diễn đạt đặc điểm tâm lí con người,
dùng danh từ "gỗ đá" để miêu tả lòng dạ một con người (chuyển từ trường
nghĩa sự vật sang trường nghĩa người). Cả hai danh từ này đều được chuyển
từ loại thành tính từ. Có thể nói hiện tượng dựng từ theo lối chuyển nghĩa như
vậy là phổ biến. Sự chuyển nghĩa của từ làm cho ranh giới giữa các trường
nghĩa bị xoá mờ. Các từ thuộc trường nghĩa này hoàn toàn có thể được người
sử dụng dùng ở một trường nghĩa khác trong những hoàn cảnh thích hợp mà
người tiếp nhận vẫn có thể hiểu được.

18


Như vậy, chúng tôi có thể khẳng định sự chuyển nghĩa của từ không chỉ
đáp ứng được các nhu cầu phong phú của hoạt động giao tiếp mà còn làm
tăng khả năng diễn đạt, tăng sức biểu cảm của ngôn ngữ. Việc dùng từ ngữ
theo lối chuyển nghĩa một cách hợp lí cũng góp phần chứng tỏ vốn một ngôn
ngữ dồi dào, khả năng vận dụng vốn từ vựng chung một cách linh hoạt và
năng lực sáng tạo của từng nhà văn.
2.2. Các phương thức chuyển nghĩa
Ở đây chúng tôi theo quan niệm của Đỗ Hữu Châu về các phương thức
chuyển nghĩa đã trình bày trong cuốn "Từ vựng học tiếng Việt" (NXBĐHSP,
H, 2004). Theo nhà nghiên cứu này, có hai phương thức chuyển nghĩa phổ
biến trong mọi ngôn ngữ là ẩn dụ và hoán dụ. Nhưng không phải mọi trường
hợp chuyển nghĩa của từ đều có thể giải thích được bằng ẩn dụ hoặc hoán dụ
mà có thể còn phải tính đến tác động ngữ nghĩa giữa các từ trong văn cảnh. Ở
đây chúng tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn những vấn đề cơ bản nhất về
hai phương thức chuyển nghĩa chính.
2.2.1. Ẩn dụ
Tác giả Đỗ Hữu Châu đã nêu những vấn đề cơ bản về ẩn dụ như sau: Cho

A là một hình thức ngữ âm, x và y là những nghĩa biểu vật. A vốn là tên gọi
của x. Phương thức ẩn dụ là phương thức lấy tên gọi A của x để gọi tên y nếu
x và y có nét nào giống nhau. Như thế, ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa
dựa trên quan hệ tương đồng giữa x và y. Tác giả cuốn sách cũng đã phân loại
các ẩn dụ dựa trên hai loại tiêu chí khác nhau:
- Dựa vào tính chất cụ thể hay trừu tượng của các sự vật x và y: Theo tiêu
chuẩn này ẩn dụ được chia thành ẩn dụ cụ thể - cụ thể và ẩn dụ cụ thể - trừu
tượng.
+ Ẩn dụ cụ thể - cụ thể: x và y đều là các sự vật cụ thể, chẳng hạn nghĩa
của từ "cánh", "chân" trong "cánh rừng”, "chân đèo".

19


+ Ẩn dụ cụ thể - trừu tượng: x mang tính cụ thể còn y mang tính trừu
tượng, chẳng hạn "đường chiến tranh", "ngọn gió buồn của tình yêu".
Dựa vào các nét nghĩa chung theo đó xuất hiện các ẩn dụ: Với tiêu chí
này, có các ẩn dụ hình thức, ẩn dụ cách thức, ẩn dụ vị trí, ẩn dụ chức năng và
ẩn dụ kết quả.
+ Ẩn dụ hình thức: là các ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về hình thức giữa
các sự vật. Những ẩn dụ trong các từ "chân", "cánh" nói trên thuộc loại này.
+ Ẩn dụ vị trí: là các ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về vị trí giữa các sự
vật, ví dụ: "mép suối", “lòng rừng", "họng súng"...
+ Ẩn dụ chức năng: là các ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về chức năng
giữa các sự vật, ví dụ: "cửa" trong "cửa sông", "cửa rừng"...
+ Ẩn dụ cách thức: là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau vềcách thức
thực hiện giữa hai hoạt động, hai hiện tượng, ví dụ: "nắm" trong "nắm tư
tưởng", "cắt" trong "cắt hộ khẩu"...
+ Ẩn dụ kết quả: là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về tác động của
các sự vật đối với con người, ví dụ: "ý chí tối tăm" ...

Sự chuyển đổi tên gợi trong phương thức ẩn dụ diễn ra tuỳ thuộc vào
nhận thức có tính chất chủ quan của con người về sự tương đồng giữa các sự
vật được gợi tên. Vì vậy ẩn dụ mang đậm tính chất chủ quan, bất ngờ.
2.2.2. Hoán dụ
Đây là phương thức lấy tên gọi A của x để gọi tên y nếu x và y đi đối với
nhau trong thực tế khách quan. Phương thức này dựa trên quan hệ tiếp cận
(gần gũi nhau giữa x và y). Các hoán dụ được phân loại như sau:
- Hoán dụ dựa trên quan hệ bộ phận - toàn thể giữa hai ý nghĩa biểu vật x
và y, trong đó x là bộ phận của y hoặc x là toàn thể, y là bộ phận, ví dụ "tay
trinh sát”, "tay nhà văn" ...

20


- Hoán dụ dựa trên quan hệ vật chứa - vật bị chứa: tên gọi của vật chứa
được dựng để gọi những cái nằm trong nó, ví dụ "cả thành phố chết lặng"...
- Hoán dụ dựa trên quan hệ nguyên liệu và sản phẩm được chế tạo từ
nguyên liệu, ví dụ "đồng" (đơn vị tiền tệ: một đồng, hai đồng), "bạc" (với
nghĩa là tiền).
- Hoán dụ dựa trên quan hệ đồ dùng, dụng cụ với người sử dụng, ví dụ:
"cây violon", "cây sáo" là hoán dụ lấy tên gọi dụng cụ để chỉ người (nhạc
công).
- Hoán dụ dựa trên quan hệ dụng cụ - ngành nghề: tên gọi của các dụng
cụ được gọi thay cho tên ngành nghề, ví dụ "búa", "súng", là các hoán dụ chỉ
nghề nghiệp trong "tay búa", "tay súng"...
- Hoán dụ dựa trên quan hệ vật chứa và chất lượng dược chứa đựng, ví
dụ: "thúng gạo", "bồ sách"...
- Hoán dụ dựa trên quan hệ cơ quan chức năng và chức năng: tên gọi của
cơ quan được dùng để gọi cho các chức năng, ví dụ: "đầu” chỉ trí tuệ, "tim"
chỉ tình cảm...

- Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa tư thế cụ thể và nguyên nhân của tư thế.
tên gọi tư thế được dùng để chỉ hành động hoặc tinh trạng tâm lí, sinh lí đi
kèm, ví dụ: "khoanh tay" chỉ sự bất lực, "cúi đầu” chỉ sự cam chịu...
- Hoán dụ dựa vào âm thanh để gọi tên động tác: tiếng động do hoạt
động gây ra được dùng để gọi tên động tác, ví dụ: "đét", "bịch"...
- Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa hoạt động và sản phẩm được tạo ra do
hoạt động đó: tên gọi của hoạt động được dựng gọi tên các sản phẩm, ví dụ:
"nắm cơm", “bọc hàng",...
- Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa hoạt động và công cụ: tên gọi của hoạt
động được dùng để gọi tên công cụ, ví dụ: "cuốc" và "cái cuốc","đục” và
"cái đục".

21


- Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa động tác tiêu biểu và toàn bộ quá trình
sản xuất. Trong trường hợp này cả hai từ đều là động từ, ví dụ: "đóng bàn",
“đóng" là động tác nện vào một vật cho nó gắn với vật khác, "đóng" trong
"đóng bàn" có nghĩa là làm, chế tạo ra cái bàn.
- Hoán dụ dựa trên quan hệ nguyên liệu và hoạt động dùng nguyên liệu đó
như "muối dưa", "thịt gà"...
- Hoán dụ dựa trên quan hệ sự vật và màu sắc, ví dụ (màu) da lươn, da
cam, da trời...
- Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa tính chất của sự vật và bản thân sự vật,
ví dụ: "chất xám" (trí tuệ), “chất cay" (rượu)...
Các ẩn dụ và hoán dụ vừa dẫn ở trên là ẩn dụ và hoán dụ từ vựng. Trong
tác phẩm văn học nhà văn còn có thể dùng các ẩn dụ và hoán dụ do mình đặt
ra. Đó là ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ.
3. Phân tích văn học và phân tích văn học dựa vào trường nghĩa
3.1. Một số hướng phân tích văn học

Trong phạm vi một luận văn chúng tôi chỉ điểm lại một vài hướng phân
tích tác phẩm văn học của riêng các nhà nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở kế
thừa kết quả tổng hợp của Phạm Minh Diện [14]. Thừa nhận mối quan hệ hữu
cơ giữa văn học và ngôn ngữ học, nhiều nhà ngôn ngữ học đã tìm cách tiếp
cận các tác phẩm văn học dưới góc nhìn của ngôn ngữ, áp dụng một số lý
thuyết ngôn ngữ học vào giải mã văn học. Cách làm này tỏ ra khoa học và
hiệu quả bởi lẽ phân tích tác phẩm văn chương thực chất là phân tích ngôn
ngữ của nó. Vậy thì không có gì hiệu quả hơn là dùng chính các lý thuyết
ngôn ngữ để soi sáng một dạng ngôn ngữ đặc biệt được tổ chức ở cấp độ văn
bản nghệ thuật. Các nhà nghiên cứu Hoàng Tuệ, Đái Xuân Ninh, Hoàng Văn
Hành, Nguyễn Thái Hòa... đều đưa ra các hướng phân tích tác phẩm văn học
của riêng mình. Tác giả Hoàng Tuệ cho rằng tác phẩm văn học bao gồm hai

22


cơ cấu, cơ cấu ngôn ngữ và cơ cấu văn học. Mỗi cơ cấu này đều có những yếu
tố bình thường và yếu tố đặc biệt theo ông, phân tích ngôn ngữ tác phẩm qui
về việc xác định ý nghĩa của các yếu tố đặc biệt đó (những yếu tố chuyên
dụng, sáng tạo, có giá trị nghệ thuật trong một bốicảnh ngôn ngữ nhất định).
Tuy nhiên, việc phân tích này không phải chỉ tiến hành trong nội bộ kết cấu
văn bản mà còn phải vận dụng cả những yếu tố phi ngôn bản như tác giả,
hoàn cảnh ra đời... Đây là quan điểm mang tính chất tổng hợp, có sự kết hợp
giữa phương pháp nghiên cứu trên cơ sở ngôn ngữ học và phương pháp ngôn
ngữ học và pháp văn học.
Ngược với phương pháp của Hoàng Tuệ là đi từ những yếu tố đặc biệt
đến nội dung tư tưởng chung của tác phẩm, Đái Xuân Ninh lại đi từ tư tưởng
chủ đề đến các yếu tố đặc biệt (tức là phân tích tác phẩm bình diện nội dung
đến hình thức thể hiện). Nhà nghiên cứu này coi những yếu tố then chết, yếu
tố hình thành thế đối lập, yếu tố lặp lại là các yếu tố có giá trị cao, mang tính

đặc biệt. Nhìn chung lối phân tích này còn có phần gò bó, khiên cưỡng.
Tỏc giả Hoàng Văn Hành lại cho rằng tác phẩm văn học gồm hai lượng
nghĩa: nghĩa thông báo thông thường và nghĩa thông báo nghệ thuật. Việc
phân tích tác phẩm cần phải làm sáng tỏ lượng nghĩa thứ hai thông qua tìm
hiểu hệ thống hình ảnh ngôn từ trong tác phẩm trong quan hệ với hoàn cảnh
ra đời, với bối cảnh cụ thể trong sáng tác. Nhà nghiên cứu Đinh Trọng Lạc
đưa ra quan điểm coi tác phẩm văn học bao hàm hai cấu trúc (cấu trúc ngôn
ngữ và cấu trúc văn học), hai hệ thống hình tượng thinh tượng từ ngữ và hình
tượng nghệ thuật). Phân tích tác phẩm phải đi từ hình tượng từ ngữ đến hình
tượng nghệ thuật để làm sáng tỏ tư tưởng chủ đề. Trong quá trình phân tích
ấy, cần nêu bật được chức năng thẩm mỹ của các yếu tố trung tâm trong việc
xây dựng hình tượng nghệ thuật.

23


Tác giả Nguyễn Thái Hòa đứng từ góc độ phong cách học lại đưa ra
hướng phân tích dựa trên trục thông báo cơ sở của văn bản. Ông quan niệm
cơ cấu văn bản nghệ thuật dựa trên ba mối quan hệ cơ bản: sự đối lập giữa
thành tố khái niệm và thành tố biểu cảm, sự đối lập giữa các thành tố chức
năng và thành tố chung. Các thành tố này đều được thiết lập theo hai thao tác
cơ bản: thao tác kết hợp và thao tác lựa chọn. Để phân tích một tác phẩm theo
khuynh hướng phong cách học, cuối cùng cần thực hiện các bước: đối lập các
yếu tố được kết hợp trong ngữ cảnh; đẳng nhất các sự kiện tương đồng, tập
hợp các yếu tố vắng mặt, lựa chọn một yếu tố thích hợp (phép thế); phối hợp
phép đối lập và phép thế. Phương pháp này được coi làcó hiệu quả khi phân
tích sắc thái biểu cảm và màu sắc tu từ của các phương tiện ngôn ngữ.
Nhìn chung các hướng phân tích tác phẩm văn học vừa kể trên đều có
những ưu thế nhất định trong việc tiếp cận tác phẩm.
3.2. Phân tích văn học dựa vào trường nghĩa

Đỗ Hữu Châu được coi là người có công đầu trong việc nghiên cứu, phổ
biến lý thuyết về trường nghĩa cùng một số khái niệm có liên quan như sự
chuyển nghĩa, các phương thức chuyển nghĩa của từ. Trên cơ sở các thành tựu
này, ông cùng đề xuất nguyên tắc phân tích từ ngữ tác phẩm văn học mà thực
chất là phân tích tác phẩm xuất phát từ xem xét các từ vựng theo các trường
nghĩa mà nó thuộc vào. Đỗ Hữu Châu quan tâm đến việc xem xét nghĩa của từ
trong ngôn ngữ văn chương. Ông chú ý nhiều đến việc từ được dùng theo
nghĩa chính hay nghĩa chuyển. Muốn lý giải được cặn kẽ các trường hợp
chuyển nghĩa của từ, phải đặt nó trong tương quan với trường nghĩa gốc mà
nó thuộc vào và trường nghĩa mới trong ngữ cảnh. Trong giáo trình "Từ vựng
học tiếng Việt", nhà nghiên cứu này đã trình bày về trường nghĩa và ngôn ngữ
văn chương, trong đó ông xem xét các loại trường biểu vật, trường biểu niệm,
trường tuyến tính, trường liên tưởng và ngôn ngữ văn chương. Ở đây chúng

24


tôi chỉ nhắc lại những luận điểm chính của Đỗ Hữu Châu để lấy làm tiền đề lý
thuyết:
- Phân tích văn học dựa vào trường biểu vật: Các từ trong một trường
biểu vật thường lôi kéo nhau chuyển nghĩa theo một hướng nhất định. Cần
thấy khi từ ngữ được dùng đứng với trường của chúng thì tác dụng gợi hình
ảnh kém đi hoặc không có bởi có sự trung hòa về ngữ cảnh. Khi từ ngữ
chuyển trường thì ngoài cái nghĩa riêng của từ ngữ, nó mang theo cả những ấn
tượng, những liên tưởng của trường cũ sang trường mới. Trong văn chương
các từ ngữ trong một câu văn, một đoạn văn thường kéo nhau theo cùng một
trường để tạo ra sự phù hợp về trường nghĩa biểu vật, chẳng hạn "đường chiến
tranh vẫn hun hút, mịt mù..." Có thể nói tới hình ảnh chủ đạo của câu văn,
đoạn văn hay của toàn tác phẩm, hình ảnh chủ đạo thuộc trường nào thì kéo
theo các từ khác cùng trường với nó.

- Phân tích văn học dựa vào trường biểu niệm: Để phản ánh hiện thực
trong diện mạo tổng thể của nó, người viết phai dùng các từ ngữ phù hợp với
nhau tạo nên hiện tượng được gọi là sự cộng hưởng ngữ nghĩa giữa các từ. Sự
cộng hưởng ngữ nghĩa này dựa trên nét nghĩa đồng nhất vốn có trong các từ,
nói khác đi, dựa trên nét nghĩa chung cho một trường biểu niệm. Điều đáng
chú ý là sự cộng hưởng về ngữ nghĩa không chỉ diễn ra với các từ ngữ. Nó có
thể chi phối cả cấu trúc cú pháp, cả ngữ âm, tiết tấu... Nói cách khác, người
viết thường phối hợp tất cả các phương tiện ngôn ngữ để tạo ra sự toàn bích
về hình thức cho tác phẩm của mình.
- Phân tích văn học dựa vào trường nghĩa ngang: Các từ trong trường
nghĩa ngang là những từ thường kết hợp theo chuẩn mực ngữ nghĩa phổ biến
của một ngôn ngữ chung. Thực tế chúng là các từ thuộc cùng một trường biểu
vật đi đôi với nhau sao cho nét nghĩa biểu vật của chúng phải phù hợp với
nhau. Một từ nhiều nghĩa có thể lập những trường ngang khác nhau về tính

25


×