Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức ngành tài nguyên và môi trường huyện nam sách, tỉnh hải dương giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.63 KB, 53 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
CÔNG CHỨC NGÀNH TÀI NGUYÊN VÀ
MÔI TRƯỜNG HUYỆN NAM SÁCH,
TỈNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Người thực hiện:

Vương Văn Giang

Lớp:

B9 – 19

Chức vụ:

Phó Trưởng phòng

Đơn vị công tác:

Phòng Tài Nguyên và môi trường
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương

HÀ NỘI, THÁNG 5 NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Đề án, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô


giáo cố vấn thực hiện đề án. Cô đã rất nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ trong
suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện Đề án. Đồng thời, em cũng hết sức
chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong khoa Triết học - Học viện Chính
trị Khu vực I, đã tạo điều kiện, giúp đỡ em hoàn thành đề án cũng như tất cả
các thầy, cô giáo thuộc các Khoa, phòng, ban - Học viện Chính trị Khu vực I
đã giúp đỡ em hoàn thành chương trình học tập Cao cấp Lý luận Chính trị hệ
tập trung, khóa học 2015-2016.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo cơ quan Huyện ủy, UBND huyện Nam
Sách, các cơ quan, đơn vị ở huyện Nam Sách; UBND các xã, thị trấn; cán bộ
Trung tâm Thông tin tư liệu thư viện Học viện Chính trị Khu vực I đã cung
cấp những tư liệu hết sức quý báu để em hoàn thành Đề án này.
Quá trình thực hiện đề án do năng lực bản thân còn nhiều hạn chế,
không tránh khỏi những thiếu sót rất mong sự góp ý chân thành của thầy, cô
giáo và bạn bè để đề án được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày

tháng 4 năm 2016

Học viên

Vương Văn Giang


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. Công nghiệp hóa

- CNH


2. Hiện đại hóa

- HĐH

3. Bảo hiểm xã hội

- BHXH

4. Đảng Cộng sản

- ĐCS

5. Hội đồng nhân dân

- HĐND

6. Ủy ban nhân dân

- UBND

7. Chủ nghĩa xã hội

- CNXH

8. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

- GCN QSDĐ

9. Giải phóng mặt bằng


- GPMB


MỤC LỤC
B. NỘI DUNG.............................................................................5
1. Căn cứ xây dựng đề án..............................................................................5
1.1. Cơ sở khoa học.......................................................................................5
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng cho vấn đề cán bộ và
xây dựng đội ngũ cán bộ của giai cấp vô sản. Từ kinh nghiệm rút ra trong
lịch sử phát triển của xã hội loài người và qua quá trình truyền bá lý luận
khoa học vào phong trào vô sản, hai ông khẳng định: “Tư tưởng căn bản
không thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn”. Kế thừa, phát triển tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen về vấn đề cán bộ, V.I.Lênin cho rằng: “Trong lịch sử, chưa
hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”...............................9
2.4.3. Cải thiện thu nhập, chăm lo đời sống vật chất và điều kiện làm việc
cho cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước................27
2.4.4. Giáo dục, nâng cao giá trị nghề nghiệp của cán bộ, công chức trong
các cơ quan hành chính Nhà nước...............................................................28
3.3.2. Dự kiến kinh phí................................................................................33


1
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Từ thực tiễn lịch sử của xã hội loài người và chính trong quá trình truyền
bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân C. Mác đã kết luận: Bất cứ một tư
tưởng nào, dẫu cao siêu vĩ đại đến đâu thì tư tưởng vẫn mãi mãi là tư tưởng nếu

tư tưởng đó không có con người truyền bá, vận dụng nó trong đời sống xã hội.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá tư tưởng
của C. Mác qua nhận định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc…Công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong
hệ thống tổ chức bộ máy là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại
của cách mạng. Đảng ta đã khẳng định: Trong giai đoạn cách mạng hiện nay,
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt. Trong xây dựng Đảng thì vấn đề cán bộ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là
khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt. Khi đã có đường lối, chính sách đúng,
thì cán bộ là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của đường lối đó.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu
được những thành tựu rất to lớn và vô cùng quan trọng trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Những kết quả đạt được trong
hơn 20 năm qua đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Cùng với đường lối đúng đắn
ấy, Đảng ta đã luôn chú trọng xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ
và năng lực thực tiễn, có tinh thần trách nhiệm trước sự nghiệp đổi mới, trước
nhân dân, quyết tâm thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nghị quyết Trung ương 3 Khoá VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định: “Xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng


2
đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập
trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự
chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi

lên chủ nghĩa xã hội.
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Nam Sách là cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nam Sách thực hiện chức năng tham mưu,
giúp Ủy ban nhân dân huyện quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
gồm: đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường, biến đổi khí hậu
Phòng Tài nguyên và Môi trường có tư cách pháp nhân, có con dấu và
tài khoản; chịu sự chỉ đạo, quản lý và điều hành của Ủy ban nhân dân cấp
huyện; đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp
vụ của Sở Tài nguyên và Môi trường; là cơ quan trực tiếp quản lý hoạt động
của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện và là cấp trên chuyên môn
của cán bộ địa chính- xây dựng các xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
Trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội của huyện, yêu cầu mà thực
tiễn đặt ra đối với phòng Tài nguyên và môi trường nói chung và đội ngũ cán
bộ công chức ngành Tài nguyên và môi trường là rất cao, song thực trạng ở
huyện Nam Sách còn nhiều hạn chế và bất cập. Một bộ phận cán bộ chưa
được đào tạo bài bản hoặc đào tạo chắp vá, thiếu sự quy hoạch tổng thể trong
một thời gian dài; việc bố trí, sắp xếp cán bộ còn chưa sát với thực tiễn, năng
lực công tác và yêu cầu nhiệm vụ chuyên môn. Mặt khác, cơ chế thị trường
cũng tác động nhất định đối với đạo đức, phong cách, lối sống của đội ngũ
cán bộ trong ngành, đòi hỏi phải quan tâm rèn luyện tư cách đạo đức đối với
cán bộ một cách thường xuyên.
Xuất phát từ yêu cầu lý luận và thực tế, tôi chọn vấn đề “Nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức ngành Tài nguyên và Môi trường huyện Nam Sách,


3
tỉnh Hải Dương giai đoạn 2016 - 2020” để làm đề án tốt nghiệp lớp Cao cấp lý
luận chính trị của mình.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung

Phấn đấu đến năm 2020, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức ngành
tài nguyên và môi trường của huyện Nam Sách được nâng lên đạt tiêu chuẩn
về trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện Nam Sách, tỉnh
Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Phấn đấu đến năm 2020 đội ngũ cán bộ công chức ngành tài nguyên và
môi trường huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đạt một số chỉ tiêu sau:
2.2.1. Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: 100% cán bộ trong ngành
đạt trình độ đại học và trên đại học chuyên môn về lĩnh vực tài nguyên và môi
trường, trong đó: trình độ Thạc sỹ là 15/34; trình độ Đại học là 19/34; tất cả
các cán bộ trong ngành tài nguyên và môi trường thông thạo nghiệp vụ
chuyên môn.
2.2.2. Về kỹ năng làm việc: phần lớn cán bộ công chức trong ngành tài
nguyên và môi trường có kỹ năng xử lý các công việc đạt hiệu quả cao (trên
3/4 tổng số cán bộ trong ngành); cơ bản người dân hài lòng khi giao tiếp, trực
tiếp làm việc tại cơ quan công quyền.
2.2.3. Về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp: số lượng đảng
viên đạt 34/34 cán bộ; Công chức ngành tài nguyên và môi trường phấn đấu
thực hiện các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp theo quyết định số 117QĐ/BCSĐ-BTNMT ngày 11/4/2014 của Ban cán sự Đảng Bộ Tài nguyên và
môi trường (Phụ lục số 01).
2.2.4. Về sức khỏe: 100% cán bộ lãnh đạo, chuyên môn có đủ năng lực
thể chất để đảm đương được các nhiệm vụ chuyên môn trong ngành.


4
3. Giới hạn của đề án
3.1. Đối tượng của đề án
Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức ngành tài nguyên và môi trường
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương (cán bộ công chức ngành tài nguyên và

môi trường cấp huyện gồm cán bộ công chức xã, thị trấn và cán bộ công chức
phòng Tài nguyên và môi trường huyện, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương- tổng số là 34 người).
3.2. Không gian của đề án
Đề án nghiên cứu trong phạm vi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
3.3. Thời gian thực hiện đề án
Đề án được thực hiện trong giai đoạn 2016-2020.


5

B. NỘI DUNG
1. Căn cứ xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản được sử dụng trong đề án
- Khái niệm cán bộ công chức
Qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung, ngày 9/12/2008 Quốc hội ban hành
Luật cán bộ, công chức có hiệu lực thực hiện từ ngày 1/1/2010 quy định cụ
thể hơn về công chức, phân biệt và giải thích rõ cán bộ và công chức.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch
chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị-xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật

Để hướng dẫn thi hành Luật cán bộ, công chức, ngày 25/1/2010, Chính
phủ ban hành Nghị định 06/2010/NĐ-CP quy định những người là công chức.
Theo Nghị định này, căn cứ để xác định công chức gồm: là công dân Việt
Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên
chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong các
cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, của tổ chức chính trị - xã hội, trong
Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, trong


6
các cơ quan Bộ và các tổ chức khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
thành lập, trong cơ quan hành chính cấp tỉnh, cấp huyện, trong hệ thống Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, trong cơ quan, đơn vị của Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân, trong bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự
nghiệp công lập.
- Chất lượng cán bộ công chức
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: Chất lượng là một phạm trù triết
học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn
định tương đối của sự vật và phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là đặc
tính khách quan của sự vật, biểu thị ra bên ngoài qua các thuộc tính. Chất lượng
của sự vật, hiện tượng biểu thị trình độ phát triển của nó, chất lượng càng cao
thì mức độ phát triển của sự vật càng lớn
Theo Từ điển tiếng Việt, chất lượng được xem là “Cái tạo nên phẩm chất,
giá trị của mỗi con người, một sự vật, sự việc” . Đây là cách đánh giá một con
người, một sự việc, một sự vật trong cái đơn nhất, trong tính độc lập của nó.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức được tạo nên bởi nhiều nhân
tố, bao gồm số lượng cán bộ, cấu trúc bộ máy, cơ chế tổ chức, điều hành,
phương thức quản lý và lãnh đạo… Chất lượng của đội ngũ cán bộ được cấu
thành từ phẩm chất và năng lực của mỗi người cán bộ.

Chất lượng cán bộ công chức là tổng hợp các yếu tố: trình độ được
đào tạo về chuyên môn bậc cao, có phẩm chất chính trị tư tưởng vững vàng,
đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, trong sáng, kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn dày dạn, thể chất tốt tạo nên năng lực và phẩm chất của cán
bộ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, tổ chức và điều hành, v.v…
Chất lượng của mỗi người cán bộ, công chức trước hết được biểu hiện
ở bản lĩnh chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, ở trình độ được đào tạo về
chuyên môn, lý luận chính trị, kiến thức văn hóa và giao tiếp, thể hiện ở kinh
nghiệm và năng lực lãnh đạo, quản lý, tổ chức, điều hành bộ máy và năng lực tổ


7
chức thực tiễn, đồng thời được biểu hiện ở hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản
lý, ở uy tín của họ trước tập thể và nhân dân, ở sức khỏe bảo đảm để làm việc.
Tuy nhiên, mỗi chức danh, mỗi cương vị và mỗi loại cán bộ, công chức
khác nhau có yêu cầu chất lượng ở mức độ chuyên sâu khác nhau. Nhưng nhìn
chung ở bất cứ cương vị và lĩnh vực nào thì yêu cầu về tố chất chính trị phải
được đặt lên hàng đầu. Tố chất đạo đức là cái gốc và trình độ, kiến thức năng
lực, sức khỏe là nhân tố quyết định đến hiệu quả công tác. Chất lượng hoạt động
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, hoạt động tuyên truyền, vận động, hướng dẫn
của MTTQ và các đoàn thể, hoạt động quản lý hành chính nhà nước của UBND
suy cho cùng chính là chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức làm việc
trong các cơ quan đó. Do vậy, khi nói đến chất lượng cán bộ, công chức là nói
đến tổng thể những phẩm chất, năng lực của người cán bộ, công chức đang
làm việc tại các cơ quan nhà nước, Đảng và đoàn thể những phẩm chất và
năng lực này thể hiện khả năng và kết quả thực hiện công việc của họ, cụ thể
hơn là thực hiện những nhiệm vụ của các cơ quan mà họ được cấp có thẩm
quyền phân công.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Chất lượng cán bộ công chức là
tổng hợp những phẩm chất, những giá trị về chính trị, đạo đức, trình độ,

năng lực, thể chất và kết quả hoàn thành nhiệm vụ được phân công của mỗi
cán bộ, công chức trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan,
đơn vị.
Công tác đánh giá cán bộ, công chức là công tác vô cùng phức tạp,
nhạy cảm, là cơ sở cho việc xây dựng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí
sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và thực
hiện chính sách đối với cán bộ, công chức
1.1.2. Tiêu chí cán bộ công chức ngành tài nguyên và môi trường
- Tiêu chuẩn chung cho cán bộ trong thời kỳ mới theo Nghị quyết Trung
ương 3 khoá VIII (Phụ lục 2).


8
- Riêng đối với ngành tài nguyên và môi trường tôi xin đưa ra các tiêu
chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ công chức dựa vào 04 tiêu chí sau:
+ Về chuyên môn nghiệp vụ: các cán bộ công chức ngành đòi hỏi phải
qua đào tạo tại các trường học với đúng chuyên ngành về đất đai và môi
trường, trình độ học vấn đạt từ đại học trở lên. Không chỉ biết và giỏi kiến
thức chuyên môn mà phải có nghiệp vụ vững vàng, sẵn sàng ứng phó với các
thay đổi của quy định về đất đai.
+ Về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp: phải đảm bảo theo
đúng quy định tại Quyết định số 117-QĐ/BCSĐ- BTNMT ngày 11/4/2014 của
Ban cán sự Đảng Bộ Tài nguyên và môi trường.
+ Về kỹ năng làm việc: là khả năng thích ứng, tiếp cận nhanh với sự
thay đổi đối với các quy định của Nhà nước; khả năng phân tích, làm chủ các
tình huống trong khi giải quyết các công việc chuyên môn, đặc biệt khi trực
tiếp làm việc với người dân (kỹ năng mềm).
+ Về sức khỏe: là khả năng đáp ứng về năng lực thể chất, tinh thần; khả
năng chịu được sức ép về tâm lý khi xử lý các công việc chuyên ngành.
Như vậy, việc đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ, công chức là một trong những nội dung cơ bản của công cuộc cải cách
hành chính được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã thực hiện
nhiều hoạt động cải cách trong công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức.
Song, thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ ngành tài nguyên và môi trường ở
huyện Nam Sách còn nhiều hạn chế và bất cập cần phải có đề xuất kịp thời để
khác phục hạn chế đang tồn tại.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý


9
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đặt nền móng cho vấn đề cán bộ
và xây dựng đội ngũ cán bộ của giai cấp vô sản. Từ kinh nghiệm rút ra trong
lịch sử phát triển của xã hội loài người và qua quá trình truyền bá lý luận khoa
học vào phong trào vô sản, hai ông khẳng định: “Tư tưởng căn bản không
thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn”. Kế thừa, phát triển tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về vấn đề cán bộ, V.I.Lênin cho rằng: “Trong lịch sử, chưa hề có
một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
Về vị trí của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là dây chuyền của
bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, cán bộ là cái gốc của mọi công
việc; muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém. Với ý
nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất của
xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò cực
kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta.
Đảng ta luôn coi cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động lãnh
đạo của Đảng, là nguyên nhân thành bại của cách mạng. Hội nghị Trung ương
3 (khóa VIII) đã có Nghị quyết về “Chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Đại hội IX của Đảng đã đề cập

nhiều về vấn đề tổ chức và cán bộ, nhất là tổ chức bộ máy Đảng, Nhà nước và
cán bộ lãnh đạo của Đảng, cán bộ quản lý và công chức của Nhà nước. Văn
kiện Đại hội đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ
cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính
trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ và kiến thức về
năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân” và “Xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức trong sạch có năng lực. Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế
cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức… Đào tạo, bồi dưỡng


10
cán bộ công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối,
chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp lại
đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn”.
Kết luận của Đảng tại Hội nghị Trung ương 9 (khóa X) và nghị quyết
Đại hội XI của Đảng tiếp tục xác định: cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Trước
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi ngày càng cao hơn,
đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, phức tạp hơn,cần phải có một đội ngũ cán bộ
ngang tầm thì mới đáp ứng được. Do đó Đảng phải tiếp tục thực hiện chiến
lược cán bộ với quyết tâm và yêu cầu mới cao hơn, đạt kết quả tốt hơn trên cơ
sở bổ sung, hoàn thiện các quan điểm, xác định rõ hơn các mục tiêu, nhiệm vụ
và giải pháp.
Cùng với quan điểm chỉ đạo trên, Chính phủ, Bộ tài nguyên và môi
trường cũng ban hành các văn bản pháp lý như:
- Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ về
đào tạo, bồi dưỡng công chức.
- Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy
định những người là công chức.
- Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003.

- Luật Cán bộ, công chức nãm 2008 của Quốc hội.
- Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992, 2013 của Quốc
hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Luật Đất đai ngày 29 tháng 11 năm 2013.
- Quyết định số 117-QÐ/BCSÐ- BTNMT ngày 11/4/2014 của Ban cán
sự Ðảng Bộ Tài nguyên và môi trýờng ban hành quy định chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức, ngýời lao động ngành tài
nguyên và môi trường.
- Chỉ thị số 02/CT-BTNMT ngày 29/03/2013 của Bộ Tài nguyên và môi


11
trường về việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính của cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động thuộc ngành tài nguyên và môi trường.
1.3. Cơ sở thực tiễn của đề án
Thực tiễn chất lượng đội ngũ cán bộ ngành tài nguyên và môi trường ở
huyện Nam Sách còn nhiều hạn chế bất cập. Nhiều xã chưa có đủ cán bộ theo
đúng tiêu chuẩn, chức danh, cơ cấu chưa hợp lý. Một số cán bộ trình độ, năng
lực chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, chưa được đào tạo cơ bản về chuyên
môn, lý luận chính trị; một số cán bộ tuổi cao chưa kịp thời thay thế; một số
còn thụ động, bảo thủ, quan liêu, làm việc theo kiểu kinh nghiệm, một bộ
phận không nhỏ cán bộ do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, đã có biểu
hiện suy thoái về phẩm chất, đạo đức sống xa dân, quan liêu, hách dịch, cục
bộ, cơ hội có tham vọng cá nhân…làm ảnh hưởng tới uy tín, vị thế của Đảng,
chính quyền với nhân dân và hiệu quả công việc.
Từ thực tiễn nêu trên đòi hỏi nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngành
tài nguyên và môi trường là nhiệm vụ cấp bách đặt ra đối với huyện Nam
Sách để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn trong giai đoạn hiện nay: phải có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín trước
nhân dân, có năng lực công tác, có đạo đức cách mạng, về tinh thần phục vụ

nhân dân, về trình độ kiến thức pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã hội... Sự am
hiểu và nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật xử lý thông tin... để giải quyết
các vấn đề đặt ra trong quản lý Nhà nước một cách khôn khéo, minh bạch,
dứt khoát, hợp lòng dân và không trái pháp luật, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao trên cương vị công tác của mình.
Nguồn số liệu sử dụng trong đề án được lấy từ: Dự thảo văn kiện đại
hội đảng bộ huyện Nam Sách lần thứ XXI; báo cáo thống kê chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt các xã, thị trấn của Ban Tổ chức Huyện uỷ Nam Sách;
Báo cáo công tác đào tạo, bồi dưỡng của Trung tâm Bồi dưỡng chính trị
huyện, phòng Nội vụ huyện Nam Sách.


12
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
Đề án này được thực hiên trong bối cảnh có những yếu tố thuận lợi và
khó khăn sau:
- Hệ thống các văn bản của Đảng, Chính phủ... về cán bộ và công tác
cán bộ được ban hành cơ bản đầy đủ, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tổ chức, thực hiện công tác cán bộ tại địa phương.
- Đảng bộ và chính quyền huyện Nam Sách luôn quan tâm, chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ huyện, đặc biệt đội ngũ cán bộ ngành tài nguyên môi
trường để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, hoàn thành các chỉ tiêu mà đại
hội đảng bộ huyện Nam Sách lần thứ XX đã đặt ra.
- Đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt đội ngũ cán bộ ngành tài nguyên
môi trường ở các xã, thị trấn ngày càng nhận thức sâu sắc vai trò, trách nhiệm
của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương, có ý thức
vươn lên, không ngưng phấn đấu học tập, bồi dưỡng, tự rèn luyện, khắc phục
khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

- Kết quả công tác quản lý đất đai, tài nguyên và môi trường trong thời
gian qua (Phụ lục 03).
2.2. Thực trạng chất lượng cán bộ công chức ngành Tài nguyên và
môi trường hiện nay của huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
2.2.1 Thực trạng chất lượng cán bộ ngành Tài nguyên và môi trường
Ngành Tài nguyên và môi trường huyện được giao nhiệm vụ hiện nay
có 03 bộ phận chính nằm ở phòng Tài nguyên và môi trường huyện, Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện và bộ phận thuộc xã, thị trấn quản lý.
Tổng số cán bộ công chức và lao động hợp đồng năm 2015 là 34 người, trong
đó: Phòng Tài nguyên và môi trường huyện: 09 biên chế; Văn phòng đăng ký
QSDĐ huyện: 02 biên chế và 04 cán bộ hợp đồng; Cán bộ địa chính và môi
trường cấp xã, thị trấn: 19 biên chế, cụ thể:


13
+ Tổng số nam: 27; tổng số nữ: 07;
+ Tổng số biên chế công chức: 30; lao động hợp đồng: 04.
+ Trình độ Thạc sỹ: 07; Đại học: 13; Trung cấp: 14 (số cán bộ đào tạo
đúng chuyên ngành tài nguyên và môi trường là 28 người; số còn lại đào tạo
không đúng chuyên ngành).
+ Sơ cấp chính trị: 12; Trung cấp chính trị: 10; Cao cấp chính trị: 01.
+ Đảng viên: 23; Đoàn viên: 11.
+ Trình độ ngoại ngữ và tin học: đa số cán bộ không sử dụng được
ngoại ngữ, có khoảng 90% số lượng cán bộ sử dụng thành thạo máy vi tính
trong công việc chuyên môn.
Có thể nói cán bộ ngành tài nguyên và môi trường của huyện Nam Sách
về cơ bản đã đáp ứng được về mặt số lượng, tuy nhiên về chất lượng vẫn chưa
được đồng đều và chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu cũng như các tiêu
chí mà ngành Tài nguyên và môi trường đã đưa ra.
* Về cơ cấu giới tính và trình độ chuyên môn

- Ưu điểm
Đội ngũ công ngành Tài nguyên và môi trường huyện Nam Sách ngày
càng được trẻ hoá, đa số ở độ tuổi dưới 40 (28/34 người, tương ứng 82,4%),
đây là độ tuổi trẻ, có trình độ chuyên môn tốt, có sức khỏe, nhiệt tình công tác
cống hiến đáp ứng tốt với đòi hỏi của công việc chuyên môn. Tỷ lệ cán bộ
công chức ngành có trình độ và chuyên môn có khả năng đáp ứng tốt yêu cầu
công tác đạt tương đối cao (13 người có bằng đại học, 07 người có bằng Thạc
sỹ và cơ bản đều phù hợp với chuyên ngành công tác).
Do xác định được một cách đúng đắn tính chiến lược và cấp thiết của
cũng như tầm quan trọng của công tác cán bộ, UBND huyện đã chỉ đạo các
phòng ban chức năng phối hợp với phòng Nội vụ huyện trong việc lập kế
hoạch, triển khai thực hiện công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ.
- Hạn chế


14
+ Công tác đào tạo đội ngũ công chức ngành Tài nguyên và môi trường
huyện Nam Sách còn bộc lộ những thiếu sót, hạn chế. Việc đào tạo, đào tạo lại
đôi khi không được tiến hành thường xuyên do đó kết quả công tác đào tạo trở
thành vấn đề bất cập nhất trong toàn bộ các khâu của quá trình đào tạo cán bộ
của huyện. Việc mở các lớp tập huấn chuyên ngành để trang bị, bổ sung kiến
thức còn hạn chế, kinh phí hỗ trợ cho công tác đào tạo chưa thoả đáng, chưa
động viên kịp thời được đội ngũ cán bộ công chức tham gia các lớp học để
nâng cao trình độ phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương.
+ Công tác tuyên truyền và nhận thức của cán bộ địa chính, cán bộ môi
trường một số xã, thị trấn còn hạn chế, việc tham mưu chỉ đạo thực hiện
không phù hợp với chỉ đạo của cấp trên.
+ Do đặc thù công việc của ngành tài nguyên và môi trường là chủ yếu
làm việc tại thực địa, đo đạc, lập hồ sơ địa chính… nên đòi hỏi cán bộ phải có

sức khỏe phải tốt, thời gian nhiều, do vậy số lượng cán bộ nữ trong ngành
hiện tại là 07 đồng chí là nhiều, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tế.
+ Công tác phối hợp giữa Phòng Tài nguyên và Môi trường, UBND các
xã, thị trấn còn chưa tốt, chưa hợp lý. Chuyên môn của một số cán bộ địa
chính xã, thị trấn còn rất hạn chế, trách nhiệm thực hiện công việc rất thấp,
chưa nắm bắt và hiểu hết các văn bản quy định về quản lý đất đai của Nhà
nước. Một số cán bộ tham gia công tác lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho người sử dụng đất trình độ chuyên môn còn yếu, chưa đáp
ứng nhu cầu trong quá trình thực hiện.
* Về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng
- Ưu điểm
Hầu hết đội ngũ công chức ngành Tài nguyên và môi trường huyện
Nam Sách có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có
tinh thần trách nhiệm độc lập tự chủ và có uy tín với Đảng, với dân, được thực


15
tế khẳng định mặc dù trong điều kiện nào, hoàn cảnh sống còn gặp nhiều khó
khăn nhưng vẫn giữ vững được lập trường tư tưởng vững vàng, phẩm chất đạo
đức và lối sống lành mạnh, ý trí vươn lên hoàn thành nhiệm vụ chung. Nội bộ
cán bộ, công chức đoàn kết nhất trí và có ý thức chăm lo đời sống nhân dân
địa phương. Số đông tích cực học tập đã có bước tiến bộ về kiến thức chuyên
môn, một số năng động sáng tạo, thích ứng dần với cơ chế quản lý mới.
- Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm, đội ngũ công chức ngành Tài nguyên và môi
trường huyện Nam Sách còn bộc lộ những khuyết điểm:
+ Vẫn còn 07 đoàn viên chưa được kết nạp đảng; trình độ lý luận chính
trị của cán bộ công chức trong ngành chủ yếu là sơ cấp, do vậy một số công
chức còn dao động trước những khó khăn, giảm sút niềm tin; nhận thức mơ hồ
về chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội, hoài nghi đường lối của Đảng,

thiếu tinh thần bảo vệ quan điểm đường lối của Đảng chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
+ Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận công chức có
chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy bằng cấp”. Thoái
hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách
nhiễu nhân dân chưa được đẩy lùi. Những biểu hiện này đã làm xói mòn bản
chất cách mạng của cán bộ, công chức, làm giảm lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, với chính quyền.
* Kỹ năng làm việc, năng lực công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chủ
trương, chính sách
- Ưu điểm
Sau nhiều năm phấn đấu theo tiến trình đổi mới của đất nước, hoạt động
của đội ngũ công chức ngành đã có nhiều đổi mới, thích ứng dần dần với
những vận động và đòi hỏi của cuộc sống hiện đại. Kỹ năng làm việc, năng
lực tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được


16
nâng lên rõ rệt; nhiều cán bộ trong ngành có tư duy tổng hợp, biết vận dụng
sáng tạo các quy định của pháp luật và trong công việc chuyên môn để xử lý
nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chinh đáng cho người dân; việc cập nhật
chính sách mới, tham mưu tổ chức triển khai các chế độ, chính sách của cán
bộ ngành đã thể hiện sự năng động, sáng tạo hơn. Đặc biệt, tính chủ quan, tùy
tiện, thụ động, ỷ lại trong giải quyết công việc từng bước được khắc phục.
Đội ngũ công chức ngành Tài nguyên và môi trường huyện Nam Sách
hầu hết đều thực hiện tốt những yêu cầu của công chức trong thực hiện các
chức trách công vụ, giữ mối liên hệ tốt giữa Nhà nước với Nhân dân, phản
ánh kịp thời những khó khăn vướng mắc trong thực hiện chinh sách quy định
của Nhà nước và cấp trên. Tích cực nghiên cứu văn bản nên xử lý công việc
đạt hiệu quả tốt, được nhân dân tin tưởng và quý mến.

Do công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng được chuẩn hóa, được quan
tâm nên nhiều cán bộ đã có kinh nghiệm và chuyên môn công tác đáp ứng tốt
yêu cầu đòi hỏi của tình hình mới.
Mặc dù khối lượng công việc nhiều, tính chất công việc phức tạp nhưng
nhiều đồng chí đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực sự tâm huyết với công
việc, gương mẫu trong mọi lĩnh vực công tác, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ được Đảng, nhà nước và nhân dân giao phó
- Hạn chế:
+ Nhìn chung năng lực hoạt động thực tiễn chưa thực sự tốt, khả năng
đáp ứng kịp với nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH là hạn chế. Nhiều chủ
trương chính sách của cấp uỷ, chính quyền cấp trên triển khai chậm chạp, thiếu
sự chủ động tích cực, thiếu tinh thần năng động, sáng tạo nên ít mang lại hiệu
quả thiết thực và chưa có nhiều sáng kiến tạo ra được những sự bứt phá cần
thiết trong thời kỳ đổi mới.
+ Nhiều công chức cơ sở chưa có năng lực làm việc tập thể phối kết
hợp giữa các ban ngành, đoàn thể trong việc tham mưu tuyên truyền, triển


17
khai các chương trình, kế hoạch, chính sách mới nhằm vận động, tập hợp và
phát huy vai trò của quần chúng nhân, chưa tạo ra sự đồng thuận cần thiết và
có ý nghĩa ngay trong nội bộ ban lãnh đạo địa phương và giữa cán bộ với
nhân dân để tạo ra sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính
trị của địa phương.
+ Một số công chức chưa thực sự trung thành với mục đích, lý tưởng
của Đảng, còn đề cao lợi ích cá nhân, dẫn đến lối quan liêu, tham nhũng, lãng
phí.
+ Chưa tích cực tham gia xây dựng chính sách, đường lối của Đảng.
Một số công chức chưa thẳng thắn trong đấu tranh tự phê bình và phê bình,
còn hiện tượng né tránh, ngại va chạm.

+ Về kỹ năng làm việc: một trong những tiêu chuẩn của cán bộ, công
chức là “gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm”. Tuy nhiên,
sự gắn kết này đôi khi còn tỏ ra hình thức, còn biểu hiện bè phái, cục bộ. Viêc
quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng
cho nhân dân chưa thường xuyên. Nhiều công chức chưa nhận thức được quan
điểm “lấy dân làm gốc” và tác dụng của sự thành tâm, nhẫn nại, khéo khơi gợi
quần chúng là những vấn đề có ý nghĩa quyết định. Năng lực khái quát hóa,
tập hợp ý kiến của nhân dân còn hạn chế nên chưa tìm ra nhu cầu phổ biến và
chính đáng của họ, dẫn đến tình trạng xa rời quần chúng. Một số cán bộ chưa
thể hiện được tính quyết đoán, chưa mềm dẻo trong ứng xử; giải quyết công
việc thiếu công tâm, khách quan, nóng vội, xử lý công việc mang tính áp đặt
đôi khi gây bức xúc trong nhân dân, làm suy giảm lòng tin của dân vào các
chủ chương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước.
+ Nhiều công chức hạn chế kiến thức chuyên môn, giải quyết công việc
theo chủ quan, cảm tính, sự vụ, không hiểu được chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước dẫn đến sai sót trong giải quyết công việc.
* Công tác kiểm tra, đánh giá


18
- Ưu điểm:
Trong những năm qua, UBND huyện Nam Sách đã coi trọng và chỉ đạo
thực hiện có hiệu quả công tác nhận xét, đánh giá cán bộ hàng năm.. Trong
đánh giá đã nêu cao tinh thần đấu tranh phê và tự phê bình, giúp cán bộ hoàn
thiện bản thân. Thực hiện chủ trương chỉ đạo của UBND huyện là “đánh giá
xếp loại đảm bảo đúng thực chất, không nặng về thành tích” nên đã tổ chức
việc đánh giá, xếp loại khá nghiêm túc, đảm bảo đúng quy trình, thủ tục, chất
lượng từng bước được nâng lên. Qua đánh giá, đa số công chức có lập trường
tư tưởng vững vàng, đoàn kết tốt, tạo được sự đồng thuận trong lãnh đạo; có
tinh thần trách nhiệm trong công tác. Nhiều đồng chí có sự đổi mới về tư duy,

sáng tạo trong chỉ đạo thực hiện các chức trách chuyên môn; chủ trương chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương.
Kết quả phân loại cán bộ năm 2015:
Hoàn thành xuất sắc: 14,7 %.
Hoàn thành tốt:

61,7 %

Hoàn thành:

23,6 %.

Không hoàn thành:

0 %.

- Hạn chế:
+ Việc nhận xét đánh giá công chức ngành có lúc, có nơi chưa toàn
diện, còn nể nang, kết quả xếp loại chưa sát thực tế. Tình trạng nể nang, né
tránh, ngại va chạm, không nói thẳng, nói thật vẫn còn tồn tại. Chưa đánh giá
đúng với chất lượng và hiệu quả công việc, chưa thực sự coi trọng tiêu chuẩn
và nhu cầu công việc.
+ Việc bố trí, giải quyết chế độ đối với một số cán bộ, công chức không
đáp ứng tiêu chuẩn chuyên môn, năng lực công tác còn yếu, không hiệu quả.
Còn bố trí cán bộ, công chức không theo đúng chuyên môn được đào tạo, dẫn
đến công việc, hiệu quả quản lý kém.


19

+ Việc giao chỉ tiêu biên chế cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
còn ít (02 chỉ tiêu), mặt khác số lượng cán bộ hợp đồng nhiều (04 cán bộ);
trong khi đó yêu cầu trách nhiệm công việc cao, dẫn đến tư tưởng cán bộ bị
dao động, thiếu ý thức trách nhiệm, không tâm huyết với nghề; ảnh hưởng
trực tiếp đến kết quả công tác quản lý lĩnh vực tài nguyên và môi trường.
2.2.2. Đánh giá chung
2.2.2.1. Ưu điểm
- Chính sách pháp luật về công chức đã ngày càng hoàn thiện, việc ban
hành các văn bản tổ chức thực hiện từ các khâu tuyển dụng, bố trí sử dụng
công chức đến đào tạo, chế độ tiền lương – BHXH đối với công chức rõ ràng,
nhất quán, khoa học.
- Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, Nghị
quyết Trung ương 7 (khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Nam
Sách lần thứ XXVI (nhiệm kỳ 2010-2015), Huyện uỷ đã tập trung chỉ đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức gắn liền với kiện toàn hệ thống tổ chức bộ
máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị từ huyện
đến cơ sở.
- Cấp uỷ, chính quyền của huyện Nam Sách luôn quán triệt quan điểm
coi công tác nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và
công chức ngành Tài nguyên và môi trường nói riêng là nhiệm vụ mấu chốt
của công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức và có ý nghĩa quyết định trực
tiếp tới việc triển khai các chủ trương, chính sách phát triển toàn diện kinh tế xã hội ở địa phương trong thời kỳ đổi mới.
- Có sự chỉ đạo của UBND huyện, sự chủ động phối hợp chặt chẽ và
hiệu quả giữa ngành Tài nguyên và môi trường, Nội vụ, các xã, thị trấn với
các ngành liên quan đối với công tác đào tạo, nâng cao năng lực và quản lý
đội ngũ công chức từ xây dựng chỉ tiêu tuyển dụng, đào tạo, bố trí, sử dụng
đội ngũ cán bộ đến việc đề xuất hỗ trợ các chế độ chính sách khuyến khích


20

đối với đội ngũ công chức có năng lực và phát huy vai trò tích cực trong sự
nghiệp đổi mới của địa phương; đồng thời hết sức coi trọng công tác kiểm tra,
xử lý nghiêm minh đối với những viên không đủ năng lực và suy thoái về đạo
đức lối sống, ảnh hưởng đến tình hình chung và việc thực hiện các mục tiêu
của sự nghiệp CNH, HĐH ở địa phương.
- Bản thân đội ngũ công chức ngành Tài nguyên và môi trường luôn ý
thức được vị trí, trách nhiệm đối với sự ổn định, phát triển của địa phương ;
thường xuyên có ý thức trau dồi kiến thức chuyên môn, nâng cao trình độ mọi
mặt để đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, phẩm chất đạo đức
cách mạng đã và đang trở thành nhiệm vụ không chỉ của của các ban, ngành
chức năng mà còn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của nhân dân địa
phương. Các đoàn thể chính trị xã hội, các tổ hội ở địa phương tham gia đóng
góp ý kiến đối với công tác quy hoạch cán bộ, phát hiện và đề xuất phương
hướng đào tạo cán bộ có khả năng phục vụ tốt sự nghiệp cách mạng. Đồng
thời việc giám sát, kiểm tra đối với đội ngũ cán bộ, công chức không chỉ là
nhiệm vụ chuyên biệt mà đã phát huy được tinh thần dân chủ của nhân đối với
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở.
2.2.2.2. Những hạn chế, bất cập
- Một là, về nhận thức công tác xây dựng cán bộ
Đi đôi với đổi mới tư duy một cách toàn diện, công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ cũng được đổi mới. Tuy vậy, còn một số cán bộ công chức ngành
tài nguyên và môi trường, kể cả cán bộ lãnh đạo quản lý ngành vẫn chưa thực
sự nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc xây dựng chất lượng đội ngũ
công chức ngành trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, nhiều vấn đề về công tác
xây dựng chất lượng đội ngũ công chức ngành chưa được cụ thể hóa thành
những hướng dẫn chỉ đạo thực hiện.
- Hai là, về đội ngũ cán bộ, công chức



21
Đội ngũ cán bộ công chức ngành tài nguyên và môi trường còn chưa
thực sự đủ về số lượng so với khối lượng công việc thực tế, đặc biệt ở Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất; một số bộ phận cán bộ chưa đáp ứng về
trình độ và năng lực nghiệp vụ chuyên môn; số chỉ tiêu giao biên chế cho Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất còn ít, số cán bộ hợp đồng dài hạn tại còn
nhiều, điều đó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả, chất lượng công việc.
Một số cán bộ công chức ngành chưa thực sự yên tâm công tác, còn
ngại khó, ngại khổ, có cán bộ, công chức chưa sẵn sàng tự giác nhận sự phân
công của lãnh đạo, nêu lý do từ chối nhiệm vụ mà tổ chức dự kiến. Một số
khác, có tư tưởng “an phận thủ thường”, chưa có ý thức học tập cao, không có
chí tiến thủ, nghiệp vụ chưa thực sự tinh thông, lý luận cơ bản thiếu, làm việc
theo chủ nghĩa kinh nghiệm, gặp công việc khó khăn sẽ bộc lộ sự yếu kém,
chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Tỷ lệ cán bộ công chức
ngành chưa có trình độ lý luận chính trị còn cao.
Đội ngũ lãnh đạo ngành có lúc, có nơi chưa phát huy đầy đủ tinh thần
trách nhiệm; năng lực quản lý và điều hành, thiếu kiểm tra đôn đốc việc thực
thi nhiệm vụ của cán bộ công chức.
- Ba là, về công tác tuyển dụng, đánh giá cán bộ
Công tác quy hoạch cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý, tuyển dụng
cán bộ chuyên môn ngành vẫn còn nhiều bất cập; tiêu chuẩn để lựa chọn còn
quá chung chung, chưa được cụ thể hóa, chưa thực sự quyết liệt.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ngành chưa được quan
tâm đúng mức; nhiều cán bộ địa chính- xây dựng xã, thị trấn không được tạo
điều kiện để tham gia bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và trình độ sử
dụng máy vi tính. Đội ngũ cán bộ trẻ còn thiếu kinh nghiệm thực tế, khả năng
áp dụng lý thuyết vào thực tế còn chậm.
Công tác đánh giá cán bộ công chức ngành chưa thực sự coi trọng, ở
một số xã, thị trấn còn thiếu quan tâm; chưa đánh giá đúng với chất lượng và



×