Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bước đầu khảo sát vốn từ vựng trong thơ Phạm Hổ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là sự sáng tạo kỳ diệu và hoàn chỉnh nhất của nền văn hoá nhân
dân. Nó vốn là công cụ để biểu hiện để tích luỹ và mở rộng các khái niệm, tư
duy nhận thức và là phương tiện để hình thành ý thức con người, ho nên ngôn
ngữ phục vụ cho những mục đích bình thường hàng ngày và cho cả những mục
đích cao cả của cuộc sống. Ngôn ngữ là thực thể trực tiếp cùa tư duy. Với trẻ em
ngôn ngữ có vai trò quan trọng. Trẻ em tiếp thu những khái niệm cơ bản đầu tiên
và cụ thể là từ những vật chất xung quanh thông qua sự phân tích của mình. Từ
ngữ sẽ giúp các em củng cố những khái niệm thu lượm được bằng con đường
cảm thụ chính vì vai trò quan trọng của ngôn ngữ với trẻ như vậy, nên giáo dục
ngôn ngữ cho trẻ phải bắt đầu từ rất sớm, khi các em òn bé và phải thực hiện sự
giáo dục ấy bằng tiếng mẹ đẻ. Theo thời gian, cùng với sự phát triển về tư duy là
sự phát triển của ngôn ngữ. Chính vì vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu sự biến đổi
ngôn ngữ, cụ thể là sự thay đổi vốn từ vựng qua các giai đoạn trưởng thành của
trẻ.
Một trong những lí do khiến chúng tôi lựa chọn khi Phạm Hổ làm phạm
vi nghiên cứu bởi lẽ ông là một trong số không nhiều những cây bút xuất sắc
trong lĩnh vực thơ Việt cho thiếu nhi.
Trên cơ sở khảo sát thơ Phạm Hổ, chúng tôi muốn tìm hiểu sự tác động
của thơ Phạm Hổ (cụ thể là số lượng từ vựng trong thơ viết cho thiếu nhi của
ông) dối với quá trình phát triển tư duy nhận thức và làm giàu.
2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm Hổ không chỉ viết thơ mà tài năng của ông còn được thể hiện bộc lộ
trong nhiều thể loại khác như truyện ngắn, thơ dành cho người lớn... Song xuất
phát từ mục đích của đề tài này, chúng tôi đã thu hẹp phạm vi tìm hiểu qua 9 tập
thơ viết cho thiếu nhi của ông được trích trong “ Tuyển tập thơ Phạm Hổ ”.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Với 140 bài thơ đã bước đầu khảo sát vốn từ vựng trong 140 bài thơ của
ông. Từ đó rút ra những nhận xét về đặc điểm ngôn ngữ thơ Phạm Hổ xét trên
phương diện từ vựng.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp miêu tả.
Từ các phương pháp trên, chúng tôi đã chỉ rõ nét riêng trong cách sử dụng
từ ngữ của Phạm Hổ và ảnh hưởng của chúng đến con trẻ như thế nào.
4. Bố cục của báo cáo
Phần I: Những tiền đề lý luận liên quan đến báo cáo.
Phần II. Bước đầu khảo sát ngôn ngữ thơ Phạm Hổ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN I
NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Lý luận chung về thơ và tác động của thơ đối với con người
1.1. Định nghĩa và đặc trưng thơ
Văn xuôi, truyện ngắn, thơ đều là những thể loại khá quen thuộc với đời
sống tinh thần của con người, nhưng bên cạnh những nét chung, mỗi thể loại
mang đến cho người đọc những xúc cảm riêng. Trong văn xuôi, người ta có thể
dễ dàng tìm thấy những kết cấu biền ngẫu, phức tạp, thậm chí là tính khuôn mẫu
như quy định của thơ văn truyền thống. Chính những điều này đã làm hạn chế
khả năng biểu đạt, bộc lộ cảm xúc của người viết. Trái ngược với văn xuôi, thơ
ca giống như một thế giới mở cả về nội dung và hình thức. Sinh ra từ tâm hồn và
trái tim con người, thơ đã trở thành tri âm của nhân loại từ bao thể kỉ qua. Thơ là
một phần của thế giới nội tâm, của đời sống tâm linh con người. Yêu thơ và coi
thơ như người bạn tri kỷ của mình, người ta đã tìm cho thơ nhiều cách lí giải
định nghĩa. Có người cho rằng “Thơ là lửa”, “ Thơ là sự sung mãn của tình cảm
mãnh liệt” (Banzăc). Tố Hữu quan niệm: “ Thơ biểu hiện tinh chất cuộc sống”,
“Thơ là tiếng nói tri âm”, “ Thơ là chuyện đồng điệu”. Thơ gắn liền với cuộc đời,
là sợi dây tình cảm ràng buộc mọi người. Đến với thơ chúng ta có thể bắt gặp
nhiều thể loại, hình thức khác nhau: thơ 2 chữ, 3 chữ, 4 chữ, thậm chí là những
bài thơ có sự kết hợp của nhiều thể thơ khác nhau. Chính sự phóng khóang trong
hình thức như vậy đã làm cho thơ có khả năng xóa bỏ những hạn chế vẫn
thường tồn tại trong văn xuôi. Ngôn ngữ thơ không dày đặc như ngôn ngữ văn
xuôi, mà chia cắt ra thành các phần ngắn hay dài âm luật. Sự đa dạng về thể loại,
hình thức thơ đã dẫn đến sự đa dạng về nhịp điệu. Nhịp điệu là sự nối tiếp của
các tiếng sắp xếp thành từng khung đều đặn của giọng nói và theo thời gian.
Trong bài hát thơ làm thành nội dung của âm nhạc, rồi thơ tách ra dần. Thơ kể
cho ta nghe một câu chuyện có sự cô đọng nội tại của riêng nó và độc lập với
hình thức nhịp điệu. Nhịp điệu ấy trước hết được tạo nên bởi cách sử dụng từ
ngữ, cách gieo vần theo chủ ý của người sáng tác. Nhưng điều quan trọng hơn là
Website: Email : Tel : 0918.775.368
từ nhịp điệu thơ người ta hiểu được nhịp điệu của cảm xúc của người sáng tác,
ứng với một nhịp điệu là một cung bậc khác nhau trong thế giới xúc cảm phong
phú của con người. Khác với văn xuôi, để thể hiện một ý tưởng nào đó, nhà văn
có thể thể hiện nó trong một đoạn văn ngắn hoặc cũng có thể giấu nó trong một
bài trường ca. Nhưng trong thơ, tính hàm súc cô dọng lại được đặt lên hàng đầu.
“Phép làm thơ thật khó lắm thay! Thơ luật chỉ có 56 chữ, thơ tuyệt cú chỉ có 28
chữ, mà đủ cả mọi thể cách. Muốn thơ cổ kính thanh đạm thì lại gần với thô,
muốn đẹp đẽ thì lại gần với lòe loẹt, hào phóng thì dễ tới chỗ buông thả, thật thà
thì dễ tới chỗ quê mùa. Cho nên lời ý giản dị, mạch lạc, đầy đủ, thông suốt, chất
phác mà vẫn nhã, mới lạ mà không trúc trắc, cao siêu mà vẫn có giọng ôn hòa.”
[7; ]. Muốn thể hiện một thông điệp trọn vẹn trong một giới hạn về dung lượng
như vậy, người nghệ sỹ cần thể hiện sự tinh tế của mình trong việc tìm tứ thơ và
sử dụng từ ngữ. Từ ngữ trong thơ chứa đựng tiếng vang cảm giác của các chữ
trong sự kết hợp của chúng. Tố Hữu đã từng chỉ rõ rằng: “ Chữ nghĩa không chỉ
là chữ a chữ b, mà cả cái tiếng vang lên trong chữ, tiếng vang của cả khoảng
cách giữa những chữ, những dòng.” Chính tiếng vang trong mỗi chữ, mỗi dòng
ấy sẽ vang lên đồng diệu với tiếng vang của nhịp xúc cảm thể hiện qua mỗi bài
thơ.
1.2. Tác động của thơ đối với con người
Thơ hướng con người ta đến với cái đẹp, chia sẻ những đau khổ cũng như
hạnh phúc mà con người gặp phải. Trải qua thời gian, thơ đã và sẽ còn tồn tại
mãi cho đến khi con người vẫn còn yêu thơ, cần thơ và tìm đến thơ như một sự
giải phóng những nỗi niềm hay ước mơ và khát vọng.
Thơ không chỉ tồn tại và cần cho thế giới của người lớn, thơ cũng rất cần
thiết cho các em thiếu nhi. Các em yêu thơ bởi lẽ thơ dễ đọc, dễ thuộc và dễ nhớ.
Thơ mang đến cho các em bao điều mới lạ, cung cấp cho các em những hiểu biết
và nhận thức về thế giới xung quanh. Chức năng của thơ là hướng con người
đến với chân, thiện, mĩ và chức năng ấy cũng áp dụng với thơ viết cho thiếu nhi.
Thơ không chỉ làm phong phú vốn hiểu biết cho các em, mà còn hướng tâm hồn
các em đến với cái đẹp, cái đẹp của cuộc sống, cái đẹp của nghệ thuật. Chính
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tính chất giàu nhạc điệu của thơ, có lúc như một điệu hát, có lúc lại như một bài
đồng dao hay một bài vè đã làm cho trẻ em yêu thơ.
Nếu như đi tìm một định nghĩa chức năng để có thể khái quát được tất cả
các đặc điểm của thơ thì có lẽ sẽ không thể có được một định nghĩa đầy đủ.
Nhưng nếu để tâm hồn mình lắng lại, thấm trong từng câu chữ thì ta có thể hiểu
được những giá trị mà thơ mang lại, những giá trị thẩm mĩ đã góp phần nâng đỡ
và làm đẹp thêm tâm hồn mỗi người.
2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ
2.1. Đặc điểm ngôn ngữ trẻ em
"Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ phải bắt đầu từ rất sớm, khi các em còn bé và
phải thực hiện sự giáo dục ấy bằng tiếng mẹ đẻ"[6,7]. Trong giai đoạn đầu của
thời kỳ thơ ấu, ngữ ngôn là một cái gì đó không thể tách rời khỏi con người và
con người chiếm lĩnh nó thông qua thế giới vật thể. Trẻ con chưa thể phân biệt
từ ngữ và vật thể, đối với chúng, từ ngữ trùng với vật thể. Ngữ ngôn phát triển
bằng con đường trực quan và cụ thể. Muốn cho trẻ em học tên gọi các vật thể thì
cần phải bày tất cả các vật thể ấy ra trước mặt. Từ ngữ và vật thể phải đi vào trí
não con người cùng một lúc, tuy nhiên vị trí then chốt vẫn là vật thể vì nó là đối
tượng của nhận thức và ngữ ngôn. Tách khỏi thế giới vật thể, ngôn ngữ không
thể phát triển được. Điều này sẽ ảnh hưởng rất xấu đến sự phát triển của trẻ một
khi ngôn ngữ của chúng phát triển chậm trễ thì sự tiếp cận của chúng đối với thế
giới xung quanh cũng không thể toàn diện được. Trẻ em tiếp thu những khái
niệm cơ bản đầu tiên và cụ thể từ môi trường vật chất chung quanh thông qua sự
phân tích của mình. Từ ngữ sẽ giúp cho trẻ củng cố những khái niệm thu lượm
được bằng con đường cảm thụ. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em liên hệ chặt
chẽ với sự phát triển cảm giác của chúng. Vì thế, để cho ngôn ngữ của trẻ em -
thứ ngôn ngữ phản ánh một cách rõ ràng và minh bạch thế giới vật thể xung
quanh, đem lại cho các em hiểu biết tích cực, được phát triển đúng đắn, thì các
em cần phải được sinh hoạt trong một môi trường của vật thể, các em phải được
giáo dục ngôn ngữ ngay từ những ngày đầu để có thể có được tiếng nói chuẩn và
vốn từ ngữ phong phú. chính kết quả quan sát hiện thực cuộc sống trong quá
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trình chơi và lao động sẽ được phản ánh trong các từ ngữ.
2.2. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ qua các thời kỳ
Cùng với sự phát triển về mặt sinh lí của cơ thể, tư duy, ngôn ngữ trẻ em
cũng phát triển và có nhiều thay đổi qua từng giai đoạn. Xuất phát từ mục đích
nghiên cứu, chúng tôi chỉ để cập đến sự phát triển lời nói, vốn từ của các em từ
khi biết nói cho đến bậc tiểu học.
Ngay từ khi trong giai đoạn từ 6 đến 9 tháng tuổi trẻ đã xuất hiện nhu cầu
phát triển tiếng nói. Điều này thể hiện ở chỗ trẻ chẳng những vui mừng khi được
tiếp chuyện với người lớn, mà chúng cũng đã bắt đầu hiểu được một vài chữ và
thực hiện theo. Trong giai đoạn trẻ 1 tuổi, thông qua việc tập nói, bắt chước âm
thanh và hiểu lời nói, sẽ hình thành những từ ngữ có nghĩa đầu tiên. Đến khi
được 1 tuổi, trẻ đã có thể nói được từ 7 đến 10 từ. Bắt đầu từ thời kỳ này trở đi,
việc phát triển chăm lo, bồi dưỡng ngôn từ cho trẻ là điều hết sức cần thiết. Vì
trong giai đoạn này những từ trẻ học được sẽ là vốn từ cơ bản cho việc hình
thành lời nói của trẻ, tác động nhận thức của chúng.
Nếu như trong thời kỳ 1 tuổi, phần lớn trẻ chỉ có thể phát âm được những
từ đơn giản (những từ mà khi phát âm không có sự thay đổi về ngữ điệu), thì
sang đến thời kỳ 2 tuổi, vốn từ của các em được tăng lên đáng kể. Vì lúc này các
em có thể phát âm được những từ có biến đổi thanh điệu, dù rằng sự phát âm các
từ khi có thanh điệu đi kèm của trẻ chưa hoàn toàn chính xác. Những từ ngữ mà
trẻ học được đó là do chúng tiếp nhận và bắt chước trong quá trình trong lúc
người lớn trò chuyện với trẻ. Quan sát trẻ cho thấy khả năng bắt chước những từ
đơn giản hóa và sau đó là bắt chước những từ phát âm đúng của người lớn, phản
ánh thời kỳ tích lũy vốn từ và là cơ sở cho việc hình thành vốn từ. Vào lúc này,
vốn từ của trẻ chưa nhiều, nhưng chính trong những lúc vui chơi, những lúc học
tập hấp dẫn, khi quan sát sự vật, xem tranh ảnh nhiều từ ngữ có thể được bật ra
“bất chợt”. Trong thời kỳ này nên đọc cho trẻ nghe những bài thơ hoặc dạy cho
trẻ những bài hát đơn giản, dễ thuộc dễ nhớ với lượng từ vừa phải, phù hợp với
nhận thức của chúng. Bởi lẽ, mục đích của việc dạy từ ngữ cho trẻ qua các bài
thơ, bái hát là nhằm tăng vốn từ chứ không phải là tăng lượng thông tin tiếp
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhận đối với nhận thức của trẻ.
Từ 3 tuổi trở đi, trẻ rất hay nói. Trẻ nói trong tất cả các tình huống, minh
họa trò chơi bằng lời. Hơn nữa vốn từ ngữ của trẻ trong thời kỳ này không chỉ
bó hẹp trong phạm vi những danh từ gọi tên, định danh sự vật cụ thể, mà nó đã
bước đầu biểu lộ sắc thái tình cảm của trẻ. Điều này có nghĩa là từ lứa tuổi này
trở đi vốn từ của trẻ sẽ trở nên phong phú hơn với nhiều từ loại hơn. Cũng trong
thời gian này (bắt đầu từ 3 tuổi trở lên), người lớn cần chú ý uốn nắn cách phát
âm của trẻ nhất là khi phát âm những từ ngữ có thanh điệu kho như thanh ngã,
thanh sắc, đặc biệt là rèn luyện cho trẻ các kĩ năng biết phân biệt các âm nghe
giống nhau.
Khi trẻ đến tuổi tới trường, lúc này vốn từ của trẻ được nâng lên rõ rệt
nhờ vào một chương trình đào tạo chính quy. Có những từ ngữ trẻ không hiểu
đòi hỏi người lớn phải giải thích rõ ràng, rành mạch . Hơn nữa dù vốn từ của trẻ
đã tăng lên so với thời kỳ trước nhưng vẫn đòi hỏi các văn bản (ví dụ như thơ,
truyện) trình bày rõ ràng, từ ngữ dễ hiểu, gần gũi với sinh hoạt để vừa giúp trẻ
hiểu vừa có thể mở rộng vốn từ của trẻ theo hướng tích cực.
2.3. Vai trò của thơ ca đối với nhận thức và phát triển ngôn ngữ trẻ
Trẻ em rất yêu thơ, thích thơ và đọc thơ. Ngay từ khi biết nhận thức, các
em đã sớm quan tâm đến thế giới âm thanh có phản ứng nhạy bén với nó và có
một sự cảm thụ kỳ lạ đối với việc tiếp thu nhịp điệu. Các em tiếp thu các quy
luật về nhịp điệu nhanh và nhẹ nhàng hơn là thế giới của hình thức và màu sắc.
Chính vì thế mà những bài thơ có thể gây cho các em ấn tượng sâu sắc.
Một bài thơ hay chính là một bản nhạc. Các em bé nhất cũng đã có thể
lĩnh hội được nhịp điệu của nó, đã có khả năng cảm thấy thích thú với âm điệu
của câu thơ, với cái đẹp của sự hài hoà trong thơ. Những sự tiếp thu bằng âm
thanh kiểu ấy, đối lúc đi kèm theo sự tiếp nhận cả nội dung có một ý nghĩa rất
rộng lớn trong sự phát triển khiếu thẩm mỹ và ngôn ngữ trẻ em. Đứa bé càng
nhỏ tuổi chừng nào thì nhịp điệu câu thơ càng phải rõ nét chừng ấy, hình ảnh
nghệ thuật của thơ phải đơn giản chừng ấy. Điều ấy đòi hỏi người nghệ sĩ khi
muốn những bài thơ của mình đến được với các em thì cần phải hiểu được tâm lí
Website: Email : Tel : 0918.775.368
và đặc điểm đời sống cũng như nhu cầu nhận thức của các em để có những sáng
tác phù hợp.
Xét trên bình diện ngôn ngữ học, thơ ca có những tác động tích cực đối
với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhỏ. Mỗi một đoạn thơ học thuộc lòng là
một vốn từ rất lớn sẽ làm giàu và phát triển ngôn ngữ các em. Bất cứ một tác
phẩm thơ ca nào đó viết cho các em cần phải đáp ứng được các yêu cầu: sự giản
đơn và khúc chiết của nhịp điệu, câu thơ và bài thơ phải ngắn, hình ảnh trong
thơ phải giản đơn và gần gũi với các em, không có những đoạn mô tả và hư cấu
có trình độ cao. Mỗi bài thơ đều có cách tiếp cận riêng ở nhiều khía cạnh nhưng
các em không nhất thiết với hiểu tất cả những khía cạnh của bài thơ. Việc yêu
cầu các em hiểu được tất cả các khía cạnh và chi tiết cũng như nội dung của tác
phẩm chỉ đúng với văn xuôi vì nhiệm vụ của nó là truyền đạt cho các em những
sự việc cụ thể. Nhưng điều đó không đúng với các tác phẩm thơ ca. Trong thơ
ca, các em chỉ cần hiểu cái chung nhất, cái chính nhất, phần còn lại có thể đi qua
ý thức của các em mà thôi. Trong một bài thơ có những từ ngữ, hình ảnh các em
không hiểu được hết, điều đó là dĩ nhiên vì nhận thức của các em còn nhiều hạn
chế và cho các em tiếp cận thơ chính là để mở rộng vốn từ ngữ của các em.
Thơ ca rất cần cho các em. Vì vậy, ngôn ngữ thơ ca vừa để khắc phục
những nhược điểm trong ngôn ngữ các em và làm phong phú thêm ngôn ngữ
cho các em theo chiều hướng tích cực.
3. Lý luận về từ vựng
3.1. Quan điểm về từ
Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có của ngôn ngữ. Do tính chất tồn tại
hiển nhiên, sẵn có của từ mà ngôn ngữ loài người bao giờ cũng được gọi là ngôn
ngữ của các từ. Chính tổng thể các từ là vật liệu xây dựng mà thiếu nó thì không
thể hình dung được một ngôn ngữ. Cho đến nay, trong ngôn ngữ học các định
nghĩa về từ đã được đưa ra không ít. Xét ở một khía cạnh nào đó các định nghĩa
này đều có phần đúng, nhưng không bao gồm hết được tất cả các sự kiện được
coi là từ trong các ngôn ngữ và ngay cả trong bản thân một ngôn ngữ. Nói cách
khác, những định nghĩa về từ hiện nay đúng nhưng chưa đủ. Xuất phát từ sự
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khác nhau về cách định hình, về chức năng và những đặc điểm ý nghĩa của từ
trong các ngôn ngữ khác nhau cũng như trong bản thân một ngôn ngữ nào đó,
cho nên các nhà ngôn ngữ học không có sự thống nhất trong cách định nghĩa và
miêu tả từ. Cho đến nay, đã có hơn 300 cách định nghĩa về từ. F. De. Saussure
đã viết: “Từ là một đơn vị luôn luôn ám ảnh tư tưởng chúng ta như một cái gì đó
trung tâm trong toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ mặc dù khái niệm này khó định nghĩa”.
“Các từ là những ký hiệu âm thanh của một ngôn ngữ được cấu tạo từ các âm vị
và có thể tạo thành trường” (K. Buhker). “Từ không phải đơn giản có tính số học
của vật chất âm thanh và ý nghĩa mà là một chỉnh thể có tổ chức, một đơn vị kết
cấu tính của vật chất âm thanh và ý nghĩa” (W. Schmidt). Tất cả các định nghĩa
trên đây đều không bao quát được những đặc điểm cơ bản của từ, chúng chỉ có
thể dùng làm những luận điểm xuất phát khi nghiên cứu và miêu tả từ.
Các nhà Việt ngữ đã đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau về từ và cách
nhận diện từ trong tiếng Việt ví dụ như:
“Từ là đơn vị nhỏ nhất, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có
chúc năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo
câu”. [1,142]
“Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức”.
[2,61]
“Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang
những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất
cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để
tạo câu”. [4;16]
“Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để cấu tạo
câu nói, nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền”. [3;69]
Các nhà Việt ngữ học đã xuất phát từ nhiều góc độ nghiên cứu, những
khía cạnh khác nhau của từ để đưa ra định nghĩa, quan điểm về từ của riêng họ.
Từ các định nghĩa trên, có thể rút ra một đặc điểm chung của từ tiếng Việt là một
đơn vị có tính chất hai mặt: mặt hình thức và mặt nội dung. Từ tiếng Việt là một
đơn vị ngôn ngữ có hình thức ngữ âm, nội dung, ngữ nghĩa ổn định (tính định
Website: Email : Tel : 0918.775.368
danh của từ) và hoạt động độc lập trong lời nói (tức là khả năng tách biệt khỏi
những từ bên cạnh). Từ là một đơn vị thực tế mà người nói có thể cảm nhận
được. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã chọn một khái niệm về từ để làm
việc như sau:
“Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để cấu tạo
câu nói, nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền”. [3;69]
Tóm lại, từ chẳng những là đơn vị cơ bản của từ vựng mà còn là đơn vị cơ
bản của ngôn ngữ nói chung.
3.2. Từ đơn
Căn cứ vào cấu tạo từ, từ tiếng Việt được chia ra thành các kiểu từ, bao
gồm: từ đơn, từ ngẫu hợp, từ ghép, từ láy. Khi gọi là “từ đơn”, “từ ghép”, hay
“từ láy”, điều này có nghĩa là các nhà ngôn ngữ học đã căn cứ vào số lượng hình
vị để phân loại.
3.3. Từ ghép
Ngay trong cách định nghĩa về từ ghép cũng khá nhiều quan niệm khác
nhau được đưa ra:
“Từ ghép là những từ cấu tạo bằng cách ghép hai hoặc hơn hai từ độc
lập”. [2;69]
“Từ ghép là những từ được tạo nên do phương thức tổ hợp (ghép) các
tiếng lại, mà giữa các tiếng (thành tố cấu tạo) đó, có quan hệ về nghĩa với nhau”.
[1;145]
“Từ đơn chỉ gồm một tiếng nên làm thành một đơn vị đơn giản.. Từ ghép,
trái lại là một đơn vị phức hợp, có tổ chức nội tại. Từ ghép là một loại đơn vị có
tổ chức cao hơn tiếng nói chung và cao hơn từ đơn nói riêng một bậc”. [5;51]
Các định nghĩa trên tuy khác nhau về tính diễn đạt song đều thể hiện một
điểm chung, thống nhất: đó là cấu trúc phức tạp của từ ghép. Dựa vào mối quan
hệ về nghĩa giữa các thành tố cấu tạo, từ ghép tiếng Việt bao gồm: từ ghép đẳng
lập và từ ghép chính phụ. Từ ghép đẳng lập là những từ mà các thành tố cấu tạo
có quan hệ bình đẳng với nhau về nghĩa. Các thành tố cấu tạo trong từ ghép đều
rõ nghĩa và khi dùng mỗi thành tố như vậy để cấu tạo từ đơn thì nghĩa của từ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đơn và nghĩa của các thành tố này không trùng nhau. Chẳng hạn các từ: ăn khác
ăn ở, khác ăn nói, khác ở, khác nói. Nhưng cũng có trường hợp một thành tố rõ
nghĩa tổ hợp với thành tố không rõ nghĩa. Ví dụ như các từ: chợ búa, bếp núc,
đường sá, sầu muộn. Do quan hệ cú pháp đẳng lập chi phối, nên trong từ ghép
đẳng lập, trật tự các yếu tố có thể thay đổi không cố định. Tuy nhiên sự thay đổi
trật tự này cũng còn phụ thuộc và chịu sự chi phối của qui tắc từ , cho phép từ
này có thể hoặc không thể thay đổi trật tự các yếu tố trong từ ghép.Ý nghĩa của
từ ghép đẳng lập so với ý nghĩa của các tiếng trong từ ghép có tính chất tập hợp,
khái quát hơn. Chính ý nghĩa khái quát ấy là một trong những điểm làm cho từ
ghép đẳng lập khác với từ ghép chính phụ.
Từ ghép chính phụ là từ ghép trong đó thành tố cấu tạo này phụ thuộc vào
thành tố cấu tạo kia, trong đó thành tố phụ có vai trò phân loại, chuyên biệt hóa
cho thành tố chính. Chẳng hạn các từ: tàu hỏa, cà chua, dưa hấu, xanh lè, là
những từ ghép chính phụ. Xét về tính chất, từ ghép chính phụ do quan hệ chính
phụ sinh ra nên trật tự của nó là trật tự cố định, không dễ thay đổi.Ví dụ “hải
quân” không thể đảo ngược trật tự thành “quân hải”. Về mặt ngữ nghĩa, nếu các
tiếng cấu tạo từ ghép có cùng tính chất thì nghĩa của thành tố chính qui định ý
nghĩa chung của toàn tổ hợp, nghĩa của thành tố phụ có vai trò thu hẹp phạm vi
nghĩa của thành tố chính (ví dụ:: tàu hỏa, cỏ gà). Trong trường hợp, các tiếng có
tính chất khác nhau, thì nghĩa của thành tố chính quyết định nghĩa của cả từ, ví
dụ từ “thí điểm”.
Nhận diện từ ghép không phải là một vấn đề đơn giản đối với trẻ. Chính
vì thế, với nhận thức lý luận về từ ghép như vậy, sẽ giúp ta lựa chọn chính xác
những từ ghép trong thơ Phạm Hổ làm phong phú thêm vốn từ vựng cho các em.
3.4. Từ láy
Nếu phương thức tổ hợp các tiếng dựa trên mối quan hệ về nghĩa cho ta
các từ ghép, thì phương thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hòa phối ngữ âm cho ta
các từ láy(còn gọi là từ kép láy, từ láy âm). Đỗ Hữu Châu đã định nghĩa về từ
láy như sau:
“Từ láy là những từ được cấu tạo theo phương thức láy. Đó là phương
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thức láy toàn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết(với thanh điệu giữ nguyên hay
biến đổi theo quy tắc biến thanh tức là quy tắc thanh điệu biến đổi theo hai nhóm,
gồm nhóm cao: thanh hỏi,thanh sắc, thanh ngang và nhóm thấp: thanh huyền,
thanh ngã, thanh nặng) của một hình vị hay một đơn vị có nghĩa.”. [4;40]
GS.Nguyễn Thiện Giáp đã định nghĩa về từ láy:
“Ngữ láy âm là đơn vị được hình thành do sự lặp lại hoàn toàn hay sự lặp
lại có kèm theo sự biến đổi ngữ âm nào đó của từ đã có.Chúng vừa có sự hài hòa
về mặt ngữ âm, vừa có giá trị gợi cảm, gợi tả”.[3;86]
Các định nghĩa trên, đã chứng tỏ một điểm chung trong quan niệm của
các nhà Việt ngữ học về từ láy. Họ đều lấy tính chất giống nhau ỏ một mức độ
nào đó về mặt âm tiết trong cấu tạo từ là cơ sở để nhận diện về từ láy. Từ láy
trong tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng còn có loại ba
tiếng. Trong đó láy hai tiếng là loại tiêu biểu cho từ láy và phương thức láy của
tiếng Việt. Một số nhà ngôn ngữ học không nói đến tính chất lặp mà còn nói đến
sự biến đổi (còn gọi là đối) trong từ láy. Vì thế, nếu chỉ có điệp mà không có đối
(ví dụ như: người người, ngành ngành) sẽ không thể trở thành từ láy được. Kết
hợp tiêu chí về số lượng tiếng với cách láy, có thể phân loại từ láy bao gồm: từ
láy hai tiếng (cũng gọi là từ láy đôi), láy ba tiếng và từ láy bốn tiếng. Trong từ
láy đôi có láy hoàn toàn và láy bộ phận. Từ láy hoàn toàn là những tổ hợp có sự
tương ứng hoàn toàn giữa hai thành tố như: ầm ầm, ào ào, oang oang, chiêm
chiếp. Từ láy bộ phận là những từ láy có sự khác nhau hoặc ở âm đầu hoặc ở âm
chính, thanh điệu bao giờ cũng trùng nhau. Ví dụ như: lún phún, lúng túng, ngô
nghê. Trong tiếng Việt hình thức láy ba, láy tư không nhiều, thậm chí nhiều
trường hợp được xây dựng trên cơ sở các từ láy đôi bộ phận .
Việc sử dụng các từ láy là rất hữu ích cho trẻ. Bởi lẽ, trong cách nói năng
hay miêu tả, từ láy sẽ góp phần làm cụ thể hóa đối tượng chúng ta muốn con trẻ
hướng đến. Không những thế, còn làm tăng vốn từ cho các em, tăng khả năng
phát âm và tăng khả năng nhận thức cho các trẻ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN II
BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT NGÔN NGỮ THƠ PHẠM HỔ
1. Đặc điểm thơ Phạm Hổ
1.1. Hệ thống đối tượng miêu tả
Bất cứ một ngành nghệ thuật nào cũng đòi hỏi sự sáng tạo, bởi lẽ sự khắc
nghiệt của thời gian không cho phép những tác phẩm không có “cái tôi”, không
có dấu ấn, được tồn tại. Thi ca cũng là một trong số những ngành nghệ thuật
luôn đòi hỏi sức sáng tạo từ những ngòi bút. Sáng tác thi ca đã khó, nhưng viết
thơ cho thiếu nhi còn khó hơn. Thế giới của các em phong phú, luôn đầy ắp
những bất ngờ thú vị, tâm hồn các em luôn khao khát hướng ra thế giới muôn
màu sắc bên ngoài. Viết thơ cho thiếu nhi là một mảnh đất màu mỡ cho những ai
yêu thích con trẻ cầm bút. Nhưng điều tưởng chừng rất dễ ấy lại khó thực hiện
biết bao. Bởi lẽ nhận thức, suy nghĩ của trẻ còn hạn chế, làm thế nào để trẻ chấp
nhận, yêu thích những sáng tác của mình điều ấy phụ thuộc vào tài năng người
nghệ sỹ. Thơ cho thiếu nhi có nhiều, nhưng đứng được với thời gian, con số ấy
không nhiều. Phạm Hổ nhà thơ đã dành cả cuộc đời mình để đem lại niềm vui
cho các em - là một trong số ít những nhà thơ mà tiếng thơ của ông có ảnh
hưởng khá lớn đến các em thiếu nhi.
Chúng tôi đã tiến hành khẻo sát 104 bài thơ vioết cho thiếu nhi của Phạm
Hổ và nhận thấy cả một thế giới phong phú đa dạng biết bao đang hiện dần ra
trước mắt mình. Này đây là “ngôn ngữ bạn ồn ào”, “ngôn ngưqx người bạn im
lặng”, “này đây là chú vịt bông” rất đỗi dễ thương, này đây là “những người bạn
nhỏ” xinh xắn, rồi sau đó là cả một không gian rộng với đất nước Việt Nam tươi
đẹp, với những người “em thích em yêu”. Ngòi bút giản dị nhưng tinh tế của
Phạm Hổ đã cung cấp cho các em những hiểu biết giản dị và cơ bản nhất về thế
giới vạn vật xung quanh. Đó là thế giới của các loài quả như: quả "Khế", quả
"na", quả dứa...,các loài vật đáng yêu "gà con và quả trứng", "Ngỗng và vịt"...
Đến với thơ Phạm Hổ các em như được bước vào một không gian rực rỡ sắc
màu, tràn ngập âm thanh. Nghệ thuật mô phỏng âm thanh tự nhiên đã làm cho
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không gian trong thơ Phạm Hổ đầy chất sống. Trẻ thơ tiếp xúc với thế giới xung
quanh bằng các giác quan của mình, các em lắng nghe, quan sát, sờ mó, để được
thấy, được biết, được hiểu và ghi nhận những âm thanh, những hình ảnh từ thế
giới bên ngoài vào trong tâm hồn mình. Phạm Hổ hiểu được điều đó và ông đã
bước những bước chân với những nhịp tuyệt vời để đưa vào trong thơ mình
những âm thanh sống động của cuộc sống đó là cách tác động trực tiếp, mạnh
mẽ nhất tới giác quan của trẻ nhỏ. Qua đó các em có thể nghe thấy rất nhiều
tiếng động tiếng kêu, hình dung được nhiều động, tác hành động được miêu tả
trong bài. Đây là tiếng "ấm và chảo", kia là tiếng còi tí...te,tí...te của "Xe chữa
cháy".
Thơ Phạm Hổ không chỉ tái hiện một thế giới mới lạ với vô vàn điều lý
thú trước mắt các em nhỏ, mà thơ ông còn đáp ứng những mong muốn, nhu cầu
tình cảm của các em khi đến với thơ. Trẻ nhỏ đọc thơ Phạm Hổ, yêu thích thơ
ông bởi lẽ thơ Phạm Hổ đã đáp ứng đúng nhu cầu tình cảm, những mong muốn
của các em khi đến với thơ. Những yếu tố bất ngờ ngộ nghĩnh và hóm hỉnh đã
giúp cho nhà thơ truyền đạt trọn vẹn thông điệp của mình đến với các em. Trẻ
nhỏ luôn làm cho chúng ta bị bất ngờ bởi lối suy nghĩ và tư duy riêng của chúng.
Vốn sống của các em còn ít ỏi, có những điều tưởng như giản đơn đối với chúng
ta nhưng trẻ cũng chưa hiểu được, và nếu có hiểu, chúng hiểu theo cách riêng
của chúng. Đôi khi những suy nghĩ đó còn sai lầm, đi ngược với quy luật thông
thường. Sự hóm hỉnh, ngộ nghĩnh và đầy chất bất ngờ ấy xuất hiện trong thơ
Phạm Hổ khi mọi trật tự logic thông thường đôi lúc biến mất, cũng như lời trẻ
nhỏ nhiều khi không cũng không có chỗ cho sự logic tồn tại. Này đây là cảnh cả
đàn gà con nhao nhao trả lời "Ngủ rồi đấy ạ" khi nghe gà mẹ hỏi "đã ngủ chưa
đấy hả". (Bài "Ngủ rồi").
Những cảm nhận ngây thơ, những hiểu biết hồn nhiên, những suy nghĩ
trong sáng ấy ai cũng đã từng trải qua một lần và sẽ không trở lại lần thứ hai,
nên đến với thế giới viết cho thiếu nhi trong thơ Phạm Hổ, dường như trong mỗi
chúng ta đều thêm yêu trẻ, tâm hồn mỗi người như trở nên trong sáng hơn, tinh
khiết hơn, nhẹ nhàng và thanh thản hơn. Trong thế giới của các em chúng ta sẽ