Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Công tác quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.57 KB, 103 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................
1
1.

Lý do chọn đề tài luận văn ............................................... 1

2.
3

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn ............................

3.
Mục
đích

nhiệm
văn .................................................................. 5
4.
Đối
tượng

phạm
văn ............................................... 6

vi

5.
Phương pháp luận
văn .......................... 6




6.

Ý

luận

văn

.........................................................

nghĩa



phương

vụ

của

nghiên
pháp



thực
7


7.

cứu

nghiên

của
cứu

tiễn
Kết

luận

của
của

cấu

của

luận
luận
luận
luận

văn ......................................................................................... 8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA,
KHEN THƯỞNG ................................................................................................
9

1.1. Khái niệm, ví trí, vai trò, mục đích, yêu cầu của thi đua, khen thưởng .........
9
1.2. Quản lý nhà nước về thi đua và khen thưởng ..............................................
17
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng .................................
22
1.4. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về thi đua và khen thưởng ...................
30 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng ..................................................................................................................
33


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA,
KHEN THƯỞNG TẠI BỆNH VIỆN TUYẾN TRUNG ƯƠNG TRÊN ĐỊA
BÀN ............................................................................ 39
2.1. Khái quát về các bệnh viện tuyến trung ương trên địa bàn thành phố Hà
Nội…
39

...................................................................................................................

2.2. Kết quả đạt được của công tác thi đua, khen thưởng trong quản lý nhà nước
về thi đua, khen thưởng tại bệnh viện tuyến trung ương trên địa
bàn . ................................................................................................................ 44
2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở một số
bệnh viện tuyến Trung ương trên địa bàn .............................. 59 2.4. Đánh giá
thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng của một số bệnh viện tuyến
trung ương trên địa bàn ............................... 73
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TẠI BỆNH VIỆN TUYẾN

TRUNG ƯƠNG TRÊN ĐỊA BÀN ......................... 81 3.1. Quan điểm và định
hướng về vấn đề thi đua, khen thưởng tại bệnh viện tuyến trung ương trên địa
bàn ................................................ 81 3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng tại các bệnh viện tuyến trung ương trên địa
bàn
LUẬN

........................................

87

......................................................................................................

KẾT
103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................
106
PHỤ LỤC 1 ......................................................................................................
110

PHỤ

2 ...................................................................................................... 114

LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn

Trong giai đoạn hiện nay, trước thực tế ngành y cụ thể là các bệnh viện,
cơ sở y tế cũng như là đội ngũ y, bác sĩ bên cạnh việc nhận được nhiều thư
khen của bệnh nhân cũng như người nhà bệnh nhân thì cũng có nhiều tin
nhắn, thư nạc danh, điện thoại phản ảnh, phàn nàn về chất lượng khám chữa
bệnh, thái độ phục vụ của đội ngũ y, bác sĩ này nên Bộ trưởng Bộ Y tế phát
động nhiều phong trào thi đua trong ngành y nhằm nâng cao chất lượng khám
chữa bệnh, cải cách thủ tục hành chính, đổi mới phong cách thái độ phục vụ
của nhân viên y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua”, “công
việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua”. Thi đua phải được tổ chức trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và phải thực hiện thường xuyên, lâu dài,
rộng khắp. Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp phải tuyên truyền, giải thích,
động viên cho mọi người tự nguyện, tự giác tham gia phong trào thi đua với
kế hoạch, mục tiêu cụ thể, rõ ràng; đồng thời, phải có trách nhiệm đôn đốc,
kiểm tra, đánh giá, tổng kết phong trào thi đua. Cán bộ, đảng viên phải tích
cực vận động quần chúng, đi đầu làm gương cho mọi người. Phải kết hợp chặt
chẽ thi đua với khen thưởng, “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu
hoạch”. Khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời sẽ động viên, giáo dục
và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục. Khen thưởng bằng vật chất
hoặc tinh thần nhằm động viên, khuyến khích phát triển cái tốt để lấn át cái
xấu, nhằm xây dựng con người mới. Thi đua và khen thưởng thực sự là động
lực đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác.

1


Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 2011 đến nay, phong trào thi đua
yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng tại một số bệnh viện tuyến trung
ương đã có bước phát triển, dần đi vào nền nếp. Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh
đạo chính quyền các cấp đã quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức được nhiều

phong trào thi đua thiết thực, được đông đảo cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động tham gia hưởng ứng. Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương
của Bộ Y tế đã thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng;
tham mưu, nghiên cứu, kịp thời đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương,
chính sách về thi đua, khen thưởng; nghiên cứu, xây dựng tương đối hoàn
chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng trong
ngành y tế, trong đó có khối bệnh viện tuyến trung ương.
Công tác thi đua, khen thưởng nhìn chung tại các bệnh viện tuyến trung
ương đã thực hiện đúng quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn
bản hướng dẫn thi hành. Chất lượng các hình thức khen thưởng bậc cao được
nâng lên; đã chú trọng việc phát hiện tập thể, cá nhân lao động trực tiếp có
thành tích xuất sắc để khen thưởng kịp thời bằng hình thức khen thưởng cấp
bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.Việc triển khai và thực hiện
thường xuyên, kịp thời công tác thi đua, khen thưởng đã có tác động to lớn,
động viên, cổ vũ các tập thể, cá nhân hăng hái lao động sản xuất với năng
suất, chất lượng cao; các gương người tốt, việc tốt trong đời sống; cán bộ,
chiến sĩ các lực lượng vũ trang quên mình bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc nơi biên giới cũng như
tại các vùng biển đảo.
Tuy nhiên, phong trào thi đua ở một số bệnh viện còn hình thức, chưa
gắn kết thi đua với những công việc thường xuyên, hàng ngày; nội dung, tiêu
chí thi đua chưa thực sự cụ thể. Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong trào

2


thi đua, chưa kịp thời nắm bắt những vấn đề từ thực tiễn đặt ra, chưa thực sự
gắn với lợi ích của người lao động, do đó chưa thu hút, phát huy, tạo được
động lực cho công tác thi đua từ cơ sở. Phong trào thi đua chưa phát triển
đồng đều và rộng khắp; mốt số nơi còn lúng túng trong việc đổi mới nội dung,

hình thức, biện pháp tổ chức thi đua. Công tác kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn,
sơ kết, tổng kết chưa được coi trọng; chưa đầu tư đúng mức cho phong trào thi
đua; tính động lực và hiệu quả của các phong trào thi đua còn hạn chế. Công
tác khen thưởng chưa bám sát các phong trào thi đua, chưa lấy kết quả phong
trào thi đua làm căn cứ, còn thiếu chính xác, còn nể nang, cào bằng, cá biệt có
trường hợp báo cáo không trung thực, chạy theo thành tích; thủ tục khen
thưởng còn nặng về hành chính, gây phiền hà, khó khăn.
Qua thực tiễn nêu trên, đặc biệt xuất phát từ những bất cập mà Bệnh
viện tuyến trung ương trên địa bàn đang gặp phải khi tổ chức phong trào thi
đua, khen thưởng; việc nghiên cứu để làm rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa của phong
trào thi đua, khen thưởng để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả trong quản lý thi đua, khen thưởng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ của tỉnh trong tình hình mới là một yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay. Để
công tác thi đua, khen thưởng có hiệu quả cần chú trọng việc quản lý nhà
nước đối với công tác thi đua, khen thưởng tại các bệnh viện tuyến Trung
ương. Đó là lý do tôi chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
tại bệnh viện tuyến trung ương trên địa bàn ” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn
Trên thực tế có rất tài liệu, bài báo, tài liệu tham khảo khác như: Hồ Chí
Minh - Thi đua yêu nước, Nhà xuất bản sự thật năm 1970, Tài liệu Hội thảo
“Bác Hồ với phong trào thi đua yêu nước”, Viện Thi đua - Khen thưởng, tài
liệu nội bộ, Hà Nội năm 1998; Kỷ yếu Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần
thứ VI,
3


VII, VIII. Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ, công tác thi đua - khen thưởng của
Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Bộ Nội vụ. Các bài viết này
đưa ra những nội dung khái quát nhất về công tác thi đua, khen thưởng.
Luận văn “Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng góp phần tạo động

lực cho cán bộ, công chức ngành tài chính trong điều kiện hiện nay” của tác
giả Phùng Thị Thanh Loan, luận văn thạc sĩ Quản lý Hành chính công, Học
viện Hành chính Quốc gia, 2013. Trong Luận văn này, tác giả đã đưa ra được
một số giải pháp tạo động lực làm việc cho cán bộ, công chức làm việc trong
ngành tài chính, làm cho họ gắn bó với ngành hơn, yêu nghề hơn tuy nhiên
đối tượng mà tác giả đề cập đến chỉ là cán bộ, công chức mà chưa bao trùm
nhiều đối tượng lao động khác cũng góp phần quan trọng vào công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước.
Luận văn “Tăng cường quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng giai
đoạn 2011-2020” của tác giả Lê Xuân Khánh, luận văn thạc sĩ Quản lý Hành
chính công, Học viện Hành chính Quốc gia, 2010 đã đi sâu phân tích thực
trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở nhiều ngành, lĩnh vực khác
nhau và kết quả đạt được qua những phong trào đó nhưng giải pháp để tăng
cường quản lý nhà nước cho từng ngành, lĩnh vực là chưa cụ thể.
Luận văn “Quản lý nhà nước về thi đua-khen thưởng trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế” của tác giả Nguyễn Thị Ba Hồng, luận văn thạc sĩ Quản lý
công, Học viện Hành chính Quốc gia, 2016 đã đưa ra được kinh nghiệm quản
lý nhà nước về thi đua, khen thưởng của nhiều tỉnh lớn tại Việt Nam, đặc biệt
là thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai phần mềm “một cửa điện tử” để phục
vụ công tác quản lý công văn đi, đến và hồ sơ khen thưởng của thành phố. Tác
giả đưa ra được những kiến nghị thiết thực giúp cho việc quản lý nhà nước về
thi đua, khen thưởng phát huy được những ưu điểm. Đây là một luận văn có
tính khoa học cao.

4


Bên cạnh những luận văn trên còn có cả luận văn “Quản lý công tác thi
đua, khen thưởng ở hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Hoài Thu năm 2013,
luận văn “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại Thừa thiên Huế” của

tác giả Bùi Thị Hồng Thiết năm 2013. Nhưng nhìn chung, các công trình
nghiên cứu đều tập trung vào việc phân tích làm rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa của
công tác thi đua, khen thưởng; đánh giá thực trạng công tác thi đua, khen
thưởng qua các phong trào thi đua khen thưởng hoặc qua việc quản lý công tác
thi đua, khen thưởng tại một số đơn vị, cơ sở; qua đó, đề xuất các giải pháp
nâng cao, tăng cường quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng...Đây là những
tài liệu bổ ích để tác giả tham khảo trong quá trình triển khai và thực hiện luận
văn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng tại các bệnh viện nói chung và một số bệnh viện tuyến Trung
ương tại hầu như chưa có và chưa nghiên cứu chuyên sâu.
Từ năm 2011 đến nay, ngành Y tế đã phát động rất nhiều phong trào thi
đua nhằm kêu gọi mọi cán bộ, công chức, viên chức, người lao chất lượng
khám chữa bệnh và dịch vụ y tế, Hội thi khoa học sáng tạo tuổi trẻ, Thực hiện
kế hoạch thay đổi phong cách thái độ của nhân viên y tế nhằm hướng tới sự
hài lòng của người bệnh, Giao tiếp ứng xử trong ngành y......rất bổ ích. Các
cuộc thi này đã góp phần giúp nhân viên y tế hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao đem lại cho bản thân nhiều thành tích cao quý của Đảng, Nhà nước
trao tặng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện công tác quản
lý nhà nước về thi đua - khen thưởng tại bệnh viện tuyến trung ương trên địa
bàn .

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài luận văn tập trung nghiên
cứu 3 nhiệm vụ sau:

-

Hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác thi đua - khen

thưởng.
-

Phân tích và đánh giá tình hình công tác quản lý nhà nước về thi đua -

khen thưởng tại các bệnh viện tuyến trung ương trên địa bàn .
-

Đề xuất giải pháp và điều kiện thực hiện giải pháp nhằm hoàn thiện

quản lý nhà nước về thi đua - khen thưởng tại bệnh viện tuyến trung ương trên
địa bàn .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động quản lý nhà nước về thi đua - khen thưởng tại bệnh viện
tuyến Trung ương trên địa bàn .
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: quản lý nhà nước về thi đua - khen thưởng rất rộng nên đề
tài luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các nội dung quản lý nhà nước về thi
đua, khen thưởng theo quy định của Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành.
Về không gian: Nghiên cứu một số Bệnh viện tuyến trung ương trên địa
bàn bao gồm: Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương,
Bệnh viện Lão khoa Trung ương.
Về thời gian: từ năm 2011 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận

Để giải quyết những nhiệm vụ đã đặt ra, luận văn được thực hiện trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về thi đua - khen thưởng.
6


5.2.Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp phân tích tài liệu: nghiên cứu các tài liệu liên quan, các
bài báo, công trình nghiên cứu khoa học, luận văn của nhiều tác giả liên quan
đến thi đua, khen thưởng từ đó rút ra được những điểm mới, thành công của
công trình nghiên cứu và cả những điểm chưa hợp lý để đưa ra các giải pháp
riêng cho luận văn của tác giả .
Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu: tác giả đi thu thập số liệu,
hoạt động của ba bệnh viện tuyến trung ương trên địa bàn qua sách báo, kỷ
yếu, báo cáo tổng kết hoạt động 6 tháng đầu năm và cả năm của ba bệnh viện
và cả trao đổi trực tiếp với cán bộ phụ trách công tác thi đua, khen thưởng của
bệnh viện. Từ đó lập bảng so sánh các hoạt động tổ chức phong trào cũng như
là kết quả đạt được sau mỗi phong trào thi đua để thấy được công lao cống
hiến của cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại ba bệnh viện.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: qua quá trình nghiên cứu tài liệu,
phân tích thực trạng, phân tích số liệu của từng bệnh viện để góp phần nâng
cao độ tin cậy trong các kết quả nghiên cứu.
Phương pháp chuyên gia: học viên có những buổi trao đổi kiến thức,
kinh nghiệm thực tế của nhiều chuyên gia, nhà khoa học về công tác thi đua,
khen thưởng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề cơ bản trong quản lý
nhà nước về thi đua - khen thưởng trong ngành y tế.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Phân tích đánh giá từ đó xác định được nguyên nhân của thực trạng
quản lý nhà nước về thi đua - khen thưởng tại bệnh viện tuyến trung ương trên
địa bàn .
7


Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về thi đua - khen thưởng
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng tại các bệnh viện tuyến trung ương trên địa bàn .
Có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý
nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng trong thực hiện nhiệm vụ quản lý
về công tác thi đua khen thưởng của ngành.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thi đua - khen thưởng tại
bệnh viện tuyến trung ương trên địa bàn .
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về thi
đua - khen thưởng tại bệnh viện tuyến trung ương trên địa bàn .
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò, mục đích, yêu cầu của thi đua, khen thưởng
1.1.1. Khái niệm thi đua, khen thưởng
* Khái niệm về thi đua
Vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
về thi đua, thi đua xã hội chủ nghĩa vào hoàn cảnh nước ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nâng quan niệm về thi đua lên tầm tư tưởng, đường lối chính trị. Coi

thi đua yêu nước là biểu hiện của lòng yêu nước của mỗi người dân Việt Nam.
Thi đua yêu nước là cốt cách, phẩm chất đạo đức của người Việt Nam yêu
8


nước. Người đã khởi xướng việc tổ chức các phong trào thi đua trên các lĩnh
vực đời sống xã hội ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam giành được chính
quyền sau Cách mạng tháng Tám và bắt tay vào xây dựng chế độ xã hội mới,
trong hoàn cảnh thù trong giặc ngoài đều muốn thủ tiêu chế độ mới đó, Người
đã làm cho thi đua yêu nước trở thành một phương pháp cách mạng mang
đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.
Ngày 11 tháng 6 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho Đảng
Nhà nước ta lần đầu tiên chính thức phát động phong trào Thi đua ái quốc.
Người khẳng định rõ: “Hễ là người Việt Nam yêu nước thì phải thi đua, thi
đua là yêu nước. Thi đua là một cách yêu nước thiết thực nhất, những người
thi đua là những người yêu nước nhất” [3, tr 236]. Người lãnh đạo Đảng, Nhà
nước ta liên tục phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước - Làm cho các
phong trào thi đua yêu nước phát triển hết sức mạnh mẽ và đã động viên, thu
hút tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, các nhân sĩ, trí
thức tham gia. Điều 3 khoản 1 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2003 quy định:
“Thi đua là
hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm
phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Như vậy, thi đua là hoạt động có tổ chức được cá nhân hoặc tập thể tham gia
một cách tự nguyện và không ngừng phấn đấu để đạt được kết quả tốt nhất
theo đúng mục tiêu, nhiệm vụ mà tổ chức đã đề ra, góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Với khái niệm như trên, thi đua bao hàm các nội dung sau:
Thi đua là hoạt động có tổ chức với các nhiệm vụ chủ yếu như lập kế
hoạch, xác định mục tiêu, hình thức, đối tượng, tổ chức phát động, ký giao

ước thi đua, kiểm tra đôn đốc, sơ kết, tổng kết phong trào thi đua, biểu dương,
nhân rộng điển hình tiên tiến... có sự gia của tổ chức Đảng, các đoàn thể và cá
9


nhân. Người phát động phong trào thi đua là người có thẩm quyền được quy
định trog Luật Thi đua, khen thưởng. Nội dung thi đua được thực hiện theo
quy định và khi tựng danh hiệu thi đua phải dựa trên cơ sở tiêu chuẩn cụ thể.
Đó là điểm khác nhau giữa thi đua tự phát và thi đua có tổ chức quản lý.
Thi đua là một hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện của mỗi cá
nhân, tập thể. Chỉ khi có tập thể cùng nhau hoạt động trên tinh thần tự nguyện
thì thi đua mới có ý nghĩa.
Thi đua là một hoạt động có mục tiêu, định hướng rõ ràng nhằm thu
được kết quả thành tích tốt nhất . Trong quản lý nhà nước, thi đua là yêu nước
và để xây dựng, bảo vệ tổ quốc.
* Khái niệm về khen thưởng
Theo Từ điển Tiếng việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2008, Khen là
sự nhận xét đánh giá tốt về một con người nào đó; tổ chức nào đó, về cái gì,
việc gì đó với ý nghĩa hài lòng. Còn thưởng là tặng cho bằng hiện vật hoặc
tiền. Như vậy, khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao, thành tích của cơ
quan có thẩm quyền đối với cá nhân và tập thể. Nó tồn tại song hành với sự
tồn tại của Nhà nước, còn Nhà nước là còn khen thưởng. Khen thưởng vừa có
ý nghĩa động viên về tinh thần vừa khích lệ bằng vật chất. Khen thưởng đóng
vai trò quan trọng, nó là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, là một công cụ
hữu ích đối với người quản lý, người đứng đầu tổ chức nhằm khuyến khích
động viên mọi người tích cực hăng hái lập thành tích trong lao động sản xuất
và công tác.
Như vậy, trong quản lý nhà nước, khen thưởng được hiểu là sự ghi
nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và có những phần thưởng về vật chất
nhằm động viên khích lệ đối với cá nhân hoặc tổ chức đã hoàn thành xuất sắc

mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức đó.

10


Khen thưởng người làm việc trong tổ chức hành chính nhà nước là
hình thức công nhận sự đóng góp "vượt mức yêu cầu" của công chức đối với
hoạt động công vụ; là sự ghi nhận và trao cho công chức có thành tích những
giá trị tinh thần và vật chất để động viên, khích lệ sự cống hiến của họ cũng
như hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung.
Trong khen thưởng cũng phải đảm bảo các yêu cầu có tính nguyên tắc như
công minh, công bằng, phải căn cứ vào thành tích, vào kết quả công việc để
khen thưởng xứng đáng, tránh thổi phồng hoặc tô vẻ thành tích. Các mức khen
thưởng đề ra phải có tính hiện thực để cán bộ, công chức, viên chức có nỗ lực
phấn đấu, có ý chí vươn lên đạt được những điều mà mình mong muốn trong
khả năng của mỗi cá nhân đó. Việc quá dễ dãi, xuề xòa hoặc thiếu nghiêm túc
trong khen thưởng, đề ra mức khen thưởng quá thấp hay quá hình thức sẽ làm
cho cán bộ, công chức viên chức, người lao động không muốn nỗ lực phấn
đấu.
Trong khen thưởng phải kết hợp giữa khen thưởng về mặt tinh thần với khen
thưởng về mặt vật chất. Hai yếu tố tình thần và vật chất này phải được kết hợp
chặt chẽ và phải được giải quyết thỏa đáng mới có tác dụng có thể động viên
khuyến khích cán bộ, công chức một cách toàn diện. Trong khen thưởng
không nên phiến diện, chỉ thiên lệch về mặt vật chất hoặc mặt tinh thần. Trong
thực tiễn thực hiện khen thưởng, cần phải tuân thủ được các nguyên tắc, song
phải biết vận dụng khoa học vào từng hoàn cảnh cụ thể, con người cụ thể. Để
công tác thưởng được thực hiện tốt và phát huy tác dụng tích cực còn cần phải
phát huy có chế dân chủ, có sự tham gia của cán bộ, công chức; phải phát huy
được sự nhìn nhận đánh giá công tâm của những người làm công tác khen
thưởng, đánh giá.

Điều 4 luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng
năm 2013 quy định: “Nhà nước thực hiện khen thưởng qua tổng kết thành tích

11


các giai đoạn cách mạng, khen thưởng theo công trạng và thành tích đạt được,
khen thưởng quá trình cống hiến và khen thưởng đối ngoại.”
Trong pháp luật Việt Nam, cả hai hình thức khen thưởng vật chất và khen
thưởng tinh thần đều được quy định, nhưng phổ biến vẫn là hình thức suy tôn
bằng các danh hiệu. Một số danh hiệu chủ yếu như: Huy chương; Huân
chương; Cờ thi đua của Chính phủ; Cờ thi đua cấp Bộ, ngành; Chiến sĩ thi
đua; Anh hùng lao động; Bằng khen; Giấy khen…..
Để nhận được những danh hiệu trên, đòi hỏi phải theo đúng quy trình,
thủ tục do pháp luật quy định. Nhà nước cần phải có những quy định tiêu
chuẩn cụ thể, rõ ràng về khen thưởng đối với công chức để đảm bảo công tác
khen thưởng thực sự phát huy tác dụng, để công tác khen thưởng thực sự là
công cụ hữu hiệu trong xây dựng và phát triển đội ngũ công chức phục vụ đắc
lực cho quá trình cải cách hành chính nhà nước, hội nhập quốc tế và phát triển
đất nước.
* Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trong một nước thưởng phạt phải
nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc
mới mau thành công” [1, tr 163]. Và khi trình độ dân trí được nâng cao hơn,
Người còn chỉ rõ mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng là công tác động
viên chính trị, giáo dục tư tưởng, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, là
động lực phát triển xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Nếu thi đua là hành động
cách mạng, tự nguyện, tự giác của quần chúng nhân dân có tổ chức của Nhà
nước gắn liền với truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc thì khen
thưởng lại là chức năng quản lý của Nhà nước, là ghi nhận, biểu dương,

khuyến khích, tôn vinh công trạng của nhân dân.
Thi đua là cơ sở của việc khen thưởng. Thi đua tốt thì có nhiều thành
tích để khen thưởng. Bình bầu thi đua đúng, công khai, chặt chẽ giúp cho việc
12


khen thưởng được chính xác, động viên. Muốn làm tốt công tác khen thưởng
thì phải lãnh đạo tốt phong trào thi đua và tổ chức việc bình bầu danh hiệu thi
đua nghiêm túc ngay từ cơ sở.
Khen thưởng phải phản ánh đúng phong trào thi đua. Nơi nào có phong
trào thi đua mạnh mẽ, đều khắp thì khen nhiều, phong trào thi đua xuất sắc thì
khen cao, phong trào yếu thì ít khen mà khen nhiều là không đúng. Khen
thưởng còn nhằm dẫn dắt phong trào thi đua, là định hướng phát triển xã hội.
Việc khen thưởng từ phong trào thi đua thể hiện hướng đi đúng của phong trào
cần được tiếp tục duy trì và phát huy. Nhờ làm tốt công tác động viên thi đua
và khen thưởng đúng và kịp thời mà việc thực hiện các nhiệm vụ sản xuất,
chiến đấu, lao động và học tập đều đạt được những kết quả khả quan, giúp
chúng ta có đủ người và lực đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước,
từng bước tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Thực tế trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, phong trào thi đua tuỳ theo
nhiệm vụ, tầm quan trọng mà hỗ trợ cho các hoạt động quản lý Nhà nước.
Phong trào thi đua cũng có những bước thăng trầm theo từng giai đoạn cách
mạng, giai đoạn của lịch sử của dân tộc, đó là điều tất yếu. Nhưng điều quan
trọng nhất chính là hiệu quả từ phong trào thi đua đã góp phần tạo nên thành
công trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Chủ nghĩa xã hội và con
người mới. Phong trào thi đua trong sự nghiệp cách mạng chung là điều
không thể phủ nhận và cần phải được tiếp tục duy trì và phát triển, nâng lên
một tầm cao mới sao cho phù hợp với tình hình mới mang tính thời đại. Trước
sự phát triển nhanh về kinh tế xã hội, xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế của
đất nước, lãnh đạo Đảng và Nhà nước nhận thấy cần phải chuyển biến trong

tư tưởng chỉ đạo, nhận thức đối với công tác thi đua khen thưởng. Việc đưa
công tác thi đua khen thưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ hỗ trợ hiệu quả
trong công tác quản lý nhà nước hiện nay là một việc làm cấp bách. Vì vậy,

13


Bộ Chính trị đã có 03 Chỉ thị số 35, 39 và 34/CT-TW và Luật Thi đua, Khen
thưởng đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, kỳ họp
thứ 4 thông qua ngày 26 thág 11 năm 2003 và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng
7 năm 2004 và được sửa đổi năm 2005, năm 2013.
Nếu thi đua là biện pháp xây dựng con người mới thì khen thưởng là
công cụ quản lý Nhà nước, quản lý con người mới. Quản lý con người mới
được thể hiện ở giai đoạn trong một quá trình ghi nhận các tập thể, cá nhân có
công lao thành tích. những điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua. Giai
đoạn thứ nhất là xây dựng, phát động phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ
phát triển đất nước, từ phong trào thi đua phát hiện ra những nhân tố mới,
những điển hình tiên tiến, ghi nhận biểu dương thích đáng và xây dựng thành
mô hình kiểu mẫu để nhân rộng. Từ đó thúc đẩy phong trào thi đua lên một
tầm cao mới với nhiều điển hình tiên tiến hơn, thực hiện nhiệm vụ của đất
nước nặng nề nhưng vinh quang, cao cả hơn.
Có thể khẳng định rằng, trong giai đoạn hiện nay, thi đua là một biện
pháp hữu hiệu xây dựng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa và khen
thưởng là biện pháp quản lý Nhà nước, quản lý con người mới.
1.1.2. Vị trí, vai trò của thi đua, khen thưởng
Thi đua là nhằm phát huy nội lực về tinh thần để lôi cuốn, động viên,
khuyến khích mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức phát huy truyền thống yêu
nước, năng động, sáng tạo, vươn lên lập thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực,
góp phần vào thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thi đua là nhằm thúc đẩy năng lực sáng tạo của mỗi người; góp phần phát

triển tư duy, nâng cao nhận thức, tạo nên những động lực mới cho sự nghiệp
cách mạng; khơi dậy lòng yêu nước, bồi dưỡng nhân cách; nâng cao tính tích
cực xã hội trong mỗi con người. Qua mỗi phong trào thi đua, nhiều tập thể, cá
nhân, điển hình tiên tiến trong toàn quốc được khen thưởng, được nhân rộng;

14


tạo nên sức mạnh quần chúng rộng lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Khen thưởng được coi như một công cụ quan trọng trong quản lý nhà
nước; là một lĩnh vực quan trọng trong quá trình thực hiện các chủ trương,
đường lối cuả Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ chính trị
của địa phương, của cơ quan, tổ chức và đơn vị; là biện pháp để đánh giá kết
quả công việc, đánh giá những cố gắng, những thành tích, quá trình hoạt động
đóng góp của tập thể và cá nhân trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thi đua, khen thưởng là những hình thức tốt nhất để tập hợp, giác ngộ
cách mạng và nâng cao nhận thức cho quần chúng về tư tưởng, chính trị, trình
độ văn hóa, nhận thức xã hội; hướng quần chúng hành động để đạt các mục
tiêu cách mạng, để đi đến thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
1.1.3. Mục đích, yêu cầu của thi đua, khen thưởng
* Mục đích của thi đua
Có thể nói, thi đua nhằm một mục tiêu chung là thực hiện “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong mỗi cơ quan, đơn
vị tùy thuộc vào tình hình mỗi giai đoạn mà xác định mục đích và công tác thi
đua được xác định cho phù hợp. Nhìn chung, mục đích của công tác thi đua
đều nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể
phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành

nhiệm vụ được giao. Để thực hiện mục tiêu trên thi đua là một đòi hỏi các cơ
quan, đơn vị phải lấy phong trào thi đua làm đòn bẩy để thúc đẩy hoàn thành
nhiệm vụ; coi công tác thi đua là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị. Căn cứ mục tiêu chung của cả nước,

15


cụ thể hóa thành mục tiêu thi đua sao cho phù hợp với từng phong trào của cơ
quan, đơn vị.
* Yêu cầu của thi đua
Để thực hiện đúng mục đích, nguyên tắc, quy trình trong thi đua, các
cơ quan, đơn vị phải nghiêm túc tuân thủ các chủ trương, đường lối của Đảng;
các quy định trong Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản hướng dẫn hiện
hành. Trong quá trình tổ chức phong trào thi đua phải đảm bảo các nguyên tắc
cơ bản sau: tự nguyện, tự giác, công khai, đoàn kết, hợp tác và cùng phát
triển. Ngoài ra, thi đua còn phải đảm bảo hiệu quả trong việc duy trì và phát
triển bền vững của cơ quan, đơn vị.
* Mục đích của khen thưởng
Khen thưởng trong các cơ quan, tổ chức đều nhằm mục tiêu ghi nhận,
tôn vinh, biểu dương thành tích và nhân điển hình tiên tiến những tập thể và
cá nhân có thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất, chiến đấu, học tập và
công tác; nhằm giáo dục động viên và đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước;
động viên mọi người phát huy truyền thống yêu nước, tính năng động, sáng
tạo, vươn lên lập thành tích xuất sắc trên tất cả mọi lĩnh vực; đấu tranh chống
các biểu hiện tiêu cực, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
* Yêu cầu của khen thưởng
Các cơ quan, đơn vị khi thực hiện khen thưởng phải luôn chấp hành
nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng và quy định của Nhà nước; tuân
thủ các quy định trong Luật Thi đua, khen thưởng. Các đơn vị phải đảm bảo

các nguyên tắc: chính xác, công bằng, công khai, kịp thời; một hình thức khen
thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng; có sự thống nhất giữa tính
chất và hình thức và đối tượng khen thưởng; có sự kết hợp chặt chẽ giữa động
viên về tinh thần phải đi đôi với thưởng về vật chất và hình thức khen thưởng
này phải phù hợp với tình hình thực tiễn cơ quan, đơn vị trong từng giai đoạn

16


cụ thể để tránh trường hợp không cân đối giữa nguồn thu của đơn vị với quỹ
thi đua, khen thưởng. Xã hội ngày càng phát triển và đề cao bình đẳng giới
nên trong thi đua, khen thưởng cũng phải bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới
trong thi đua, khen thưởng cụ thể như cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ thì thời
gian giữ chức vụ để xét khen thưởng có quá trình cống hiến được giảm 3 năm
so với quy định; khen tập thể đủ điều kiện, tiêu chuẩn thì ưu tiên tập thể có tỷ
lệ nữ từ 70% trở lên; lao động nữ có thời gian nghỉ thai sản vẫn được xét danh
hiệu “Lao động tiên tiến, chiến sĩ tiên tiến” thay vì những đối tượng khác nếu
nghỉ từ 40 ngày trở lên thì không được xét. Khen thưởng và thi đua phải luôn
có mối quan hệ biện chứng với nhau.
1.2. Quản lý nhà nước về thi đua và khen thưởng
1.2.1.Khái niệm
Quản lý nhà nước, hiểu theo nghĩa rộng là một hình thức hoạt động của
các cơ quan nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản
luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối
tượng bị quản lý và vấn đề thanh tra, kiểm tra đối với đối tượng quản lý cần
thiết của Nhà nước. Như vậy, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình
thông qua hệ thống các quy định pháp luật, chính sách, kế hoạch nhằm tổ
chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây
dựng kinh tế, văn hoá, xã hội và hành chính – chính trị. Theo nghĩa hẹp, quản
lý nhà nước là hoạt động chấp hành - điều hành được đặc trưng bởi các yếu tố

có tính tổ chức; được thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp luật; được bảo
đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước (hoặc
một số cá nhân và tổ chức xã hội trong trường hợp được giao nhiệm vụ quản
lý nhà nước). Theo Giáo trình quản lý hành chính nhà nước: “Quản lý nhà
nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối
với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và

17


phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những
chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và
bảo vệ tổ quốc XHCN” [27]. Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang
tính chất quyền lực nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền được sử dụng quyền
lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước bao gồm
toàn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các văn bản dưới luật đến
việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tài phán
đối với đối tượng quản lý cần thiết của Nhà nước.
Như vậy, có thể hiểu Quản lý nhà nước về thi đua và khen thưởng là sự
tác động, điều chỉnh thường xuyên của nhà nước đối với hoạt động thi đua,
khen thưởng, để các hoạt động đó diễn ra theo quy định của pháp luật, góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
1.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về thi đua và khen thưởng
Việc xây dựng và tổ chức hệ thống cơ quan chức năng làm công tác thi
đua, khen thưởng đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm ngay từ khi phong
trào thi đua, khen thưởng được hình thành. Ngày 17/9/1947 đã có sắc lệnh số
83/SL thành lập Viện Huân chương thuộc Phủ Chủ tịch với nhiệm vụ giúp
Chủ tịch nước nghiên cứu ban hành các chế độ, thể lệ khen thưởng Huân
chương, Huy chương, xét duyệt, đặt sản xuất và cấp phát các loại Huân
chương, Huy chương. Năm 1964 đã có Quyết định số 28/CP ngày 04/02/1964

của Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Thi đua Trung ương nhằm đẩy mạnh
và quản lý công tác thi đua, khen thưởng, nhằm nâng cao việc quản lý, chỉ đạo
công tác thi đua và khen thưởng, năm 2004 Viện Thi đua khen thưởng Nhà
nước được chuyển thành Ban Thi đua Khen thưởng Trung ương trực thuộc
Chính phủ và là cơ quan thường trực của Hội đồng Thi đua, Khen thưởng
Trung ương.

18


Ban Thi đua, Khen thưởng Trung ương được thành lập theo quyết định
158/2004/NĐ-CP ngày 25/8/2004 của Chính phủ. Để giảm bớt đầu mối thuộc
Chính phủ, ngày 08/8/2007, Chính phủ có Nghị định số 08/2007/NĐ-CP quy
định Ban Thi đua, Khen thưởng Trung ương trực thuộc sự quản lý của Bộ Nội
vụ, giúp Chính phủ quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi
cả nước và tổ chức các hoạt động thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp
luật.
Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014 quy định chi tiết thi
hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng năm
2013 quy định về Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, cụ thể:
* Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương là cơ quan tham mưu, tư
vấn cho Đảng và Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
Thành phần Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương gồm:
+ Chủ tịch Hội đồng là Thủ tướng Chính phủ;
+ Các Phó Chủ tịch Hội đồng: Phó Chủ tịch nước là Phó Chủ tịch thứ
nhất; Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Ban Thi đua - Khen thưởng Trung
ương là Phó Chủ tịch thường trực; Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là Phó Chủ
tịch;
+ Hội đồng có từ 13 đến 15 ủy viên là đại diện lãnh đạo các bộ, ban,

ngành, đoàn thể Trung ương.
Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương quyết định thành
phần các ủy viên và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng.
Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương là cơ quan thường trực, giúp
việc cho Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương.
* Hội đồng Thi đua - Khen thưởng cấp bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung
ương (sau đây gọi là Hội đồng Thi đua - Khen thưởng cấp bộ) là cơ quan tham
19


mưu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, ban, ngành, đoàn thể
Trung ương về công tác thi đua, khen thưởng.
Thành phần Hội đồng Thi đua - Khen thưởng cấp bộ gồm:
+ Chủ tịch Hội đồng là Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, ban,
ngành, đoàn thể Trung ương;
+ Hội đồng có từ 13 đến 15 thành viên, trong đó có từ 03 đến 04 Phó
Chủ tịch. Vụ trưởng Vụ Thi đua - Khen thưởng là Phó Chủ tịch thường trực.
Đối với bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương chưa thành lập Vụ Thi đua Khen thưởng thì Trưởng Phòng (Ban) Thi đua - Khen thưởng là ủy viên
thường trực Hội đồng. Các Phó Chủ tịch khác và các ủy viên do Chủ tịch Hội
đồng quyết định;
+ Thành phần Hội đồng Thi đua - Khen thưởng của Bộ Quốc phòng, Bộ
Công an do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định.
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng cấp bộ có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Tham mưu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng các bộ, ban, ngành, đoàn thể
Trung ương phát động các phong trào thi đua theo thẩm quyền;
- Định kỳ đánh giá kết quả phong trào thi đua và công tác khen thưởng;
tham mưu việc sơ kết, tổng kết công tác thi đua, khen thưởng; kiến nghị, đề
xuất các chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong
từng năm và từng giai đoạn;
- Tham mưu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng các ban, ngành, đoàn thể Trung

ương kiểm tra, giám sát các phong trào thi đua và thực hiện các chủ trương,
chính sách pháp luật về thi đua, khen thưởng;
- Tham mưu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng các ban, ngành, đoàn thể Trung
ương quyết định tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng theo thẩm
quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền khen thưởng.

20


Vụ (Phòng, Ban) Thi đua - Khen thưởng của các bộ, ban, ngành, đoàn
thể Trung ương là thường trực của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng cấp bộ.
* Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tại các bệnh viện tuyến trung ương
có nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy Đảng và chính quyền về công tác thi đua,
khen thưởng của đơn vị mình.
Thành phần Hội đồng Thi đua - Khen thưởng này gồm:
+ Chủ tịch Hội đồng là Giám đốc Bệnh viện;
+ Phó Chủ tịch Hội đồng: thường là 01 Phó Giám đốc Bệnh viện phụ
trách chuyên môn (nếu Bệnh viện nào có Phó Giám đốc phụ trách kinh tế thì
cũng giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng thi đua, khen thưởng)
+ Hội đồng có từ 6 đến 8 thành viên là trưởng hoặc phó của các khoa,
phòng sau: Phòng Tổ chức cán bộ, phòng Tài chính kế toán, phòng Kế hoạch
tổng hợp, phòng Điều dưỡng, khoa Dược, Công đoàn, Đoàn Thanh niên; trong
đó phòng Tổ chức cán bộ chịu trách nhiệm thường trực.
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tại bệnh viện trung ương có các nhiệm
vụ, quyền hạn sau:
+ Tham mưu cho Giám đốc Bệnh viện phát động các phong trào thi đua
theo thẩm quyền;
+ Định kỳ đánh giá kết quả phong trào thi đua và công tác khen thưởng;
tham mưu việc sơ kết, tổng kết công tác thi đua, khen thưởng; kiến nghị, đề
xuất các chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong

từng năm và từng giai đoạn;
+ Tham mưu cho Giám đốc Bệnh viện kiểm tra, giám sát các phong trào
thi đua và thực hiện các chủ trương, chính sách pháp luật về thi đua, khen
thưởng;

21


+ Tham mưu cho Giám đốc Bệnh viện khen thưởng đột xuất hoặc
thường quy cho những cá nhân, tập thể xuất sắc hoặc đề xuất lên cấp trên
phong tặng các danh hiệu thi đua và các hình thức khen thưởng cao quý khác;
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về thi đua và khen thưởng
Công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng bao gồm những nội
dung cơ bản sau:
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng
Văn bản pháp luật là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước quản lý xã
hội nói chung và quản lý công tác thi đua, khen thưởng nói riêng. Nhà nước
quản lý thi đua khen thưởng bằng pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà nước là sự thể hiện, cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng về
công tác thi đua, khen thưởng, đồng thời cũng là sự tập trung nguyện vọng
của quần chúng nhân dân trong lao động, sản xuất, công tác, học tập đóng góp
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Văn bản pháp luật tạo ra hành lang pháp lý để các tổ chức, các tầng lớp
nhân dân và các cá nhân phát huy lòng nhiệt tình hăng hái tham gia thi đua và
đón nhận những kết quả, phần thưởng xứng đáng; hành lang đó tạo ra sự
thống nhất công tác thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp trong cả nước.
Thực tế đã chứng minh ngay từ khi Nhà nước ta mới ra đời trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, để huy động sức
mạnh của toàn Đảng, toàn dân, nhà nước đã ban hành các văn bản pháp lý về
thi đua, khen thưởng như: ngày 20/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra

Quốc lệnh ban hành 10 điều khen thưởng với lời mở đầu: “Trong một nước,
thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới
thắng lợi, kiến quốc mới thành công” [1, tr 163]. Quốc lệnh là văn bản pháp lý
đầu tiên về điều kiện khen thưởng, đặt nền móng hình thành chính sách khen
thưởng; văn bản này đã góp phần quan trọng trong phong trào thi đua yêu

22


nước phát triển, làm nên chiến thắng thần thánh Điện Biên phủ, miền Bắc
được hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Suốt chiều dài hơn 60 năm xây dựng đất nước, công tác thi đua khen
thưởng đã bám sát được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, kịp
thời đề ra những phương pháp tổ chứ thực hiện phù hợp với yêu cầu của từng
giai đoạn cách mạng; đã khơi dậy và phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí
quật cường, tinh thần hy sinh cao cả, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân góp phần bảo vệ Miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải
phóng Miền Nam, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau một thời gian dài trước thực tế công tác thi đua, khen thưởng không
được quan tâm thường xuyên; Luật Thi đua, Khen thưởng ra đời cùng các văn
bản pháp quy của Nhà nước như Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày
30/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật
Thi đua, Khen thưởng, Nghị định số 122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005 của
Chính phủ quy định tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng đã từng bước
thực hiện đổi mới công tác thi đua khen thưởng, đưa công tác này đi vào nề
nếp, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật, các địa phương, đơn vị đã đề ra những quy định cụ
thể về công tác khen thưởng của địa phương, đơn vị mình theo chức năng
nhiệm vụ và điều kiện thực tế cho phép để từng bước đưa Luật Thi đua, Khen

thưởng vào cuộc sống, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa và bảo vệ tổ quốc mà ở đó thi đua, khen thưởng là biện pháp đòn bẩy
được áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước.
- Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng
Việc xây dựng chính sách đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm.
Ngay sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quốc

23


×