Phan Bội Châu và mối quan hệ
mật thiết với Nhật Bản và Trung
Quốc – tìm hiểu trường hợp Phan
Bội Châu tiếp thu và chuyển hoá
các câu chuyện anh hùng dựng
nước phương Tây
Phan Bội Châu (1867-1940) là một chí sĩ yêu nước Việt Nam
thời cận đại, tên thật là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, còn gọi là Thị
Hán. Ông sinh năm 1867 trong một gia đình nhà giáo nông thôn thuộc
huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Từ tấm bé ông đã cùng cha (Phan Văn
Phổ, không rõ năm sinh năm mất) học kinh điển Nho học, tinh thông
chữ Hán. Năm 1885 ông hạ quyết tâm chống lại cuộc xâm lược và chế
độ cai trị của Chủ nghĩa đế quốc Pháp, đã tập hợp hơn 60 bạn học tổ
chức thành Thí sinh quân bảo vệ tổ quốc. Từ năm 1900 trở đi, ông chủ
động liên lạc với các nhà yêu nước khắp nơi trên toàn quốc tiến hành
các phong trào kháng Pháp. Tháng 5 năm 1904, ông thành lập “Việt
Nam Duy Tân Hội” với tôn chỉ là “khôi phục Việt Nam, kiến lập quốc
gia quân chủ lập hiến”. Đầu năm 1905 ông đến Nhật Bản, lần lượt làm
quen với Lương Khải Siêu (1873-1929), Tôn Trung Sơn (1866-1925),
Chương Thái Viêm (1869-1936), v.v qua đó ông chịu ảnh hưởng sâu
sắc từ tư tưởng hai nhân vật Lương Khải Siêu và Tôn Trung Sơn, đồng
thời cũng có những mối liên hệ nhất định với các đại thần Duy Tân
người Nhật Bản như Okuma Shigenobu (1838-1922) và Inukai
Tsuyoshi (1855-1932). Sau đó ông đã nhiều lần đến Nhật Bản và
Trung Quốc, một mặt chủ động liên lạc với những người yêu nước
chống Pháp trong nước, mặt khác tiến hành các công tác cách mạng ở
Nhật Bản và Trung Quốc, tổ chức đưa nhiều học sinh thanh niên Việt
Nam sang lưu học tại Nhật Bản trong Phong trào Đông Du. Dưới sự
nỗ lực của bản thân và các chí sĩ yêu nước khác, đến năm 1907 đã có
hơn 200 người đến Nhật Bản du học. Năm 1909, cả Phan Bội Châu
cùng Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (1882-1951) đều bị chính phủ Nhật
Bản trục xuất vì các hoạt động chống Pháp của các ông. Về sau, do
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng Tân Hợi tại Trung
Quốc, ông đứng ra thành lập Việt Nam Quang Phục Hội vào tháng 2
năm 1912 tại Quảng Châu, do chính ông làm Hội chủ, phương châm
chính trị là “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước
Cộng hòa Việt Nam”. Năm 1913 ông bị bắt giam ở Quảng Châu, đến
năm 1917 mới được phóng thích. Từ đó ông đi lại nhiều nơi khác nhau
ở Trung Quốc như Bắc Kinh, Hàng Châu, Thượng Hải, Quảng Châu,
Vân Nam, Quý Châu, kể cả sang các nước Triều Tiên, Nhật Bản và
Thái Lan v.v nhằm thúc đẩy phong trào cách mạng ở Việt Nam.
Năm 1924 ông giải thể Hội Quang Phục ở Quảng Châu, tiến tới thành
lập Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ngày 11/5/1925, trên đường đến
Thượng Hải ông bị đặc vụ Pháp bắt giữ giải về nước, giam lỏng ở Bến
Ngự Huế đến năm 1940 thì qua đời
(2)
.
Trung Quốc và các quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán đều
bị các quốc gia phương Tây xâm lược và uy hiếp, hết thảy đều có
những thay đổi trên các phương diện chính trị, tư tưởng và văn hóa, và
đều đang tìm kiếm các đối sách để chống lại. Song do tình hình mỗi
nước khác nhau nên nội dung, phương thức và tốc độ của những thay
đổi nói trên cũng khác nhau.
Dù vậy điểm giống nhau đáng chú ý là các trí thức khai sáng
hoặc các trí thức ở Trung Quốc và các quốc gia Đông Á đều đã từng
coi các quốc gia hiện đại hóa phương Tây là mô hình để cách tân. Họ
không ngừng nỗ lực tìm tòi nguyên nhân đạt đến trình độ “nước giàu,
binh mạnh”, “khai hóa văn minh” của các quốc gia Tây Âu này. Mặt
khác, họ coi Nhật Bản là đầu tàu, nước đã từng từ bỏ chính sách bán
nước và xóa bỏ chính thể Mạc Phủ, thực hiện mạnh mẽ công cuộc Duy
Tân Minh Trị, lần lượt trải qua hai cuộc chiến tranh là chiến tranh
Giáp Ngọ (chiến tranh Trung-Nhật) và chiến tranh Nhật-Nga, trở
thành quốc gia giàu mạnh nhất Đông Á, được xếp vào hàng ngũ các
cường quốc thế giới. Chính điều này đã khiến cho các quốc gia Đông
Á bao gồm cả Trung Quốc tích cực học tập mô hình cách tân Nhật
Bản, và vì thế nhiều chí sĩ khai sáng và trí thức các nước tìm cách sang
Nhật Bản du học
(3)
. Mà một trong các con đường quan trọng để họ tiếp
thu tri thức mới, mở rộng tầm nhìn của mình là tìm đọc các thư tịch
tân học của Nhật Bản, tức trực tiếp đọc các văn bản nguyên văn tiếng
Nhật, hoặc thông qua đọc các quyển đã chuyển ngữ thành Trung văn
để tìm hiểu nội dung. Thông qua các hoạt động ấy, tư tưởng và nội
dung Tây học/ Tân học đã được truyền bá đến các quốc gia Đông Á,
trực tiếp phát huy ảnh hưởng đến các quốc gia này. Phan Bội Châu
đóng vai trò quan trọng của người trực tiếp tiếp nhận và truyền bá,
cũng là nhà tiên phong “mở mắt nhìn thế giới” tìm hiểu cục diện tình
hình thế giới tương đối sớm ở Việt Nam. Do đó, trong bài viết này
chúng tôi không tập trung vào mối quan hệ giữa Phan Bội Châu và văn
hóa kinh điển Trung Quốc mà lựa chọn một góc nhìn mới để xem xét
vấn đề. Chúng tôi đi từ các quá trình tiếp xúc, tiếp thu, chuyển hóa và
truyền bá những tri thức mới, tư duy mới của Phan Bội Châu kể từ
biến cố Mậu Tuất ở Trung Quốc năm 1889, đồng thời xem xét đến
mối quan hệ mật thiết giữa các tác phẩm của ông với Trung Quốc và
Nhật Bản.
Phan Bội Châu trong cuốn tự truyện Phan Bội Châu Niên Biểu
từng nói rằng trước khi xuất dương ông đã tiếp xúc các cuốn Doanh
Hoàn Chí Lược của Từ Kế Dư (1795-1873), Phổ-Pháp Chiến Kỷ của
Vương Thao (1828-1897), và Trung Đông Chiến Kỷ Bản Mạc của
Thái Nhĩ Khang (1851-1921) khiến cho ông “hiểu được tình trạng
cạnh tranh khốc liệt ở trong hoàn hải, thảm trạng quốc vong chủng diệt
càng kích thích trong đầu óc sâu lắm”. Ngoài ra ông cũng đã đọc các
tác phẩm Trung Quốc Hồn, Mậu Tuất Chính Biến Kỷ và hai ba bài viết
trên Tân Dân Tùng Báo của Lương Khải Siêu. Nhiều nhà nghiên cứu
thống nhất rằng Phan Bội Châu đã tìm thấy sự khởi đầu cho công cuộc
cách mạng của mình từ trong các tác phẩm Tân Thư có nguồn gốc
Trung Quốc ấy
(4)
.
Dĩ nhiên một vài điểm tư duy và khái niệm trong các tác phẩm
Tân Thư này không hoàn toàn do các nhân sĩ hoặc trí thức Trung Quốc
sáng tạo ra, mà nó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận ảnh hưởng từ
Nhật Bản, trong đó rõ ràng nhất là mặt tiếp thu và dẫn dụng của
Lương Khải Siêu đối với trào lưu tư tưởng Duy Tân Minh Trị Nhật
Bản. Điều quan trọng hơn nữa là thế giới tư tưởng đương thời đã mang
một diện mạo phức tạp do các trào lưu tư tưởng đa nguyên không
ngừng giao lưu xung đột tạo nên, trào lưu tư tưởng mới, tri thức mới
thường là kết quả được thể hiện qua quá trình không ngừng tương tác
đa phương ở các quốc gia Đông Á, đặc biệt là giữa tư tưởng hai nước
Trung Quốc và Nhật Bản. Kết quả ấy đã có thể được cách tân làm
mới theo thời gian, mối quan hệ giữa chúng có thể nói là phức tạp
cũng đã góp phần làm tăng độ khó khăn trong quá trình phân tích đề
tài. Vì lý do này, chúng tôi không thể quy kết sự thể hiện đơn thuần
của một tư duy mới hay một tri thức mới thành một dạng ảnh hưởng
của văn hóa. Để có thể làm rõ mối quan hệ mật thiết giữa các tác phẩm
của Phan Bội Châu với Trung Quốc và Nhật Bản, chúng ta nên xem
xét con đường và quá trình truyền bá các tư duy, tri thức mới này đến
tay Phan Bội Châu, cũng như phương cách lựa chọn vận dụng của ông
ấy về sau. Thế nhưng tư tưởng mà Phan Bội Châu đã tiếp nhận là đa
nguyên và rất phong phú, cho nên để thuận tiện hơn trong việc nghiên
cứu vấn đề, chúng tôi lựa chọn việc tìm hiểu và chuyển hóa các hình
tượng anh hùng lập quốc phương Tây của Phan Bội Châu làm đối
tượng khảo sát, qua đó cố gắng tìm hiểu mối quan hệ mật thiết giữa
Phan Bội Châu và các phong trào tư tưởng Trung, Nhật. Trong số các
anh hùng kiến quốc phương Tây, Phan Bội Châu thường nhắc tới hai
nhân vật là Giuseppe Mazzini (1805-1872, người Ý) và George
Washington (1732-1799, người Mỹ).
2. Phan Bội Châu và Mazzini
Trước khi xuất dương Phan Bội Châu đã từng viết cuốn Thời
thế và Anh hùng, trong đó đề cập nhiều đến khía cạnh một quốc gia có
hưng thịnh hay suy vong mấu chốt nằm ở chỗ “quốc gia ấy có anh
hùng hay không”. Giả sử ai cũng là anh hùng thì thế gian này sẽ không
có nước nào là tiểu nhược. Ông viết tiếp thế này:
“夫立五洲爭競之場,正宜露我頭角,況時窮勢蹙,國破君
亡,死至目前,亡懸頸後,真宜投袂而起,奮義同仇,生亦快死
亦快” (trích trong Thời thế và Anh hùng)
(Ôi đứng trên trường tranh cạnh của năm châu, cần phải giơ
sừng gạc của mình, phương chi gặp lúc thời thế cùng quẫn, nước phá
vua mất, chết đến trước mắt, gươm kề sau cổ, vốn phải nên dứt áo
đứng dậy, vì nghĩa giết thù, sống cũng sướng mà dù chết nữa cũng
sướng – Chương Thâu dịch, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 22,
tr.143)
Ngoài tính cách vốn có của mình, những ảnh hưởng của thời
cuộc cũng là một trong những căn nguyên hun đúc nên đức tính hành
hiệp đại nghĩa, tinh thần thượng võ ở Phan Bội Châu. Thời ấy, một
mặt ông hô hào nhân dân khởi nghĩa, đặt kì vọng một vị anh hùng
kháng Pháp cứu quốc trong tương lai, một mặt tự trui rèn bản thân
mang phong cách một “anh hùng”. Kiểu chủ nghĩa anh hùng với tinh
thần thượng võ vì đại nghĩa ấy khá gần gũi với tính cách của giới trí
thức Trung Quốc thời kì mạt Thanh. Do vậy, khi Phan Bội Châu chủ
động đọc các ngôn hành sự tích của nhân vật đại nghĩa, các lãnh tụ
chính trị nước ngoài hoặc khi trực tiếp tiếp xúc với họ, ông vừa thể
hiện trạng thái đồng cảm vừa cảm kích, ngưỡng mộ. Ông cho rằng các
nhân vật ấy có thể là những tấm gương (điển phạm) cho con đường
đấu tranh giành độc lập ở Việt Nam, và do vậy dưới ngòi bút của
mình, ông luôn coi các nhân vật ấy là nguồn tư tưởng chính để hiệu
triệu toàn dân đứng lên chống Pháp.
Trong cuốn tự truyện của mình Phan Bội Châu từng đề cập đến
cuộc đời và sự nghiệp của nhà cách mạng Ý Giuseppe Mazzini (1805-
1872). Ông nói:
“… Trong Italy tam kiệt, tôi đặc biệt ngưỡng mộ Mazzini. Tôi
tâm đắc nhất câu “Giáo dục và bạo động song hành”. Một mặt cổ động
học sinh xuất dương du học, một mặt kích thích tư tưởng và hành động
cách mạng trong dân”
Thực ra chi tiết “Truyện ba vị anh hùng người Ý” mà Phan Bội
Châu đã dẫn bên trên chính là bài “Truyện ba vị anh hùng kiến quốc
người Ý” của Lương Khải Siêu vốn đã được đăng trên tờ Tân Dân
Tùng Báo từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1902, tức sớm hơn thời điểm
Phan Bội Châu hiểu biết về Mazzini rất nhiều.
Ba vị anh hùng kiến quốc người Ý ấy lần lượt là Mazzini,
Giuseppe Garibaldi (1807-1882) và Camillo B. Cavour (1810-1861).
Năm 1831, Mazzini sáng lập Đảng Thiếu niên Ý (còn gọi là Đảng
Thanh niên Ý), phát động phong trào thanh niên Ý yêu nước, tiến tới
cuộc vận động thống nhất toàn nước Ý. Động thái này đã được
Giuseppe Garibaldi hưởng ứng, song điều đáng tiếc là nó đã thất bại.
Về sau, thủ tướng vương quốc Sardino tên là Camillo B. Cavour
(1810-1861) đã kế thừa Mazzini đề xướng phong trào nước Ý độc lập,
cộng với tài năng ngoại giao khôn khéo của chính Camillo B. Cavour,
nhờ đó nước Ý đã nhận được sự ủng hộ của Pháp, Anh. Phong trào
này lần lượt đẩy lùi bạo hành của đế quốc Áo, và nhất là nhận được sự
trợ giúp quân sự của Giuseppe Garibaldi, cuối cùng đã thực hiện thành
công công cuộc thống nhất đại bộ phận lãnh thổ nước Ý. Đành rằng
nước Ý thống nhất toàn quốc không phải hoàn toàn do công sức của ba
nhân vật này song sức mạnh của trào lưu độc lập mà họ khởi xướng và
lãnh đạo là không thể ngăn nổi, để rồi nước Ý hoàn toàn độc lập năm
1871 trong thời kì chiến tranh Đức – Pháp.
Lương Khải Siêu trong cuốn Truyện ba anh hùng kiến quốc
người Ý đã từng nêu lý do tại sao chọn ba nhân vật này như sau:
“Trong lịch sử kiến quốc các nước châu Âu trong mấy trăm năm
qua có rất nhiều những nhân vật đáng để ca ngợi, đáng để ghi vào sử
sách. Cho đến thời đại tôi đang sống rõ ràng có rất nhiều anh hùng hào
kiệt đáng để muôn dân ngưỡng vọng. Song châu Âu trước thời kỳ độc
lập, cũng giống như Trung Quốc hôm nay, phải kể đến nước Ý. Bàn
về các câu chuyện của những người yêu nước nước Ý, giống như
những người yêu nước Trung Quốc hôm nay, phải kể đến ba vị anh
hùng nước Ý”.
Lương Khải Siêu cho rằng tình thế nước Ý thời trước độc lập
gần giống như Trung Quốc ở thời đại của ông, vì vậy khi trích thuật
lịch sử kiến quốc của ba anh hùng nước Ý Lương Khải Siêu hi vọng
có thể lấy họ làm gương cho người Trung Quốc. Trên thực tế quan
điểm này của ông bắt nguồn từ người Nhật với tác phẩm Truyện ba
người anh hùng nước Ý, đa phần được dịch lại (sang tiếng Trung) từ
tác phẩm Truyện ba anh hùng kiến quốc Italy của tác giả Kumiko
Hirata do Nhật Bản Dân Hữu Xã xuất bản năm 1892 và bài viết
Camilo B. Cavour của Matsumura Kaiseki (1859-1939) viết trong bộ
Thái Dương (612, quyển số 4, tháng 1, tháng 2 năm 1898), đồng thời
bổ sung thêm tư liệu của các thư tịch khác để viết thành. Sớm từ thời
Duy Tân Minh Trị người Nhật Bản đã từng song hành bàn luận về
nước Ý cận đại và Nhật Bản cận đại, thậm chí Matsumura Kaiseki còn
cho rằng Trung Quốc và nước Ý cùng thời cận đại có rất nhiều điểm
tương đồng. Tuy rằng Lương Khải Siêu kế thừa người Nhật trong rất
nhiều quan niệm song so sánh cho thấy Lương Khải Siêu đã rất đề cao
Mazzini, luôn kỳ vọng rằng người Trung Quốc có thể học tập tinh thần
yêu nước của nhân vật lịch sử này.
Chúng ta có thể nhận thấy cuốn Truyện ba anh hùng chiến quốc
người Ý của Lương Khải Siêu trên thực tế là một tác phẩm thể hiện
mối quan hệ giao lưu phức tạp về tư tưởng đa phương giữa hai nước
Trung, Nhật. Khi Phan Bội Châu đọc câu chuyện này, ông đã tiếp
nhận ảnh hưởng của Lương Khải Siêu, do đó trong ông hình thành tư
tưởng ngưỡng mộ tinh thần yêu nước vì đại nghĩa của Mazzini. Thông
qua việc tìm hiểu quan điểm cách mạng của Mazzini, Phan Bội Châu
đã đúc kết thành phương châm “Giáo dục và bạo động phải song
hành” cho phong trào cách mạng đòi độc lập ở Việt Nam. Sau này,
trong thời kỳ lập Hội Duy Tân, Phan Bội Châu đã phân lực lượng của
mình thành hai nhóm. Trong cuốn Phan Bội Châu Niên Biểu ông từng
viết: “Một nhóm là phái hòa bình, chuyên chú trọng các công tác diễn
thuyết tuyên truyền học đường; còn một nhóm là phái hành động,
chuyên tập trung vận động quân sự, trang bị võ trang”. Rõ ràng đây là
một thể hiện của sự ảnh hưởng từ Mazzini. Dù vậy chúng ta cũng
không thể bỏ qua chi tiết Phan Bội Châu gián tiếp tiếp nhận trào lưu tư
tưởng Nhật Bản thông qua tác phẩm Truyện ba anh hùng kiến quốc
người Ý của Lương Khải Siêu, qua đó hiểu biết được những biến động
của thời cuộc thế giới, chủ động rút ra các đối sách cho các hành động
về sau.
3. Phan Bội Châu và Washington
Tình trạng các tư tưởng đa nguyên giao lưu tác động lẫn nhau
này còn có thể tìm thấy trong các tác phẩm viết về hình tượng
Washington- người lập quốc nước Mỹ. Nhìn lại quá trình tiếp nhận
hình tượng Washington ở các nước Đông Á, ta có thể thấy rằng chính
các giáo sĩ truyền giáo phương Tây đã mang tư tưởng của Washington
truyền bá vào Trung Quốc. Năm 1838 tại đây công bố bài Giản Lược
Ngôn Hành Washington trên tờ Đông Tây Dương Khảo, số tháng
giêng. Ngoài ra có rất nhiều giáo sĩ trong quá trình dịch giới thiệu lịch
sử nước Mỹ cũng đã đề cập tới Washington. Từ năm 1842 trở đi hình
tượng Washington đã chính thức du nhập vào giới trí thức Trung
Quốc, do đó trong các tác phẩm Hải Quốc Đồ Chí của Ngụy Nguyên
(1792-1857), Doanh Hoàn Chí Lược của Từ Kế Dư (1795-1873), Tiêu
Cổ Đường Văn Tập - Hải Ngoại Lưỡng Dị Nhân Truyện của Tưởng
Đôn Phục (1808-1867), cuốn Washington Truyện của Lý Nhữ Khiêm
(1852-1909) và Thái Quốc Chiêu v.v đều có những phần ký lục hoặc
miêu thuật về ngôn hành của Washington. Trong đó có lẽ gây ảnh
hưởng lớn nhất là cuốn Doanh Hoàn Chí Lược của Từ Kế Dư. Dưới
ngòi bút của ông này, Washington được ví như “hình tượng Nghiêu
Thuấn” ở nước ngoài. Sử sách Trung Quốc về sau khi viết về
Washington đại thể đều như vậy, lần lượt trích dẫn hoặc thêm thắt cho
phong phú thêm.
Từ năm 1855 trở đi Washington được nhiều người Nhật biết tới,
chẳng hạn Otsuki Tsunesuke (1818-1857) với cuốn Viễn Tây Kỷ Lược,
Kitagawa Naokai với cuốn America Độ Hải Nhật Ký, Suzuki Yaken
với cuốn Washington Quân Ký, Oka Shenjin (1833-1914) và Kono
Michiyuki (1842-1916) trong cuốn Mễ Lợi Kiên Chí, ông Okamoto
Kansuke (1839-1904) với cuốn Vạn Quốc Sự Ký v.v lần lược trích
dịch về tư liệu hoặc truyền ký về cuộc đời của Washington. Nhờ vào
sự tuyên truyền vận động của các nhân sĩ và trí thức Trung-Nhật, cao
trào biên dịch truyền ký Washington đã hình thành và phát triển mạnh
mẽ ở khu vực Đông Á đầu thế kỷ XIX.
Phan Bội Châu đã tiếp cận các câu chuyện về Washington bằng
cách nào? Trong tự truyện hay các tác phẩm của mình, ông không hề
nói về nguồn gốc và quá trình tìm đọc các truyền ký Washington. Dù
vậy, trước khi xuất dương ông đã tìm đọc cuốn Doanh Hoàn Chí Lược
của Từ Kế Dư và có lẽ lúc ấy ông đã ít nhiều biết được về ngôn hành
của Washington. Trên thực tế chính cuốn Washington Truyện mà Lê
Nhữ Khiêm và Thái Quốc Chiêu biên dịch mới gây ảnh hưởng lớn tới
Phan Bội Châu. Nguyên nhân nằm ở chỗ Phan Bội Châu từng có tác
phẩm Sùng bái giai nhân, nếu xem xét kỹ thì công trình này của Phan
Bội Châu khá tương thích với bài dịch của hai tác giả Lê Nhữ Khiêm
và Thái Quốc Chiêu. Từ đó đặt ra một yêu cầu là chúng ta nên giới
thiệu sơ lược về cuốn Washington Truyện của hai tác giả Trung Quốc
nói trên cũng như lược thuật những ảnh hưởng của tác phẩm này đối
với giới tư tưởng đương thời.
Lê Nhữ Khiêm từ rất sớm đã nghe danh về Washington, thế
nhưng ông không thể tìm đọc các trứ tác về cuộc đời và sự nghiệp của
nhân vật này, vì vậy năm 1882 khi ông đảm nhận chức vụ Quan Lý sự
Thần Hộ Nhật Bản đã nhờ “quan phiên dịch” Thái Quốc Chiêu đặt
mua cuốn Cuộc đời của George Washington (The Life of George
Washington) của tác giả Washington Irving (1783-1859). Sau khi xác
định chất lượng của tác phẩm này, Lê Nhữ Khiêm đã ra lệnh cho Thái
Quốc Chiêu dịch sang tiếng Trung Lương Khải Siêu từng nhắc đến
quyển sách này trong rất nhiều các tác phẩm của mình. Phan Bội Châu
có thể đã thông qua phần giới thiệu của Lương Khải Siêu mà biết đến
tác phẩm. Có lẽ đây là một trong những con đường mà Phan Bội Châu
tiếp cận cuốn Washington Truyện. Tháng 5 năm 1907 Phan Bội Châu
xuất bản cuốn Sùng Bái Giai Nhân ở Tokyo. Mười năm trước đó, vào
tháng 8 năm 1897, trong số ra đầu tiên của tờ Thực Học Báo có đăng
tải những cảm nhận sau khi đọc Washington Truyện của Uông Vinh
Bảo (bài viết sau khi đọc cuốn Washington Truyện). Như một sự trùng
hợp lịch sử, điều đáng để chúng ta lưu ý là cả hai người thanh niên trí
thức này đều quan tâm đến cùng một vấn đề. Phan Bội Châu từng đề
cập đến nguyên nhân ông lựa chọn cuốn Sùng Bái Giai Nhân là:
“念最近無名之英雄,有最當紀念而為予所知者也,凡數人
,其一曰高勝,其一曰隊合,其一曰管寶,短刀壓陣,殺賊將名
沒片(扇),以報高公勝之仇。予摭拾各事之始末,略分為傳,
顏曰「崇拜佳人」。”
(Nghĩ rằng gần đây anh hùng vô danh rất đáng ghi nhớ mà tôi
được biết có mấy người: thứ nhất là Cao Thắng, tiếp theo là Đội Hợp,
tiếp nữa là Quản Bảo – đoản đao áp trận, giết tướng giặc tên là Một
Phiến, để báo thù cho Cao Thắng. Tôi tập hợp đầu đuôi các việc, phân
ra thành truyện, nhan đề là “Sùng bái giai nhân”- Trích trong Sùng bái
giai nhân, ĐLG tạm dịch)
“Giai nhân” ở đây được hiểu là các anh hùng tráng sĩ Việt Nam
thời kháng Pháp. Hành động chống Pháp vì đại nghĩa và đức hy sinh
cao cả của họ xứng đáng để nhân dân kính vọng và sùng bái. Chính vì
vậy, Phan Bội Châu hy vọng rằng thông qua việc giới thiệu hình tượng
các anh hùng có thể vực dậy tình cảm dân tộc ở muôn dân, kêu gọi
mọi người học tập các chí sĩ anh hùng, cùng nhau đứng lên chống
Pháp. Washington không phải người Việt Nam nhưng ông đã dẫn dắt
người Mỹ thoát khỏi sự quản lí của nước Anh, điều này đủ để các dân
tộc bị thực dân đô hộ biểu dương, học hỏi. Phan Bội Châu từng nói:
今五洲萬國所公認為世界之第一偉大者必曰華盛頓,吾儕
兄弟所以心醉而願學者亦莫若華盛頓。劍槍料理日信於東西,風
雲戲場日演於宇宙,華盛頓之價值日愈高,吾同胞之腦海中無日
不注此潮流矣
(Ngày nay, tất cả các nước trong năm châu đều công nhận một
vĩ nhân đứng vào bậc nhất thế giới đó tức là Hoa Thịnh Đốn. Anh em
chúng ta say mê muốn học tập, chẳng có ai hơn Hoa Thịnh Đốn. Ngày
nay trong thời buổi mài gươm sửa súng, đi khắp đông tây, đùa gió cợt
mây, diễn tràn vũ trụ…thì giá trị của Hoa Thịnh Đốn càng cao. Tôi tin
rằng trong đầu óc đồng bào ta, không ngày nào là không chú ý đến
trào lưu đó - Sùng bái giai nhân, Lê Ninh dịch, Phan Bội Châu toàn
tập, tập 2, tr.319).
Sau khi lược thuật cuộc đời và sự nghiệp của Washington thời
kì chống thực dân Anh, ông đã từng buông thêm câu cảm thán “Ôi tệ
thật! Chẳng lẽ đất nước này không có một Washington hay sao?”. Tuy
lời lẽ là thế, song Phan Bội Châu lại có quan điểm riêng của mình, ông
cho rằng nếu toàn dân quen chuyện binh sự thì hết thảy đồng bào đều
có “cơ duyên tuyệt hảo” với Washington. Nguyên nhân nằm ở chỗ
toàn dân luyện tập quân sự sẽ có lợi cho việc ứng chiến về sau. Một
mặt ông là một trong những người tiên phong phát động phong trào
yêu nước yêu đồng bào, mặt khác do tham gia chống Pháp lâu ngày
ông trở nên rất am hiểu mô thức hành vi của người Pháp. Đối với ông,
rõ ràng đến lúc ấy việc trở thành một Washington ở Việt Nam là một
việc dễ như trở bàn tay. Cuối cùng ông cũng thốt lên rằng “Hỡi đồng
bào! Có muốn trở thành Washington không? Có dũng cảm như
Washington không? Có thể phục vụ cho Washington không?”. Phan
Bội Châu luôn chủ động sử dụng các câu chuyện và chiến công của
Washington để tranh thủ tình cảm dân tộc, kêu gọi nhân dân dũng cảm
lật đổ chế độ thực dân Pháp.
Nhà hoạt động Trung Quốc Uông Vinh Bảo cho rằng chế độ
tuyển cử tổng thống do Washington đề xướng có thể ví như nền tảng
chính trị lý tưởng sơ khai thời Nghiêu Thuấn thượng cổ. Chế độ ấy có
thể đạt được “tứ thiện” và tránh được tình trạng “ngũ bệnh” chuyên
chế độc tài.
Qua chế độ chính trị của nước Mỹ, Uông Vinh Bảo lên án chế
độ thống trị chuyên chế của Trung Quốc, cho rằng quân chủ Trung
Quốc hoàn toàn khác với chế độ tổng thống Mỹ vốn do nghị viện bầu
ra. Vả lại một vị tổng thống nhiều nhất cũng chỉ có thể đảm nhiệm
chức vụ hai nhiệm kỳ, tức thời gian tại vị chỉ kéo dài 8 năm, chuyện
này làm cho Trung Quốc khó có thể quay trở lại với tình trạng thời
Nghiêu Thuấn thượng cổ. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có thể thông
qua việc thiết lập nghị viện và trường học, tiêu trừ các tệ nạn thống trị
chuyên chế. Vì vậy ông đã nói: “không dựng trường học sẽ không có
người giỏi; nghị viện không phát sẽ khó có công bằng”.
Phan Bội Châu từ trong tác phẩm Washington Truyện đã rút ra
được những ý nghĩa cao quý mà các dân tộc bị thực dân xâm lược có
thể áp dụng kêu gọi toàn dân dũng cảm đứng lên đòi độc lập, do vậy
ông không ngừng cổ động tinh thần dân tộc trong nhân dân Việt Nam,
không ngừng hiệu triệu đồng bào cứu nguy tổ quốc. Ông hy vọng mọi
người đều có thể là Washington của Việt Nam, hết thảy đều là
Washington! Uông Vinh Bảo ở Trung Quốc qua cuốn Washington
Truyện cũng đã rút ra được những ý nghĩa tương tự. Sau khi so sánh
thể chế chính trị của hai nước Trung - Mỹ, Uông Vinh Bảo đã suy
nghĩ, tìm tòi phương pháp cải tiến chính thể chuyên chế Trung Quốc
và nhận thấy rằng việc xây dựng trường học và thiết lập nghị viện là
con đường khả thi. Cả hai nhà cách mạng (Phan Bội Châu và Uông
Vinh Bảo) đều đọc cùng một tác phẩm, song sau khi đọc lại có hai
quan niệm khác nhau, nguyên nhân nằm ở chỗ tình hình hai quốc gia
có sự khác biệt. Các chí sĩ và trí thức Trung Quốc cận đại nhìn chung
đều cảm nhận sâu sắc cận cảnh suy tàn của đất nước nên họ đã thúc
giục triều đình nhà Thanh sớm cải cách thể chế chính trị. Đại khái vào
thập niên 1880 Vương Thao (1828-1897) và Trịnh Quan Ứng (1842-
1922) đã từng đề xuất quan điểm chế độ quân chủ lập hiến và thiết lập
nghị viện. Năm 1895 trong chiến tranh Giáp Ngọ, sự bại trận của
Trung Quốc cũng là sự cáo chung của phong trào Tự cường, phong
trào tầng lớp trí thức đòi hỏi cải cách đạt đến cực điểm, Khang Hữu
Vy lãnh đạo Lương Khải Siêu và hơn một ngàn cử nhân khác ký tên
dâng thư yêu cầu triều đình phải có những thay đổi (sử sách gọi là
“Công Xa Thượng Thư”). Thời ấy chuyện thiết lập nghị viện là vấn đề
chính trị nóng bỏng mà giới nhân sĩ trí thức bàn tán, Uông Vinh Bảo
và rất nhiều nhân sĩ khác như Thôi Quốc Nhân (1831-1909), Thang
Chánh (1857-1917), Tống Nộ (1862-1910), v.v sau khi tìm hiểu các
câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của Washington đã liên tục suy
nghĩ về việc thực thi chế độ nghị viện ở Trung Quốc. Kiến giải của
mọi người có thể không giống nhau, song tất cả đều đồng hành với
phong trào tư tưởng thời đại ở Trung Quốc.
Cái mà Phan Bội Châu phải đối mặt là nền thống trị bóc lột của
kẻ thực dân cho nên vấn đề ông suy nghĩ không phải là việc cải cách
thể chế chính trị mà là làm thế nào để thoát khỏi ách thực dân để có
độc lập. Chính vì vậy ông đề ra khẩu hiệu “bài Pháp phục Việt”. Cho
nên sau khi đọc Washington Truyện, ông đã lựa chọn hình ảnh
Washington lãnh đạo đồng bào dũng cảm chống chủ nghĩa thực dân
Anh làm “nguồn tư tưởng” để phát động trong dân chúng Việt Nam.
Do hình tượng anh hùng của Washington có lợi việc tuyên truyền và
quảng bá quan niệm cách mạng của mình, Phan Bội Châu đã nhiều lần
sử dụng các câu chuyện về cuộc đời và chiến công của nhân vật này
trong các tác phẩm của ông. Chẳng hạn trong cuốn Nam Du Hồng Qua
Lục có đề cập tới chủ trương cách mạng lấy “dân trí trấn dân khí” làm
tôn chỉ, tới việc nhờ “khai dân trí” mà Washington có thể thoát khỏi sự
thống trị của nước Anh để giành độc lập”. Ý nghĩa của các chi tiết này
là mở rộng dân trí trước thì mọi người đều có thể trở thành những
Washington chống lại thực dân. Trong cuốn Chân Tướng Quân, tác
phẩm mà Phan Bội Châu ghi chép về các câu chuyện cuộc đời và sự
nghiệp của nhà yêu nước Hoàng Hoa Thám (1885-1913), ông cũng
nhắc tới Washington. Phan Bội Châu cho rằng giả sử Hoàng Hoa
Thám sinh ở Mỹ thì chắc chắn cũng trở thành một vị anh hùng cái thế
như Washington, vì vậy “không phải nước tôi không có anh hùng”, chỉ
sợ nhân dân không đủ đoàn kết sẽ không có “triệu triệu Washington”
để cùng cả nước chống Pháp.
Bàn về những khác biệt về tình hình hai quốc gia mà Uông Vinh
Bảo và Phan Bội Châu đối mặt, “thuyết nghị viện” tuy được cho là vấn
đề nóng bỏng mà giới trí thức thân sĩ Trung Quốc quan tâm nhưng vẫn
tồn tại một phong trào cải cách thể chế chính trị khác, đó là phong trào
cách mạng do Tôn Trung Sơn (1866-1925) lãnh đạo. Trước thời Phan
Bội Châu, nhiều nhà cách mạng Trung Quốc cũng tìm thấy được
nguồn tư tưởng cách mạng trong các câu chuyện về cuộc đời và sự
nghiệp của Washington, họ cũng đều cho rằng có thể lấy đó kích thích
lòng yêu nước trong nhân dân mình. Dưới ngòi bút của họ,
Washington trở thành tấm gương cách mạng - một vị lãnh tụ dẫn dắt
nhân dân đi vào con đường tự do dân chủ. Các câu chuyện về cuộc đời
Washington và cả những nhân vật điển phạm có ý nghĩa tượng trưng
tương tự hết thảy đều trở thành đối tượng để các nhà cách mạng học
tập, trui rèn tư tưởng cách mạng cho chính mình. Về điểm này thì
những hiểu biết của Phan Bội Châu về ngôn hành của Washington rõ
ràng có những mối liên hệ mật thiết với phong trào vận động cách
mạng ở Trung Quốc
4. Những tác động và ảnh hưởng của các tác phẩm Phan Bội
Châu đối với lịch sử Đông Á thời cận đại
[…………]
5. Kết luận
Trước và sau khi xuất dương, Phan Bội Châu đã không ngừng
học hỏi, tiếp thu tri thức mới của phong trào Tân học. Ông tìm đọc rất
nhiều trứ tác của các nhà tư tưởng, các nhà hoạt động chính trị Trung
Quốc, Nhật Bản, hoặc lắng nghe những kiến nghị của họ, nhờ vậy đã
“mở mắt nhìn thế giới”, góp phần mở rộng tầm nhìn của mình về cục
diện thế giới tình hình Đông Á. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ lựa chọn
những hiểu biết và việc chuyển hóa các hình tượng các anh hùng kiến
quốc phương Tây của ông làm đối tượng khảo sát, cố gắng tìm hiểu
mối quan hệ mật thiết giữa Phan Bội Châu và các phong trào tư tưởng
Trung, Nhật. Phan Bội Châu đã tìm hiểu, tiếp thu và chuyển hóa ý
nghĩa lịch sử của các câu chuyện các anh hùng kiến quốc phương Tây
mà đặc biệt là Mazzini và Washington, qua đó rút ra được các ý nghĩa
thiết thực mà nhân dân bị đô hộ có thể áp dụng để mưu cầu độc lập,
thậm chí còn tìm kiếm được phương châm tiến hành phong trào cách
mạng. Về sau, hình ảnh Mazzini người Ý và Washington người Mỹ
dưới ngòi bút của ông đã trở thành “nguồn tư tưởng” để ông cổ động
tình cảm dân tộc và hiệu triệu đồng bào chống giặc cứu nước.
Phan Bội Châu đã đem những hiểu biết của mình chuyển hóa và
viết sách lập thuyết, thông qua phương thức “tái sản xuất” đã góp phần
tác động vào các quốc gia Đông Á. Các tác phẩm của ông không
những là nguồn tìm hiểu những biến động của thế giới và kích thích tư
tưởng của các trí thức Việt Nam và các quốc gia Đông Á khác mà còn
là đối tượng được nhiều nhân sĩ trí thức về sau đề cập và vận dụng.
Phan Bội Châu từ một nhà tiếp thu tư tưởng đã trở thành một nhà
truyền bá. Qua ý thức và tinh thần yêu nước mà các tác phẩm Phan
Bội Châu tác động đến nhân dân các nước Đông Á có thể thấy các
quốc gia bị thực dân xâm lược ở Đông Á đã trở thành một cộng đồng
có cùng chung số phận. Điều này có thể chứng minh rằng Phan Bội
Châu và các tác phẩm của ông có những tác động nhất định đối với
lịch sử Đông Á thời cận đại. Rõ ràng các tác phẩm của Phan Bội Châu
không chỉ thể hiện mối liên hệ mật thiết với Nhật Bản và Trung Quốc
mà còn bộc lộ rõ diện mạo phức tạp của các quá trình giao lưu văn hóa
không ngừng ở Đông Á.
Thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ mật thiết giữa các tác
phẩm của Phan Bội Châu và Trung Quốc, Nhật Bản, chúng tôi hi vọng
có thể tìm hiểu được mối giao lưu tác động đa phương giữa Phan Bội
Châu, các tác phẩm của ông với những thay đổi lịch sử, biến động
chính trị và trào lưu tư tưởng văn hóa ở Đông Á thời cận đại. Trong
các công trình tiếp theo chúng tôi sẽ đi sâu nghiên cứu quá trình tiếp
thu lý giải và tái sản xuất của Phan Bội Châu đối với các nhà tư tưởng
phương Tây và các nhân vật tiên phong trong phong trào Duy Tân
Nhật Bản, cũng như phân tích mối quan hệ phức tạp giữa