Tải bản đầy đủ (.doc) (231 trang)

Sự chuyển biến của quan hệ ngoại giao giữa việt nam và trung quốc từ năm 1802 đến năm 1885

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6 MB, 231 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA QUAN HỆ NGOẠI
GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG
QUỐC TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1885

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI – năm 2014


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA QUAN HỆ NGOẠI
GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG
QUỐC TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1885
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRẦN THỊ VINH



HÀ NỘI-năm 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Đề
tài không trùng với bất cứ nghiên cứu nào đã được công bố. Những số liệu và kết
quả nghiên cứu được nêu lên trong luận án là trung thực, khách quan và đảm bảo
tính khoa học về nguồn gốc xuất xứ.
Hà Nội, tháng 9/2014
Tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án này, ngoài nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
nhiều sự giúp đỡ quý báu từ phía Thầy Cô, đồng nghiệp và người thân. Trước hết,
tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS.TS. Trần Thị Vinh, cô giáo hướng dẫn của tôi.
Trong suốt thời gian qua, Cô đã tận tình chỉ bảo, định hướng nhận thức để tôi hoàn
thành luận án tiến sĩ này.
Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy Cô đang công
tác tại Viện Sử học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Văn học - Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam…Các Thầy Cô đã nhiệt thành chỉ bảo và góp ý, bổ sung thêm
tư liệu hữu ích để luận án của tôi được hoàn thành.
Nhân đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy Cô, bạn bè đồng nghiệp tại
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã luôn chia sẻ, động viên, cung cấp thêm thông
tin tư liệu để tôi sớm hoàn thành luận án.
Cuối cùng, sự khích lệ tinh thần của gia đình là động lực rất lớn giúp tôi vượt
qua nhiều khó khăn, trở ngại trong suốt thời gian qua để theo đuổi công trình nghiên
cứu này của mình.

Hà Nội, tháng 9 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1

1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

5

5. Đóng góp của luận án


8

7. Bố cục của luận án

9

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

10

1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và ngoài nước có liên
quan đến đề tài luận án

10

1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước

10

1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài

22

1.2. Những vấn đề còn tồn tại và hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài luận án
27
Chương 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 1802 – 1858

31


2.1. Hoàn cảnh lịch sử tác động đến quan hệ ngoại giao Việt – Trung giai đoạn
1802 – 1858.

31


2.2. Nội dung của hoạt động ngoại giao Việt–Trung giai đoạn 1802 – 1858
2.1.1. Xin đổi quốc hiệu
2.2.2. Cầu phong, thụ phong
2.2.3. Triều cống, lễ sính

34
34
36
43

2.2.4. Giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ

48

2.2.5. Trao đổi văn thơ bang giao

53

2.2.6. Thương mại triều

60

2.2.7. Buôn bán trên bộ


64

2.2.8. Buôn bán trên biển

66

2.3. Đóng góp của những vị chánh, phó sứ tiêu biểu giai đoạn 1802 – 1858

70

Tiểu kết chương 2

78

Chương 3: QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 1858 – 1885

81

3.1. Hoàn cảnh lịch sử tác động đến quan hệ ngoại giao Việt – Trung giai đoạn
1858 – 1885
3.2. Nội dung của hoạt động ngoại giao Việt – Trung giai đoạn 1858-1885

81
85

3.2.1. Cầu phong, thụ phong

85


3.2.2. Triều cống, lễ sính

85

3.2.3. Giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ

87

3.2.4. Trao đổi văn thơ bang giao

89

3.2.5. Thương mại triều cống

100

3.2.6. Buôn bán trên bộ

104

3.2.7. Buôn bán trên biển

105

3.3. Đóng góp của những vị chánh, phó sứ tiêu biểu giai đoạn 1858 – 1885

107

Tiểu kết chương 3


112


Chương 4: ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG CHUYỂN BIẾN CỦA QUAN HỆ NGOẠI
GIAO VIỆT – TRUNG (1802 - 1885)

114

4.1. Về những chuyển biến trong hoạt động ngoại giao Việt – Trung trước và
sau khi thực dân Pháp xâm lược (1858)

115

4.1.1. Trong hoạt động cầu phong, thụ phong

115

4.1.2. Trong hoạt động triều cống, lễ sính

116

4.1.3. Trong việc giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ

121

4.1.4. Trong hoạt động trao đổi văn thơ bang giao

124

4.1.5. Trong hoạt động thương mại triều cống


126

4.1.6. Trong hoạt động buôn bán trên bộ, trên biển

128

4.2. Về những chuyển biến trong thái độ giữa nhà Nguyễn và nhà Thanh trước hoạt
động quân sự của thực dân Pháp ở Việt Nam

130

4.2.1. Từ những nỗ lực tự chủ chống Pháp đến sự cầu viện triều Thanh của nhà
Nguyễn

130

4.2.2. Từ thái độ giằng co, tranh chấp sang thái độ thỏa hiệp với Pháp về vấn đề
Việt Nam của nhà Thanh

135

Tiểu kết chương 4

141

KẾT LUẬN

143


TÀI LIỆU THAM KHẢO

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN

168

PHỤ LỤC

170


DANH MỤC PHỤ LỤC

Trang
I. Một số khái niệm có liên quan đến luận án

171

II. Bản đồ Việt Nam thời Nguyễn

174

II.1. Đại Nam nhất thống toàn đồ (大大大大大大) (1838)

174

II.2. Bản đồ thế giới xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa,

Trường Sa thế kỷ XIX

175

III. Các bảng thống kê về những hoạt động ngoại giao giữa Việt Nam và
Trung Quốc (1802 - 1885)
182
III.1. Bảng thống kê các sứ bộ Việt Nam dưới triều Nguyễn sang cầu phong
Trung Quốc

182

III.2. Bảng thống kê các sứ bộ Trung Quốc sang sắc phong cho các vua
triều Nguyễn (1802 - 1858)
183
III.3. Bảng các sứ bộ Việt Nam sang triều cống nhà Thanh (1802 – 1858)
(Qua Đại Nam thực lục)

184

III.4. Bảng các sứ bộ Việt Nam sang triều cống nhà Thanh (1802 – 1858) (Qua 清清清
清清清清清清清)
188
III.5. Bảng thống kê các sứ bộ Việt Nam sang lễ sính nhà Thanh
(1802 – 1858)
190
III.6. Bảng thống kê số lần sứ bộ Việt Nam sang Trung Hoa thuần túy mua hàng
theo lệnh của triều đình (1802 - 1858)
193
III.7. Bảng thống kê các sứ đoàn Việt Nam sang triều cống Trung Hoa

(1858 - 1885)
194


III.8. Bảng thống kê các sứ đoàn Việt Nam sang triều cống
Trung Hoa (1858 - 1885) (Qua 清清清清清清清清清清)

196

III.9. Bảng thống kê các sứ bộ Việt Nam sang lễ sính Trung Hoa
(1858 - 1885)
197
III.10. Bảng ngạch thuế nhập cảng của các thuyền buôn Trung Hoa sang buôn bán ở
Bắc Kỳ theo quy định của Tự Đức
198
IV. Những tư liệu bổ sung cho các hoạt động ngoại giao giữa Việt Nam và
Trung Quốc (1802 - 1885)

199

IV.1. Sứ thuyền thời Nguyễn

199

IV.2. Thể thức việc tiếp sứ

200

IV.3. Đại lễ tuyên phong


204

IV.4. Thiết tiệc

212

IV.5. Tặng phẩm

213

IV.6. Hộ tống

216

IV.7. Thơ văn bang giao trong quan hệ Việt – Trung thế kỷ XIX

221

IV.8. Hiệp ước Thiên Tân Pháp – Trung Hoa 1885

222


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ TRONG NỘI DUNG LUẬN ÁN
Trang
Biểu đồ 4.1. Số lần triều cống Trung Hoa của Việt Nam qua hai giai đoạn 18021858 và 1858-1885 (Theo Đại Nam thực lục)
118
Biểu đồ 4.2. Số lần triều cống Trung Hoa của Việt Nam qua 2 giai đoạn: 1802-1858
và 1858-1885 (theo 清清清清清清清清清清 (Nghiên cứu quan hệ tông phiên Trung – Việt thời
Thanh))

118
Biểu đồ 4.3. Số lần lễ sính Trung Hoa của Việt Nam qua 2 giai đoạn: 1802-1858 và
1858-1885 (Theo Đại Nam thực lục)
119
Sơ đồ 4.1. Hoạt động thương mại triều cống giữa Việt Nam và Trung Quốc giai
đoạn 1802 – 1858
127
Sơ đồ 4.2. Hoạt động thương mại triều cống giữa Việt Nam và Trung Quốc giai
đoạn 1858 – 1885

128


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

SÔ THỨ TỰ

CHỮ CÁI VIẾT TẮT

NGHĨA CỦA CHỮ CÁI
VIẾT TẮT

1

ĐNLT

Đại Nam liệt truyện

2


ĐNTL

Đại Nam thực lục

3

NXB

Nhà xuất bản

4

STT

Số thứ tự

5

TG

Tác giả

6

VSTGCM

Việt sử thông giám cương mục


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX chưa tham gia nhiều vào các mối quan hệ quốc
tế, những mối quan hệ trọng yếu của Việt Nam lúc bấy giờ chỉ giới hạn trong khu
vực, đặc biệt là với nước láng giềng Trung Quốc.
Có thể nói, trong lịch sử ngoại giao của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay thì
ngoại giao với Trung Quốc luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Mối quan hệ
này trước hết phản ánh đường lối đối ngoại1 mang tính bắt buộc do hoàn cảnh lịch
sử - địa lý đặc thù của hai quốc gia quy định.
Suốt hơn 1000 năm qua, kể từ sau thế kỷ X, khi Việt Nam giành được độc
lập, thoát ra khỏi đêm trường Bắc thuộc và bước vào kỉ nguyên dựng nước, thì
trong quan hệ giữa hai nước Việt - Trung đã từng xảy ra những cuộc chiến tranh do
các vương triều phong kiến Trung Quốc phát động nhằm mục đích thôn tính Việt
Nam, biến dải đất này thành quận huyện. Rốt cục, những cuộc chiến tranh ấy đều
kết thúc bằng chiến thắng của nhân dân Việt Nam. Song nếu tính về thời gian thì
những năm tháng chiến tranh đó cộng lại vẫn là ngắn so với những thế kỷ hoà bình
mà hai nước đã xây đắp. Dưới thời Nguyễn, mối quan hệ ngoại giao Việt - Trung từ
năm 1802 đến năm 1885 cũng nằm trong số những thời kỳ “hoà bình”, “bang giao
hảo thoại” nói trên. Tuy nhiên, chính trong thời kỳ “hoà bình” ấy cũng từng phát
sinh bao nhiêu chuyện gay cấn, như: Vấn đề tranh chấp, lấn chiếm đất vùng biên
giới; những mâu thuẫn kinh tế nảy sinh…Do đó, tìm hiểu về sự chuyển biến của
mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung từ năm 1802 (năm triều Nguyễn thành lập) đến
năm 1885 (năm chấm dứt vĩnh viễn quan hệ thượng quốc - chư hầu giữa Việt Nam
và Trung Quốc theo Hoà ước Thiên Tân năm 1885 giữa Pháp với Trung Quốc) tức
là chúng ta đi vào khảo cứu về một thời kỳ lịch sử tiêu biểu cho những mối quan hệ
ngoại giao phức tạp giữa Việt Nam và Trung Quốc mà vừa mang những nét chung
của các thời kỳ lịch sử trước, lại vừa có những đặc trưng riêng ảnh hưởng đến quan
hệ ngoại giao ở những thời kỳ về sau.
Trong các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc từ trước đến nay đều có ghi
lại khá rõ quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia. Song trên thực tế, nhiều chính
khách ở Trung Quốc, nhiều cơ quan ngôn luận ở Bắc Kinh, thậm chí nhiều nhà

1

Xem: Một số khái niệm có liên quan đến luận án – Phụ lục I

1


nghiên cứu ở các nước khác đã đề cập đến quan hệ ngoại giao Việt - Trung theo
những thiên kiến chủ quan, sai lệch với thực tiễn khách quan. Đặc biệt, khi xem xét
quan hệ chính trị giữa triều Nguyễn và triều Thanh thế kỷ XIX, vấn đề nổi cộm
được các nhà nghiên cứu tập trung kiến giải là trong quan hệ với Trung Quốc, Việt
Nam độc lập hay bị phụ thuộc? Đã có nhiều người khẳng định về sự phụ thuộc của
Việt Nam trong quan hệ chính trị với Trung Quốc lúc bấy giờ. Hoặc khi đi vào tìm
hiểu về mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước trên thế giới thời Nguyễn,
từ xưa đến nay, không ít người đã nhìn nhận nó như một bức tranh “u ám” và xem
đó là hậu quả không thể nào tránh khỏi do chính sách “ức thương” và “bế quan tỏa
cảng” mang lại. Từ đấy lại có những suy luận rằng: Mối quan hệ kinh tế Việt –
Trung thời bấy giờ cũng không là ngoại lệ. Hơn thế, từ chỗ khẳng định sự phụ thuộc
của Việt Nam trong quan hệ chính trị với Trung Quốc, không ít nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước đã khẳng định sự lệ thuộc của Việt Nam trong quan hệ kinh tế
và văn hóa với Trung Quốc hiện thời…Vậy, thực chất của mối quan hệ ngoại giao
Việt – Trung trên các phương diện: chính trị, kinh tế và văn hóa lúc này ra sao?
Nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc về vấn đề này là hết sức cần thiết.
Hơn thế nữa, bước sang thế kỷ XVIII, đặc biệt là từ đầu thế kỷ XIX, Việt
Nam và Trung Quốc đều bị lôi cuốn vào vòng xoáy của thời đại mới. Đó là thời đại
mà “Những mối quan hệ toàn diện, sự phụ thuộc toàn diện đối với nhau giữa các
dân tộc đang phát triển, thay thế cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương
và của các dân tộc vẫn tự cung tự cấp” [20, tr.23]. Vì vậy, tìm hiểu về mối quan hệ
ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc thời kỳ này (1802 - 1885) sẽ giúp hiểu
thêm về quan hệ quốc tế trong thời đại mới - thời đại của giai cấp tư sản.

Không những vậy, nhận thức về một triều đại, nhất là muốn đánh giá công
lao hay hạn chế của triều đại đó cần phải nghiên cứu một cách toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế, đến văn hoá, xã hội thì mới có thể đi đến một kết
luận khách quan và khoa học. Do đó, tìm hiểu về quan hệ ngoại giao Việt – Trung
thời kỳ 1802 - 1885 sẽ góp phần vào việc nghiên cứu chung về triều Nguyễn, với
mong muốn có cái nhìn toàn diện hơn về công trạng và cả hạn chế của vương triều
phong kiến cuối cùng này trên một số lĩnh vực, nhất là lĩnh vực ngoại giao.

2


Đặc biệt, nghiên cứu và rút ra được thực chất của mối quan hệ ngoại giao
Việt - Trung thời bấy giờ cũng sẽ giúp cho việc hiểu biết về Trung Quốc ngày nay
được sâu sắc hơn, góp phần giúp Đảng và Nhà nước Việt Nam hoạch định nên
những chính sách đối ngoại đúng đắn với nước Trung Quốc láng giềng, phù hợp với
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá và đa phương hoá các mối quan hệ
với tinh thần Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Hơn thế, nghiên cứu về sự chuyển biến của quan hệ ngoại giao Việt – Trung
thời kì 1802 – 1885 một cách toàn diện còn là sự tiếp nối và phát triển hướng
nghiên cứu trước đây của tác giả luận án. Vào năm 2008, tác giả đã bảo vệ thành
công luận văn thạc sĩ về quan hệ ngoại giao Việt – Trung thời kì 1802 – 1885 trên
phương diện chính trị. Từ đó đến nay, tác giả đã tiếp tục mở rộng hướng nghiên cứu
này trên nhiều phương diện khác như kinh tế, văn hóa và đã có một số bài báo về
vấn đề này được công bố2. Vì vậy, nghiên cứu về mối quan hệ ngoại giao Việt –
Trung thời kì 1802 – 1885 một cách sâu sắc, toàn diện chính là sự tiếp nối hướng
nghiên cứu nêu trên.
Với những ý nghĩa khoa học và thực tiễn đó, tác giả quyết định chọn đề tài
“Sự chuyển biến của quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc từ năm
1802 đến năm 1885” làm đề tài luận án của mình.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu
- Luận án nhằm làm sáng tỏ sự chuyển biến của mối quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1885, rút ra được xu hướng, đặc điểm
và thực chất của sự chuyển biến ấy trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước thời kì này.
- Hiểu được đặc điểm, thực chất của mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam
và Trung Quốc thời kì 1802 – 1885 sẽ góp phần giúp cho Đảng và Nhà nước Việt
Nam có được những chính sách đối ngoại đúng đắn, phù hợp với bối cảnh khu vực,
quốc tế hiện nay, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - văn hoá của đất nước,
đảm bảo an ninh quốc phòng cho Tổ quốc, nhất là khi quan hệ giữa hai nước hiện
thời đang tồn tại nhiều vấn đề bất cập.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
2

Xem: Danh mục các công trình của tác giả luận án

3


Để hiểu sâu sắc sự chuyển biến của mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung thời
kỳ này, luận án sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau đây:
- Nghiên cứu sự tác động của hoàn cảnh lịch sử đến đường lối, chính sách
đối ngoại của triều Nguyễn đối với triều Thanh và ngược lại.
- Tái hiện một cách khách quan, chân thực về mối quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam và Trung Quốc trên các phương diện chính trị, kinh tế và văn hóa thời kì
1802 - 1885.
- Tập trung làm rõ những biến chuyển, thay đổi của mối quan hệ ngoại giao
Việt – Trung trước và sau năm 1858 trên những phương diện cơ bản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những biểu hiện của sự chuyển biến
trong quan hệ ngoại giao Việt – Trung từ năm 1802 đến năm 1885. Trong đó, luận
án đi sâu tìm hiểu về sự chuyển biến ấy trên các phương diện cơ bản: Chính trị,
Kinh tế và Văn hóa.
* Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu được xác định là từ năm 1802 đến năm 1885 (tức là
từ khi triều Nguyễn được xác lập vào năm 1802, mở đầu mối quan hệ giữa hai
vương triều phong kiến: triều Nguyễn ở Việt Nam và triều Thanh ở Trung Quốc,
đến năm 1885 là mốc đánh dấu sự chấm dứt vĩnh viễn quan hệ thượng quốc - chư
hầu giữa Trung Hoa và Việt Nam theo Hoà ước Thiên Tân kí giữa Pháp và triều
đình Mãn Thanh (tháng 6 - 1885)).
- Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu theo lãnh thổ của quốc gia Việt Nam
thời Nguyễn và Trung Quốc thời nhà Thanh.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu:
+ Đặt vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh chung của thế giới và khu vực, của
Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ XIX.
+ Tập trung nghiên cứu sự chuyển biến của mối quan hệ ngoại giao Việt –
Trung thời kỳ 1802 – 1885 trên 3 phương diện chính: Chính trị, kinh tế, văn hóa.
+ Tuy luận án đã triển khai sự chuyển biến của mối quan hệ ngoại giao Việt –
Trung thời kì 1802 – 1885 trên cả 2 chiều: chiều Việt Nam với Trung Quốc và chiều
Trung Quốc với Việt Nam, song, do chưa có điều kiện tiếp cận, khai thác nhiều tư

4


liệu từ phía Trung Quốc nên luận án có phần nghiêng nhiều hơn về chiều quan hệ
ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu:
- Các bộ biên niên sử, các bộ hội điển, châu bản trong thời kì phong kiến

được xem như là nguồn tư liệu gốc phục vụ cho luận án, đặc biệt trong đó phải kể
đến một số lượng lớn các bộ sách do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn như:
Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Khâm định Đại Nam
hội điển sự lệ, Đại Nam liệt truyện chính biên, Châu bản, Minh Mệnh chính yếu…
Những tác phẩm này đều ghi chép theo tiến trình thời gian các sự kiện liên quan đến
triều Nguyễn và có điểm qua các sự kiện ngoại giao, những nhà ngoại giao tiêu biểu
thời bấy giờ. Tuy những ghi chép trong các bộ sử này rất tản mạn nhưng chúng hàm
chứa nhiều thông tin trực tiếp và có độ tin cậy cao. Trong đó, bộ Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ và bộ Đại Nam thực lục là những bộ sử ghi chép tương đối đầy
đủ về những sự vật, sự việc, điển lệ…liên quan đến mối quan hệ ngoại giao giữa
triều Nguyễn và triều Thanh. Đặc biệt, mục Bang giao, từ quyển 128 đến 130 của
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (chính biên) thực sự là nguồn tư liệu quý báu khi
chúng ta xem xét nội dung và đặc điểm của những hoạt động ngoại giao tiêu biểu
giữa hai nước Việt – Trung thời bấy giờ như: Thể thức sai sứ, tiếp sứ; đại lễ tuyên
phong, dụ tế; triều cống; lễ sính; ngày tháng cử sứ thần sang Trung Quốc và đón sứ
thần nhà Thanh sang Việt Nam; danh mục phẩm vật sứ bộ mang đi mang về; danh
tính các sứ thần và số lượng thành viên trong mỗi sứ bộ; lộ trình và diễn tiến đi
sứ…Trong khi đó, Châu bản triều Nguyễn không chỉ gồm các bản tấu sớ đã được
nhà vua xem và phê duyệt, mà còn bao gồm cả những sắc, dụ, chiếu, chỉ, những
công văn, tờ trình (thân), những bản kê khai (kê), những văn bản ngoại giao… cho
phép bổ sung nhiều điều chi tiết và cụ thể mà các công trình trên chưa khai thác và
sử dụng hết. Đặc biệt, chúng ta phải nhắc đến những bản tấu, phúc tấu của đình thần
các bộ như bộ Công, bộ Hộ, hay những chỉ dụ của các vua Nguyễn về việc thực thi
chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa thông qua việc vãng thám, đo đạc,
cắm mốc, vẽ họa đồ…Thậm chí, có nội dung bản tấu trong Châu bản còn cho biết

5


những hoạt động hằng năm nêu trên trong một số trường hợp bị hoãn tháng khởi

hành, chẳng hạn như năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) [17] hay năm Thiệu Trị thứ 7
(1847) [18]… Có thể nói, xét về mặt sử liệu học thì Châu bản là tư liệu gốc mang
giá trị đặc biệt mà các công trình biên soạn khác không thể sánh được.
- Các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài luận án
như: Các bộ thông sử, các sách giáo trình dùng trong các trường đại học, sách
chuyên khảo, sách tham khảo, các bài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí
khoa học có uy tín ở Việt Nam, các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ ở Việt Nam và
Trung Quốc…
- Nguồn tư liệu lưu trữ, tài liệu chép tay tại các trung tâm lưu trữ, các viện
nghiên cứu. Trong đó, đáng chú ý là những văn kiện, điển lệ về việc giao thiệp giữa
các triều Nguyễn và triều Thanh bao gồm: dụ, chế, sắc phong, chiếu, biểu, tấu khải,
thư, thơ… được tập hợp trong 清清清 (Bang giao lục), 清清清清清 (Vũ Đông Dương văn
tập), 清 清 清 清 (Như Yên văn thảo), 清清 (Văn tập)…hiện đang được lưu trữ tại Viện
nghiên cứu Hán Nôm.
- Các nguồn tài liệu thu thập được qua quá trình điền dã tại Huế và tại quê
hương của một số nhà ngoại giao tiêu biểu thế kỷ XIX.
* Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận án này, tác giả đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu khoa học cơ bản sau đây:
- Phương pháp lịch sử
Đề tài nghiên cứu của luận án là quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt –
Trung dưới hai triều đại: triều Nguyễn ở Việt Nam và triều Thanh ở Trung Quốc
trong thế kỷ XIX, cách chúng ta ngày nay hơn một thế kỷ, nên phương pháp nghiên
cứu trước hết phải là phương pháp lịch sử cụ thể. Để bổ trợ cho phương pháp này,
luận án đã vận dụng thêm những phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp
so sánh, phương pháp liên ngành, phương pháp thống kê định lượng…
- Phương pháp so sánh
Để giải quyết thấu đáo đề tài này, đặc biệt là để tìm ra sự chuyển biến cũng
như rút ra được thực chất và đặc trưng của mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung từ
năm 1802 đến năm 1885 thì đây là một phương pháp vô cùng hữu hiệu. Trong luận

án này, tác giả đã sử dụng đồng thời cả so sánh lịch đại (giữa các giai đoạn trước,
sau) và so sánh đồng đại (giữa hai phía Việt Nam và Trung Quốc) để tìm ra được

6


những nét tương đồng và khác biệt trong quan hệ ngoại giao Việt – Trung qua hai
giai đoạn trước và sau năm 1858, cũng như rút ra được mối tương quan so sánh
trong tiềm lực, vị thế và cả thái độ của triều đình hai bên trong quan hệ ngoại giao
thời bấy giờ.
- Phương pháp liên ngành
Liên ngành là phương pháp liên khoa học, là sự thiết lập trên cơ sở kết hợp
mối quan hệ qua lại giữa các môn học, ngành học với nhau. Điều quan trọng của
phương pháp này là phải sử dụng đồng thời, hiệu quả các chuyên ngành, không
phân biệt chính, phụ. Đây là phương pháp vô cùng cần thiết bởi muốn lí giải để hiểu
được thực chất hiện tượng lịch sử (trong đó có lịch sử ngoại giao) thì cần phải vận
dụng tốt kiến thức đa ngành, liên ngành. Với đề tài này, chúng tôi vận dụng phương
pháp liên ngành để nhìn nhận, lí giải, đánh giá cùng một lúc mối quan hệ ngoại giao
Việt – Trung thế kỷ XIX trên nhiều phương diện khác nhau và đặt các phương diện
ấy bình đẳng trong cùng một tổng thể chung với nhiều mối quan hệ tác động qua
lại.
- Phương pháp thống kê định lượng
Phương pháp này được sử dụng khá nhiều trong luận án nhằm thống kê, định
lượng thông tin, số liệu để tìm ra khuynh hướng biến chuyển và đặc điểm, thực chất
của mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung. Chẳng hạn, để hiểu rõ mức độ suy giảm
của các hoạt động cầu phong, triều cống, lễ sính giữa hai nước Việt – Trung giai
đoạn sau năm 1858 so với giai đoạn trước năm 1858, chúng tôi đã cố gắng lượng
hóa mọi thông tin có được từ tài liệu Việt Nam và Trung Quốc về những hoạt động
này ở cả hai giai đoạn. Hay để thấy rõ được lễ vật đáp lại của Thanh triều không
nhiều bằng so với vật phẩm dâng cống, lễ sính của các sứ đoàn Việt Nam, chúng tôi

đã định lượng lễ phẩm dâng tiến và tặng vật giữa hai bên một cách cụ thể nhằm làm
căn cứ so sánh và rút ra nhận định. Hay để thấy được sự phổ biến và ưu thế vượt
trội của hoạt động thương mại kiêm nhiệm so với hoạt động thương mại thuần túy,
chúng tôi đã thống kê và định lượng số lần diễn ra các hoạt động này và những

7


thông tin liên quan đến chúng. Sau đó, từ những con số cụ thể mà rút ra nhận xét,
đánh giá một cách xác thực…
5. Đóng góp của luận án
Luận án sau khi hoàn thiện có thể có những đóng góp khoa học và thực tiễn sau:
- Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về mối
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc suốt từ năm 1802 đến năm 1885.
Qua đó, luận án rút ra được những chuyển biến quan trọng cũng như đặc điểm, thực
chất của mối quan hệ ngoại giao Việt - Trung trong hơn tám thập kỷ đầy biến động
của thế kỷ XIX.
- Luận án đã bước đầu làm sáng tỏ vấn đề khoa học mà lâu nay vẫn còn đang
gây nhiều tranh cãi là, Việt Nam độc lập hay phụ thuộc trong quan hệ ngoại giao với
Trung Quốc? Đồng thời, luận án cũng bước đầu bác bỏ những suy luận cảm tính
trong giới nghiên cứu khi cho rằng: Mối quan hệ kinh tế Việt – Trung thế kỷ XIX là
một bức tranh “u ám” do chính sách “ức thương” và “Bế quan tỏa cảng” của triều
Nguyễn mang lại.
- Đặc biệt, những bài thơ, bài văn đi sứ, tiếp sứ gắn liền với tên tuổi của
những vị chánh, phó sứ tiêu biểu làm nên thành công của sự nghiệp ngoại giao triều
Nguyễn đã được luận án lần đầu tái hiện lại – điều mà trước đây chưa một công
trình nghiên cứu nào làm sáng tỏ.
- Luận án được thực hiện thành công sẽ giúp chúng ta có thêm nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu trong việc hoạch định chính sách đối ngoại đúng đắn với nước
lớn Trung Hoa – một nước láng giềng có mối quan hệ ngoại giao lâu đời nhất trong

lịch sử dân tộc Việt Nam, nhằm đảm bảo an ninh quốc phòng cho Tổ quốc, đặc biệt
là khi quan hệ giữa hai nước hiện đang còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập cần tháo gỡ.
- Luận án sau khi bảo vệ thành công có thể được sử dụng để làm chuyên đề
giảng dạy về lịch sử quan hệ song phương giữa hai nước Việt - Trung cũng như
quan hệ đa phương giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 1802 – 1858
Chương 3: Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 1858 – 1885

8


Chương 4: Đánh giá về những chuyển biến của quan hệ ngoại giao Việt – Trung
(1802 - 1885)

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Ngoại giao giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc từ lâu đã trở thành mối
quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đặc biệt, trong mấy chục
năm gần đây, khi mà giới sử học đang không ngừng nỗ lực để có cái nhìn khách
quan nhất về công và tội của triều Nguyễn – vương triều cuối cùng trong diễn trình
lịch sử phong kiến Việt Nam thì mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung lại càng được
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đi sâu tìm hiểu.
1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và ngoài nước có liên
quan đến đề tài luận án
1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
* Những công trình nghiên cứu trước thập niên 90 của thế kỷ XX

Bước sang thế kỷ XX, nhiều bộ thông sử về lịch sử Việt Nam, trong đó có
triều Nguyễn đã ra đời. Trước hết phải kể đến cuốn Việt Nam sử lược của tác giả
Trần Trọng Kim. Đây là bộ lịch sử đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ tại Việt
Nam, xuất bản lần thứ nhất vào năm 1921. Tác giả đã nghiên cứu lịch sử dân tộc
suốt từ thời thượng cổ đến khi Pháp xâm lược và cai trị (tính đến năm 1902), trong
đó có các chương nghiên cứu về triều Nguyễn dưới các đời vua: Gia Long, Minh
Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Tác phẩm này đã giúp cho chúng ta có cái nhìn khái
quát về mọi mặt xã hội Việt Nam duới vương triều Nguyễn, trong đó có lĩnh vực
ngoại giao.
Hơn 20 năm sau đó (1943), tại Hà Nội, Sông Bằng đã dựa trên nhiều tài liệu
quý hiếm sưu tầm được trong thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ cho biên soạn
cuốn Việt Hoa thông sứ sử lược, tủ sách Quốc học thư xã. Qua cuốn sách này, chúng

9


ta bước đầu được biết về những hành vi, tiết tháo của các vị Tuế - Cống sứ Việt
Nam, những mối duyên văn ràng buộc sĩ phu Trung Hoa với các bậc khoa – hoạn
nước nhà. Tuy tác phẩm không đề cập trực tiếp đến ngoại giao Việt – Trung thế kỷ
XIX, song qua đó chúng ta có thể hình dung phần nào sự vận dụng đầy linh hoạt các
hình thức đối thoại văn hoá của các nhà ngoại giao thời phong kiến.
Đến năm 1955, Nxb Xây Dựng đã cho ra đời bộ Lịch sử Việt Nam từ nguồn
gốc đến cuối thế kỷ XIX của tác giả Đào Duy Anh, bao gồm 2 quyển: quyển thượng
và quyển hạ. Đến nay, bộ sách này đã qua nhiều lần tái bản và lần tái bản gần đây
nhất là vào năm 2011 của Nxb Khoa học xã hội. Cuốn sách đã tái hiện lại bức tranh
toàn cảnh về tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc suốt từ thời nguyên thủy cho
đến cuối thế kỷ XIX, trong đó, chương XLIX tập trung bàn về chính sách đối ngoại
của nhà Nguyễn. Tuy nhiên, ở đây, Đào Duy Anh mới chỉ đi vào tìm hiểu chính
sách đối ngoại của nhà Nguyễn đối với các nước ở biên giới phía Tây, Nam và với
thực dân Pháp chứ chưa có dịp nghiên cứu về chính sách đối ngoại của triều

Nguyễn đối với nước Trung Hoa láng giềng.
Sáu năm sau đó (năm 1961), Thành Thế Vỹ đã cho ra đời cuốn sách Ngoại
thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII – XVIII đầu thế kỷ XIX, Nxb Sử học, Hà Nội. Cuốn
sách tái hiện lại nền ngoại thương Việt Nam trong những thế kỷ trước khi thực dân
Pháp xâm lược (cụ thể từ thế kỷ XVII đến hết đời vua Thiệu Trị). Tuy nhiên, tác giả
mới chỉ đề cập đến một vài khía cạnh riêng lẻ của lĩnh vực ngoại thương ở những
thế kỷ này như: các mặt hàng hóa (bao gồm hàng bán ra, hàng mua vào: từ trang 97
đến trang 125); thể lệ ngoại thương, thủ tục, bộ máy, thuế khóa (từ trang 126 đến
trang 138); cách thức mua bán, đổi chác, trả tiền (từ trang 139 đến 181); phương
tiện đi lại (từ trang 182 đến trang 193)…chứ chưa đi sâu phân tích và tổng hợp
những khía cạnh đó để đưa ra cái nhìn hệ thống về quan hệ thương mại giữa Việt
Nam và Trung Quốc.
Cũng trong năm 1961, tạp chí Văn học, số 7 đã cho công bố bài viết Mối quan
hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc với độ dài 22
trang (từ trang 1 đến trang 22) của tác giả Đặng Thai Mai. Tác giả đã phân chia công
cuộc bang giao giữa hai nước Việt – Trung ra làm 4 thời kỳ với những tính chất và sắc
thái khác nhau: thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc và thời kỳ
hiện nay (từ ngày thành lập chế độ dân chủ cộng hoà). Trong mỗi thời kỳ ấy đều diễn
ra sự tiếp xúc văn hoá nói chung và văn học nói riêng giữa hai nước. Qua những phân
tích và luận giải sắc sảo của Đặng Thai Mai, có thể thấy rằng, chính sự giao thoa, đối

10


thoại văn hoá, văn học này đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề nảy sinh trong quan hệ
ngoại giao giữa hai nước qua các thời kỳ lịch sử.
Bước sang thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, có một loạt bài viết được đăng tải
trên các tạp chí chuyên ngành bàn về những biểu hiện mới trong quan hệ Việt –
Trung ở nửa sau thế kỷ XIX, như “Quan hệ Trung - Việt và Việt - Trung” của tác giả
Văn Phong đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4 năm 1979. Bằng những lập

luận sắc bén, tác giả đã phác thảo trên những bình diện lớn về tính chất của quan hệ
Việt - Trung qua các thời kì lịch sử. Trong đó ở mục III, tác giả tập trung khái quát
"Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ Tần đến Mãn Thanh". Ở mục IV, tác giả
tiếp tục khai thác "Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ nửa cuối thế kỷ XIX
đến nửa đầu thế kỷ XX". Đặc biệt, Văn Phong đã lí giải tại sao dưới thời đại phong
kiến, trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, quy luật "cá lớn nuốt cá bé" và
quy luật "quan hệ đẳng cấp giữa nước lớn và nước nhỏ" lại thường xuyên chi phối
hai nước. Song cũng theo Văn Phong, trên thực tế, Việt Nam đã không chịu để cho
các quy luật ấy phát huy tác dụng.
Đến năm 1981, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3 năm 1981 tiếp tục cho công
bố bài viết Nhà Nguyễn với các thương nhân người Hoa thế kỷ XIX của tác giả
Trương Thị Yến bàn về chính sách của triều Nguyễn với thương nhân người Hoa
cũng như về vai trò của họ trong nền kinh tế Việt Nam. Phải nói rằng, bài viết đã
nêu bật thái độ vừa kiềm chế, vừa ưu ái (đặc biệt nhấn mạnh đến sự ưu ái) đối với
Hoa thương của triều Nguyễn trong tương quan so sánh với thương nhân các nước
khác trong khu vực cũng như trên thế giới. Tất nhiên, thái độ đó, chính sách ấy sẽ
ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ kinh tế Việt – Trung thời kỳ này.
Cũng trong năm 1981, cuốn sách về thân thế, sự nghiệp của nhà ngoại giao
nổi tiếng thế kỷ XIX – Lý Văn Phức đã ra đời. Đó là tác phẩm Lý Văn Phức: Cây
bút luận chiến ngoại giao cứng cỏi in trong Văn học Việt Nam trên những chặng
đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược của Nguyễn Đổng Chi, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1981. Song, tác phẩm mới chỉ dừng lại giới thiệu về một số áng
thơ, bài văn bang giao tiêu biểu mà chưa đi vào phân tích và tổng hợp chúng để thấy
được sức mạnh ngôn từ trong đối thoại văn hóa. Đặc biệt, chân dung của nhân vật
lịch sử nổi tiếng này trong tư cách là những nhà ngoại giao cũng chưa được tái hiện
một cách hoàn chỉnh.
Đến năm 1985, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3 đã cho công bố bài viết Một
trăm năm phản bội Việt Nam từ Hiệp ước Pháp - Hoa (1885) của Văn Tạo. Ở đây,
tác giả đã chỉ ra đằng sau cái gọi là tinh thần "thân thiện", "hữu nghị" của thế lực


11


bành trướng, bá quyền phương Bắc đối với nhân dân Việt Nam và vạch rõ những
ảnh hưởng của Hiệp ước Thiên Tân (1885) đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước
Việt - Trung thời bấy giờ.
Về vấn đề này, tác giả Trịnh Nhu cũng đã góp thêm tiếng nói của mình với
bài nghiên cứu Nhà Thanh đối với Việt Nam qua sự phản kháng Hiệp ước năm
1874, đăng tải trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3 và 4 năm 1989. Bài viết đã tập
trung đi vào phân tích thái độ của nhà Thanh đối với Việt Nam qua sự phản kháng
Hiệp ước năm 1874 kí kết giữa Pháp và triều Nguyễn, đồng thời, tác giả xem đó là
một biểu hiện đầy tham vọng của nhà nước phong kiến Trung Hoa trước nguy cơ
Việt Nam bị đế quốc Pháp biến thành thuộc địa và vai trò “tôn chủ” của nó đang bị
đe dọa. Theo tác giả, cũng từ bước khởi đầu ấy, mâu thuẫn Trung – Pháp ngày càng
phát triển và đẫn đến cuộc chiến tranh giữa hai bên (1883 - 1885) như một lẽ tất
yếu. Bài viết đã thực sự góp tiếng nói của mình vào việc phơi bày bản chất của triều
đình Mãn Thanh trong quan hệ với Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX.
* Những công trình nghiên cứu từ thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay
Sau Đổi mới, nhất là từ đầu những năm 1990 trở lại đây, xuất phát từ yêu cầu
thực tiễn của đất nước và cùng với sự phát triển của nền sử học nước nhà, mối quan
hệ ngoại giao Việt – Trung thực sự trở thành một đề tài thu hút sự quan tâm, chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu với mong muốn đưa ra cái nhìn thỏa đáng hơn về vương
triều Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Từ
đây, mối quan hệ đó dần được phục dựng lại một cách sâu sắc và toàn diện trên
nhiều phương diện khác nhau.
Trước hết, phải kể đến luận án tiến sĩ của Trịnh Nhu Quan hệ Trung – Pháp về
vấn đề Việt Nam cuối thế kỷ XIX, được bảo vệ vào năm 1991 tại trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội). Luận án đã nghiên
cứu quan hệ Trung – Pháp kể từ giữa thập kỷ 70 cho đến khi hoạch định biên giới
Việt – Trung và thiết lập quan hệ thương mại giữa Hoa Nam và Bắc Kỳ. Tuy luận án

không nghiên cứu trực tiếp về mối quan hệ Trung – Việt thế kỷ XIX nhưng từ mối
quan hệ giữa Trung Quốc và Pháp – hai nước (một bên là đế quốc xâm lược và một
bên là đế chế phong kiến) vốn đang tranh đoạt lợi ích ở nước thứ 3 là Việt Nam, thì
chúng ta có thể hiểu được phần nào thái độ, mục đích riêng mà nhà Thanh theo đuổi
khi giải quyết vấn đề Việt Nam trong những thập niên cuối của thế kỷ XIX. Luận án
đã phản ánh một thực tế là, cùng với Pháp, Trung Quốc đã sử dụng nhiều biện pháp
vừa đối địch, vừa thỏa hiệp và nhượng bộ, gây nên hậu quả nghiêm trọng cho Việt
Nam trong những thập kỷ này. Tuy không trực tiếp bàn về mối quan hệ Việt – Trung

12


thời bấy giờ nhưng luận án đã cung cấp thêm nhiều luận cứ quan trong giúp chúng ta
hiểu rõ hơn đằng sau cái gọi là tinh thần "thân thiện", "hữu nghị" của "tôn chủ" Trung
Quốc đối với "phiên thuộc" Việt Nam. Cũng theo tác giả, sự can thiệp của nhà Thanh
không hề mang tính tích cực bảo vệ nền độc lập cho đất Việt mà chính sự can thiệp và
xâu xé của nhà Thanh (cùng với họa xâm lược của đế quốc Pháp) lại là nguyên nhân
"thủ tiêu quyền độc lập của Việt Nam", để lại nhiều hậu quả phức tạp về sau này
[121, tr.145]. Nhận định trên có phản ảnh hoàn toàn đúng thực chất của vấn đề hay
không? Tác giả luận án sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu và làm sáng tỏ với hy vọng đưa
ra cái nhìn khách quan nhất về vấn đề này.
Cùng hướng nghiên cứu ấy, hai năm sau, Trịnh Nhu lại cho công bố bài
Nguồn gốc của chiến tranh Trung - Pháp (1883 - 1885) trên tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, số 1 năm 1991. Bằng những kiến giải sắc bén, tác giả đã luận giải khá cặn
kẽ nguồn gốc của chiến tranh Trung - Pháp (1883 -1885) và ảnh hưởng của nó đối
với Việt Nam cũng như quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt – Trung sau đó.
Ngoài tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, một số tạp chí khác cũng đăng nhiều bài
nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu là bài viết “Quân Thanh đối với hoạt động xâm
lược của Pháp ở Bắc Kỳ trong những năm 1882 - 1883” của tác giả Trần Độ, Nghiên
cứu Đông Nam Á, số 3 năm 1995. Qua bài viết, tác giả đã viện dẫn những cứ liệu lịch

sử cụ thể để chỉ ra thái độ của Thanh triều đối với Việt Nam trong những năm 1882 –
1883: "Từ sau tháng 4 năm 1882 đến trước tháng 12 năm 1883, hàng vạn quân chính
quy nhà Thanh có mặt ở Bắc Kỳ thời bấy giờ hầu như "án binh bất động", không có
biểu hiện nào chứng tỏ họ là một lực lượng đồng tình ủng hộ và chi viện cho nhân
dân Việt Nam chống lại sự xâm lược của Pháp, càng không nói đến sự tham chiến
trực tiếp của họ" [40, tr.74].
Cũng trong năm này, Tạ Ngọc Liễn cho ra đời tác phẩm Quan hệ Việt Nam
và Trung Quốc thế kỷ XV - đầu thế kỷ XVI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. Có
thể xem đây một cuốn chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu về lịch sử quan hệ Việt –
Trung ở Việt Nam. Dù chỉ vẻn vẹn 100 trang nhưng cuốn sách là một tài liệu tham
khảo quý báu. Đặc biệt, từ trang 49 đến trang 82 của chương 3, tác giả đã cung cấp
cho người đọc một sự hiểu biết chung nhất về hoạt động cầu phong, triều cống, sự
khác nhau giữa triều cống và lễ sính. Tuy cuốn sách này chỉ giới hạn vấn đề ở trong
một thế kỷ nhưng đây được xem là “một giai đoạn tiêu biểu, đáng chú ý khi xem xét
cấu trúc và bản chất của quan hệ sách phong, triều cống” [100; tr.49]. Chúng ta có
thể coi đó là cơ sở để tìm hiểu về hoạt động cầu phong, triều cống ở những vương
triều tiếp theo, trong đó có vương triều Nguyễn.

13


×