Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Triển khai và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.32 KB, 96 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ
dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được
bảo vệ trong thực tế. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt.
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2.
Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”.
Có nhiều biện pháp tổng hợp để Nhà nước thực hiện bảo vệ quyền con người, từ
xây dựng hệ thống bộ máy, hoàn thiện hệ thống pháp luật cho đến tổ chức thực hiện
pháp luật. Trong đó, bảo vệ con người thông qua các thiết chế tư pháp là vô cùng
cấn thiết. Hiến pháp năm 2013 ra đời đã hoàn thiện thêm một bước về tổ chức và
phân công thực hiện quyền lực nhà nước, các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
theo đó, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp
và tòa án thực hiện quyền tư pháp, viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp. Các thiết chế này có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp, pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Nói về vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, Hiến pháp năm 2013
khẳng định: “1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp. ...3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (Điều 107). Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 2014 ra đời thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa
quan điểm lãnh đạo của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật và tư pháp nước ta gắn
1



với vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát. Nghị quyết số 49NQ/TW
ngày 02.6.2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã
chỉ rõ: “Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân vẫn giữ nguyên chức năng như hiện nay
là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân
dân tổ chức cho phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án.
Hiện nay, trong bối cảnh Nhà nước ta đang tích cực hoàn thiện bộ máy nhà
nước, hệ thống pháp luật theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, trong đó có những bộ
luật cơ bản nhằm bảo vệ quyền con người như: Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình
sự, thì việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vai trò bảo vệ quyền con người của
Viện kiểm sát hay một chế định hiến định nào đó đều là điều cần thiết, cả về mặt lý
luận và thực tiễn, cả ở bình diện quốc gia hay địa phương.
là một tỉnh lớn ở Tây Nguyên. Những năm qua, công tác kiểm sát đã được quan
tâm nâng cao chất lượng, nhằm bảo về quyền con người, quyền công dân, cũng như
góp phần phát hiện và xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật, góp phần ổn
định trật tự xã hội, nâng cao văn hóa pháp lý nói chung. Tuy nhiên, trước bối cảnh
đổi mới cơ quan kiểm sát, đổi mới bộ máy nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền,
việc nâng cao vai trò của viện kiểm sát ở luôn là đòi hỏi thường trực, hơn nữa, thời
gian qua, công tác kiểm sát ở tỉnh xuất hiện những hạn chế về hiệu quả hoạt động,
ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin của người dân vào sự công bằng của pháp luật.
Để tìm hiểu rõ hơn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền
con người, đánh giá thực trạng công tác bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm và hạn chế cũng như nguyên
nhân dẫn đến các hạn chế, nhằm đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn
hiện nay, tác giả chọn đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong bảo
vệ quyền con người – từ thực tiễn tỉnh ”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh đề tài luận văn, đã có nhiều công trình liên quan được công bố, ở
những mức độ, nội dung nghiên cứu khác nhau. Có thể kể tới như:

2


- Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Bình luận khoa học Hiến pháp năm 2013, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
- Giáo trình Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người của Nhóm tác
giả (Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên)), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
- Đại học quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2006), Bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia, Hà Nội.
- GS.TSKH. Lê Văn Cảm (chủ biên) (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Tháng 8/2013), Báo cáo chuyên đề “Xác
định vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động xét xử”, Hà Nội.
- Vụ Công tác Lập pháp, Viện Khoa học Kiểm sát (2003), Những sửa đổi cơ
bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, NXB Tư pháp, Hà Nội.
- Hội đồng Phối hợp Phổ biến Giáo dục pháp luật Trung ương (2013), Quyền
con người và chính sách pháp luật về quyền con người, Đặc san tuyên truyền pháp
luật số 06/2013.
- TS. Phạm Mạnh Hùng (2011), “Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của Viện
kiểm sát”, Tạp chí kiểm sát (21).
- PGS.TS.Nguyễn Ngọc Chí (2007), “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật
tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 23, tr. 64-80.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra của tác giả Lê Hữu Thể và các tác giả (năm 2008).
- Lại Văn Trình, Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh, năm 2011;
3


- Trần Hoàng Nhung, Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của
Viện kiểm sát nhân dân – Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2015.
Một số bài viết riêng lẻ tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành
như: Chu Mạnh Hùng, “Các giải pháp đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư
pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học – trường Đại học Luật Hà Nội, số 6/2008;
Hoàng Nghĩa Mai, "Nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách tư
pháp của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Italia phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
nam", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung trọng tâm
để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 6 16/2012; Nguyễn Hòa Bình,
"Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012,...
Qua khảo sát, cho thấy: nhiều công trình đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về vai trò, các chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con
người thông qua các chức năng của cơ quan này, và thông qua các giai đoạn trong tố
tụng hình sự; có những nghiên cứu ban đầu về việc thực hiện nhiệm vụ, vai trò bảo
vệ quyền con người của Viện kiểm sát ở những địa phương cụ thể. Tuy nhiên, chưa
có công trình nào nghiên cứu hệ thống việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền con
người của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu về vai trò Cơ quan viện kiểm sát trong việc bảo vệ quyền


con người theo quy định hiện hành và đánh giá thực hiện vai trò đó qua thực
tiễn ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh , từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao vai
trò của cơ quan này trong bảo vệ quyền con người trong thời gian tới.
Các nhiệm vụ của luận văn:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về Viện kiểm sát nhân dân trong bộ
máy nhà nước; quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp, pháp

4


luật Việt Nam; nội dung vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân
theo quy định hiện hành.
+ Nghiên cứu về thực tiễn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tỉnh hiện nay;
nghiên cứu thực tiễn thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người thông qua các mặt
công tác của Viện kiêm sát nhân dân tỉnh, tìm hiểu các thành tựu, hạn chế và các
nguyên nhân của chúng;
+ Đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của Viện
kiểm sát nhân dân nói chung trong giai đoạn hiện nay, trong đó có Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quy định của pháp luật hiện hành về vai trò bảo vệ quyền con người của Viện
kiểm sát nhân dân và việc thực hiện vai trò đó trong thực tiễn ở Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Phạm vi không gian: tỉnh .


-

Phạm vi thời gian: từ 2013 đến nay (2016).

-

Phạm vi nội dung: luận văn nghiên cứu công tác trong lĩnh vực hình

sự; (một số số liệu, thông tin khác có liên quan có giá trị tham khảo).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về bảo vệ quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sử dụng phương pháp này để

nghiên cứu các văn bản pháp luật có liên quan đến vai trò bảo vệ quyền con người
thông qua các mặt công tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; các đề tài khoa học,
chương trình, dự án, các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
5


-

Phương pháp phân tích, tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này để

nêu lên cơ sở lý thuyết về vai trò bảo vệ quyền con người thông qua các mặt công

tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và đánh giá, khái quát thành những quan điểm,
luận điểm làm nền tảng lý luận cho luận văn.
-

Phương pháp điều tra xã hội học: tác giả sử dụng phương pháp này

thông qua các hình thức khảo sát và phỏng vấn sâu đối với một số chủ thể có liên
quan.
-

Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở

chương 2 của luận văn, các số liệu thu thập, điều tra được tổng hợp, phân tích làm
cơ sở đánh giá thực trạng qua đó đánh giá về thành tựu, hạn chế để đưa ra những
giải pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể.
6. Ý nghĩa của luận văn
-

Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về vai trò bảo vệ quyền con

người của viện kiểm sát nhân dân;
-

Đánh giá sự phù hợp của các quy định pháp luật về vai trò bảo vệ quyền con

người của viện kiểm sát qua đối chiếu thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh .
-

Là nguồn tài liệu tham khảo cho tổ chức, cá nhân hữu quan; cho nghiên cứu


luật học về chủ đề.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong
đó phần nội dung gồm hai chương:
Chương 1: Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước và vai trò bảo vệ
quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực tiễn bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ quyền con người của
Viện kiểm sát nhân dân hiện nay.

Chương 1:
6


CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Về vị trí, vai trò: Việt Nam hiện tại là một nước theo hệ thống Xã hội chủ
nghĩa. Bộ máy nhà nước của các nước nằm trong hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa (XHCN) được xây dựng trên nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, nhân
nhân thực hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại diện là Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Quốc hội
không trực tiếp thực thi quyền lực mà giao cho các cơ quan nhà nước, trong đó Viện
kiểm sát nhân dân được giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung
(Hiến pháp 1960, 1980). Hiến pháp 1992 quy định Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố; Hiến pháp
1992 sửa đổi năm 2001, Hiến pháp năm 2013 quy định VKSND thực hành quyền

công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Chức năng thực hành quyền công tố là chức
năng chủ yếu của Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta được thành lập ngày 26 tháng 7 năm 1960
bằng một đạo luật là Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
Yêu cầu đặt ra đối với các Kiểm sát viên là phải hành động một cách vô tư,
khách quan, căn cứ vào các tiêu chí pháp luật, không thiên vị. Với chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì cần tổ chức Viện kiểm sát
thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập. Từ năm 1945 đến nay, việc xác định
vị trí của cơ quan Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước ta luôn luôn thể hiện xu
hướng khẳng định sự độc lập của hệ thống cơ quan này. Từ khi thành lập Viện kiểm
sát nhân dân năm 1960, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm sát
nhân dân luôn là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy Nhà nước, được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. Viện
kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng
7


Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp
chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm;
chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội
và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Nước trong thời gian Quốc hội không
họp.
Ở một số nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc, Liên bang Nga,
Viện kiểm sát là cơ quan độc lập với Chính phủ và Toà án. ở Trung Quốc, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu
ra và chịu trách nhiệm trước cơ quan này. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương
chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Tại Liên bang Nga, Tổng Kiểm sát do Hội đồng liên bang (giống Thượng nghị
viện) bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Tổng thống. Phó Tổng Kiểm sát
trưởng do Hội đồng liên bang bổ nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng Kiểm sát
trưởng. Viện kiểm sát Liên bang Nga được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, các Kiểm sát viên cấp dưới phải phục tùng
Kiểm sát viên cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Tổng Kiểm sát trưởng;
thực hiện các thẩm quyền của mình độc lập với chính quyền địa phương.
Ngay tại một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Viện công tố cũng được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, độc
lập với các cơ quan chính quyền địa phương. Các Công tố viên chịu sự lãnh đạo của
Công tố viên cấp trên trực tiếp và thống nhất chịu sự lãnh đạo của Tổng Công tố
trưởng.
Với vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Viện kiểm sát là một trong những cơ quan thể hiện
trực tiếp bản chất của Nhà nước ta, là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu
trong bộ máy Nhà nước. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân là: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
8


lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
1.1.2. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Viện kiểm sát nhân dân
Việt Nam là một hệ thống độc lập và được được tổ chức ở 4 cấp, gồm:
-

Viện kiểm sát nhân dân tối cao;


-

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (hiện có 3 Viện kiểm sát nhân dân cấp

cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh);
-

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (hiện

có 63 Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh).
-

Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

(hiện có 691 Viện kiểm sát cấp huyện tại 691 quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh).
Trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân có các Viện kiểm sát quân sự, gồm:
-

Viện kiểm sát quân sự Trung ương.

-

Viện kiểm sát quân sự cấp Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn...

-

Viện kiểm sát quân sự cấp Khu vực.

Quy định như vậy là sự thể chế hóa quy định trong Hiến pháp 2013, và đã có

nhiều thay đổi so với mô hình Viện kiểm sát theo Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ
sung năm 2001 và Luật TCVKSND 2002. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung
năm 2001 quy định hệ thống Viện kiểm sát gồm:"Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự”.Quy định này là
nhằm xác định hệ thống Viện kiểm sát được tổ chức theo địa giới hành chính từ
Trung ương xuống địa phương. Việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân theo
địa giới hành chính ra đời từ khi luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
được ban hành.
Hiến pháp năm 2013 quy định tại Khoản 2 Điều 107 "Viện kiểm sát nhân dân
gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do Luật định”. Quy
định này có ý nghĩa mở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại hệ thống Viện kiểm
sát tương ứng hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực), không
9


tương ứng với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc
độc lập của Tòa án. Đây là quy định "mở” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện việc kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động, đặc biệt
khi mô hình tổ chức bộ máy đang được xây dựng trong giai đoạn hiện nay. Như vậy,
quy định này mang tính tùy nghi thuận tiện cho xây dựng mô hình hệ thống Viện
kiểm sát nhân dân, việc kiện toàn hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được cụ thể hóa
trong Luật TCVKSND 2014, trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà nước về cải
cách tư pháp. Định hướng đó được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết
Luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan Điều tra theo Nghị quyết 49, đã
xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành
chính, đồng thời Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án.
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì hệ thống Viện kiểm sát
được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án theo cấp xét xử không phụ

thuộc vào đơn vị hành chính. Do đó, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sẽ được
sửa đổi theo hướng quy định về tổ chức Viện kiểm sát theo bốn cấp tương ứng với
bốn cấp của Tòa án, cụ thể là: 1. Tòa án nhân dân tối cao; 2. Tòa án nhân dân cấp
cao; 3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 4. Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; (và hệ thống Tòa án quân
sự) (Theo Điều 3 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014).
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
- Chức năng, nhiệm vụ chung của Viện kiểm sát nhân dân
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của Viện kiểm sát là:
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Viện kiểm sát kiểm sát nhân dân tối
cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân
dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa
10


phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ:
“bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
(Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013);
“bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất”. (Khoản 2 Điều 2 Luật TCVKSND 2014).
- Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân

Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
i) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; ii) Không để
người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
quyền con người, quyền công dân trái luật.
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND 2014.
- Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm
sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự;
trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
11


doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm:
i) Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng
quy định của pháp luật; ii) Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ
tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy

định của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải
được tôn trọng và bảo vệ; iii) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật phải được thi
hành nghiêm chỉnh; iv) Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được
phát hiện, xử
lý kịp thời, nghiêm minh.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân
có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 4 Luật tổ chức VKSND 2014.
1.1.4. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sat nhân
dân:
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do có vị trí, chức
năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân được
tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù. Đó là nguyên tắc tập trung,
thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ
một cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
- Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo đảm
tính thống nhất của pháp chế.

12


Các cơ quan nhà nước ở địa phương một mặt trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ
chủ quản, mặt khác lại trực thuộc Hội đồng nhân dân hoặc ủy ban nhân dân địa
phương. Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc phụ thuộc hai chiều.
Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta không được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc phụ thuộc hai chiều nêu trên, mà theo nguyên tắc tập trung, thống nhất
lãnh đạo trong ngành.

Theo nguyên tắc này, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương,
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 109 Hiến pháp 2013 và Điều 8 Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Phó viện trưởng Viện kiểm sát quân sự
quân khu và khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân đều do Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tố cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức.
- Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan Nhà nước nào ở địa phương.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc
vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương. Nguyên tắc này có mối quan hệ
mật thiết với nguyên tắc tập trung, thống nhất lành đạo trong ngành. Nguyên tắc này
nhằm tạo ra điều kiện để ngành kiểm sát nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ của mình
là bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân trong
năm 2014, toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được đặt dưới sự giám sát
toàn diện, thường xuyên và chặt chẽ của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và
Chủ tịch nước. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách
nhiệm và báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Nội dung nguyên tắc Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất kỳ cơ
quan nhà nước nào ở địa phương thể hiện ở chỗ: Các Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối bởi
13


các cơ quan nhà nước ở địa phương, mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện kiểm sát nhân dân chỉ phụ thuộc
vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của

Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều đó cũng có nghĩa là các cơ
quan nhà nước ở địa phương không có quyền can thiệp vào hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân.
Về mặt tổ chức, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ
máy và biên chế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương.
Thừa nhận nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa
phương cũng cần lưu ý là, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa
phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm báo cáo
công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn của các đại biểu Hội đồng nhân
dân về tình hình chấp hành pháp luật ở địa phương và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân ở địa phương. Mặt khác, qua thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân, Viện trưởng có quyền kiến nghị với Hội đồng nhân dân về việc phòng ngừa tội
phạm và những biểu hiện vi phạm pháp luật để bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.2.1. Khái niệm về quyền con người và bảo vệ quyền con người
1.2.1.1. Khái niệm quyền con người
Trong lịch sử nhân loại trước thế kỷ XVII, đã hình thành hai quan điểm chủ
yếu, khác nhau về quyền con người.
Quan niệm thứ nhất, những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural
rights) xuất phát từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, vì vậy quyền con
người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn
14



giản bởi họ là thanh viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó không
phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá
nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, không một
chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban hành hay tước bỏ các quyền con người bẩm
sinh, vốn có của các cá nhân.
Quan điểm thứ hai, đặt con người và quyền con người trong tổng hòa các mối
quan hệ xã hội. Học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) cho rằng, các quyền
con người không phải những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các
nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ
truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý, phạm vi, giới hạn
và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào
ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn
hóa... của các xã hội [25].
Quan điểm biện chứng của học thuyết Mác - Lênin đã khắc phục được tính
phiến diện trong nhận thức về con người và quyền con người trong các quan điểm
nêu trên. Học thuyết Mác - Lênin xem xét con người với tư cách là sản phẩm của tự
nhiên và xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một thực thể tự nhiên
con người trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con người có mặt xã hội
và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Do đó, Quyền con người là sự
thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ con
người mới có) và “quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội [20].
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều
quan điểm, định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên Hiệp Quốc, có đến gần
50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố từ trước đến nay, mỗi định
nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định,
nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con
người. Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc về quyền con người (Office of
High Commissoner for Human Rights - OHCHR), quyền con người là những bảo

đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
15


các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm
tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản
(fundamental) của con người [25, tr.37].
Bên cạnh định nghĩa nêu trên, cũng có một định nghĩa khác về quyền con
người thường được nhắc đến, theo đó, “quyền con người là những sự được phép
(entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới
tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội... đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì
họ là con người” [25, tr.37].
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan
nghiên cứu và các chuyên gia từng nêu ra. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung,
Quyền con người: Đó là những quyền cơ bản nhất của con người, được có
một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con người - một động vật cao cấp có lý trí,
và có tình cảm làm cho con người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành
lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ
những quyền đó [15].
Còn theo TS Trần Quang Tiệp, đưa ra một định nghĩa ngắn gọn, khá đầy đủ
và cụ thể về quyền con người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có
tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội nhất định” [15].
Cho đến nay, giữa các nhà khoa học - luật gia trong và ngoài nước vẫn còn
nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quyền con người, nhưng xét chung, quyền
con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế [24].
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của
cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ yếu

là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con người là
giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm, bình
đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc quyền
phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
16


Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định
như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp
dụng cho tất cả mọi người.
Cùng với khái niệm quyền con ngưởi, chúng ta còn thường thấy đi kèm với
nó là khái niệm quyền công dân. Quyền con người và quyền công dân là hai khái
niệm có mối liên hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên, hai khái niệm này có sự khác biệt
nhất định.
Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công
dân. Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân
tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ
thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại.
Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ
giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công dân
là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và chỉ
những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền công dân
mà pháp luật nước đó quy định.
Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể trong
pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, không có ý nghĩa thực tế.
Pháp luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con người. Khi
được pháp luật quy định, quyền con người trở thành quyền công dân. Đồng thời,
pháp luật còn thiết lập nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan trong việc tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền công dân [45].

Như vậy, cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng chưa có một định nghĩa
triết học kinh điển nào về quyền con người. Bên cạnh việc không có một định nghĩa
tiêu chuẩn thống nhất, cách hiểu về quyền con người cũng cho thấy có sự khác biệt.
Thứ nhất, hiện đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc, bản chất
của quyền con người. Thứ hai, quyền con người được xem xét dưới nhiều lĩnh vực
khác nhau như triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật, tôn giáo. mà mỗi lĩnh vực lại
17


tiếp cận khái niệm này ở một góc độ riêng, tuy nhiên không lĩnh vực nào bao hàm
được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Tùy vào tính chất chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà
quyền con người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Ở cấp độ quốc tế,
định nghĩa về quyền con người phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của Cao ủy LHQ về
quyền con người, theo đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có
tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ
mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con
người” [25, tr.41].
Từ những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa về quyền con người như
sau: Quyền con người là quyền mà con người được hưởng trong những điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và được nhà nước đảm bảo thông qua hệ
thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Định nghĩa này đã chỉ ra được những đặc điểm thuộc về bản chất của khái
niệm về quyền con người như nó là quyền tự nhiên, vốn có của con người, được bảo vệ
bằng pháp luật quốc gia.

1.2.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người
Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn
cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm sinh,
vốn có hay phải do các nhà nước quy định, thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có

pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được
bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa
vụ tôn trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc
đạo đức mà trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống
nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội [25, tr.47].
Với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người - cũng với quyền, tự do và
nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó - luôn là đối tượng phản ánh của
các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân
con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng
đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn có
18


của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc biệt, không thể thay thế trong
việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người.
Pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các
quyền tự nhiên. Về nguyên tắc, các nhà nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện
những quyền pháp lý - những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người đã
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên
mới chuyển thành những quyền con người có đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật
chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hóa đó. Pháp luật là phương tiện
bảo đảm giá trị thực tế của các quyền con người. Pháp luật đóng vai trò là công cụ
giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người của các chủ thể
khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá nhân trong việc bảo vệ
các quyền con người của chính họ thông qua việc vận dụng các quy phạm và cơ chế
pháp lý quốc gia và quốc tế [25, tr.47].
Bảo vệ quyền con người là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều
điều kiện khác nhau (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa...) trong đó pháp luật có
vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của
pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người thì phải thể chế hóa quyền con người

thành các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật, phải có cơ chế bảo đảm cho các
quy định đó được thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý thực hiện
quyền con người. Nói cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người chính là
đảm bảo thực hiện quyền con người bằng pháp luật [16]. Như vậy, đảm bảo pháp lý
bảo vệ quyền con người là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật nhằm cụ
thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện
các quy định đó trong thực tiễn đời sống.
Quá trình thể chế hóa quyền con người, xây dựng các thiết chế bảo đảm thực
hiện nó trong hệ thống pháp luật cũng chính là quá trình xây dựng đảm bảo pháp lý
bảo vệ quyền con người. Quyền con người được thể chế hóa trong hệ thống pháp
luật sẽ trở nên vô nghĩa nếu việc tổ chức thực hiện không được thường xuyên. Khả
năng bảo đảm bảo vệ quyền con người trong quá trình tổ chức thực hiện trước hết
phụ thuộc vào chất lượng của việc thể chế hóa quyền con người tự nhiên thành
19


quyền công dân, cùng với các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp
luật như: bảo đảm tính cụ thể, đồng bộ thuận tiện khả thi của các quy định pháp luật
về quyền công dân; xây dựng thiết chế tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước
hướng đến mục tiêu thực hiện bảo vệ quyền con người; xây dựng hệ thống các thủ
tục tố tụng ngăn ngừa sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan và những người tiến
hành tố tụng, hòa nhập pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Tóm lại, có thể hiểu, bảo vệ quyền con người chính là việc nhà nước thông
qua pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Theo nhận thức của cộng đồng Quốc tế, để bảo đảm quyền con người, nhà
nước có ba nghĩa vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ tôn trọng (obligation to respect): nghĩa vụ này đòi hỏi các
nhà nước không được tùy tiện tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp hoặc
gián tiếp, vào việc thụ hưởng các quyền con người.
Thứ hai, nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà

nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba.
Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil): nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà
nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện các quyền
con người [41, tr.58].
Nội dung quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ngày càng nhận thức
đầy đủ và toàn diện, được phát triển và cụ thể hóa trong các Tuyên bố và Công ước
quốc tế về quyền con người. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền công dân trong hệ
thống pháp luật của mỗi quốc gia chính là thể hiện việc ghi nhận và bảo vệ quyền
con người.
Như vậy, đảm bảo pháp lý về quyền con người là hệ thống các quy định pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của công dân gắn với các thiết chế bảo đảm thực hiện nó
trong hệ thống pháp luật và cơ chế bảo đảm cho các quy định và thiết chế đó được
thực hiện trong thực tế.
Trong các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền con người như: chính trị, kinh
tế, văn hóa, giáo dục và pháp luật... thì pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng hàng
đầu, bởi vì pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của quyền con
20


người; là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con
người; pháp luật tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp Việt
Nam
Tư tưởng về quyền con người đã được thể hiện khá sớm tại Việt Nam, đặc biệt, thể
hiện thành văn rõ rệt ngay từ khi đất nước giành được độc lập từ tay thực dân Pháp sau
cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại của dân tộc. Ngày 02 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường
Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước
VNDCCH. Trong bản Tuyên ngôn độc lập ấy, với việc nhắc lại Tuyên ngôn độc lập năm
1776 của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình

đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Tiếp nối tinh thần của Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí Minh, “cha đẻ”
của Hiến pháp nước VNDCCH năm 1946, lại một lần nữa thể hiện tinh thần nhân
văn sâu sắc qua việc ghi nhận các giá trị con người, các quyền cơ bản về dân chủ và
dân sinh, các quyền tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng ở bản hiến pháp đầu tiên của
dân tộc. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi của
hoàn cảnh địa - chính trị, quyền con người vẫn luôn được thể hiện sâu sắc qua các
bản hiến pháp tiếp theo của Việt Nam từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến các bản
Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 (sửa đổi và bổ sung năm 2001) và đặc biệt là Hiến
pháp năm 2013 [16, tr.29].
Hiến pháp năm 2013 được thông qua tại kỳ họp thứ 6 - Quốc hội khóa XIII
gồm 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992)
có hiệu lực từ ngày 1-1-2014. Hiến pháp năm 2013 kế thừa những nội dung tiến bộ
của 4 bản Hiến pháp trước đồng thời chắt lọc, tập hợp trí tuệ, tâm huyết của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Hiến pháp cũng đã tham khảo, tiếp thu có chọn lọc
nhiều nội dung Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới [57].
Quyền con người được quy định trong Chương II của Hiến pháp năm 2013 là
chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và
được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V của Hiến pháp
21


năm 1992 (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân), đồng thời chuyển các quy định
liên quan đến quyền con người, quyền công dân tại các chương khác của Hiến pháp
năm 1992 về chương này. Việc thay đổi vị trí nói trên là một sự thay đổi về nhận
thức chứ không đơn thuần là một sự dịch chuyển cơ học, một sự hoán vị về bố cục.
Với quan niệm đề cao chủ quyền Nhân dân trong Hiến pháp, coi quyền lập hiến cao
hơn quyền lập pháp, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lập hiến, thông qua

quyền lập hiến của mình, Nhân dân giao quyền cho lập pháp, hành pháp, tư pháp và
các thiết chế độc lập khác, thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân phải được xác định ở vị trí trang trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc
thay đổi này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp của nhiều nước trên
thế giới, thể hiện quan điểm đề cao nhân tố con người của Đảng và Nhà nước ta
[53]. Điều này đã khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền
cơ bản của công dân trong Hiến pháp, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và
Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới năm 2013 có những sửa đổi, bổ
sung và phát triển thể hiện tầm quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Điều này được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu như:
Một là, Hiến pháp năm 1992 thừa nhận thuật ngữ "quyền con người", không
đồng nhất quyền con người với quyền công dân, nhưng chưa phân biệt được quyền
con người, quyền cơ bản của công dân trong các quy định của Hiến pháp. Khắc
phục thiếu sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt sự khác nhau giữa
“quyền con người” và “quyền công dân”. Theo đó, quyền con người được quan
niệm là quyền tự nhiên vốn có của con người từ lúc sinh ra; còn quyền công dân,
trước hết cũng là quyền con người, nhưng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức
là gắn với vị trí pháp lý của công dân trong quan hệ với nhà nước, được nhà nước
đảm bảo đối với công dân của nước mình. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự
phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp. Đồng thời, Hiến pháp mới đã bổ sung nguyên tắc
hạn chế quyền phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam
22


là thành viên và theo đó, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Việc hạn chế

quyền con người, quyền công dân không thể tùy tiện mà phải “theo quy định của
luật”.
Hai là, Hiến pháp mới đã khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp theo hướng:
Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng
quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà
nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm
phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác được quy
định tại Điều 15.
Ba là, Hiến pháp mới đã tiếp tục làm rõ nội dung quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa và trách
nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con
người. Đồng thời, Hiến pháp sắp xếp lại các điều khoản theo các nhóm quyền để
bảo đảm tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân, bảo đảm tính
khả thi hơn.
Bốn là, Hiến pháp mới đã bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30
năm đổi mới đất nước; thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo
đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Đó là Quyền sống (Điều 19),
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20), Quyền bất khả xâm
phạm về đời sống riêng tư (Điều 21 ), Quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều
34), Quyền kết hôn và ly hôn (Điều 36), Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn
hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41), Quyền
xác định dân tộc (Điều 42), Quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều
43),... Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn phù hợp với các điều ước quốc tế
mà CHXHCN Việt Nam là thành viên, thể hiện nhận thức ngày càng rõ hơn về
quyền con người và khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thực
hiện quyền con người [53].
23



Ngoài ra, Hiến pháp mới đã tiếp cận căn bản các chuẩn mực quốc tế về quyền
con người, thậm chí có một số nội dung rất tiến bộ so với tiêu chuẩn quốc tế. Quyền
con người cũng không chỉ đề cập ở Chương II mà ở nhiều chương khác. So với
Hiến pháp năm 1992, bản Hiến pháp mới đã tách bạch quyền con người và quyền
công dân. Đây là nhận thức đúng, quyền con người là đối với mọi người, còn công
dân thì chỉ là người Việt Nam mà không bị tước quyền công dân. Các quyền tự do
ngôn luận, báo chí, đi lại, cư trú theo Hiến định Nhà nước cũng không can thiệp.
Đặc biệt, chương về Chính phủ, VKSND, Tòa án nhân dân đều có chế định Chính
phủ, Tòa án, VKS phải bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Cụ thể, Chính phủ
có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, quyền công dân; VKS có trách nhiệm bảo
vệ quyền công tố, quyền con người; Tòa án có trách nhiệm bảo vệ công lý, quyền
công dân. Như vậy, bộ máy Nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền con người. Cách
tiếp cận quyền con người này một cách căn bản giống như các nhà nước trên thế
giới. Lần đầu tiên trong Hiến pháp mới của chúng ta quy định, trách nhiệm của Nhà
nước trong việc thực hiện những công ước quốc tế, trong đó có những công ước liên
quan đến quyền con người mà Việt Nam đã tham gia [57].
Tại Hiến pháp mới năm 2013, vấn đề quyền con người được chính thức đưa
vào một cách đầy đủ, toàn diện, có hẳn một chương trong Hiến pháp về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này là kết quả tất yếu của quá
trình hội nhập và nỗ lực phấn đấu bảo đảm quyền con người của Đảng, Nhà nước ta.
Bảo đảm quyền con người luôn được xác định là trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước, làm cho mỗi người và mọi người phát triển tự do và toàn diện như nghị quyết
của Đảng đã nêu.
Như vậy, có thể thấy được vấn đề quyền con người đã được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm và điều đó đã được khẳng định rõ trong Hiến pháp năm
2013 - đạo luật gốc - với những quy định tiến bộ về quyền con người, quyền công
dân, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển con người, thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, đã tạo lập khuôn khổ hiến định cho việc tiếp tục củng cố, phát
triển quyền con người, quyền công dân phù hợp với các đặc điểm chính trị, kinh tế,
xã hội của Việt Nam trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,

24


đồng thời, bảo đảm sự phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam là thành viên. Chúng ta có thể khẳng định rằng, Hiến pháp năm 2013 là
Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước ta trong
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, sự bảo đảm cho việc tiếp tục đổi mới và
phát triển đất nước ta trong tình hình mới.
1.2.3. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp
hình sự
1.2.3.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật Hình sự
Quyền con người trong mọi lĩnh vực, được coi là giá trị của nhân loại, phải
được tôn trọng và bảo vệ bao gồm cả các quyền cần được đảm bảo bởi pháp luật,
trong đó có pháp luật hình sự. Thông qua các điều khoản của BLHS Việt Nam 1985,
được sửa đổi, bổ sung năm 1999, 2009 chúng ta có thể thấy rất rõ vấn đề quyền con
người và bảo vệ quyền con người được thể hiển rất cụ thể.
Hành vi xâm phạm đến quyền sống của con người được coi là một trong
những hành vi phạm tội nghiêm trọng nhất và bị pháp luật nghiêm trị. Để bảo đảm
thực hiện nguyên tắc đã được Hiến pháp ghi nhận, đó là quyền bất khả xâm phạm
về tính mạng của công dân, Chương XII BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2009) quy định 10 tội danh liên quan đến hành vi trực tiếp hay gián tiếp, vô
tình hay cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác một cách bất hợp pháp, đó là: Tội
giết người (Điều 93); Tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95); Tội giết người d o vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng (Điều 96); Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97);
Tội vô ý làm chết người (Điều 98); Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99); Tội bức tử (Điều 100); Tội xúi giục
hoặc giúp người khác tự sát (Điều 101); Tội không cứu giúp người đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102) [17, tr.70].
Do đối tượng tác động của tội phạm là xâm phạm quyền sống của con người

nên chính sách hình sự và đường lối xử lý của Nhà nước đối với các tội xâm phạm
tính mạng của con người là rất nghiêm khắc. Trong 10 tội nêu trên có 01 tội đặc biệt
nghiêm trọng có mức hình phạt cao nhất là tử hình (Điều 93), có 01 tội rất nghiêm
25


×