Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

skkn một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.28 KB, 20 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO MỎ CÀY NAM
TRƯỜNG TIỂU HỌC CẨM SƠN 1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 HỌC
TỐT PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN

Đề tài thuộc lĩnh vực chuyên môn: Dạy và học
Họ và tên: Lê Văn Trung
Nhiệm vụ: Giáo viên dạy lớp 3
Sinh hoạt tổ chuyên môn: Khối 3

Tháng 3 năm 2012

-1-


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh chọn đề tài
Quá trình giáo dục hiện nay, nội dung và phương pháp của nó phải tạo ra sự
phát triển tự nhiên của trẻ em. Vì lợi ích của trẻ em, giáo dục không lấy người lớn
làm chuẩn mực để đánh giá, không lấy người dạy làm trung tâm, không lấy lí
thuyết suông làm nội dung, không lấy sự giảng giải làm phương pháp chủ yếu.
Người thầy tổ chức và hướng dẫn, trò hoạt động và phát triển, thầy giữ vai trò chủ
đạo, tổ chức cho trẻ hoạt động, trò phải tự làm ra sản phẩm giáo dục.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã đạt được những thành
tựu rực rỡ. Loài người đang bước sang nền văn minh thông tin. Với việc sử dụng
các loại máy tính, tự động hóa, công nghệ sinh học, năng lượng sạch,… Máy móc
đã thay thế cho cơ bắp, trí nhớ làm giảm nhẹ sự tiêu tốn sức lực của con người. Sự


tiến bộ của khoa học kỹ thuật đến đâu đi nữa cũng không thể thay con người viết
bài văn hay, học tập làm văn giỏi.
Quan niệm giáo dục hiện đại phải đem đến cho trẻ kinh nghiệm sống, dạy
cho trẻ cách học. Những gì mà trẻ học được ở Tiểu học không chỉ giúp các em có
vốn để sống mà còn thỏa mãn nhu cầu học lên các lớp trên và cả cuộc đời sáng tạo
sau này. Rõ ràng bài tập làm văn của học sinh không có khuôn mẫu cố định, mà là
sự sáng tạo của cá nhân. Không ít giáo viên đã nhầm, cứ tưởng để giúp học sinh
học tốt phân môn tập làm văn, đã hướng dẫn học sinh làm theo bài mẫu, làm giảm
đi sự sáng tạo và ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ sau này.
II. Lý do chọn đề tài
Phân môn tập làm văn vận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt do các
phân môn khác rèn luyện, hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện chúng.
Để làm được một bài tập làm văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết phải vận dụng các kiến thức về tiếng Việt. Trong quá trình vận
dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hoàn thiện và nâng cao dần.
-2-


Phân môn tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản.
Nhờ vậy, tiếng Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần,
từng mặt, qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình
giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác phân môn tập làm văn đã góp phần hiện
thực hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng Việt. Là dạy học
sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri
thức khoa học.
Trong các kì thi ở bậc Tiểu học, không có kì thi nào không có phân môn tập
làm văn. Rõ ràng, phân môn tập làm văn rất quan trọng trong nhà trường Tiểu học.
Tuy nhiên đối với học sinh lớp 3, để học tốt phân môn tập làm văn là việc
không đơn giản, mà phải cần có sự hướng dẫn tận tình của người thầy, cộng với sự
cố gắng của các em học sinh. Qua nhiều năm công tác, tôi luôn tìm phương pháp

hướng dẫn tốt nhất để giảng dạy, làm sao cho các em nắm được các kiến thức trong
chương trình. Giúp các em học tập làm văn tốt hơn, làm cơ sở để các em học tốt ở
các lớp trên. Từ những lí do đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp
học sinh lớp 3 học tốt phân môn tập làm văn”.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài này là chương trình tập làm văn lớp 3 đang thực
hiện của Bộ Giáo dục Đào tạo. Nhằm trang bị cho học sinh một số kĩ năng phục vụ
vào đời sống hàng ngày, như: điền vào các giấy tờ in sẵn, viết thư, làm đơn, giới
thiệu hoạt động của tổ, lớp và trường, ghi chép sổ tay.
Tiếp tục rèn luyện kĩ năng kể chuyện và miêu tả: kể một sự việc đơn giản, tả
sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi.
Rèn luyện kĩ năng nghe thông qua các bài tập nghe – kể và các hoạt động
học tập trên lớp.
Đề tài này được nghiên cứu trên nhiều đối tượng của học sinh lớp 3, tôi và
giáo viên của tổ chuyên môn khối 3 trường tôi dạy đã thực hiện đạt được nhiều kết
quả tích cực.
-3-


Đề tài này còn dành cho giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở bậc Tiểu học
nghiên cứu, ứng dụng nhằm giúp cho giáo viên dạy ngày càng tiến bộ hơn, học
sinh ngày càng học tốt hơn phân môn tập làm văn.
IV. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm để đánh giá đúng với khả năng học tập của học sinh, người
thầy không để học sinh bị hụt hẫng, mà phải giúp các em tự tin học tập làm văn
ngày một tốt hơn.
Giúp học sinh học tốt phân môn tập làm văn, không có nghĩa là làm bài mẫu
cho học sinh, mà là giúp các em nắm vững kiến thức, có đủ khả năng để đáp ứng
yêu cầu mà chương trình đưa ra, các em tự viết được một bài tập làm văn hay. Đó
cũng là thể hiện đạo đức của nhà giáo, lương tâm, trách nhiệm của người thầy.

Thực hiện đề tài này nhằm rèn luyện kĩ năng sản sinh văn bản ở dạng nói và
viết, phân môn tập làm văn đồng thời góp phần cùng các môn học khác rèn luyện
tư duy, phát triển ngôn ngữ và hình thành nhân cách cho học sinh. Ở Tiểu học,
phân môn tập làm văn góp phần rèn luyện tư duy hình tượng: từ óc quan sát tới trí
tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được tới khả năng nhào
nặn các vật liệu có thực trong đời sống để xây dựng nên nhân vật, xây dựng cốt
truyện. Khả năng tư duy logic của học sinh cũng được phát triển trong quá trình
học các kiểu bài có phong cách nghệ thuật. Việc phân tích đề, đọc gợi ý,… giúp
cho học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, phân loại, lựa chọn,… được rèn
luyện để trở nên sắc bén hơn. Các kiểu bài miêu tả, kể chuyện, tường thuật, viết
thư, viết đơn, giúp cho học sinh phát triển vốn động từ, tính từ, tập vận dụng các
biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, hoán dụ,… làm cho tình cảm yêu mến và
gắn bó với thiên nhiên, với con người và công việc xung quanh nảy nở. Từ đây tâm
hồn và nhân cách của các em hình thành và phát triển.
Đề tài còn giúp cho học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập bằng hệ thống
câu hỏi, bằng lời giải thích. Qua sửa chữa bài của bạn, học sinh trao đổi, nhận xét
về bài làm của bạn, các em sẽ tự rút ra những điểm ghi nhớ về tri thức.
-4-


V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Thực hiện đề tài này là giúp cho học sinh làm các bài văn viết hoặc nói theo
các kiểu bài do chương trình quy định. Để sản sinh được các bài tập làm văn, giáo
viên giúp học sinh có các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết về tiếng Việt, kĩ năng dùng
từ, đặt câu, kĩ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng lập dàn ý, viết đoạn
văn và liên kết đoạn,… Các kĩ năng này không được phân môn nào trong môn
Tiếng Việt rèn luyện và phát triển ngoài phân môn tập làm văn. Cho nên có thể nói
nhiệm vụ cơ bản và chủ yếu của đề tài này là giúp học sinh sau một quá trình luyện
tập lâu dài và có ý thức, dần dần nắm được cách viết các bài tập làm văn theo
nhiều loại phong cách khác nhau do chương trình quy định.

Ngoài các kĩ năng chung của việc viết một văn bản, để giúp học sinh lớp 3 viết
hoặc nói được một bài tập làm văn hay, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh các kĩ
năng đặc thù như kĩ năng quan sát, kĩ năng xây dựng cốt chuyện, kỹ năng giao tiếp,
kĩ năng đặt câu, kĩ năng dùng từ, kĩ năng liên kết câu trong một đoạn,… Bên cạnh
đó việc rèn luyện tâm hồn, cảm xúc, việc tăng vốn sống, vốn hiểu biết trực tiếp đời
sống xung quanh,… cũng là yêu cầu cần phải quan tâm thích đáng nếu giáo viên
muốn học sinh thật sự nói hoặc viết được các bài tập làm văn hay.
Đề tài này còn giúp học sinh nhận xét kết quả bài làm của bạn, tự đánh giá
kết quả bài làm của bản thân trong quá trình luyện tập.
Để thực hiện thành công đề tài này, ngoài việc hướng dẫn trong tiết học,
giáo viên nên yêu cầu, hướng dẫn học sinh thực hiện những hoạt động nối tiếp
nhằm củng cố kết quả thực hành luyện tập ở lớp như: thực hành giao tiếp ngoài lớp
học, sử dụng kĩ năng đã học vào thực tế cuộc sống,…

-5-


PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận :
Trong bậc học tiểu học, bốn kĩ năng quan trọng cơ bản nhất mà bộ môn
Tiếng Việt phải rèn cho học sinh đạt được là: nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kĩ năng
viết là kĩ năng quan trọng nhất và cũng khó rèn luyện cho học sinh nhất. Để rèn kĩ
năng viết cho học sinh, người giáo viên phải dạy tốt các phân môn như chính tả,
luyện từ và câu, tập viết và tập làm văn. Để viết đẹp và viết đúng, người thầy phải
chú trọng rèn kĩ năng cho học sinh khi dạy tập viết và chính tả. Còn muốn dạy cho
học sinh viết đúng và hay thì chúng ta phải đặc biệt chú ý dạy tốt hai phân môn là
luyện từ và câu và tập làm văn. Trong hai phân môn này, nhiều giáo viên cho rằng
tập làm văn là môn khó dạy nhất, khó rèn kĩ năng cho học sinh nhất vì đòi hỏi học
sinh phải có năng khiếu mới viết văn hay được. Nội dung bồi dưỡng làm văn nhằm
trau dồi vốn sống. vốn văn chương, nâng cao năng lực cảm nhận và diễn tả ở học

sinh. Học sinh luyện viết văn theo theo kiểu bài đã học. Các kiểu bài ở lớp 3 là kể
chuyện, thuật chuyện, viết thư,... Trong các lần kiểm tra định kì phần tập làm văn
luôn có một điểm số, nhưng ít có học sinh đạt điểm tối đa về bài tập làm văn, số
học sinh đạt điểm giỏi khá ít. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của bản thân tôi, là một
giáo viên dạy nhiều năm, thì dạy tập làm văn cũng không quá khó. Tất cả đều có
thể rèn luyện được nếu chúng ta có biện pháp và cách thức giảng dạy phù hợp. Tôi
đã dùng những kinh nghiệm trong giảng dạy của mình để dạy tập làm văn có hiệu
quả.
II. Thực trạng của vấn đề
Thuận lợi
Giáo viên chủ nhiệm lớp đa số là người địa phương, nhiệt tình trong giảng
dạy, gần gũi, quan tâm chăm sóc học sinh nên có điều kiện nắm bắt tâm tư, tình
cảm của các em, biết các em phần kiến thức nào chưa nắm được, phần nào các em
còn gặp khó khăn, lúng túng,… Từ đó, đề ra biện pháp phụ đạo kịp thời với từng
đối tượng học sinh của lớp mình.
-6-


Được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, chính quyền địa phương có
phòng học kiên cố, bàn ghế đúng quy cách để học sinh ngồi học thoải mái, có điều
kiện để các em học ngày càng tốt hơn.
Phụ huynh tạo mọi điều kiện để học sinh có đủ sách vở, đồ dùng học tập,
thời gian, phương tiện đi lại để các em không bị động trong học tập.
Đa số học sinh chăm chỉ, siêng năng, chăm lo học tập. Hầu hết các em đều
ngoan ngoãn chuẩn bị tốt bài học theo yêu cầu của giáo viên.
Trường lớp khang trang, được trang bị khá đầy đủ dụng cụ dạy học, làm cho
học sinh yêu thích trường lớp hơn.
Khó khăn
Một số gia đình kinh tế khó khăn, cha mẹ thường hay đi làm mướn ít quan
tâm đến con em mình, nên các em thường hay quên đem sách vở, dụng cụ học tập.

Một số em ham chơi không chuẩn bị bài, vào lớp không tập trung nghe giảng nên
không nắm được kiến thức cơ bản để viết được một bài tập làm văn hay. Các em
này chủ yếu dựa vào câu hỏi gợi ý để viết bài, hoặc kể lại câu chuyện nên bài văn
chưa mạch lạc, các ý chưa liên kết được với nhau.
Lớp thuộc điểm trường lẻ, vì không đủ phòng nên học một buổi nên không
có thời gian dạy buổi hai để phụ đạo cho những học sinh yếu.
Học sinh vùng sâu, ít được đi tham quan, lâu lâu mới được xem biểu diễn
nghệ thuật, không được tham gia các ngày hội,… vốn sống của các em còn hạn chế
nên các em gặp khó khăn khi làm bài tập làm văn.
Sau nhiều năm công tác, tôi nhận thấy giáo viên và học sinh ở trường tôi dạy
còn có một số hạn chế sau:
Về giáo viên
Chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hình thức khai thác kiến thức môn học,
giúp học sinh lĩnh hội được cách học tập làm văn theo kiểu bài.
Chưa giúp học sinh thấy được mối liên kết giữa các kiểu bài , sự hỗ trợ lẫn
nhau của các dạng bài được học để viết một bài tập làm văn hay.
-7-


Hướng dẫn cho học sinh rèn luyện thiếu sự sáng tạo, chưa biết tạo cơ hội
cho học sinh giao tiếp nhằm phát huy trí tưởng tượng, óc sáng tạo của các em.
Về học sinh:
Học sinh thường lệ thuộc vào gợi ý của giáo viên, thiếu sự sáng tạo. Bài làm
của các em thiếu nét riêng, ít cảm xúc và chưa vận dụng tốt các ngữ liệu mẫu ở
sách giáo khoa để thực hành. Khâu đọc đề và xác định yêu cầu của đề, học sinh
thường bỏ qua nên bài làm chưa đi đúng yêu cầu trọng tâm, cách diễn đạt còn
vụng, câu liệt kê lủng củng, không có sự vận dụng từ các bài tập rèn kĩ năng của
luyện từ và câu vào bài viết. Vì thế trong các kì thi, kết quả của các em còn hạn
chế, chưa đạt được như mong muốn .
Tôi có thể đánh giá các tồn tại nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân sau:

Thời gian triển khai nội dung chương trình thay sách chưa lâu, đặc biệt là
khối 3 nên giáo viên chưa nắm bắt hết các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng cần đạt,
đặc biệt là ở phân môn tập làm văn.
Từ quan điểm biên soạn sách là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh
và phương pháp giảng dạy chủ yếu là coi trọng phần thực hành, qua luyện tập thực
hành, học sinh rút ra kiến thức chủ yếu của bài học. Phần bài học không có định
nghĩa, không có quy tắc nên giáo viên còn lúng túng khi nâng từ kiến thức cụ thể
lên thành kiến thức tổng quát.
Nội dung chương trình tập làm văn ở tiểu học được biên soạn theo kiểu kết
hợp giữa văn chương nghệ thuật và văn bản nhật dụng để học sinh học tập và thực
hành. Cứ vài tiết học về viết thư hay điền vào giấy tờ in sẵn thì có 1 tiết viết đơn,
nghe và kể lại câu chuyện, kể lại buổi thi đấu thể thao, kể lại buổi biểu diễn nghệ
thuật,... Việc đan xen giữa hai đơn vị kiến thức có mặt ưu điểm nhưng cũng có mặt
hạn chế. Nhiều giáo viên chưa xâu chưỗi được kiến thức cho học sinh, học sinh
nhớ cái này, quên cái kia là điều thường thấy trong các tiết tập làm văn.
Mỗi tuần, chỉ dạy cho học sinh một tiết tập làm văn, giáo viên còn sửa lỗi
chính tả, luyện dùng từ đặt câu nên thời gian dành cho tập làm văn là quá ít.
-8-


III. Các biện pháp đã tiến hành
Đầu mỗi năm học, khi nhận lớp, tôi tiến hành điều tra cơ bản ngay về từng đối
tượng học sinh. Một mặt tôi gặp giáo viên chủ nhiệm năm học trước để nắm bắt
tình hình học tập của từng em. Từ đó tôi đề ra kế hoạch cho năm học thật sát với
từng đối tượng học sinh. Ngoài việc bồi dưỡng cho học sinh có năng khiếu, tôi còn
dành thật nhiều thời gian để phụ đạo cho những em học yếu môn Tiếng Việt, đặc
biệt là phân môn Tập làm văn.
Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng nói
Đây là dạng bài kể hoặc tả miệng về người thân, gia đình, trường lớp, quê
hương, lễ hội, hoạt động thể thao, văn nghệ,…

Văn kể hoặc tả miệng ở lớp 3, được xây dựng với những đề bài cụ thể và
những kĩ năng thực hành đặt ra cho từng đề bài cụ thể đó. Ở các tiết học chính
khoá, giáo viên đã dạy cho học sinh một số kĩ năng kể chuyện như cốt chuyện,
nhân vật trong câu chuyện,... Thông qua một số dạng đề bài như : Kể lại chuyện đã
nghe, đã học, kể lại chuyện được chứng kiến tham gia, kể chuyện dựa vào cốt
chuyện có sẵn,... học sinh được rèn kĩ năng kể chuyện khá cụ thể cho từng kiểu,
từng dạng. Tuy nhiên thời gian dành cho luyện tập của từng dạng không nhiều. Các
dạng bài này còn mờ nhạt trong học sinh, đặc biệt là học sinh trung bình và yếu.
Trong các lớp tôi phụ trách, thực hiện biện pháp giúp học sinh rèn kĩ năng nói và
tổng hợp được nhiều yêu cầu của kể chuyện vào bài viết mà ít mất thời gian đầu tư.
Dựa vào gợi ý của đề bài giúp học sinh phát triển năng lực nói theo hình thức độc
thoại và mang phong cách khẩu ngữ. Học sinh ở lớp nhận xét, tranh luận với bạn.
Bài nói có những đặc điểm riêng về nhiều mặt so với bài viết: Từ cách triển
khai ý, tới cách lựa chọn từ ngữ, lựa chọn kiểu câu, từ cách sử dụng các yếu tố phi
ngôn ngữ để phụ trợ đến các thủ thuật nhằm thu hút người nghe. Bài tập làm văn
nói, không phải là một bài tập làm văn viết nói lên. Tiết tập làm văn miệng không
phải là tiết đọc chậm hoặc đọc thuộc lòng bài viết đã chuẩn bị sẵn. Vì thế, giáo
viên không nên hướng dẫn bài mẫu cho các em.
-9-


Tuy nhiên cũng không tuyệt đối hóa ranh giới giữa bài nói và bài viết. Việc
làm hai bài văn này đều sử dụng một hệ thống các kĩ năng như nhau trong gia đoạn
chuẩn bị, giai đoạn hiện thực hóa. Đặc biệt là sự khác nhau trong việc lựa chọn từ,
kiểu câu do sự chi phối giữa hai phong cách ngôn ngữ khác nhau.
Dạng bài tập làm văn nói rất có ích cho học sinh khi các em bước vào cuộc
sống hay khi tiếp tục học lên các lớp trên. Khả năng độc thoại theo một đề bài là
khả năng mỗi người thường gặp trong đời sống, trong học tập. Nếu có khả năng
độc thoại tốt, học sinh sẽ tự tin và mạnh dạn phát biểu ý kiến trong học tập.
Các tiết tập làm văn nói ở lớp 3 với các loại bài thường dừng ở mức độ: Học

sinh trả lời các câu hỏi gợi ý thành một đoạn văn ngắn đúng nội dung câu hỏi nêu
ra, các câu trả lời phải có liên kết với nhau. Chỉ những học sinh giỏi mới có khả
năng viết thành bài văn trên cơ sở hệ thống câu hỏi gợi ý.
Để học sinh làm tốt đề bài luyện tập này, giáo viên nên chẻ nhỏ các yêu cầu ra
để học sinh thực hành. Cụ thể là:
Ví dụ: Kể về người hàng xóm mà em quý mến
Gợi ý:
a) Người đó là gì, bao nhiêu tuổi?
b) Người đó làm nghề gì?
c) Tình cảm của gia đình em đối với người hàng xóm đó như thế nào?
d) Tình cảm của người hàng xóm đối với gia đình em như thế nào?
Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài, xác định yêu cầu. Cho các em nói với
nhau là sẽ tả ai? Người đó có đúng là hàng xóm không? Nếu là người thân trong
gia đình là sai yêu cầu. Từ đó giáo viên gọi một số em nêu người mình định tả, để
cho cả lớp xác định xem bạn tả có đúng đối tượng mà đề bài yêu cầu hay chưa.
Cho học sinh đọc kĩ phần gợi ý, các em nhớ lại các đặc điểm của người đó
theo câu hỏi gợi ý.
Giáo viên gọi một em học sinh giỏi kể mẫu để cả lớp nhận xét, góp ý sửa
chữa khi cần thiết.
- 10 -


Sau đó cho hai học sinh ngồi kế bên kể về người hàng xóm cho bạn nghe để
bạn góp ý cho đúng với yêu cầu.
Giáo viên gọi lần lượt một số học sinh đứng lên kể cho cả lớp nghe. Sau đó
cho học sinh nhận xét theo các tiêu chí sau:
Gợi ý phần nhận xét:
Bạn kể đúng đối tượng mà đề bài yêu cầu chưa?
Lời kể có to rõ không?
Câu kể có đủ ý để người nghe hiểu được không?

Nội dung kể có đầy đủ theo yêu cầu không?
Các câu kể có ý gắn kết với nhau không?
Giọng kể có mạch lạc không?
Phần nào bạn kể hay em cần học hỏi?
Phần nào cần bổ sung, sửa chữa cho bài của bạn?
Mỗi học sinh có thể nhận xét một vài phần lời kể của bạn, chủ yếu là các em
nhận ra cái đúng, cái sai, cái hay, cái hạn chế của bạn mình để giúp cho bạn làm
bài tốt hơn. Đồng thời còn giúp cho học sinh cả lớp nhận ra và soi rọi lại bài của
mình để kể cho tốt hơn.
Lúc đầu bản thân tôi cũng như học sinh gặp rất nghiều khó khăn, nhưng nhờ
sự kiên trì bền bỉ, từng bước thầy trò chúng tôi đã thành công về các bài văn nói ở
lớp 3, tạo tiền đề cho các em học tốt bài tập làm văn viết.
Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết
Tập làm văn viết nhằm rèn luyện cho học sinh khả năng viết bài văn theo đề
bài đã cho và thuộc nhiều phong cách khác nhau: phong cách nghệ thuật, phong
cách hành chánh,… Bài tập làm văn viết là kết tinh nhiều mặt của năng lực sử
dụng tiếng Việt của học sinh qua bốn kì thi ở lớp 3.
Tiết tập làm văn viết là phát triển cho học sinh phong cách bút ngữ. Bài văn
là kết quả học tập của phân môn tập làm văn, phản ánh trình độ sử dụng tiếng Việt,
trình độ tri thức và hiểu biết đời sống của học sinh.
- 11 -


Vì thế, bài tập làm văn viết là sản phẩm để đánh giá năng lực học tập môn
Tiếng Việt của học sinh qua các kì thi.
Trong văn bản bút ngữ, các câu thường đầy đủ và phức tạp hơn khẩu ngữ,
các yếu tố phi ngôn ngữ không còn vai trò phụ trợ. Ở lớp 3, học sinh mới được làm
quen với bút ngữ nên cần phải có phương pháp dạy thích hợp và có hiệu quả. Đừng
bắt các em phải đọc, phải ghi những bài văn mẫu quá dài, quá khó. Chúng ta cũng
cần phải tận dụng cơ hội làm bài của tất cả các môn học còn lại để giúp học sinh

trao dồi năng lực viết các bài tập làm văn.
Loại bài điền vào giấy tờ in sẵn
Loại bài này nhằm luyện cho học sinh có khả năng sử dụng từ, làm cho các
em thấy mối quan hệ ý nghĩa và ngữ pháp giữa các từ trong câu và trong đoạn văn.
Học sinh tự tìm ra những từ ngữ điền vào giấy tờ in sẵn sao cho hợp nghĩa. Sự lựa
chọn này tiến từ mức độ đúng đến mức độ chính xác cho từng loại bài cụ thể.
Cần có mẫu giấy in sẵn, trống một số chỗ. Những chỗ này có ý nghĩa then
chốt, diễn đạt nội dung quan trọng, có cái chung cho học sinh cả lớp, nhưng cũng
có cái riêng mang đậm dấu ấn của cá nhân mà mỗi học sinh phải ghi các thông tin,
các yêu cầu cơ bản của riêng mình. Hướng dẫn học sinh tự tìm các từ thích hợp để
điền vào giấy tờ in sẵn, ở đây sử dụng sự liên tưởng theo hệ thống dọc hoặc ngang
của các từ ngữ để tìm từ cần điền. Khi điền một từ vào chỗ trống nên xem xét quan
hệ ngữ nghĩa và ngữ pháp của nó không phải chỉ trong một câu mà còn trong đoạn.
Ví dụ: Dựa theo mẫu dưới đây, hãy viết một lá đơn xin phép nghỉ học.
Sau khi cho học sinh đọc kĩ và phân tích đề bài, giáo viên cho học sinh thảo
luận theo gợi ý:
Những phần nào là dành chung cho cả lớp? Các em cần ghi những gì?
Phần nào dành cho từng cá nhân? Các em cần ghi những gì?
Phần nào các em ghi? Phần nào gia đình ghi?
Khi học sinh thảo luận xong, giáo viên cho các em làm bài. Sau đó, các em
đọc theo nhóm đôi để sửa chữa bổ sung cho nhau.
- 12 -


Giáo viên gọi một số em đọc bài của mình để cả lớp nhận xét.
Gợi ý nhận xét
Bạn viết có đầy đủ nội dung theo yêu cầu của đề bài không?
Các từ ngữ bạn dùng có thích hợp không?
Có cần điều chỉnh hay bổ sung từ ngữ nào cho thích hợp hơn không?
Khi chấm bài, giáo viên cần ghi lời phê cụ thể phần ưu điểm và hạn chế,

hướng khắc phục những hạn chế đó để học sinh tự điều chỉnh bài làm của mình.
Ngoài việc yêu cầu về kiến thức, giáo viên cũng cần phải chú ý tới kĩ năng
làm bài của học sinh, đặc biệt là cách trình bày, chữ viết và lỗi chính tả.
Loại bài viết thư
Giáo viên cần nắm vững đặc điểm học sinh ở địa phương, để có biện pháp
dạy thích hợp. Dùng đồ dùng trực quan, vật thật như lá thư, phong bì thư, tem,…
để giới thiệu và hướng dẫn học sinh thực hành, vì học sinh chưa quen viết thư, giáo
viên nên sử dụng bảng phụ ghi hệ thống câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh tập viết
từng câu, từng đoạn. Cần quan tâm hướng dẫn thật rõ ràng để cả lớp nắm được
cách thực hành viết thư. Để từ đó các em có thể viết đúng bức thư theo yêu cầu của
từng loại đề.
Ví dụ: Viết một bức thư cho bạn ở một tỉnh miền Nam (hoặc miền Trung,
miền Bắc) để làm quen và hẹn bạn cùng thi đua học tốt.
Gợi ý:
a) Lí do viết thư (Em biết về bạn qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình,…)
b) Nội dung bức thư (em tự giới thiệu, hỏi thăm bạn, hẹn bạn cùng thi đua
học tốt,…).
Giáo viên cho học sinh đọc đề bài và phân tích yêu cầu của đề, đọc và nắm
vững phần gợi ý.
Giáo viên phát một số tờ báo của thiếu nhi cho học sinh tìm bạn để gửi thư,
ghi tên và địa chỉ của bạn ra giấy nháp (Đối với học sinh chưa tìm được bạn nào để
gửi thư).
- 13 -


Giáo viên đính bảng phụ ghi phần gợi ý cho học sinh còn lúng túng như sau:
Em sẽ viết thư cho ai? (Bạn đó ở tỉnh khác, miền khác nơi em đang ở).
Dòng đầu thư em viết như thế nào? (Nơi viết, ngày… tháng… năm…)
Em viết lời xưng hô với bạn như thế nào cho đúng? (Bạn … thân mến)
Nêu lí do nhờ đâu mà mình biết bạn? (qua báo,đài,…)

Em giới thiệu cho bạn biết gì về em? (họ tên, địa chỉ, lí do mình biết bạn)
Em hỏi thăm bạn những gì? (sức khỏe, học tập, đời sống,…)
Mục đích mà em viết thư cho bạn là gì? (làm quen và hẹn thi đua học tốt)
Em chúc bạn những gì?
Em có hẹn gì với bạn không?
Lời xưng hô
Kí tên
Ghi họ và tên
Học sinh tự viết thư vào giấy kiểm tra, giáo viên theo dõi, giúp đỡ.
Gọi một số em đọc bức thư của mình, mời thầy cô và các bạn trong lớp nhận
xét, sửa chữa. Giáo viên ghi điểm những bài viết đủ ý, giàu cảm xúc.
Giáo viên thu bài, khi chấm bài cần ghi rõ những ưu điểm, hạn chế và hướng
khắc phục hạn chế cho học sinh. Chú ý lời phê cần phải có tính động viên khuyến
khích các em, không nên dùng lời lẽ làm cho các em bị tổn thương.
Loại bài kể lại chuyện đã nghe, đã đọc hoặc kể lại một việc đơn giản đã
tham gia hay chứng kiến, kể về một người
Đối với học sinh lớp 3, kể lại một câu chuyện đã nghe, đã đọc hoặc kể lại
một việc đơn giản đã tham gia hay chứng kiến, kể về một người. Đây là giai đoạn
tập dượt trong phạm vi nhỏ, chuẩn bị cho giai đoạn học văn tường thuật, văn kể
chuyện ở các lớp trên. Do vậy, học sinh kể lại câu chuyện hoặc việc đơn giản dựa
vào các câu hỏi gợi ý. Đây là loại bài lần đầu tiên học sinh quan sát có tính nghệ
thuật, giáo viên cần hướng dẫn cụ thể từng thao tác và khéo léo gắn công việc đó
với việc bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc cho học sinh.
- 14 -


Trong giai đoạn đầu của sự luyện tập, tốt nhất là để học sinh quan sát trực
tiếp các đối tượng quan sát trong môi trường tự nhiên. Không áp đặt một định
hướng chung thay cho kết quả quan sát của từng cá nhân học sinh. Dần dần hướng
dẫn để các em quan sát trước ở nhà, tới lớp dùng cách hồi tưởng nhằm ghi chép, hệ

thống hóa những chi tiết và cảm xúc đã quan sát được.
Đối với dạng bài này tôi đã dạy theo phương pháp sau đây thấy có hiệu quả:
Hướng dẫn học sinh tập tìm hiểu đề bài bằng các câu hỏi:
Đề yêu cầu kể lại chuyện gì hay việc gì?
Phần chính cần kể lại những tình tiết nào, việc nào?
Nên bắt đầu và kết thúc ra sao?
Cho học sinh đọc lại câu chuyện định kể, nhớ lại các việc đã tham gia hoặc
chứng kiến. Hướng dẫn học sinh hồi tưởng lại những gì đã biết xung quanh câu
chuyện, hoặc sự việc, lựa chọn các chi tiết chính cần kể, sắp kể chúng.
Hướng dẫn học sinh viết lại câu chuyện, sự việc dựa vào các câu hỏi gợi ý.
Đối với học sinh trung bình, yếu giáo viên chỉ yêu cầu các em dựa vào từng câu
hỏi để kể từng đoạn là được rồi. Đối với học sinh khá, giỏi thì giáo viên yêu cầu
các em liên kết các câu thành đoạn, các em có năng khiếu thì có thể liên kết các
đoạn thành bài tập làm văn hoàn chỉnh.
Ví dụ: Viết lại những điều em vừa kể về những trò vui trong ngày hội thành
một đoạn văn (khoảng 5 câu).
Sau khi cho học sinh đọc kĩ và phân tích đề bài, giáo viên cho học sinh thảo
luận theo gợi ý:
Em phải viết theo gợi ý nào ở bài tập 1?
Ngày hội hôm đó em xem được những trò vui nào?
Em thích nhất là trò vui nào?
Hãy tả kĩ một vài trò vui trong ngày hôm đó.
Khi học sinh thảo luận xong, giáo viên cho các em làm bài. Sau đó, các em
đọc theo nhóm đôi để sửa chữa bổ sung cho nhau.
- 15 -


Giáo viên gọi một số em đọc bài của mình để cả lớp nhận xét, sửa chữa.
Gợi ý nhận xét
Bạn viết có đúng theo yêu cầu của đề bài không?

Số lượng câu có đủ chưa?
Trong từng câu có đủ ý chưa?
Giữa các câu có sự liên kết không?
Các từ ngữ bạn dùng có thích hợp không?
Có cần điều chỉnh hay bổ sung từ ngữ nào cho thích hợp hơn không?
Khi chấm bài, giáo viên cần ghi lời phê cụ thể phần ưu điểm, hạn chế và
hướng khắc phục những hạn chế đó để học sinh tự điều chỉnh bài làm của mình.
Ngoài việc yêu cầu về kiến thức, giáo viên cũng cần phải chú ý tới kĩ năng
làm bài của học sinh, đặc biệt là cách trình bày, chữ viết và lỗi chính tả,...
Giáo viên cần yêu cầu học sinh về nhà dựa vào gợi ý ở bài tập 1, viết một
bài tập làm văn hoàn chỉnh để luyện cho các em cách liên kết các câu thành một
đoạn văn ngắn. Đến giờ phụ đạo gọi các em đọc để cho giáo viên cùng học sinh
nhận xét, sửa chữa nhằm khắc sâu kiến thức cho các em
Để học sinh có vốn từ, sử dụng tốt trong khi làm bài tập làm văn, giáo viên
phải yêu cầu học sinh sử dụng sổ tay, ghi chép những câu văn hay, những ý độc
đáo làm tư liệu và không quên ghi chép những từ ngữ, câu văn miêu tả , gợi tả hợp
lý với từng chủ đề, từng kiểu bài. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh ghi chép thành
mảng, những tư liệu cần thiết để các em viết tập làm văn tránh sao lặp, gượng ép, ý
nghèo nàn, dùng từ không chính xác,...
Ở nội dung luyện từ và câu lớp 3, học sinh đã bắt đầu học về các phép nhân
hóa, so sánh. Đây là một trong những kĩ thuật viết tập làm văn quan trọng. Giáo
viên phải luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng các phép đó trong diễn đạt để các
em viết được những câu văn hay, sinh động, tạo tiền đề cho các em học tốt phân
môn tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung ở các lớp trên.

- 16 -


IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi đã dạy phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 3 tôi nhận thấy kết

quả học tập phân môn này có chiều hướng phát triển. Qua các kì kiểm tra, kết qủa
về điểm của bài tập làm văn viết đã tiến bộ rõ rệt. Nhiều em đã vận dụng khá tốt
những kiến thức được học vào bài viết, bài nói của mình. Góp phần nâng cao chất
lượng môn Tiếng Việt của lớp tôi. Cụ thể như sau:
Năm học 2011 – 2012, môn Tiếng Việt có kết quả như sau:
Các kì

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

kiểm tra

1-2

3-4

5-6

7-8

9 - 10

SL


%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

KSCL

0

0

3

13,1

10


43,5

5

21,7

5

21,7

Giữa kì I

0

0

0

0

2

8,8

5

21,7

16


69,5

Cuối kì I

0

0

0

0

3

13,1

8

34,8

12

52,1

Giữa kì II

0

0


0

0

0

0

1

4,3

22

95,7

Cuối kì II

0

0

0

0

0

0


2

8,8

21

91,2

- 17 -


PHẦN KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm.
Trong công tác chuyên môn, để giúp học sinh lớp 3 học tốt phân môn tập làm
văn, tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
Phải tập trung nghiên cứu chuyên sâu nội dung bài dạy.
Giáo viên phải nắm vững yêu cầu cơ bản và hệ thống kiến thức của phân môn
tập làm văn để hướng dẫn học sinh một cách cụ thể, thiết thực, tránh chung chung.
Kết hợp giữa giảng dạy và kiểm tra đánh giá để kịp thời phát hiện sai sót, bổ
sung uốn nắn những thiếu sót trong học tập của học sinh.
Giáo viên phải có ý thức rèn kĩ năng nói cùng với kĩ năng viết cho học sinh và
tiến hành đồng thời 2 hoạt động : nói trước, viết sau. Khi học sinh nói, cả lớp nghe
và sửa chữa bổ sung cho bạn, nghĩa là các em đã được học 1 lần, sau đó các em
viết lại nghĩa là học lần thứ hai. Cách dạy này sẽ củng cố kĩ năng một cách có hiệu
quả nhất, đặc biệt trong dạy học tập làm văn.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
Qua mỗi đề bài, mỗi tình huống giáo viên hướng dẫn học sinh xử lí mang đậm
tính nhân văn để tâm hồn các em luôn trong sáng, bồi dưỡng cho học sinh nền tảng
đạo đức thông qua bài tập làm văn, hướng các em đến điều thiện, cái đẹp, góp phần

thực hiện mục tiêu đào tạo con người mới có đầy đủ đức, trí, thể, mỹ, lao.
Giáo viên nên dùng hình thức giúp đỡ, động viên, sửa chữa mỗi khi học sinh
nói sai, viết chưa đúng theo yêu cầu của đề bài. Khen ngợi, tuyên dương mỗi khi
các em có tiến bộ như trả lời đúng, nói câu hay, viết bài có cảm xúc.
Phải luôn tin tưởng ở các em, trân trọng từng sự tiến bộ, cố gắng của các em.
Bản thân giáo viên phải tâm huyết, nhiệt tình. Luôn lấy tình thương để đối xử với
học sinh. Không đe nẹt, không nặng lời làm cho các em chán nản, thực hiện đúng
theo lời Bác Hồ đã dạy:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”.
- 18 -


III. Khả năng ứng dụng và triển khai:
Tất cả giáo viên dạy lớp 3 đều có thể ứng dụng tốt sáng kiến kinh nghiệm
này, chỉ cần có tâm huyết với nghề, xem mình là bạn, là anh, là chị, là những người
thân gần gũi với học sinh. Thương yêu, tin tưởng, hết lòng “Vì học sinh thân yêu”.
Mỗi chúng ta hãy chung tay góp sức đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người tự
chủ, năng động, sáng tạo,… để khi lớn lên, các em trở thành những người chủ tài
năng của nước Việt Nam thân yêu.
Ngay từ bây giờ, mỗi chúng ta phải xây dựng cho được mối quan hệ thân
thiện trong môi trường giáo dục, làm cho học sinh tự tin trong học tập, tự chủ trong
giao tiếp để các em luôn thấy: “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Muốn thành công trong công tác giảng dạy, người thầy phải luôn học hỏi
không ngừng. Với tư cách một giáo viên dạy lớp, tôi nhận thấy rằng việc nghiên
cứu nội dung chương trình, chọn phương pháp phù hợp là nhiệm vụ quan trọng,
không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực
chủ động của học sinh, thể hiện tốt vai trò chủ đạo định hướng của người dạy trong
công cuộc thực hiện đổi mới phương pháp hiện nay. Trên đây là một số kinh
nghiệm của tôi trong công tác dạy phân môn tập làm văn. Chắc chắn sự thể hiện

trong để tài này còn hạn chế. Mong các đồng chí lãnh đạo và đồng nghiệp góp ý
thêm, để bản thân tôi rút kinh nghiệm thực hiện tốt hơn trong công tác giảng dạy.
IV. Những kiến nghị, đề xuất:
Qua thực tế, hầu hết các điểm trường lẻ thường có hai lớp học chung một
phòng nên giáo viên không có phòng học để phụ đạo học sinh. Tôi đề nghị lãnh
đạo cần quan tâm đầu tư xây dựng thêm phòng học ở điểm lẻ của các trường, mỗi
lớp có đủ phòng học hai buổi, để giáo viên có nơi phụ đạo học sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 3 (NXB Giáo dục, Hà Nội 2007).
2. Sách giáo viên, sách giáo khoa Tiếng Việt 3 (NXB Giáo dục, Hà Nội 2004).
3. Phương pháp dạy học ở Tiểu học (Đại học sư phạm Hà Nội I, Hà Nội 1994).
- 19 -


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của đề tài
II. Lí do chọn đề tài
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
IV. Mục đích nghiên cứu
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
II. Thực trạng của vấn đề
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
IV. Hiệu quả của SNKN

PHẦN KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm
II. Ý nghĩa của SKKN

III. Khả năng ứng dụng, triển khai
IV. Những kiến nghị, đề suất

Tài liệu tham khảo

- 20 -



×