Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

skkn một số biện pháp dạy văn miêu tả trong phân môn tập làm văn lớp bốn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.57 KB, 21 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO MỎ CÀY NAM
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC HIỆP

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Đề tài :

Một số biện pháp dạy văn miêu tả trong
phân môn Tập làm văn lớp bốn

Người thực hiện:

Đỗ Thị Phương Trang

Mỏ Cày Nam, tháng 2 năm 2012


Phần mở đầu
I. Bối cảnh của đề tài:
Theo chương trình Giáo dục phổ thông cấp Tiểu học hiện nay, mục tiêu
của môn Tiếng Việt là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng
tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp. Trong đó kĩ năng nói và
viết là rất quan trọng và tương đối khó với học sinh nhất là học sinh lớp bốn.
Tập làm văn là tập sản sinh, tạo lập ngôn bản. Nhiệm vụ chủ yếu của phân
môn Tập làm văn là rèn kĩ năng sản sinh ngôn bản (nói và viết) cho học sinh. Nó
có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ vì: Thứ nhất,
đây là phân môn sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ
năng tiếng Việt mà các phân môn khác đã hình thành. Thứ hai, phân môn Tập
làm văn rèn cho học sinh kĩ năng sản sinh ngôn bản nhờ đó tiếng Việt trở thành
công cụ để giao tiếp. Như vậy Tập làm văn đã thực hiện mục tiêu cuối cùng,
quan trọng nhất trong dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt để


giao tiếp, tư duy và học tập.
Có thể nói văn miêu tả là một thể loại văn chiếm đại đa số thời lượng
trong chương trình dạy Tập làm văn lớp bốn. Là một thể loại rất phổ biến, quen
thuộc trong sáng tác văn chương và trong cuộc sống đời thường. Nhờ miêu tả
chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của tự nhiên, của con người…
II. Lý do chọn đề tài :
Cùng với môn Toán và các môn học khác, những kiến thức của môn Tiếng
Việt sẽ là những hành trang trên bước đường đưa các em đi tìm hiểu, khám phá
kho tàng tri thức vô tận của nhân loại. Trong đó Tập làm văn là phân môn thực
hành, tổng hợp tất cả kiến thức các phân môn của môn Tiếng Việt. Chính vì thế,
việc dạy và học Tập làm văn là vấn đề luôn cần có sự đổi mới. Không thể cứ áp
dụng mãi phương pháp dạy học hôm qua vào hôm nay và mai sau.
Với các phân môn khác của Tiếng Việt, đổi mới nội dung và phương pháp
dạy học đã chỉ rõ quy trình các bước lên lớp cụ thể rõ ràng. Còn với phân môn
Tập làm văn, nhất là đối với phần văn miêu tả, các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra
quy trình chung nhất cho mỗi loại bài, chủ yếu vẫn là sự sáng tạo của giáo viên


khi lên lớp. Còn việc học, ngoài sách giáo khoa thì hiện nay có rất nhiều loại
sách tham khảo giúp cho học sinh có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn. Song,
những cuốn sách tham khảo đó lại thường đưa ra các bài văn mẫu hoàn chỉnh
nên khi làm bài các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi còn sao chép y
nguyên vào bài làm của mình. Cách cảm, cách nghĩ của các em không phong
phú mà còn đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt. Là một giáo viên trực tiếp đứng
lớp, tôi luôn băn khoăn, trăn trở phải làm như thế nào để khắc phục những hạn
chế trên nên tôi đã mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp dạy
văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp bốn" nhằm tìm ra biện pháp
giúp các em học tốt phần kiến thức này.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu :
Do điều kiện có hạn đề tài này tôi chỉ tìm hiểu thực trạng việc học phần

văn miêu tả của học sinh lớp bốn và đưa ra biện pháp khắc phục. Học sinh lớp
bốn tôi đang dạy trong năm học 2010-2011 là đối tượng nghiên cứu.
IV. Mục đích nghiên cứu :
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng của việc học
phần văn miêu tả trong chương trình Tập làm văn lớp bốn nơi tôi đang dạy, tìm
hiểu những khó khăn mà các em mắc phải. Từ đó, đưa ra một số biện pháp để
giúp học sinh học tốt phần văn miêu tả trong chương trình nói riêng và học tốt
môn Tiếng Việt nói chung. Đồng thời giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn khi nói
và viết trong giao tiếp.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu :
Mặc dù đề tài chỉ nghiên cứu phần văn miêu tả ở học sinh lớp bốn nhưng rất
dễ thực hiện và có thể áp dụng ở cả các lớp trong cấp học nếu có liên quan đến
văn miêu tả. Đề tài này tôi đã tìm hiểu những lỗi mà học sinh hay mắc phải và
đưa ra biện pháp cụ thể để hướng dẫn cho học sinh nên rất dễ vận dụng.


Phần nội dung
I. Cở sở lý luận :
Có người nói rằng văn học là nhân học, văn học là tình cảm, đạo đức lý
tưởng, là tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên và con người. Văn có được nhờ
cảm xúc của tâm hồn, nó làm cho tâm hồn con người thêm phong phú và sâu
sắc. Văn là nghệ thuật của ngôn từ, văn là cái đẹp.
Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn
tượng về sự vật mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác
quan trực tiếp của mình. Văn miêu tả là thể loại văn mang tính chất nghệ thuật
cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả
là thứ ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ của
những biện pháp tu từ.
Có học tốt văn miêu tả, học tốt Tập làm văn thì các em mới có thể giao
tiếp tốt bằng ngôn ngữ và như vậy Tập làm văn đã thực hiện mục tiêu cuối cùng

là dạy học sinh sử dụng được tiếng mẹ đẻ để giao tiếp, tư duy và học tập.
II. Thực trạng :
1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của bộ phận chuyên môn Phòng Giáo dục đối với công
tác dạy và học, nhất là Ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn.
- Bản thân tôi đã được tập huấn nội dung chương trình và phương pháp dạy
học theo sách giáo khoa mới.
- Bên cạnh bộ sách giáo khoa, sách giáo viên, tôi còn được cung cấp nhiều
tài liệu chuyên ngành phục vụ nghiên cứu chuyên môn.
- Một số học sinh có thái độ học tập tốt, biết cách quan sát các sự vật hiện
tượng xung quanh, có óc thẩm mĩ,…
2. Khó khăn :
- Trình độ của học sinh không đều, tình trạng học sinh viết câu, đoạn văn
còn rời rạt, chưa đạt yêu cầu rất phổ biến nhất là thời gian đầu năm học. Có
những học sinh viết đoạn văn thật dài mà không hề sử dụng một dấu câu nào.


- Nội dung chương trình Tập làm văn giữa lớp ba và lớp bốn có sự chênh
lệch khá lớn, nhiều học sinh không theo kịp nhất là học sinh yếu.
- Một số đông học sinh còn nghèo nàn vốn từ khi nói và viết nên khi muốn
trình bày một điều gì đó thì không biết nói như thế nào cho người khác hiểu.
Các em cứ diễn đạt lòng vòng mà vẫn không nêu lên được điều muốn nói.
- Hiện nay trên thị trường có rất nhiều sách tham khảo, trong sách đã có
sẵn bài làm hoàn chỉnh. Học sinh hay dựa vào sách để làm bài, thậm chí có em
còn “bê nguyên si” bài mẫu vào bài làm của mình mà không biết học tập những
câu văn, đoạn văn hay.
3. Thực trạng học phần văn miêu tả của học sinh :
Chương trình Tập làm văn lớp bốn gồm 62 tiết, trong đó văn miêu tả
chiếm 30 tiết gồm các mảng kiến thức sau : Thế nào là miêu tả ?; Quan sát trong
miêu tả ; Trình tự miêu tả (đồ vật, con vật, cây cối) ; Cấu tạo đoạn văn, bài văn

miêu tả (đồ vật, con vật, cây cối). Các kiến thức trên được cụ thể hóa thành hai
loại bài. Đó là, loại bài hình thành kiến thức mới và loại bài luyện tập thực hành.
Nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài
làm của các em còn viết theo một lối mòn khuôn sáo, ít cảm xúc và nghèo hình
ảnh. Các em chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân
hóa, vốn từ lại ít nên bài văn của các em còn khô khan, lủng củng, nghèo cảm
xúc. Bài văn trở thành một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả.
Kết quả khảo sát đầu học kì II :
Lớp

Số học sinh

42

28

Điểm 4,5 - 5

5

17.8%

Điểm 3,5 - 4

5

17.8%

Điểm 2,5 - 3


Điểm 1- 2

11

7

39.3%

25.1%

Từ thực trạng việc dạy học phân môn Tập làm văn nói chung và việc dạy
học văn miêu tả ở lớp bốn nói riêng, tôi thấy cần thiết để có những biện pháp sáng
tạo trong việc dạy học văn miêu tả lớp bốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học
ở phần kiến thức này cho học sinh.
III. Các biện pháp đã tiến hành :
1. Giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh :


Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là luôn muốn khám
phá, tìm hiểu những điều mới mẻ. Từ đó, giáo viên hình thành và rèn luyện cho
các em cách quan sát, cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn
diện và cụ thể tức là quan sát sự vật hiện tượng ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ
khác nhau, giúp các em có cách cảm, cách nghĩ sâu sắc khi miêu tả.
Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật, đòi hỏi khi viết phải
giàu cảm xúc, tạo nên cái "hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo viên phải
luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm
lòng dễ xúc động và luôn hướng tới cái thiện.
2. Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
ngay từ tiết đầu tiên của thể loại bài này :
Dùng ngôn ngữ để làm cho người khác có thể hình dung, thấy được các

sự vật, sự việc, con người…một cách cụ thể như ở trước mắt. Đó chính là miêu
tả. Nói một cách khác, miêu tả cũng là trình bày những điều quan sát và nhận xét
được của mình về sự vật, sự việc, con người ấy.
Để miêu tả các em cũng cần lưu ý : Phải quan sát thật kỹ : dùng mắt, tai,
mũi có khi cả lưỡi để quan sát đồ vật, con vật, nhân vật, thực vật hay cảnh vật
muốn tả. Phải nhận xét cẩn thận : bằng trí óc để quan sát, tìm các chi tiết đặc
biệt để làm nổi bậc đề bài.
Miêu tả không phải là kể. Do đó, ta không kể lể hết chi tiết mà chỉ chọn
những chi tiết cần yếu để trình bày cặn kẽ và sống động.
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối
tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng không bao giờ là sự sao
chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả của
sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện
được cái riêng biệt của mỗi người.
Nhà văn Phạm Hổ cho rằng: "Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải
gắn với cái chân thật". Thật vậy, văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng,
không ngăn cản sự sáng tạo của người viết nhưng như vậy không có nghĩa là
cho phép người viết "bịa" một cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân


thật, giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công
thức sáo rỗng, thói già trước tuổi.
Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường
mình cần đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn
lọc từ ngữ, sẽ gọt giũa kỹ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất
lượng bài làm của các em sẽ tốt hơn.
3. Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, sử dụng
các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết sức cần thiết :
Muốn một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn từ
ngữ phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp.

Chính vì vậy giáo viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy Tập đọc,
Luyện từ và câu và cả trong khi dạy các môn học khác hay trong những buổi nói
chuyện trong các tiết sinh hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo các
chủ đề, chủ điểm, khi có một từ hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo
từng chủ điểm và khi làm văn có thể sử dụng một cách dễ dàng.
Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu
cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện
pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, có dùng những từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm
thanh hay những từ biểu lộ cảm xúc.
* Ví dụ : Khi làm bài văn miêu tả về con mèo, học sinh viết :
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng ngọc.
Giáo viên hỏi: Em nào nhận xét cách viết câu của bạn ? Học sinh có thể
nhận xét: Bạn đã sử dụng biện pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một
cái măng ngọc.
Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm câu khác để miêu tả cái
đuôi của chú mèo sao cho sinh động hơn :
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu
nhìn và nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.
- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân
thon dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.


Như vậy cùng là miêu tả về cái đuôi của chú mèo nhưng những câu văn sử
dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ gợi tả, gợi cảm như các câu
trên thì hiệu quả khác hẳn, ta thấy miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất
tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.
4. Muốn dạy tốt Tập làm văn cần dạy tốt kiến thức các phân môn khác
của môn Tiếng Việt.
Chẳng hạn, khi học về câu kể Ai là gì ? học sinh hiểu tác dụng, cấu tạo
của kiểu câu này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và từ đó học sinh biết đặt câu

kể Ai là gì ? để giới thiệu hoặc nêu nhận định về một người, một vật:
Chích bông là con chim rất đáng yêu.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.
- Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lôi cuốn được người đọc hay không
một phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngoài của nó, đó chính là chữ
viết. Vì vậy muốn có bài văn hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kĩ năng viết cho
học sinh trong các giờ Chính tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết nhanh,
viết đẹp và trình bày rõ ràng, sạch sẽ.
- Nếu như Tập đọc rèn kĩ năng cảm thụ cho học sinh, Chính tả rèn kĩ năng
viết cho học sinh thì phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói hay nói cách khác là
kĩ năng sản sinh văn bản dưới dạng nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng
tình cảm, giúp học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học
sinh học tập cách miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện.
Tóm lại, tuy mỗi phân môn của môn Tiếng Việt có nhiệm vụ riêng, đặc trưng
riêng nhưng chúng không hoàn toàn độc lập với nhau mà luôn bổ sung cho nhau,
kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những phân môn khác. Với phân
môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của những phân môn khác, muốn
học tốt Tập làm văn học sinh cần học tốt các phân môn còn lại.
5. Giúp học sinh nắm được trình tự làm một bài văn :
Khi làm một bài tập làm văn, các em cần làm các việc như sau :


+ Phân tích đề : Đọc đi, đọc lại nhiều lần đề bài, chú ý từng câu, từng
chữ, gạch dưới những từ quan trọng để xem: Đề bài thuộc thể loại văn gì ? Đối
tượng cần phải nói đến là gì ? (Miêu tả đồ vật, cây cối hay con vật). Trọng tâm
yêu cầu của đề là ở điểm nào ? (Tả đồ vật thì trọng tâm là tả hình dáng. Tả cây
cối thì trọng tâm là dáng vẻ ở độ lớn nào, thời điểm chủ yếu nào. Tả con vật, nếu
đề yêu cầu tả con vật đang hoạt động thì phần hoạt động phải được chú ý nhiều
hơn phần hình dáng …)

+ Lập dàn ý: Sau khi đã phân tích đề, chúng ta lập một dàn bài tổng quát
trước, sau đó dựa vào việc quan sát đối tượng (hoặc hồi tưởng) để tìm ý, tìm
hình ảnh, màu sắc … bổ sung cho dàn bài tổng quát thành một dàn bài chi tiết.
+ Làm nháp và sửa chữa: Có dàn bài chi tiết rồi, chúng ta dựa vào đó
để viết câu, thành bài văn hẳn hoi. Trong giai đoạn này, các em cần suy nghĩ
thêm vào những ý tưởng chợt đến và bỏ bớt những chi tiết rườm rà, những ý
trùng lặp không cần thiết.
Sau khi đã viết thành bài, các em nên đọc lại để kiểm soát cách hành văn,
cách dùng từ, sắp xếp các hình ảnh, chấm câu và chính tả có gì sai sót không.
+ Làm chính thức: Khi làm bài văn chính thức, ta cần lưu ý :
Viết chữ thật ngay ngắn, cẩn thận. Sau mỗi phần, phải xuống dòng.
Không được viết tắt trong bài văn. Không được viết chữ số, ngoại trừ ngày,
tháng, năm hay niên hiệu của một vị vua.
Chẳng hạn: Không được viết: thầy giáo chia lớp em ra thành 4 tổ.
Mà phải viết: thầy giáo chia lớp em ra thành bốn tổ. Nhưng được phép viết:
trường em được xây cất từ năm 1978.
+ Đọc lại bài: Cuối cùng chúng ta nên đọc lại bài vài lần để kiểm soát
xem có các lỗi về chính tả, về dấu câu hay không.
6. Hướng dẫn học sinh xây dựng từng đoạn trong bài văn miêu tả :
- Đoạn văn mở bài : Trong bài Tập làm văn, mở bài là phần thứ nhất,
nhằm mục đích giới thiệu đối tượng sẽ nói trong phần thân bài.
Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài trực tiếp và
mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo cách nào


mà để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với khả
năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề mình cần nói
tới, có thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu hát,…nhưng phải bám sát vào
yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không rườm rà. Giáo viên có thể cho học
sinh làm việc nhóm đôi hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho

các bạn nhận xét. Chẳng hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài: ''Hè vừa
rồi, mẹ em đi chợ mua được một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm
của gia đình em, nay đã được bốn tháng."
- Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách mở bài nào? (trực tiếp)
- Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn:
"Nhà em đã từ lâu không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú
lính gác cừ khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật
hiền dịu nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em."
Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ thụ nơi làng quê, học sinh mở bài như sau:
"Ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ nó dễ phải bằng trăm năm tuổi. Cả
làng gọi đó là cây đa ông Đài, vì ông Đài là người trồng ra nó. Nhưng ông Đài
là ai, sống và chết từ bao giờ thì cả làng không ai nhớ cả."
Học sinh khác lại viết: "Từ bến đò phía xa em đã nhìn thấy làng em. Phải
qua một cánh đồng bao la, một con đường liên xã dài hơn hai cây số, em đã
nhìn thấy làng quê yêu dấu: Cây đa cổ thụ in bóng xanh thẫm trên bầu trời. Mỗi
lần đi xa về, em cảm động tưởng như cây đa làng quê đang giơ tay vẫy chào,
đón đợi."
Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để
mở bài một cách hợp lý nhất.
- Cách làm phần thân bài :

Thân bài là phần thứ hai của bài văn. Thân bài sẽ nói rõ về đối tượng đã
được giới thiệu ở phần mở bài. Yêu cầu của phần thân bài là phải thể hiện được
trọng tâm và yêu cầu của đầu đề. Trong phần thân bài, những ý tưởng viết ra cần
chân thật, đúng với những điều đã thấy và cảm nhận được từ đối tượng. Điều


quan trọng là các em phải biết chọn những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc để đưa vào
thì bài văn mới nổi bậc được trọng tâm, thoát khỏi bệnh khuôn sáo, máy móc.
Chẳng hạn: Tả quyển vở cũ thì phải chú ý các chi tiết: giấy đã ngã màu

vàng, bìa tập bị thủng nhiều chỗ vì gián gặm…
Tả cây vú sữa thì chú ý chi tiết về trái chín mọng, da bóng, vị ngọt… Tả
cây mai thì phải chú ý chi tiết về hoa: vàng tươi, các cánh đều nhau… Tả hoa dạ
lý thì phải chú ý đến các chi tiết hương thơm lúc về đêm. Tả cây liễu thì phải
chú ý nét mềm mại, thước tha của cành liễu rũ …
Tả con chó săn phải chú ý nét tinh khôn của nó. Tả con gà trống không
thể bỏ qua cái mào đỏ, bộ lông sặc sỡ, tư thế hiên ngang của nó; trái lại con gà
mái thì lại chú ý tính quyết liệt chống trả với diều hâu để bảo vệ đàn con…
Tránh viết một cách dàn trải, dài dòng. Một bài văn tả loài vật đâu có
nghĩa là tả đủ: đầu, mình, chân, đuôi mà chúng ta cần nói được đặc điểm tiêu
biểu về hình dáng, tính nết, sự hoạt động của con vật cần tả.
Khi đã có dàn bài với đầy đủ chi tiết rồi, các em dựa vào đó để giảng
diễn ý thành câu văn đúng ngữ pháp. Sau đó, trau chuốt lại bằng cách sử dụng
các biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa,…), sử dụng các chi tiết cụ thể, các từ
tượng hình… để cho câu văn sinh động, hấp dẫn hơn.
Thí dụ: “Gia đình em có nuôi một con chó rất khôn. Em hãy tả con chó đó.”
Ta lập dàn ý cho phần thân bài như sau:
- Hình dáng tổng quát : Tầm vóc trung bình, vạm vỡ, lông xù, màu đen.
- Từng bộ phận : Chân lùn, dưới mõm có râu, mắt sáng, tinh nhanh, có
hai đốm vàng, tai cụp, thính.
- Hoạt động tính nết: Mừng rỡ khi chủ đi đâu về, đêm đêm giữ nhà, hiểu
được tiếng người, ngoan ngoãn.
Dựa vào dàn ý diễn đạt thành câu văn đúng ngữ pháp:
“Con chó của em tuy tầm vóc trung bình nhưng rất vạm vỡ. Nó có bộ
lông xù màu đen. Bốn chân nó hơi lùn. Dưới mõm có râu. Đôi mắt nó sáng và
tinh nhanh, phía trên hai mí lại có thêm hai đốm vàng nho nhỏ. Đôi tai nó cụp
xuống và rất thính. Mỗi khi em đi học về nó rất mừng. Đêm nó nằm trước cổng


nhà để giữ nhà. Con chó của em dường như hiểu được tiếng người và rất ngoan

ngoãn.” Sau đó chúng ta sửa lại câu văn cho hay hơn.
Thí dụ: “Nó có bộ lông xù màu đen” sửa lại: “Bộ lông nó hệt như một lớp
mền bông màu đen phủ kín khắp thân thể nó vậy.”
“Dưới mõm có râu” sửa lại : “Mới nhìn mặt nó, tua tủa những lông, người
ta dễ tưởng tượng mặt dê, vì dưới mõm cũng có chòm râu ngắn thật dễ ghét.”
“Mỗi khi em đi học về nó rất mừng” sửa lại thành : “Mỗi khi em đi học về,
Mi Mi thường chạy ra mừng ríu rít. Hai chân trước chồm lên ôm ngang người
em. Cái đuôi nó ngúc ngoắc lất phất những sợi lông dài như cây phất trần.”…
Về mặt trình bày, thân bài nên chia thành nhiều đoạn, mỗi đoạn diễn
đạt một ý, bài văn sẽ rõ ràng, mạch lạc hơn. Và cũng cần lưu ý, nhắc nhở học
sinh khi viết mỗi đoạn văn thì phải có câu mở đoạn (câu chủ đề). Câu mở đoạn
là câu mang ý khái quát của toàn đoạn nằm ở vị trí đầu đoạn, các câu còn lại
triển khai, cụ thể hóa cho nó.
Ví dụ : Tả chú gà trống nhà em.
Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp. Chú có thân hình
chắc nịch. Bộ lông màu nâu đỏ óng ánh. Nổi bật nhất là cái đầu có chiếc mào
đỏ rực. Đôi mắt sáng. Đuôi của chú là một túm lông gồm các màu đen và xanh
pha trộn, cao vống lên rồi uốn cong xuống nom vừa mĩ miều vừa kiêu hãnh. Đôi
chân chú cao, to, trông thật khỏe với cựa và những móng nhọn là vũ khí tự vệ
thật lợi hại.
- Đoạn văn kết bài :
Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại rất quan
trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối
tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình
làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường
làm kết bài không mở rộng. Kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa
hấp dẫn người đọc. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết
cách làm phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thông



qua những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có
được những kết bài hay.
Chẳng hạn : "Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm
lặng của dòng đời, cô giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bến đò, hoặc đi xa
về, ngắm nhìn cây gạo, em thấy lòng bồn chồn xôn xao. Cây gạo là hồn quê, là
tình quê vơi đầy."
7. Giúp học sinh nắm vững từng loại bài miêu tả trong chương trình :
+ Miêu tả đồ vật :
Đồ vật là những vật dụng (đồ dùng) do con người làm ra để phục vụ
nhu cầu sinh hoạt của mình. Đó là các đồ vật nhỏ: quyển sách, cây bút, bộ quần
áo, cái ấm, cái chén, cái bàn, ghế… Cũng có thể là các đồ vật tinh vi như: cái
radio, cái tivi, xe gắn máy... hoặc những đồ vật to như cây cầu, căn nhà…
Ở lớp bốn, các em chỉ tả các đồ vật nhỏ, quen thuộc như : cái cặp
sách, cái bàn học, cái trống trường…
+ Tả cây cối :
Cây cối chỉ các loại cây nói chung, có loại do người trồng, có loại
mọc tự nhiên, có loại mọc trên đất, có loại ở dưới biển…
Ở lớp bốn, các em chỉ tả một số loại cây quen thuộc trong một thời
điểm nhất định của nó như cây hoa hồng đang ra hoa, cây chuối đang trổ
buồng… Do đó, các em lưu ý điều này chỉ cần quan sát và miêu tả kỹ nó trong
những thời điểm mà đề bài quy định.
+ Tả loài vật :
Loài vật nói rõ hơn là động vật bào gồm các loại sống trên trời như
chim, dưới nước như cá, trên đất như thú. Có loại sống tự nhiên trong rừng như
voi, hổ, gấu, beo… Có loại đã được thuần dưỡng thành thú nuôi trong nhà như
trâu, bò, gà, heo, vịt…
Ở lớp bốn, các em chỉ tả các con vật quen thuộc : heo, gà, mèo, chó…
Loài vật giống cây cối ở chỗ đều có sự sống nghĩa là sinh ra, lớn lên
và chết đi. Loài vật khác cây cối ở chỗ nó di chuyển được. Mỗi loài vật đều có
tầm vóc, hình thể khác biệt nhau. Thói quen sinh hoạt của từng loài cũng khác



nhau. Khi miêu tả, các em cần nêu bật được các sinh hoạt bình thường ấy nhất là
các hoạt động bộc lộ nét đẹp, tính nết và ích lợi của từng loài.
8. Chuẩn bị kỹ phần củng cố bài trong các tiết Tập làm văn:
- Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong cả tiết học
nhưng lại là lúc giáo viên tóm tắt toàn bộ nội dung kiến thức của bài và mở ra
hướng kiến thức mới cho tiết học sau, vì vậy cần chú ý ở phần củng cố bài hấp
dẫn, thu hút được sự chú ý của các em.
- Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn nhận mọi sự vật ở nhiều khía
cạnh, góc độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các em. Ở phần
củng cố bài, giáo viên không nên đưa ra những bài văn mẫu hoàn chỉnh làm các
em bắt chước, sao chép, dễ tạo cho các em cách làm văn sáo rỗng, na ná như
nhau mà nên đưa ra những đoạn văn miêu tả của những tác giả khác nhau. Cùng
trong một tiết học, có thể đưa ra nhiều đoạn văn miêu tả toàn diện, phong phú và
từ đó các em sẽ biết chắt lọc, tìm tòi những chi tiết đặc sắc, học tập được các
câu, các từ hay, cách diễn đạt hợp lý cho bài văn của mình.
Chẳng hạn, trong tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật”,
phần củng cố bài, giáo viên có thể đọc cho các em nghe một vài đoạn như sau:
"Con Rô sạch sẽ lắm. Mỗi lần mẹ gọi : "Rô đi tắm" là nó vẫy đuôi chạy theo,
ngoan ngoãn như một đứa bé được nuông chiều. Thân hình nó không hề có một
con bọ, con rận nào cả. Không biết mẹ dạy con Rô từ bao giờ mà nó biết đi vệ sinh
vào một chỗ phía sau nhà. Nó rất ý tứ. Mỗi khi có khách đến chơi nhà nó nằm im
trên tấm đệm, đôi tai vểnh lên như nghe bố mẹ và khách nói chuyện. Khách đứng
dậy ra về, con Rô cũng theo bố mẹ đi ra cửa như để tiễn chân khách…
- Các đoạn văn đưa ra cũng không nên quá dài hay quá ngắn vì nếu dài quá
học sinh sẽ khó tiếp thu, ngắn quá sẽ không đảm bảo nội dung. Đặc biệt đoạn văn
phải được diễn đạt mạch lạc đúng cấu trúc ngữ pháp, lời văn giản dị, câu văn giàu
hình ảnh và phải mang tính mẫu mực cả về nội dung và hình thức. Khi đưa ra các
đoạn văn mẫu cần phải phân tích, đánh giá để học sinh thấy được cái hay, cái

đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh nhận rõ nội dung miêu tả, sự khác biệt
trong miêu tả và nét đặc sắc trong hành văn.


Ví dụ: Đọc cho học sinh nghe đoạn văn "Những cánh bướm trên bờ
sông" : "Ngoài giờ học, chúng tôi tha thẩn ở bờ sông bắt bướm. Chao ôi, những
con bướm đủ màu sắc, đủ hình dáng. Con xanh biếc pha đen như nhung, bay
nhanh loang loáng. Con vàng sẫm nhiều hình mặt nguyệt, ven cánh có răng cưa,
lượn lờ đờ như trôi trong nắng. Con bướm quạ to bằng hai bàn tay người lớn,
mầu nâu xỉn, có hình đôi mắt tròn, vẻ dữ tợn. Bướm trắng bay theo đàn líu ríu
như hoa nắng. Loại bướm nhỏ đen kịt, là là theo chiều gió hệt như tàn than của
những đám đốt hương…"
Giáo viên phân tích : Đoạn văn ngắn gọn nhưng đã miêu tả khá sinh
động vô số loài bướm. Hình ảnh những chú bướm hiện lên qua con mắt của mấy
cậu học trò vốn say mê với thiên nhiên. Một từ tha thẩn miêu tả các cậu ra bờ
sông bắt bướm, một từ chao ôi diễn tả cảm xúc mạnh mẽ trong lòng các cậu đến
bật thành tiếng kêu chứng tỏ sự kinh ngạc và lòng say mê của các cậu học trò
đến tột độ, tạo nền cho bài miêu tả, tạo nền cho hình ảnh những cánh bướm xuất
hiện. Liên tiếp sau đó, mỗi câu văn được tác giả dùng để nói tới một con bướm.
Mỗi con bướm lại tả bằng các tính từ, các hình ảnh so sánh gợi tả vẻ đẹp đầy
hấp dẫn: Đen như nhung, loang loáng, vàng sẫm, lượn lờ đờ như trôi trong nắng,
líu ríu như hoa nắng…Tác giả đã khéo chọn những hình ảnh mới mẻ, độc đáo để
so sánh làm nổi bật dáng bay của từng loại bướm. Nó làm nên vẻ đẹp hấp dẫn
riêng của đoạn văn miêu tả này.
- Việc đưa ra đoạn văn mẫu cùng với lời phân tích rõ ràng như vậy sẽ
giúp học sinh hình dung ra đối tượng miêu tả một cách cụ thể, sinh động hơn,
giúp học sinh vận dụng cách dùng từ đặt câu vào bài viết của mình.
9. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài viết :
Mỗi loại bài thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn.
Quá trình thực hành ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn

thận, nghiêm túc thì mới có tác dụng rèn kĩ năng viết văn cho học sinh. Tổ chức
rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm
tra, đánh giá" nhằm mục đích giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung
của giáo viên và kết quả bài viết của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình.


Giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ pháp, diễn đạt, chính tả, bố cục bài của
mình và của các bạn. Từ đó, học sinh có thể học hỏi những câu văn, đoạn văn
hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài không thể làm qua loa, đại
khái, càng không thể bớt xén thời lượng.
Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách bài
soạn đã hướng dẫn, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ
nhàm chán. Sau phần giáo viên nhận xét chung, giáo viên cần chữa lỗi cho học
sinh theo từng loại lỗi thống kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn hay
đã chuẩn bị trước. Sau đó, giáo viên trả bài và có thể tổ chức cho học sinh thảo
luận theo nhóm bàn để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc
cho nhau nghe các câu văn hay hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học
sinh sẽ thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa
chữa hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như
vậy cũng sẽ giúp học sinh tránh được những lỗi không đáng có trong thực hành
viết văn sau này.
10. Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài dạy:
Để có được kế hoạch bài dạy cụ thể, rõ ràng có chất lượng, có tác dụng
thiết thực, đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả
năng lực, phẩm chất của mình như : năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng
lực hiểu học sinh, năng lực ngôn ngữ…lòng yêu nghề, niềm tin, sự nhiệt tình và
lòng đam mê nghề nghiệp.
Muốn có đầy đủ thông tin và kiến thức cho một bài giảng, tôi không
ngừng học tập nâng cao trình độ, tham gia đủ các lớp học chuyên môn, chịu khó
sưu tầm các loại sách vở liên quan đến chuyên môn. Đặc biệt trong thời đại mà

khoa học công nghệ thông tin đã phát triển mạnh mẽ, người giáo viên hơn ai hết
phải là người đi đầu trong việc tự học tập để tiếp thu khoa học công nghệ thông tin
hiện đại ấy. Việc tra cứu tìm tư liệu trên mạng cũng rất đơn giản, lại không tốn kém
đáng kể. Ngoài giờ lên lớp, mỗi ngày tôi dành một thời gian nhất định để lên mạng
tìm những thông tin cần thiết cho các bài giảng, như vậy vốn kiến thức của chúng


ta sẽ phong phú lên rất nhiều và bài giảng chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn, nhất là với
việc dạy văn miêu tả thì điều này lại càng cần thiết.
Dạy văn miêu tả lớp bốn là một việc làm khó, nhất là nếu chúng ta đơn
độc thực hiện lại càng khó hơn nên rất cần sự đóng góp trí tuệ của tập thể, của
đồng nghiệp. Vì vậy, tôi luôn nghiêm túc trao đổi cùng bạn bè đồng nghiệp về
chuyên môn nghiệp vụ trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Mỗi buổi có thể
trao đổi về một chủ đề, về một tiết tập làm văn nào đó, có thể cả tổ xây dựng mỗi
tiết một giáo án mẫu sau đó về nhà mỗi người sẽ tuỳ thuộc vào đối tượng học sinh
lớp mình mà cụ thể hoá thành kế hoạch của riêng mình. Như vậy sẽ phát huy được
sức mạnh của tập thể và tôi cũng học hỏi được từ đồng nghiệp rất nhiều.
IV. Hiệu quả :
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp bốn tôi chủ
nhiệm kết quả cuối học kì II cụ thể như sau:
Lớp
4

2

Số học sinh
28

Điểm 4,5 - 5
10


35.7%

Điểm 3,5 - 4
11

39.3%

Điểm 2,5 - 3
6

21.4%

Điểm 1- 2
1

3.6%

Bài làm của nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã biết viết văn miêu tả giàu
hình ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ
thuật như: nhân hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ, bài làm sinh động, cảm
xúc chân thật. Tuy vẫn còn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết của
đối tượng miêu tả nhưng không có hiện tượng sao chép văn mẫu, không có bài
làm na ná như nhau. Mặc dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi song trong giảng dạy
Tập làm văn thì kết quả như vậy cũng là điều đáng quý. Mặt khác các biện pháp
trên mới chỉ được áp dụng khi dạy văn miêu tả lớp bốn, nếu có thể thực hiện từ
khi dạy Tập làm văn ở lớp hai, ba thì tôi tin chắc rằng chất lượng làm văn của
các em sẽ khả quan hơn rất nhiều.



Phần kết luận
I. Bài học kinh nghiệm :
Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rằng để nâng cao chất lượng dạy Tập
làm văn người giáo viên cần :
- Tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, đặc điểm tâm lý của học sinh, hiểu và
nắm chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả và cần giúp các em hiểu rõ các
đặc điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả.
- Vì Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của tất cả các phân
môn thuộc môn Tiếng Việt nên muốn dạy Tập làm văn có chất lượng cần thiết
phải dạy tốt các phân môn còn lại.
- Cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, để khi thực hiện kế hoạch bài dạy trên
lớp giáo viên nên đọc cho học sinh nghe các câu văn, câu thơ có sử dụng các biện
pháp nghệ thuật, cung cấp cho các em những đoạn văn mẫu giúp các em mở rộng vốn
từ, mở rộng vốn hiểu biết và từ đó học tập vận dụng vào bài làm của mình.
- Cần coi tiết trả bài như một khâu không thể thiếu của các hoạt động tiếp
theo. Trả bài là tiết học mà giáo viên dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học
sinh, giúp học sinh điều chỉnh những sai sót mắc phải trong bài viết để bài viết
sau sẽ hoàn chỉnh hơn, hấp dẫn hơn.
II. Ý nghĩa :
Trước những yêu cầu đổi mới của sự nghiệp giáo dục và đào tạo.Việc
nâng cao chất lượng dạy học là một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến
lược phát triển giáo dục. Một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo
dục đó là đội ngũ giáo viên. Để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên
phải không ngừng học hỏi, sáng tạo trong giảng dạy, đem hết khả năng và niềm
đam mê, lòng nhiệt tình cho công tác thì mới có được những kết quả như mong
muốn. Với việc dạy Tập làm văn, nhất là văn miêu tả lớp bốn thì việc làm này
càng cần thiết hơn bởi việc dạy Tập làm văn là rất khó, học sinh lớp bốn tuy đã
gần cuối cấp Tiểu học nhưng việc làm văn cũng mới dừng ở mức độ “tập”.
Không phải ai sinh ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn chương
mà khả năng ấy phải được bồi đấp dần qua năm tháng, qua trang sách và những



bài giảng hàng ngày của thầy cô. Muốn có được khả năng ấy ở mỗi học sinh thì
chính mỗi giáo viên phải định hướng, gợi mở cho các em phương pháp học tập
như những cây non được ươm trồng cần bàn tay con người chăm sóc, vun xới
thì nó sẽ trở nên tươi tốt. Với học sinh lớp bốn, các em không thể vừa bắt tay
vào viết văn đã có được những dòng văn hay mà văn hay là kết quả của một quá
trình rèn luyện liên tục, bền bỉ, dẻo dai. Văn hay không thể có được ở những học
trò lơi là đèn sách. Với tinh thần đó, việc rèn kĩ năng làm văn vừa để nhằm mục
đích nâng cao năng lực viết văn vừa nhằm nâng cao ý thức tự rèn luyện của học
sinh. Đó chính là động lực thúc đẩy tôi hoàn thành bài nghiên cứu khoa học này.
III. Khả năng ứng dụng, triển khai :
Qua thời gian giảng dạy trực tiếp đứng lớp bốn và tham khảo ý kiến bạn
đồng nghiệp, tôi đã áp dụng các biện pháp nói trên vào năm học 2010-2011, tôi
nhận thấy học sinh lớp tôi đã có sự chuyển biến rõ rệt, chất lượng học phần văn
miêu tả trong phân môn Tập làm văn có được nâng lên. Tôi sẽ tiếp tục nghiên
cứu vận dụng vào năm học này và báo cáo đề tài cho tổ cùng toàn thể giáo viên
trong trường tham khảo, có thể vận dụng để giúp học sinh học tốt phần văn miêu
tả nói riêng và phân môn Tập làm văn nói chung. Từ đó góp phần nâng cao chất
lượng dạy học trong nhà trường.
IV. Kiến nghị, đề xuất :
Nếu có điều kiện, hàng năm nhà trường nên tổ chức cho các em đi tham
quan, du lịch để mở rộng hiểu biết cho các em về cảnh vật của đất nước và con
người Việt Nam. Giúp các em có khiếu quan sát mọi sự vật, sẽ phục vụ tốt hơn
cho việc viết văn của các em.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009, Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ

năng các môn học ở tiểu học - lớp bốn, Nhà xuất bản Giáo dục, trang 5-55.
2. TS. Nguyễn Thị Ly Kha, 2008, Dùng từ viết câu và soạn thảo văn bản, Nhà
xuất bản Giáo dục, trang 26-75.
3. TS. Nguyễn Thị Ly Kha, 2009, Ngữ pháp Tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục,
trang 223-295.
4. Lê Phương Nga – Đặng Kim Nga, 2007, Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở
Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục – Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, trang 225275.
5. GS.TS. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), 2005, Tiếng Việt lớp bốn (tập 1, 2),
Nhà xuất bản Giáo dục, 184 trang (176 trang).
6. GS.TS. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), 2005, Tiếng Việt lớp bốn (tập 1, 2) Sách giáo viên, Nhà xuất bản Giáo dục, 368 trang (304 trang).


MỤC LỤC

Phần mở đầu
I. Bối cảnh của đề tài
II. Lí do chọn đề tài

………………………………………………1
………………………………………………...1

III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ………………………………...2
IV. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………..2
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu……………………………….2

Phần nội dung
I. Cở sở lí luận ………………………………………………………..3
II. Thực trạng …………………………………………………………3
III. Các biện pháp đã tiến hành ……………………………………….5
IV. Hiệu quả …………………………………………………………. 16


Phần kết luận
I. Bài học kinh nghiệm………………………………………………...17
II. Ý nghĩa của đề tài…………………………………………………..17
III. Khả năng ứng dụng triển khai……………………………………..18
Tài liệu tham khảo ………………………………………………......19
Mục lục ………………………………………………………………. 20



×