Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Trường nghĩa chỉ không gian trong thơ đồng đức bốn (2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.6 KB, 64 trang )

LỜI CẢM ƠN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
Đối với sinh viên cuối KHOA:
cấp khi đƣợc
khóa luận tốt nghiệp là điều vô
NGỮlàm
VĂN
cùng vinh dự. Nhƣng để có thể**************
hoàn thành khóa luận đòi hỏi sự cố gắng rất
lớn của bản thân và quan trọng hơn đó là sự chỉ bảo của các thầy cô giáo
trong trƣờng, thầy cô hƣớng dẫn, sự giúp đỡ, động viên của gia đình, bạn bè
và ngƣời thân.

NGUYỄN THỊ DUYÊN

Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo trong trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội 2 và quý thầy cô giáo trong Tổ Ngôn ngữ đã truyền đạt những
kiến thức chuyên ngành, chỉ dạy em trong suốt quá trình học tập tại trƣờng.
Đặc biệt là cô giáo TS. Lê Thị Thùy Vinh là ngƣời đã giúp em định hƣớng đề

TRƢỜNG NGHĨA CHỈ KHÔNG GIAN

tài và hƣớng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em một cách tận tình để em hoàn thành
khóa luận của mình. Em cũng xin gửi tới những ngƣời thân yêu, bạn bè lòng

TRONG THƠ ĐỒNG ĐỨC BỐN

biết ơn chân thành nhất, vì đã luôn ở bên em, động viên, giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận này.
Tuy nhiên, với những kiến thức và kinh nghiệm thực tế của bản thân
còn nhiều hạn chế. Do vậy, khóa luận này không tránh khỏi những thiếu sót,



KHÓA
LUẬN
NGHIỆP
ĐẠI
HỌC
em rất mong
nhận đƣợc
sự gópTỐT
ý của các
thầy, cô giáo
và các
bạn để bài viết
đƣợc hoàn thiện hơn. Chuyên ngành: Ngôn ngữ
Em xin chân thành cảm ơn!

HÀ NỘI - 2016


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
LỜI CAM ĐOAN
KHOA: NGỮ VĂN
Tôi xin cam đoan đây là **************
công trình nghiên cứu của riêng tôi và đƣợc sự
hƣớng dẫn khoa học của TS. Lê Thị Thùy Vinh. Các nội dung nghiên cứu, kết
quả trong đề tài này là trung thực và chƣa công bố dƣới bất kỳ hình thức nào
NGUYỄN THỊ DUYÊN
trƣớc đây. Những số liệu trong
các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích,


nhận xét, đánh giá đƣợc chính tác giả thu thập từ việc khảo sát, thống kê,
phân loại ngữ liệu. Ngoài ra, một số nhận xét, đánh giá khác trong khóa luận
đều đƣợc sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh

TRƢỜNG NGHĨA CHỈ KHÔNG GIAN

bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên
cứu đã đƣợc công bố.

TRONG THƠ ĐỒNG ĐỨC BỐN:

Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung khóa luận của mình.

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành:
Ngôn
ngữ
Hà Nội,
tháng
05 năm 2016
Tác giả
Nguyễn Thị Duyên

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. LÊ THỊ THÙY VINH

HÀ NỘI - 2016



LỜI CẢM ƠN
Đối với sinh viên cuối cấp khi đƣợc làm khóa luận tốt nghiệp là điều vô
cùng vinh dự. Nhƣng để có thể hoàn thành khóa luận đòi hỏi sự cố gắng rất
lớn của bản thân và quan trọng hơn đó là sự chỉ bảo của các thầy cô giáo
trong trƣờng, thầy cô hƣớng dẫn, sự giúp đỡ, động viên của gia đình, bạn bè
và ngƣời thân.
Em xin chân thành cảm ơn quí thầy cô giáo trong trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội 2 và quí thầy cô giáo trong Tổ Ngôn ngữ đã truyền đạt những
kiến thức chuyên ngành, chỉ dạy em trong suốt quá trình học tập tại trƣờng.
Đặc biệt là cô giáo TS. Lê Thị Thùy Vinh là ngƣời đã giúp em định hƣớng đề
tài và hƣớng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em một cách tận tình để em hoàn thành
khóa luận của mình. Em cũng xin gửi tới những ngƣời thân yêu, bạn bè lòng
biết ơn chân thành nhất, vì đã luôn ở bên em, động viên, giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận này.
Tuy nhiên, với những kiến thức và kinh nghiệm thực tế của bản thân
còn nhiều hạn chế. Do vậy, khóa luận này không tránh khỏi những thiếu sót,
em rất mong nhận đƣợc sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn để bài viết
đƣợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và đƣợc sự
hƣớng dẫn khoa học của TS. Lê Thị Thùy Vinh. Các nội dung nghiên cứu, kết
quả trong đề tài này là trung thực và chƣa công bố dƣới bất kỳ hình thức nào
trƣớc đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá đƣợc chính tác giả thu thập từ việc khảo sát, thống kê,
phân loại ngữ liệu. Ngoài ra, một số nhận xét, đánh giá khác trong khóa luận
đều đƣợc sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh
bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên

cứu đã đƣợc công bố.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung khóa luận của mình.

Hà Nội, tháng 05 năm 2016
Tác giả
Nguyễn Thị Duyên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu....................................................................... 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu..................................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận...................................................................................... 6
7. Bố cục của khóa luận .......................................................................................... 6
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ....................................................................... 7
1.1. Trƣờng nghĩa .................................................................................................... 7
1.1.1.Khái niệm trƣờng nghĩa ............................................................................ 7
1.1.2. Phân loại trƣờng nghĩa ............................................................................ 9
1.1.2.1 Trƣờng nghĩa biểu vật .................................................................. 9
1.1.2.2. Trƣờng nghĩa biểu niệm ............................................................... 11
1.1.2.3. Trƣờng nghĩa tuyến tính............................................................... 12
1.1.2.4. Trƣờng nghĩa liên tƣởng .............................................................. 12
1.1.3. Giá trị của việc tìm hiểu trƣờng nghĩa trong tác phẩm văn chƣơng
nghệ thuật ................................................................................................................ 13
1.2. Trƣờng nghĩa chỉ không gian ........................................................................... 14

1.3. Nhà thơ Đồng Đức Bốn và thơ ca Đồng Đức Bốn .......................................... 15


CHƢƠNG 2: TRƢỜNG NGHĨA CHỈ KHÔNG GIAN TRONG THƠ ĐỒNG
ĐỨC BỐN ............................................................................................................... 20
2.1. Cơ sở phân loại ................................................................................................ 20
2.2. Các trƣờng nghĩa chỉ không gian cơ bản trong thơ Đông Đức Bốn ................ 20
2.2.1. Trƣờng nghĩa chỉ không gian tự nhiên ..................................................... 22
2.2.1.1. Trƣờng nghĩa chỉ không gian xuất hiện các hiện tƣợng tự
nhiên ........................................................................................................................ 22
2.2.1.2. Trƣờng nghĩa chỉ không gian xuất hiện các sự vật tự nhiên ......... 27
2.2.2. Trƣờng nghĩa chỉ không gian xã hội ........................................................ 30
2.2.2.1. Trƣờng nghĩa chỉ không gian làng quê ......................................... 31
2.2.2.1. Trƣờng nghĩa chỉ không gian thành thị......................................... 39
2.2.3.1. Trƣờng nghĩa chỉ không gian địa danh ......................................... 41
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................ 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Tiếp cận một tác phẩm văn chƣơng trƣớc hết là tiếp cận bề mặt câu chữ

bởi lẽ ngôn ngữ văn chƣơng bao giờ cũng là ngôn ngữ nghệ thuật, là sự sáng
tạo có mục đích của tác giả. Ngôn ngữ văn chƣơng không chỉ chú trọng đến
cảm xúc, đến tình cảm mà còn chú ý cả đến tính hệ thống và tính chính xác.
Từ ngữ sử dụng trong văn chƣơng một cách có chủ ý và thống nhất sẽ làm

tăng thêm vẻ tinh tế đó. Nói đến ngôn ngữ văn chƣơng, ngƣời ta nghĩ ngay
đến ngôn ngữ trong thơ. Loại ngôn ngữ này tiêu biểu cho phong cách văn
chƣơng với những cách dùng từ, đặt câu rất lạ mà ngôn ngữ thông thƣờng
không có đƣợc. Mỗi một nhà thơ là một phong cách thơ nên có một hệ thống
ngôn ngữ thơ mang những nét riêng. Trƣờng nghĩa ngôn ngữ mang đậm
phong cách của nhà thơ từ đó mà hình thành.
Đồng Đức Bốn là nhà thơ nổi lên nhƣ một hiện tƣợng thơ đặc biệt với
thể thơ lục bát hiện đại. Có lẽ ông là ngƣời làm thơ lục bát hay nhất trong
khoảng 50 năm trở lại đây ở Việt Nam. Đồng Đức Bốn từng nhận nhiều giải
thƣởng trong các cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ, Tạp chí Văn Nghệ Quân
Đội và báo Tiền Phong. Đồng Đức Bốn sinh năm 1948, quê Hải Phòng. Ông
đã từng làm nhiều nghề kiếm sống, cuộc đời sóng gió phiêu bạt nhiều nơi.
Những dấu vết ấy hằn sâu trong nhiều bài thơ của ông. Ngôn ngữ thơ rất giàu
hình ảnh mà nổi bật lên đó là những từ ngữ thuộc hệ thống trƣờng nghĩa
không gian.
Tìm hiểu trƣờng nghĩa không gian trong thơ lục bát của Đồng Đức Bốn
cũng là phát hiện ra vẻ đẹp ngôn ngữ trong thơ ca dân tộc nói chung và phong
cách thơ Đồng Đức Bốn nói riêng.

1


2.

Lịch sử vấn đề
Lí thuyết về trƣờng nghĩa đã đƣợc các nhà ngôn ngữ thế giới quan tâm

từ rất sớm, có thể kể đến các tác giả nhƣ J.Trier, L.Weisgerber… Các tác giả
này đƣa ra các quan niệm, các khía cạnh khác nhau về trƣờng nghĩa xuất phát
từ những góc nhìn riêng của mình.

Ở Việt Nam, Đỗ Hữu Châu là ngƣời nghiên cứu sớm và có nhiều công
trình về lý thuyết trƣờng. Định nghĩa trƣờng của ông đƣợc rất nhiều ngƣời
chấp nhận và sử dụng phổ biến: Trƣờng từ vựng là một tập hợp các đơn vị từ
vựng căn cứ vào một nét đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa.
Năm 1973, Đỗ Hữu Châu có công trình Trường từ vựng và hiện tượng
đồng nghĩa, trái nghĩa. Trong công trình này, Đỗ Hữu Châu nêu các hiện
tƣợng đồng nghĩa, trái nghĩa của từ thông qua việc phân tích các trƣờng từ
vựng.
Năm 1975, Đỗ Hữu Châu tiếp tục trình bày cụ thể về trƣờng và việc
nghiên cứu từ vựng.
Các công trình nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu đã cung cấp một hệ thống
lí thuyết về trƣờng từ vựng – ngữ nghĩa. Thực chất hiện giờ lí thuyết về
trƣờng từ vựng – ngữ nghĩa ở Việt Nam tồn tại với nội dung sau:
Trƣờng từ vựng ngữ nghĩa đƣợc chia làm bốn loại khi căn cứ vào các
loại ý nghĩa của từ, bao gồm: Trƣờng nghĩa biểu vật, trƣờng nghĩa biểu niệm,
trƣờng nghĩa tuyến tính và trƣờng nghĩa liên tƣởng. Ngoài ra, chúng tôi còn
căn cứ vào những nội dung cơ bản trong cuốn Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt
(in lần thứ 2, 1966) để có đƣợc khung lý thuyết vững chắc cho đề tài này.

2


Các nhà nghiên cứu đã áp dụng lý thuyết này để nghiên cứu tiếng Việt.
Đặc biệt, trƣờng nghĩa liên tƣởng đƣợc áp dụng nhiều khi nghiên cứu. Ví dụ
một số công trình tiêu biểu nhƣ:
Luận án PTS Trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể người của Nguyễn
Đức Tồn năm 1988 đã nêu khái niệm trƣờng từ vựng ngữ nghĩa khá hoàn
thiện.
Luận án PTS Đặc điểm Trường từ vựng – ngữ nghĩa tên gọi động vật
(trên tƣ liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga) của Nguyễn Thúy Khanh năm

1996
Luận văn thạc sĩ Cấu trúc ngữ nghĩa của vị từ thuộc trường thực vật
của Đinh Thị Oanh năm 1999 nhằm chỉ rõ đặc điểm và cấu trúc ngữ nghĩa
hoặc sự chuyển nghĩa của các vị từ thuộc trƣờng thực vật.
Công trình Tìm hiểu đặc trưng văn hóa – dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác) của Nguyễn Đức
Tồn xuất bản năm 2002. Trong công trình này, tác giả đã chỉ ra đặc điểm ngữ
nghĩa của trƣờng tên gọi thực vật (chƣơng thứ 8). Trong đó, tác giả đã trình
bày cụ thể, chi tiết về cấu trúc ngữ nghĩa của trƣờng từ vựng chỉ thực vật, sự
chuyển nghĩa và ý nghĩa biểu trƣng của một số từ ngữ thực vật.
Nghiên cứu về trƣờng nghĩa trong tác phẩm văn chƣơng nghệ thuật có
một số công trình nhƣ:
Luận văn thạc sĩ Hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu
của Vũ Hoàng Cúc năm 2011 nhằm chỉ rõ việc sử dụng trƣờng nghĩa và di
chuyển trƣờng nghĩa từ vựng qua đó lí giải về giá trị của thơ Xuân Diệu từ
góc nhìn ngôn ngữ.

3


Luận văn thạc sĩ Hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Đồng Đức
Bốn của Nguyễn Thị Hiền năm 2013 cũng đã đi vào nghiên cứu việc sử dụng
trƣờng nghĩa và di chuyển trƣờng nghĩa từ vựng, từ đó lí giải về giá trị thơ
của Đồng Đức Bốn ở phƣơng diện ngôn ngữ.
Nhƣ vậy, nghiên cứu về trƣờng nghĩa nói chung đã thu hút đƣợc sự chú
ý của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Nhƣng nghiên cứu trƣờng nghĩa trong
tác phẩm văn chƣơng còn khá ít. Vấn đề trƣờng nghĩa mà cụ thể hơn là trƣờng
nghĩa chỉ không gian trong thơ Đồng Đức Bốn vẫn chƣa có công trình hay bài
viết nào đề cập đến một cách có hệ thống.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


3.

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là làm rõ hơn bản chất của trƣờng nghĩa nói
chung và trƣờng nghĩa trong tác phẩm văn chƣơng nói riêng, cụ thể ở đây là
trƣờng nghĩa chỉ không gian trong thơ ca Đồng Đức Bốn. Qua đó khóa luận
cũng góp thêm sự lí giải về giá trị của thơ Đồng Đức Bốn từ góc nhìn ngôn
ngữ học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, khóa luận đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
- Xác định cơ sở lí luận của đề tài.
- Khảo sát, thống kê các từ ngữ trong thơ Đồng Đức Bốn theo trƣờng
nghĩa chỉ không gian để xác định trƣờng nghĩa chỉ không gian trong thơ
Đồng Đức Bốn.
- Qua khảo sát và phân tích các từ ngữ thuộc trƣờng nghĩa chỉ không
gian để rút ra những giá trị của thơ Đồng Đức Bốn từ góc nhìn ngôn
ngữ.

4


4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khóa luận này, đối tƣợng chúng tôi nghiên cứu là trƣờng nghĩa

chỉ không gian trong thơ Đồng Đức Bốn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung khảo sát, nghiên cứu với khoảng 100 bài thơ nằm
trong sáu tập thơ của Đồng Đức Bốn: Con ngựa trắng và rừng quả đắng, Nxb
Văn học, Hà Nội; Chăn trâu đốt lửa, Nxb Lao động, Hà Nội; Trở về với mẹ ta
thôi, Nxb Hội nhà Văn, Hà Nội; Cuối cùng vẫn còn dòng sông, Nxb Hội nhà
Văn, Hà Nội; Chuông chùa kêu trong mưa, Nxb Hội nhà Văn, Hà Nội; Chim
mỏ vàng và hoa cỏ độc, Nxb Hội nhà Văn, Hà Nội.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp và

thủ pháp sau:
-

Phƣơng pháp miêu tả để miêu tả đặc điểm của từ thuộc trƣờng nghĩa

chỉ không gian.
-

Phƣơng pháp phân tích để làm rõ giá trị biểu hiện của từ thuộc trƣờng

nghĩa chỉ không gian trong việc thể hiện nội dung và nghệ thuật của thơ Đồng
Đức Bốn.
-

Thủ pháp thống kê dùng để tổng hợp ngữ liệu, qua đó nắm đƣợc một

cách khái quát về trƣờng nghĩa chỉ không gian trong thơ Đồng Đức Bốn.
-


Thủ pháp phân loại dùng để phân loại ngữ liệu và xác định các đặc

điểm của từ thuộc trƣờng nghĩa chỉ không gian trong thơ Đồng Đức Bốn.

5


6.

Đóng góp của khóa luận
Về mặt lí luận, khóa luận làm rõ lí thuyết về trƣờng nghĩa ứng dụng

trong tác phẩm văn chƣơng, làm rõ vai trò của việc sử dụng từ ngữ thuộc
trƣờng nghĩa chỉ không gian trong thơ ca Đồng Đức Bốn. Từ đó, khóa luận
hƣớng tới khẳng định những đóng góp của nhà thơ về ngôn ngữ nghệ thuật
Về mặt thực tiễn, khóa luận giúp cho ngƣời đọc có một cái nhìn cụ thể
hơn, đa chiều hơn về thơ ca Đồng Đức Bốn, cụ thể ở đây là cái nhìn từ góc độ
ngôn ngữ học
7.

Bố cục của khóa luận
Tƣơng ứng với mục đích nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần mở đầu và

phần kết luận, nội dung của khóa luận đƣợc triển khai trong 2 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Các trƣờng nghĩa chỉ không gian trong thơ Đồng Đức Bốn
Sau cùng là phần tài liệu tham khảo và phụ lục.

6



PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Trƣờng nghĩa
1.1.1. Khái niệm trường nghĩa.
Ngôn ngữ là một hệ thống điển hình bao gồm tổng thể các yếu tố và
các yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo nhiều kiểu dạng khác
nhau. Nằm trong hệ thống ngôn ngữ ấy, các đơn vị từ vựng cũng không tồn
tại biệt lập, tách rời mà luôn có những mối quan hệ nhất định cả về hình thức
lẫn ngữ nghĩa. Quan hệ về ý nghĩa giữa các đơn vị từ vựng là một trong
những mối quan hệ đƣợc các nhà khoa học ngôn ngữ quan tâm làm rõ. Các từ
đồng nhất về nghĩa đƣợc tập trung thành các nhóm gọi là trƣờng nghĩa (hay
trƣờng từ vựng hoặc trƣờng từ vựng ngữ nghĩa).
Các nhà nghiên cứu khác nhau nhìn nhận việc nghiên cứu tính hệ thống
trong từ vựng rất khác nhau và phân chia trƣờng nghĩa theo những cơ sở khác
nhau:
Trƣớc hết là quan niệm của một số tác giả nƣớc ngoài: Từ những năm
90 của thế kỉ XIX, M. M. Pokrovxki là ngƣời đã đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu
từ vựng một cách có hệ thống nhƣng khái niệm trƣờng và lý thuyết trƣờng
ngữ nghĩa chỉ thực sự đƣợc nghiên cứu từ những năm 20 của thế kỉ XX, bắt
nguồn từ những lý thuyết ngôn ngữ học của W. Humboldt và F.de Saussure.
Sau đó các nhà nghiên cứu khác nhƣ G. Ipsen (1924), A. Jolles (1934), W.
Porzig (1934)… và đặc biệt là J. Trier (1934) đƣợc coi là ngƣời đã mở ra một
giai đoạn mới trong lịch sử ngữ nghĩa học. Ông là ngƣời đầu tiên đƣa thuật
ngữ “trƣờng” vào ngôn ngữ học và đã thử áp dụng quan điểm cấu trúc vào
lĩnh vực từ vựng ngữ nghĩa. Ông cho rằng, trong ngôn ngữ, mỗi từ tồn tại
trong một trƣờng, giá trị của nó là do quan hệ với các từ khác trong trƣờng

7



quyết định. Trƣờng kiểu của J. Trier là trƣờng có tính chất đối vị, gọi tắt là
trƣờng trực tuyến (dọc). Cùng kiểu trƣờng với J. Trier là L. Weisgerber, ông
cũng có một quan điểm rất đáng chú ý về các trƣờng, theo ông, cần phải tính
đến các “góc nhìn” khác nhau mà tác động giữa chúng sẽ cho kết quả là sự
ngôn ngữ hóa một lĩnh vực nào đó của cuộc sống. Ngoài hai tác giả trên,
trƣờng trực tuyến cũng đƣợc nhiều nhà ngôn ngữ khác đề cập đến. Có thể kể
đến các tác giả nhƣ Cazares, P. M Roget, R. Hallig, W. Von Warburrg, W. P.
Zaleskij, Duchacek, H. Husgen, K. Reuning.
Khác với các nhà ngôn ngữ trên, W. Pozig lại xây dựng quan niệm về
các trƣờng tuyến tính hay trƣờng ngang. Theo ông, trƣờng là những cặp từ có
quan hệ kiểu nhƣ “gehen” – “fuber” (“đi” – “chân”), “greifen” – “hand”
(“cầm” – “tay”), “sechen” – “auge” (“nhìn” – “mắt”).. Đây không phải là
những quan hệ chung nhất, những quan hệ ngữ nghĩa tạo nên “các trƣờng cơ
bản của ý nghĩa”. Trung tâm của “các trƣờng cơ bản của ý nghĩa” là các động
từ và tính từ vì chúng thƣờng đảm nhiệm chức năng vị ngữ trong câu, do đó
chúng thƣờng ít nghĩa hơn các danh từ.
Ở Việt Nam trƣờng nghĩa cũng là đối tƣợng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu
đề cập đến nhƣ: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Trọng Phiến, Đỗ
Việt Hùng… trong đó tiêu biểu nhất là nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu. Từ
những năm 80 của thế kỉ trƣớc, Đỗ Hữu Châu là ngƣời đã giới thiệu trƣờng
trong một loạt các công trình trên những phƣơng diện lịch sử vấn đề, hệ thống
hóa các quan điểm phƣơng pháp của các nhà ngôn ngữ học thế giới, đồng thời
đƣa ra các tiêu chí cũng nhƣ phƣơng pháp xác lập trƣờng.
Qua thực tế nghiên cứu Đỗ Hữu Châu đã khẳng định rằng: Những quan
hệ về ngữ nghĩa giữa các từ sẽ hiện ra khi đặt được các từ vào những hệ
thống con thích hợp. Nói cách khác, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng

8



thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan hệ
ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thống
ngữ nghĩa chứa chúng. [4; 156]
Từ đó, Đỗ Hữu Châu đã đƣa ra định nghĩa: Mỗi tiểu hệ thống ngữ
nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là những từ đồng nhất với nhau về
ngữ nghĩa. [4; 157]. Quan niệm này lấy tiêu chí ngữ nghĩa làm cơ sở cho việc
phân lập trƣờng nghĩa. Đây là quan niệm có tính chất định hƣớng cho các
quan niệm về trƣờng nghĩa của các nhà Việt ngữ khác sau ông.
Khóa luận của chúng tôi lấy quan niệm về trƣờng nghĩa của Đỗ Hữu
Châu làm cơ sở lí thuyết để nghiên cứu.
1.1.2. Phân loại trường nghĩa
F. De Saussure trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng đã chỉ ra hai
dạng: quan hệ ngang (hay quan hệ hình tuyến, quan hệ tuyến tính, quan hệ
ngữ đoạn) và quan hệ dọc (hay quan hệ trực tuyến, quan hệ hệ hình). Dựa vào
hai quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ, Đỗ Hữu Châu chia trƣờng nghĩa tiếng
Việt thành các loại khác nhau: trƣờng nghĩa biểu vật, trƣờng nghĩa biểu niệm
(hai trƣờng nghĩa dựa vào quan hệ dọc); trƣờng nghĩa tuyến tính (dựa vào
quan hệ ngang) và trƣờng nghĩa liên tƣởng (dựa vào sự kết hợp giữa quan hệ
dọc và quan hệ ngang).
1.1.2.1. Trường nghĩa biểu vật
Trƣờng nghĩa biểu vật là “một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa
biểu vật” [5; 170]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu vật về chân: cổ chân, bàn
chân, ngón chân, gót chân, đứng đi, đá, nhảy… Đây là các đơn vị từ cùng
phạm vi biểu vật chân.

9



Mỗi một trƣờng nghĩa biểu vật thƣờng có từ trung tâm là danh từ. Danh
từ này có tính khái quát cao, gần nhƣ là tên gọi của các phạm trù biểu vật,
nhƣ người, động vật, thực vật, vật thể, chất liệu… Các danh từ này cũng là
tên gọi các nét nghĩa có tác dụng hạn chế ý nghĩa của từ về mặt biểu vật, là
những nét nghĩa cụ thể, thu hẹp ý nghĩa của từ. Dựa vào danh từ trung tâm,
ngƣời ta xác lập trƣờng nghĩa biểu vật. Ở ví dụ trƣờng biểu vật về chân trên,
dựa vào danh từ chân, ta tập hợp đƣợc rất nhiều từ về chân – nằm trong
trƣờng nghĩa chân.
Các trƣờng nghĩa biểu vật lớn có thể chia thành các trƣờng nghĩa biểu
vật nhỏ. Đến lƣợt mình, các trƣờng nghĩa biểu vật nhỏ này cũng có thể phân
chia thành các trƣờng nghĩa biểu vật nhỏ hơn nữa. Chẳng hạn, trường nghĩa
biểu vật về chân có thể chia thành các trường nhỏ: trường biểu vật về bàn
chân (gồm: ngón chân, đốt ngón chân, mu bàn chân, hoa chân, vân chân….),
trường biểu vật về dóng chân (gồm: cổ chân, bọng chân, xương dóng chân…)
Số lƣợng từ ngữ và cách tổ chức của các trƣờng nghĩa biểu vật rất khác
nhau. Sự khác nhau này diễn ra giữa các trƣờng lớn với nhau và giữa các
trƣờng nhỏ trong một trƣờng lớn. Nếu so sánh các trƣờng cùng một tên gọi
trong các ngôn ngữ với nhau thì sự khác nhau trên còn rõ hơn nữa.
Nếu tạm gọi một trƣờng nhỏ (hay một nhóm nhỏ trong một trƣờng nhỏ)
là một “miền” của trƣờng, thì thấy, các miền thuộc các ngôn ngữ rất khác
nhau. Có những miền trống – tức không có từ ngữ - ở ngôn ngữ này nhƣng
không trống ở ngôn ngữ kia, có miền có mật độ cao trong ngôn ngữ này
nhƣng lại thấp trong ngôn ngữ kia.
Vì từ có nhiều nghĩa biểu vật, cho nên, từ có thể nằm trong nhiều
trƣờng biểu vật khác nhau, hệ quả là các trƣờng nghĩa biểu vật có thể “giao

10


thoa”, “thẩm thấu”. Xét trƣờng biểu vật về ngƣời và trƣờng biểu vật về động

vật, ta sẽ thấy rất rõ điều này. Trƣờng nghĩa ngƣời sẽ bao gồm các từ: đầu,
tóc, mắt, cổ , bụng, tay, chân, mũi, miệng, mồm, răng, lưỡi, ruột, dạ dày, thịt,
lông, ăn, uống, chạy, nhảy, khóc, cười, hát, ngủ, nằm… Trƣờng nghĩa động
vật sẽ gồm các từ: đầu, đuôi, sừng, cổ, mắt, chân, mũi, răng, lưỡi, ruột, dạ
dày, da, máu, chạy, nhảy, hót, hí, hú, ngủ, nằm… Hầu hết các từ nằm trong
trƣờng động vật đều nằm trong trƣờng ngƣời, ví dụ các từ: đầu, cổ, mắt, chân,
mũi, miệng, lưỡi, dạ dày, ăn, uống, chạy, nhảy, ngủ, nằm… Ta nói trƣờng
ngƣời và trƣờng động vật giao thoa, thẩm thấu vào nhau. Mức độ giao thoa
của các trƣờng tỉ lệ thuận với số lƣợng từ chung giữa các trƣờng với nhau.
Quan hệ của các từ ngữ đối với một trƣờng nghĩa biểu vật không giống
nhau. Có những từ điển hình cho trƣờng đƣợc gọi là hƣớng tâm, có những từ
không điển hình cho trƣờng đƣợc gọi là từ hƣớng biên. Từ hƣớng tâm gắn rất
chặt với trƣờng làm thành cái lõi trung tâm quy định những đặc trƣng ngữ
nghĩa của trƣờng. Từ hƣớng biên gắn bó lỏng lẻo hơn và mỗi lúc một đi xa
khỏi lõi, liên hệ với trƣờng mờ nhạt đi. Ở ví dụ về trƣờng ngƣời và trƣờng
động vật trên, các từ hƣớng tâm là các từ chỉ có ở trƣờng này mà không có ở
trƣờng kia, các từ hƣớng tâm của trƣờng ngƣời nhƣ khóc, buồn, hát…, các từ
hƣớng tâm của động vật là các từ hí, hót, hú, đuôi… Từ hƣớng biên của
chúng là những từ xuất hiện ở cả hai trƣờng nhƣ đầu, chân, mắt, mũi, ruột, dạ
dày, chạy, nằm, ăn, uống…
1.1.2.2. Trường nghĩa biểu niệm
Trƣờng nghĩa biểu niệm là “một tập hợp các từ có chung một cấu trúc
biểu niệm [5,170]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu niệm (vật thể nhân tạo)
(thay thế hoặc tăng cường công tác lao động) (bằng tay): dao, cưa, búa, đọc,
khoan, lưới, nơm, dao, kiếm….

11


Cũng nhƣ các trƣờng nghĩa biểu vật, các trƣờng biểu niệm có thể phân

chia thành các trƣờng nghĩa biểu niệm nhỏ và cũng có những “miền” với
những mật độ khác nhau.
Từ có nhiều nghĩa biểu niệm, bởi vậy, một từ có thể đi vào nhiều
trƣờng nghĩa biểu niệm khác nhau. Vì thế, cũng giống nhƣ trƣờng nghĩa biểu
vật, các trƣờng nghĩa biểu niệm cũng có thể giao thoa, thẩm thấu vào nhau và
cũng có lõi trung tâm với các từ điển hình và những từ ở những lớp kế cận
trung tâm, những từ ở lớp ngoại vi.
1.1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính
Trƣờng nghĩa tuyến tính là tập hợp từ có thể kết hợp với một từ gốc để
tạo ra các chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận đƣợc trong ngôn ngữ.
Chẳng hạn, trƣờng nghĩa tuyến tính của từ chân là mềm, ấm, lạnh,…đứng, đi,
nhảy, đá…
Để xác lập đƣợc trƣờng nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc
rồi tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành chuỗi tuyến tính (cụm từ,
câu) chấp nhận đƣợc trong ngôn ngữ.
Cùng với các trƣờng nghĩa dọc (trƣờng nghĩa biểu vật và trƣờng nghĩa
biểu niệm), các trƣờng nghĩa tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ
và cấu trúc ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những
đặc điểm hoạt động của từ.
1.1.2.4. Trường nghĩa liên tưởng
Trường nghĩa liên tưởng là tập hợp từ có chung một nét nghĩa ấn
tượng tâm lí được một từ gợi ra [5;186]. Chẳng hạn, trƣờng nghĩa của từ đỏ
gồm các đơn vị từ vựng: đỏ tươi, đỏ tía, lửa, máu, sức sống, may mắn,…

12


Các từ trong một trƣờng liên tƣởng là sự hiện thực hóa, cố định bằng từ
các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm.
Các từ trong một trƣờng liên tƣởng trƣớc hết là những từ cùng nằm

trong trƣờng biểu vật, trƣờng biểu niệm và các trƣờng tuyến tính, tức là
những từ có quan hệ cấu trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung
tâm. Song, trong trƣờng liên tƣởng còn có nhiều từ khác đƣợc liên tƣởng tới
do sự xuất hiện đồng thời với từ trung tâm trong những ngữ cảnh có chủ đề
tƣơng đối đồng nhất, lặp đi lặp lại. Điều này khiến cho các trƣờng liên tƣởng
có tính dân tộc, tính thời đại và tính cá nhân.
1.1.3. Giá trị của việc tìm hiểu trường nghĩa trong tác phẩm văn chương
nghệ thuật
Quan niệm về trƣờng nghĩa của các nhà ngôn ngữ học có thể không
giống nhau nhƣng có thể hiểu: Trường nghĩa là một tập hợp bao gồm các từ
có chung với nhau ít nhất một nét nghĩa. Tiêu chí để xác lập trƣờng nghĩa là
nghĩa của từ. Việc phân lập hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ thành các
trƣờng nhỏ dù có dựa vào các tiêu chí nào đi chăng nữa cũng không thể không
bắt đầu từ tiêu chí ngữ nghĩa ấy.
Trƣờng nghĩa trong tác phẩm văn chƣơng không phải là sự ngẫu nhiên
mà nó tuân theo quy luật sáng tạo của con ngƣời dựa vào tiêu chí ngữ nghĩa.
Nghiên cứu nó không chỉ giúp cho ta thấy đƣợc cái hay của ngôn ngữ mà còn
thấy đƣợc tài năng, phong cách của ngƣời sử dụng. Qua đó, giúp ngƣời tiếp
nhận hiểu sâu sắc thêm ý nghĩa của từ, câu, khổ thơ và toàn bài. Nhờ vậy,
ngƣời tiếp nhận sẽ dễ dàng hơn trong việc cảm thụ và lí giải tác phẩm văn học
đồng thời có thể trau dồi vốn ngôn ngữ cho bản thân.

13


1.2. Trƣờng nghĩa chỉ không gian.
“Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì thời gian,
không gian chính là hình thức để con người cảm nhận thế giới và con người”
(Trần Đình Sử). Mọi sự vật, hiện tƣợng đều đƣợc gắn với hệ tọa độ không
gian - thời gian xác định, nên những cảm nhận của con ngƣời về thế giới đều

bắt đầu từ sự đổi thay của không gian, thời gian. Và từ sự đổi thay của không
gian - thời gian, con ngƣời nhận ra sự đổi thay trong chính mình.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính trong cuốn Thi pháp ca dao thì: “Thời
gian và không gian là những mặt của hiện thực khách quan được phản ánh
trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Thời gian nghệ
thuật, không gian nghệ thuật một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt khác thể
hiện nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể
loại, từng hệ thống nghệ thuật” [11; 287]. Ở đây, trong phạm vi khóa luận
này, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu về trƣờng nghĩa chỉ không gian trong tác
phẩm văn học mà cụ thể là trƣờng nghĩa chỉ không gian trong thơ Đồng Đức
Bốn.
Về khái niệm “không gian”, trong cuốn Từ điển tiếng Việt, tác giả
Hoàng Phê đã cắt nghĩa, lí giải nhƣ sau: “Không gian là khoảng không bao la
trùm lên tất cả sự vật hiện tượng xung quanh đời sống con người” [13; 633].
Nhƣ vậy, không gian chính là môi trƣờng chúng ta đang sống với sự tồn tại
của các sự vật. Không gian chính là hình thức tồn tại của vật chất với những
thuộc tính nhƣ cùng tồn tại và tách biệt, có chiều kích và kết cấu. Theo chúng
tôi “trường nghĩa chỉ không gian” là tập hợp những từ đồng nhất với nhau về
ngữ nghĩa chỉ môi trường chúng ta đang sống với sự tồn tại của các sự vật.
Môi trƣờng chúng ta đang sống gồm: môi trƣờng tự nhiên và môi
trƣờng xã hội. Môi trƣờng tự nhiên là môi trƣờng bao gồm tất cả những vật

14


thể sống và không sống xuất hiện một cách tự nhiên trên Trái Đất hoặc một
vùng trên trái đất (hiện tƣợng tự nhiên, sự vật tự nhiên). Môi trƣờng xã hội
là môi trƣờng mà con ngƣời là nhân tố trung tâm, tham gia và chi phối môi
trƣờng (môi trƣờng làng quê, môi trƣờng thành thị). Từ đó chúng tôi xác định
trƣờng nghĩa chỉ không gian gồm: trƣờng nghĩa chỉ không gian tự nhiên,

trƣờng nghĩa chỉ không gian xã hội. Trƣờng nghĩa chỉ không gian tự nhiên
gồm: trường nghĩa chỉ không gian xuất hiện các hiện tượng tự nhiên, trường
nghĩa chỉ không gian xuất hiện các sự vật tự nhiên. Trƣờng nghĩa chỉ không
gian xã hội gồm: trường nghĩa chỉ không gian làng quê, trường nghĩa chỉ
không gian thành thị và trường nghĩa chỉ không gian địa danh.
1.3. Nhà thơ Đồng Đức Bốn và thơ ca Đồng Đức Bốn
Nhà thơ Đồng Đức Bốn (30/3/1848 – 14/2/2006), quê quán ở xóm Lê
Lác, thôn Song Mai (tức làng Moi), xã An Hồng, huyện An Hải, thành phố
Hải Phòng.
Ông đƣợc sinh ra trong một gia đình lao động nghèo, thanh niên ông
tham gia vào đội thanh niên xung phong. Giải ngũ, Đồng Đức Bốn về làm
việc tại Xí nghiệp sửa chữa ô tô Hải Phòng, làm thợ gò bậc 6/7. Sau đó, Đồng
Đức Bốn về làm việc tại xí nghiệp xuất nhập khẩu gia cầm Hải Phòng, giữ
chân đại diện cho Xí nghiệp này ở Hà Nội.
Văn đàn Thủ đô những năm 1987 - 1992 rất sôi động. Đây là thời kì
Đồng Đức Bốn làm quen với những nhà thơ cung đình bậc nhất, những tác
giả đang ở độ huy hoàng của thơ ca nhƣ: Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Lƣu
Quang Vũ, Vũ Quần Phƣơng…
Đồng Đức Bốn sáng tác thơ vào cuối những năm 1980. Tập thơ đầu
tiên của ông là Con ngựa trắng và rừng quả đắng (1992), tập thơ không đem

15


lại thành công cho ông nhƣng Đồng Đức Bốn vẫn vƣợt qua những khó khăn
để sáng tác
Thơ Đồng Đức Bốn dần dần đã chạm tới sự thành công, đƣợc rất nhiều
bạn đọc đón nhận và đƣợc nhiều nhà thơ nổi tiếng đánh giá cao. Không phải
vô tình mà Nguyễn Khoa Điềm đã tặng Đồng Đức Bốn bài thơ lục bát “Bạn
Thơ”:

Bạn chừ đóng gạch nơi nao
Văn chương lấm láp vêu vao mặt người
Bất ngờ bạn đến thăm tôi
Gửi cho mấy tập ôi trời là thơ.

Câu dài câu ngắn ngẩn ngơ
Những rơm với lửa, những tơ với tình
Một người hoang dại một mình
Bơ vơ giữa phố mong thành thi nhân
Lòng yêu yêu đến trong ngần
Đường xa thương vết chân trần bạn tôi
Mong sao bạn bớt bùi ngùi
Cố làm thơ nữa để rồi gặp nhau…
Đồng Đức Bốn không phải là nhà thơ cách tân cũng không phải là nhà
thơ khai sáng mà ông là nhà thơ tiếp thu và giữ gìn những giá trị thơ ca truyền

16


thống. Cái hay trong thơ lục bát của Đồng Đức Bốn là sự hòa quyện của “cái
chất phác” giống nhƣ ca dao, sự ngậm ngùi của tình cảm và cả những kinh
nghiệm sống của một ngƣời nhà quê lang bạt. Hình ảnh nông thôn hôm nay
đƣợc Đồng Đức Bốn đƣa vào trong thơ cùng với cái ngậm ngùi của sự nghèo
nàn và mất mát khiến lòng ta không khỏi xót xa:
Nhà quê có cái giếng đình
Trúc xinh cứ đứng một mình lẳng lơ.
Nhà quê có mấy trai tơ
Quần bò, mũ cối giả vờ sang chơi.

Nhà quê chân lấm tay bùn

Mẹ đi cấy lúa rét run thân già.
Chợ làng mở dưới gốc đa
Nhà quê đem mấy con gà bán chơi

Ối mẹ ơi đê đã vỡ rồi
Đồng ta trắng xóa cả trời nước trong.
Trâu bò thất thểu long đong
Trên bè tre rối bòng bong xoong nồi.
Ối mẹ ơi đê đã vỡ rồi

17


Mộ cha liệu có lên trời được không.
Sao chưa thấy chiếc thuyền rồng
Chở con với mẹ qua giông bão này.
Theo lời nhận xét của Vƣơng Trí Nhàn “Lục bát của Đồng Đức Bốn từ
tốn, chậm rãi như lời nói vẩn vơ của một người vừa ngán sự đời vừa không
thôi chiêm nghiệm sự đời”. Thơ Đồng Đức Bốn giàu hình ảnh và nhịp điệu,
có thể thấy rằng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhạc sĩ đã nhận ra sự tài
tình trong thơ Đồng Đức Bốn và đã phổ nhạc cho thơ ông. Đó là các nhạc sĩ:
Thuận Yến, Doãn Nho, Huy Du, Huy Thục, Đặng Hữu Phúc, An Thuyên,
Nguyễn Tiến, Nguyễn Cƣờng, Tuấn Phƣơng, Đoàn Bổng, Minh Quang…
Đến nay, Đồng Đức Bốn đã có chừng hơn 50 bài thơ đƣợc các nhạc sĩ phổ
nhạc và các bài hát này đều nhận đƣợc sự đón nhận của khán – thính giả.
Nội lực bên trong từng câu thơ của Đồng Đức Bốn một phần là ở sự
hiện đại. Thơ hiện đại của Đồng Đức Bốn chính là hơi thở, hồn vía của cuộc
sống hôm nay đƣợc “quản thúc” trong niêm luật cổ truyền lục bát (Nguyễn
Huy Thiệp). Đó thực sự là những giá trị quý báu mà ông cống hiến cho đời:
Chợ buồn đem bán những vui

Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em.
Chợ buồn bán nhớ cho quên
Bán mưa cho nắng, bán đêm cho ngày
Chợ buồn bán tỉnh cho say
Bán thương suốt một đời này cho yêu
Tôi giờ xa cách bao nhiêu

18


Đem thơ đổi lấy những chiều tương tư
(Chợ buồn)
Nhà thơ Bằng Việt cho rằng Đồng Đức Bốn đã thể hiện đƣợc cái tinh
hoa độc đáo của mình bằng những câu thơ lục bát đậm chất quê mùa nhƣng
ẩn chứa nhiều triết lý về thế thái, nhân tình. Những quy định về thể thơ lục bát
không làm khó đƣợc ý thơ của Đồng Đức Bốn. Trong giọng thơ ấy cái già cỗi
mệt mỏi tồn tại bên cạnh cái trẻ trung, cái ham muốn bồng bột nảy nở đấy
cũng mau chóng mất đi nhƣờng chỗ cho cái ngu ngơ bất lực bao trùm. Chính
cái sự nửa vời nhƣ thế đã làm cho thế giới thơ của Đồng Đức Bốn trở nên
rộng mở mà sâu sắc, vô hình đã tạo nên nét riêng của thơ ông không lẫn vào
đâu đƣợc.
Đồng Đức Bốn có nhiều đóng góp quan trọng cho thơ ca Việt Nam,
nhất là ở thể loại thơ lục bát. Thơ lục bát của ông với cách ngắt nhịp, dùng từ
và rất giàu hình ảnh với tứ thơ sâu sắc đã chinh phục đƣợc bạn đọc. Nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp nhận xét về thơ của ông là trong khoảng 80 bài thơ, có
khoảng 15 bài thơ cực hay, tài tử vô địch. Các tác phẩm của nhà thơ:
-

Con ngựa trắng và rừng quả đắng, Nxb Văn học, 1992.


-

Chăn trâu đốt lửa, Nxb Lao động, 1993.

-

Trở về với mẹ ta thôi, Nxb Hội nhà văn, 2000.

-

Chuông chùa kêu trong mưa, Nxb Hội nhà Văn, 2002.

-

Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc, Nxb Hội nhà Văn, 2006.

19


×