Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

BÀI GIẢNG NGÔN NGỮ học đối CHIẾU (hệ CAO ĐẲNG lưu HÀNH nội bộ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA NGOẠI NGỮ
................    ..............

BÀI GIẢNG

NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
(HỆ CAO ĐẲNG - LƯU HÀNH NỘI BỘ)

Sưu tầm và biên soạn: TS. Võ Thị Dung

Quảng Bình, 2017


MỤC LỤC
Page
CHƯƠNG 1.

4
KHÁI LƯỢC VỀ NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU

1. Khái niệm
2. Quá trình hình thành và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu

CHƯƠNG 2.

13
NHIỆM VỤ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU

1. Các quan điểm về nhiệm vụ của ngôn ngữ học đối chiếu
2. Xác định và phân định những nét ngôn ngữ đặc thù được quy định bởi mục


đích đối chiếu

CHƯƠNG 3.

20

NHỮNG MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ
1. Ở phạm vi nghiên cứu ứng dụng lý thuyết
2. Ở phạm vi nghiên cứu thực hành ngôn ngữ

CHƯƠNG 4.

25

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ
1. Phương pháp đối chiếu
2. Các đặc điểm cơ bản của phương pháp nghiên cứu đối chiếu
3. Các phương thức đối chiếu ngôn ngữ
4. Các thủ pháp đối chiếu ngôn ngữ

CHƯƠNG 5.

34

CÁC NGUYÊN TẮC NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ
1. Nguyên tắc cơ bản
2


2. Các bình diện nghiên cứu đối chiếu


CHƯƠNG 6.
CÁC BÌNH DIỆN ĐỐI CHIẾU NGÔN NGỮ
1. Về ngữ âm
2. Về từ vựng
3. Về ngữ pháp
4. Về ngữ dụng
Ôn tập và kiểm tra

3


Chương 1.
KHÁI LƯỢC VỀ NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
I. KHÁI NIỆM

Mấy chục năm trở lại đây, nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ được nhiều
người quan tâm và trở thành một bộ phận phát triển mạnh trong ngôn ngữ học
hiện đại. Bởi lẽ nó đáp ứng những đòi hỏi của lý luận ngôn ngữ học trong thời
kỳ mới đồng thời nó cho phép đưa những tri thức ngôn ngữ học vào những ứng
dụng trong thực tiễn.
Ngôn ngữ học hiện đại tiếp cận ngôn ngữ theo ba cách chủ yếu sau:
- Thứ nhất: Ngôn ngữ được tiếp cận như là hiện tượng của nhân loại nói chung.
Theo đó, ngôn ngữ học có nhiệm vụ nghiên cứu tất cả các ngôn ngữ trên thế giới
nhằm làm rõ những vấn đề triết học ngôn ngữ như bản chất, chức năng của ngôn
ngữ và các cứ liệu của nhiều ngôn ngữ khác nhau để xây dựng các khái niệm,
phạm trù làm công cụ nghiên cứu các ngôn ngữ cụ thể. Cách tiếp cận này được
gọi là Ngôn ngữ học đại cương.
- Thứ hai: Ngôn ngữ được tiếp cận như là sản phẩm của từng cộng đồng riêng lẻ.
Theo đó, ngôn ngữ có nhiệm vụ miêu tả từng ngôn ngữ cụ thể để làm rõ đặc

điểm của ngôn ngữ được nghiên cứu. Cách tiếp cận này gọi là Ngôn ngữ học
miêu tả.
- Thứ ba: Các ngôn ngữ của các cộng đồng người khác nhau được so sánh với
nhau. Những nghiên cứu tiếp cận theo hướng này được xếp vào lĩnh vực Ngôn
ngữ học so sánh.
Trong ngôn ngữ học so sánh có nhiều chuyên ngành khác nhau với nhiều
đối tượng, mục đích và cách thức so sánh khác nhau. Có ba chuyên ngành chính:
+ Ngôn ngữ học so sánh lịch sử (Comparative historical linguistic) phát triển
mạnh mẽ vào thế kỉ XIX và có ảnh hưởng quan trọng trong phát triển ngôn ngữ
học thế giới. Ngôn ngữ học so sánh lịch sử có đối tượng nghiên cứu là những
ngôn ngữ được biết có quan hệ cội nguồn hoặc giả định có quan hệ cội nguồn,
nhằm làm rõ quan hệ cội nguồn và quá trình phát triển lịch sử của các ngôn ngữ
(R.Anttila 1989).
+ Ngôn ngữ học loại hình hay Loại hình học (Typological linguistic) mục đích
chính là phân loại tất cả các ngôn ngữ trên thế giới thành các loại hình dựa vào
những điểm giống nhau nhất định trong cấu trúc ngôn ngữ và nghiên cứu so
sánh các ngôn ngữ thuộc cùng một loại hình, có mang một số đặc trưng tiêu biểu

4


nào đó nhưng không nhất thiết phải có mối quan hệ về cội nguồn (N.Stankevich
1982).
+ Ngôn ngữ học đối chiếu so sánh hai hoặc nhiều hơn hai ngôn ngữ bất kì để xác
định những điểm giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ đó, không tính
đến vấn đề các ngôn ngữ được so sánh có quan hệ cội nguồn hay thuộc cùng
một loại hình hay không. Việc lựa chọn ngôn ngữ để đối chiếu hoàn toàn tùy
thuộc vào những yêu cầu lí luận và thực tiễn của người nghiên cứu. Trong loại
hình học và ngôn ngữ học đối chiếu, cách thức so sánh, về căn bản, đứng trên
quan điểm đồng đại.

Trong số các chuyên ngành của ngôn ngữ học so sánh thì ngôn ngữ học
đối chiếu gần với ngôn ngữ học loại hình hơn cả. Điểm khác nhau chủ yếu của
hai chuyên ngành: ngôn ngữ học loại hình có thể có đối tượng bao trùm tất cả
các ngôn ngữ trên thế giới nhằm phân loại các ngôn ngữ theo những đặc trưng
về cấu trúc hoặc nhóm các ngôn ngữ có cùng một hoặc một số điểm chung về
loại hình, còn ngôn ngữ học đối chiếu có phạm vi nghiên cứu hẹp hơn, chi
nghiên cứu hai (ít khi nhiều hơn hai) ngôn ngữ để phát hiện những điểm giống
nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ đó (V.Skalichka 1989).
Xét trong quan hệ với ngôn ngữ học so sánh lịch sử thì ngôn ngữ học đối
chiếu có những khác biệt không chỉ về đối tượng nghiên cứu mà còn về cách
tiếp cận. Nếu ngôn ngữ học so sánh lịch sử nghiên cứu các ngôn ngữ trên quan
điểm lịch đại thì ngôn ngữ học đối chiếu là một bộ phận của ngôn ngữ học đồng
đại, trong khi đó ngôn ngữ học so sánh lịch sử là một bộ phận của ngôn ngữ học
lịch đại.
Ngoài thuật ngữ Ngôn ngữ học đối chiếu (Contrastive Linguistics),
chuyên ngành này có nhiều tên gọi khác: Phân tích đối chiếu (Contrastive
Analysis), Nghiên cứu đối chiếu (Cantrastive studies), Nghiên cứu xuyên ngôn
ngữ (Cross-linguistics studies), Nghiên cứu tương phản (Confrotative studies)...
Tuy nhiên ở Việt Nam thuật ngữ Ngôn ngữ học đối chiếu vẫn phổ biến nhất.
Ngoài ra có hàng loạt thuật ngữ dùng đến định ngữ đối chiếu
(Contrastive) để chỉ những lĩnh vực nghiên cứu hữu quan như: Ngữ dụng học
đối chiếu (Contrastive pramatics), Phân tích đối chiếu diễn ngôn (Contrastive
discourse analysis), Cú pháp học đối chiếu (Contrastive syntax), Ngữ pháp tạo
sinh đối chiếu (Contrastive generative grammar), Nghiên cứu đối chiếu lý thuyết
(Theoretical contrastive studies)..

5


Ngôn ngữ học đối chiếu có mối quan hệ chặt chẽ không chỉ với các phân

môn khác trong ngôn ngữ học mà còn với hàng loạt khoa học không thuộc ngôn
ngữ học như tâm lí học, tâm lí dân tộc học, văn hóa học.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU

2.1 Sự xuất hiện
Những nghiên cứu đối chiếu đầu tiên trong ngôn ngữ học xuất hiện từ rất
lâu. Nổi rõ hơn cả là vào thời kỳ có nhiều phát kiến mới về địa lý, thời kỳ hình
thành nhiều quốc gia dân tộc độc lập; thời kỳ phát triển mạnh về khoa học kỹ
thuật, và đặc biệt là từ những năm 70 trở lại đây.
Có hàng loạt nguyên nhân thúc đẩy sự ra đời và phát triển loại nghiên cứu
này, trong đó có thể kể đến một vài nguyên nhân chủ yếu sau:
a) Nguyên nhân bên ngoài:
+ Sự phát hiện ra nhiều vùng đất, nhiều cộng đồng dân tộc mới, nhiều quốc gia
độc lập được hình thành và đi kèm với đó là nhiều ngôn ngữ được phát hiện,
nhiều ngôn ngữ có được vị trí xứng đáng của nó mà trước đó không hề có.
+ Thông tin thành văn và giao lưu giữa các nền văn minh, văn hóa tăng lên đáng
kể. Điều này đưa đến đòi hỏi to lớn của việc học và dạy ngoại ngữ, của việc giải
quyết tình trạng song ngữ, việc xây dựng cơ sở lý luận và giải quyết thực tế công
việc dịch thuật và hàng loạt công việc thực tế ngôn ngữ khác.
b) Nguyên nhân thuộc nội bộ ngôn ngữ:
+ Khả năng của các nhà ngữ học đã phát hiện và bao quát một lúc nhiều ngôn
ngữ khác nhau, tìm hiểu và giải quyết nó theo những mục đích, hướng xác định.
+ Các phân tích lý giải “đơn ngữ luận” dù đạt nhiều thanh tựu to lớn, vẫn không
thể tiến xa nếu không phát triển thành các nghiên cứu lý giải “đa ngữ luận”, một
sự lý giải các sức bao quát sâu rộng hơn nhiều.
+ Nhu cầu kết hợp với những lý luận và giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, trực
tiếp trong nội bộ ngôn ngữ học.
Chính những nguyên nhân và cũng là đòi hỏi chính yếu kể trên đã tạo ra
cac tiền đề thực tế cho sự ra đời và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu.
Cho đến nay, nhìn một cách tổng quát, nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ

có thể chia ra thành 3 thời kỳ phát triển với các đặc điểm sau:
2.2 Thời kỳ đầu
Các công trình nghiên cứu đối chiếu tiêu biểu là các từ điển đa ngữ cỡ
lớn. Trước hết phải kể đến cuốn “Từ vựng so sánh các ngôn ngữ và phương
ngữ” của Panlat. Đây là một bộ sưu tập đối chiếu từ vựng đồ sộ các ngôn ngữ và
các tiếng địa phương, xuất bản lần đầu vào những năm 1787-1789. Bộ sưu tập
6


được bổ sung dần và đến lần xuất bản lần thứ hai vào năm 1791 đã bao gồm 272
ngôn ngữ thuộc bốn đại lục: Á, Âu, Phi, Mỹ. Cùng với đó là công trình “Thư
mục về các ngôn ngữ đã biết và các nhận xét về những giống nhau và khác nhau
giữa chúng” của các tác giả Evan và Pandu. Vào năm 1806-1817 hai học giả
người Đức xuất bản công trình “Ngôn ngữ học đại cương có thí dụ minh họa từ
500 ngôn ngữ và phương ngữ”.
Ở địa hạt ngữ pháp, công trình liên quan đến nghiên cứu đối chiếu cần
nhắc đến là cuốn ngữ pháp Port-Royal. Đây là cuốn sách ngữ pháp lý thuyết,
được xây dựng trên cơ sở phân tích đối chiếu các tiếng Hy lạp cổ, tiếng Do-thái
cổ với tiếng La-tinh và tiếng Pháp. Phân tích kỹ công trình này không hẳn là ngữ
pháp đối chiếu theo dúng nghĩa đầy đủ mà nó thiên về ngữ pháp lô gich loại
hình.
Ảnh hưởng của hình ngữ pháp Port-Royal đã được du nhập vào nhiều
nước. Tiêu biểu là cuốn “Ngữ pháp triết học đại cương” của N.I.Jatvinski
(1810) người Nga. Sau đó là cuốn “Khái lược về ngữ pháp đại cương” của L.G
Jacop (1812). Mặc dầu có những hạn chế nhưng những công trình trên đã tạo ra
một ảnh hưởng khá tốt cho việc thúc đẩy các nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ.
2.3 Thời kỳ thứ hai
Sự phát triển của Ngôn ngữ học so sánh-lịch sử và triết học ngôn ngữ thế
kỷ XIX. Nét đặc trưng của thời kỳ này là nghiên cứu đối chiếu bị cuốn hút và
hòa lẫn vào dòng thác nghiên cứu so sánh lịch sử. Những nghiên cứu lý luận và

những vận dụng vào thực tiễn rộng lớn của nó vẫn được tiến hành song chỉ đóng
vai trò hỗ trợ. Giai đoạn này ranh giới giữa các loại nghiên cứu so sánh-lịch sử,
loại hình đối chiếu chưa thực sự phân biệt rạch ròi. Về sau người ta mới xác
định được có sự phân giới có ý thức. Nhiều nhà ngôn ngữ học đã chỉ ra rằng mãi
đến nửa đầu thế kỷ XIX ngôn ngữ học mới tách ra thành một ngành khoa học
độc lập nhờ sự phát triển mạnh mẽ của ngôn ngữ học so sánh-lịch sử. Ngôn ngữ
học so sánh – lịch sử thể hiện 3 thời kỳ phát triển:
+ Thời kỳ đầu khoảng từ những năm 1816-1870.
+ Thời kỳ thứ hai khoảng từ 1871-1916.
+ Thời kỳ thứ ba từ 1971 đến nay.
Như vậy đến nửa cuối thế kỷ XIX, ngôn ngữ học so sánh - lịch sử mới xác
định được phạm vi đối tượng, phương pháp nghiên cứu riêng để trở thành một
phân ngành độc lập như lời nhận xét của Engghen “Ngôn ngữ học so sánh – lịch
sử có được cái nền tảng lịch sử của nó”. Nghiên cứu đối chiếu trong quan hệ
với nghiên cứu so sanhs – lịch sử và loại hình ở giai đoạn đầu của sự phát triển
7


ngôn ngữ học đã góp phần vào nghiên cứu so sánh chung nhiều ngôn ngữ mà
không phân biệt đó là so sánh phổ hệ, loại hình hay đối chiếu.
2.4 Thời kỳ thứ ba
Đầu thế kỷ XX ngôn ngữ học đã phát triển mạnh mẽ với nhiều khuynh
hướng đa dạng của ngôn ngữ học miêu tả. Xã hội cung có những thay đổi quan
trọng, đặc biệt là sau hai cuộc thế chiến. Nhiều quốc gia giành được độc lập dân
tộc. Sự giao lưu kinh tê, văn hóa, khoa học kỹ thuật được mở rộng. Yêu cầu hiểu
biết, sử dụng ngoại ngữ tăng lên… Những nhân tố này làm cho ngôn ngữ học
đối chiếu có tiền đề để phát triển. Nhiều nghiên cứu không chỉ hướng vào lý
luận mà chú ý nhiều đến thực tiễn vận dụng. Các công trình thuộc nghiên cứu
đối chiếu miêu tả: “Thử nghiệm một ngữ pháp đối sánh đại cương tiếng Nga”
của L.I.Đavưđốp; “Ngữ pháp tiếng Nga đối chiếu với tiếng Udơbech” của

E.Đ.Pôlivanôp xuất bản 1918 và 1933. Công trình của Pôliainôp đối chiếu song
song. Các hiện tượng, phạm trù của cả hai ngôn ngữ đều được chú ý làm sáng tỏ.
Một số công trình chú nghiên cứu những nét đặc trưng, khác biệt của ngôn ngữ
này trong đối sánh với ngôn ngữ khác. Có thể kể đến công trình “Ngôn ngữ học
đại cương và một số vấn đề tiếng Pháp” của S.Balli năm 1932. Trong công trình
của mình Balli đã chỉ ra hàng loạt nét đặc trưng của tiếng Pháp thông qua sự đối
chiếu với tiếng Đức. Ngoài ra có thể kể đến công trình của V.G.Gac đối chiếu
tiếng Nga với tiếng Pháp, của Krusennhitskaja đối chiếu tiếng Nga với tiếng
Đức. Các nghiên cứu đối chiếu không chỉ kết hợp với miêu tả và loại hình mà
còn có thể kết hợp với so sánh - lịch sử như công trình “Những vấn đề nghiên
cứu đối chiếu lịch sử các ngôn ngữ Slavơ” của V.Txatrencô cho thấy hướng
nghiên cứu này “khả năng khám phá không chỉ những giống nhau về mặt loại
hình của các ngôn ngữ mà còn gải thích nguyên nhân và nguồn gốc giống nhau
đó. Nó cung cấp những bổ sung cần thiết và đào sâu hơn một số mătj của
phương pháp so sánh – lịch sử”.
Vào những năm 50 của thế kỷ XX, sự phát triển của ngôn ngữ học đối
chiếu được đánh dấu bằng nhiều công trình nổi tiếng: Languages in Contact của
U.Weinreich (1953), Transfer Grammar của Z.Harris (1954), Linguistics across
Cultures của R. Lado (1957)... Trong đó công trình của R.Lado được coi là công
trình khai sinh ngôn ngữ học đối chiếu tại Mỹ. Sau R.Lado có nhiều tên tuổi
khác chú ý như K.Pike (Đại học Michigan), W.Nemser (Đại học Indiana),
L.Selinker (ĐH Washington)… Có thể nói ở Mỹ, ngôn ngữ học đối chiếu đã có
sức lôi cuốn rất nhiều nhà nghiên cứu, nhưng cũng chính tại đây, vào cuối

8


những năm 60 đầu những năm 70, ngôn ngữ học đối chiếu gặp những thách thức
nghiêm trọng và lâm vào khủng hoảng.
Cùng với nhiều cuốn sách có tính chất nhập môn và nhiều cuốn sách có

tính chất nhập môn và nhiều công trình khảo cứu những vấn đề cụ thể, sự hình
thành nhiều trung tâm và dự án nghiên cứu, sự xuất hiện nhiều tạp chí chuyên
ngành và hội nghị khoa học đã đánh dấu những bước phát triển quan trọng của
ngôn ngữ học đối chiếu.
Sau hai năm công trình của R.Lado được công bố, Trung tâm ngôn ngữ
ứng dụng của Hội Ngôn ngữ học Mỹ tại Washington dưới sự chủ trì của
Ch.Ferguson đã thực hiện một số công trình nghiên cứu đối chiếu tiếng Anh với
các ngoại ngữ khác: Pháp, Italy, Nga…Một số trường đại học đi đầu trong lĩnh
vực nghiên cứu đối chiếu với các ngôn ngữ khác: ĐH Michigan, ĐH Indian, ĐH
Washington, ĐH Hawai… chẳng hạn đối chiếu tiếng Anh với tiếng Hungari của
W.Nemser (1961), W.Nemser&Juhasz (1964) và Kiefer (1967) của Di Pietro
(1971).
Ở Châu Âu, nhiều trung tâm nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ đã được
hình thành ở Poznan (đối chiếu tiếng Balan và tiếng Anh), Zagreb (đối chiếu
tiếng Serbi và tiếng Anh), Bucaret (nghiên cứu đối chiếu tiếng Rumani và tiếng
Anh)… Đã có những tạp chí khoa học chuyên về ngôn ngữ học đối chiếu như
Papers and Studies in Contrastive Linguistics xuất bản ở Balan (1973),
Contrastive Linguistics xuất bản ở Bungari (1976) và Contrastes ở Pháp (1981).
Nhiều hội thảo về ngôn ngữ học đối chiếu đã được tổ chức tại Nga, Mỹ,
Rumania, Balan, Đức, Phần Lan…
2.5 Những nghiên cứu ở Việt Nam
Trong mấy chục năm trở lại đây, nghiên cứu đối chiếu được chú ý, quan
tâm ở nước ta. Các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy ở Hà Nội, Hồ Chí Minh đã có
nhiều nghiên cứu ứng dụng theo hai mảng đề tài lớn:
a) Đối chiếu tiếng Việt với những ngôn ngữ không cùng ngữ hệ và loại
hình có phạm vi sử dụng khá rộng rãi trên thế giới như tiếng Nga, Anh, Pháp,
Đức. Những nghiên cứu này đã góp phần soi sáng nhiều vấn đề lý thuyết của
ngôn ngữ học đại cương cũng như những ứng dụng thiết thực trong giảng dạy
tiếng.
b) Nghiên cứu so sánh đối chiếu chung tiếng Việt với các ngôn ngữ dân

tộc trong nước và khu vực. Hướng nghiên cứu này bao gồm những nghiên cứu
so sánh chung bao gồm nhiều loại hình trong đó có nghiên cứu đối chiếu. Hướng

9


nghiên cứu này thực sự là những nghiên cứu so sánh chung bao gồm nhiều loại
hình trong đó có nghiên cứu đối chiếu.
Khó có thể điểm qua tất cả các công trình nghiên cứu đối chiếu được triển
khai theo nhiều hướng khác nhau và rất phong phú, đa dạng. Song có một thực
tế khá rõ là các công trình này thể hiện ngôn ngữ học đối chiếu như một phân
nghành độc lập của ngôn ngữ học hiện đại đã được xác định.
Việc nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ được chú ý ở Việt Nam từ cuối
những năm 80 của thế kỷ XX với chuyên luận Nghiên cứu đối chiếu các ngôn
ngữ của Lê Quang Thiêm (1989) là công trình đầu tiên tại Việt Nam. Sau đó là
công trình Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á của
Nguyễn Văn Chiến (1992). Năm 1997, sự phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu
ở nước ta được đánh dấu bằng một sự kiện đáng ghi nhận, đó là hội thảo khoa
học về nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ tổ chức tại Hà Nội thu hút hơn 50 nhà
nghiên cứu và giảng viên cả nước tham gia.
Nhiều năm qua tại Việt Nam, ngôn ngữ học đối chiếu đã thực sự thu hút
được sự quan tâm của giới nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ, đặc biệt là dạy
ngoại ngữ. Sự quan tâm đó xuất phát từ những nỗ lực vượt khỏi khuôn khổ thực
hành tiếng thuần túy để hướng đến việc dạy tiếng một cách có hiệu quả hơn, có
chiều sâu hơn trên cơ sở nghiên cứu các đặc điểm giống và khác nhau giữa tiếng
Việt và ngoại ngữ mà họ giảng dạy. Nhiều luận văn, luận án đã triển khai theo
hướng nghiên cứu đối chiếu trong vài năm trở lại đây.
Nhìn chung, sự phát triển của việc nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ có
quan hệ chặt chẽ với những nhân tố xã hội. Sự tác động của những nhân tố đó
thể hiện rõ nhất là từ sau thời kì Phục Hưng. Cuộc cách mạng công nghiệp ở

nhiều nước Tây Âu, sự phát triển hàng hải, thương mại, sự phát hiện ra nhiều
vùng đất mới của nhiều cộng đồng người nói những ngôn ngữ khác nhau, sự
bành trướng của chủ nghĩa thực dân, sự mở rộng phạm vi của đạo Cơ Đốc là
những nhân tố quan trọng thúc đẩy nhu cầu tiếp xúc giữa các dân tộc và tìm hiểu
những ngôn ngữ xa lạ. Từ đầu thế kỷ XX đến nay, nhu cầu đó ngày càng tăng
lên do những chuyển biến lịch sử mới mẻ: sự phát triển của phong trào giải
phóng dân tộc, các cuộc chiến tranh, đặc biệt là hai cuộc chiến tranh thế giới, xu
hướng toàn cầu hóa với sự hình thành những cộng đồng kinh tế-chính trị quan
trọng tập hợp nhiều quốc gia khác nhau.
Mặt khác, sự phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu gắn với việc phát triển
của bản thân ngôn ngữ. Các lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại về cấu trúc ngôn
ngữ đã đặt nền tảng vững chắc để giải quyết nhiều vấn đề lí luận cũng như
10


phương pháp nghiên cứu cho ngôn ngữ học đối chiếu. Sự xuất hiện nhiều lí
thuyết mới mẻ và độc đáo cho phép con người miêu tả ngôn ngữ ngày càng sâu
sắc và đầy đủ hơn. Những thành quả miêu tả đó dĩ nhiên cung cấp nhiều cứ liệu
phong phú hơn cho việc nghiên cứu đối chiếu.
Đầu thế kỉ XX, dưới ảnh hưởng những tư tưởng của F.de Sausure, ngôn
ngữ học cấu trúc đã phát triển mạnh mẽ với nhiều khuynh hướng khác nhau.
Chính ảnh hưởng của ngôn ngữ học cấu trúc đã làm nảy sinh những quan niệm
muốn vận dụng những phương pháp nghiên cứu thuần túy hình thức, khách quan
và chính xác kiểu toán học để miêu tả ngôn ngữ. Điều này, một mặt mở ra cho
ngôn ngữ đối chiếu nhiều cách tiếp cận mới; mặt khác, nó cũng khiến nghiên
cứu đối chiếu gặp những bế tắc không giải quyết nổi.
Mặc dù chịu nhiều phê phán, chỉ trích, nhưng ngày nay ngôn ngữ học đối
chiếu đã khẳng định vị trí của một chuyên ngành khoa học độc lập với đối
tượng, mục đích và phương pháp nghiên cứu riêng. Trong mấy chục năm qua,
hướng nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ đã đem lại nhiều thành tựu lớn về lý

thuyết cũng như ứng dụng. Các công trình theo hướng nghiên cứu này không chỉ
tăng nhanh về số lượng mà còn mở rộng không ngừng về cấp độ, bình diện khảo
sát từ âm vị học, từ vựng ngữ nghĩa, ngữ pháp đến ngữ dụng; từ các hiện tượng
thuộc hệ thống ngôn ngữ đến những hiện tượng lời nói, văn bản. Sự phát triển
của ngôn ngữ học đối chiếu góp phần khẳng định khả năng ứng dụng những
thành quả của ngôn ngữ học lí thuyết vào đời sống, phục vụ trực tiếp cho những
nhu cầu thiết thực xã hội.
III. THẢO LUẬN

1.
a)
b)
c)
2.
3.

Nêu nhiệm vụ của các phân ngành nghiên cứu ngôn ngữ sau:
Ngôn ngữ học đại cương
Ngôn ngữ học miêu tả
Ngôn ngữ học so sánh
Nêu và phân tích các phân ngành của ngôn ngữ học so sánh
Trình bày quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ học đối chiếu ở
nước ngoài và Việt Nam.
4. Những nhân tố nào của ngôn ngữ học thúc đẩy sự phát triển việc nghiên
cứu đối chiếu? Lý giải vì sao?
5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu đối chiếu là gì?
6. Phân tích các mối tác động qua lại giữa ngôn ngữ học đối chiếu với các
loại nghiên cứu khác trong ngôn ngữ học.

11



7. Nêu các loại hình ngôn ngữ anh (chị) biết. Tiếng Việt và tiếng Anh thuộc
loại hình nào?
8. So sánh đặc điểm loại hình của tiếng Việt và tiếng Anh qua 02 ví dụ sau:
Ví dụ: Tôi đang đọc sách.
I’m reading the book.

12


Chương 2.
NHIỆM VỤ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU
I. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ NHIỆM VỤ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU

Qua các tài liệu được khảo cứu cho thấy có 04 ý kiến khác nhau về nhiệm
vụ cụ thể của ngành học:
1. Chủ trương ngôn ngữ học đối chiếu nên tìm những nét khác biệt giữa các
ngôn ngữ. Ý kiến này xuất phát từ một phạm vi rất hẹp của việc nghiên cứu đối
chiếu: công tác giảng dạy và học tập ngoại ngữ. Chính những nét khác nhau giữa
tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ sẽ làm cho người học gặp phải những khó khăn nhất
định khi tiếp cận hệ thống “mã” ngôn ngữ xa lạ. Ý kiến này lấy “hành vi luận”
làm chỗ dựa lý thuyết.
Trong “hành vi luận”, các thói quen ngoại ngữ do bắt chước hay mô
phỏng… đều liên quan trực tiếp đến việc tìm ra những nét khác biệt. Những gì
giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ sẽ được tiếp thu một cách dễ dàng,
còn những gì khác biệt thì sẽ khó khăn hơn. Những nhà ngôn ngữ học có quan
điểm này là: R.Lado (1964), G.Mickel (1971).
2. Chủ trương nghiên cứu đối chiếu tập trung vào việc truy tìm những nét khác
biệt quan trọng nhất giữa các ngôn ngữ. Như vậy, cơ sở lý luận của chủ trương

này là sự phân biệt 2 kiểu nét khác biệt:
+ Nét khác biệt thông thường
+ Nét khác biệt quan trọng
Hơn nữa, theo quan điểm này, phạm vi tìm hiểu những nét khác biệt quan
trọng không chỉ giới hạn ở phạm trù ngôn ngữ (ngữ pháp) mà còn mở rộng ra ở
các phạm trù lôgic.
Thế nhưng, thế nào là những nét khác biệt quan trọng nhất giữa các ngôn
ngữ lại trở thành vấn đề hết sức mập mờ. Lấy gì làm cơ sở để nói rằng giữa hai
ngôn ngữ đối chiếu đây là nét khác biệt quan trọng nhất, còn kia thì không? Một
nét khác biệt được coi là nét khác biệt quan trọng nhất xuất phát từ một mục
đích. Mặt khác, những nét khác biệt ở phạm trù ngôn ngữ đâu hẳn là những nét
khác biệt ở phạm trù loogic. Và ngược lại. Tiêu biểu quan điểm này có B.L.Wolf
(1960).
3. Chủ trương nghiên cứu đối chiếu phải hướng tới cả những sự giống nhau bên
cạnh những nét khác biệt giữa các ngôn ngữ. Lý do là:
+ Cơ chế của quá trình phân tích đối chiếu các hiện tượng, các sự kiện
ngôn ngữ bắt buộc phải chú ý đến cả những sự giống nhau. Sự giống nhau giữa
13


các ngôn ngữ là cơ sở tối thiểu, đảm bảo cho công việc đối chiếu trở nên có kết
quả.
+ Nếu không bó hẹp nghiên cứu đối chiếu ở một phạm vi ứng dụng nào
đó, mà mở rộng nó ra các phạm vi ứng dụng khác về phương diện lý luận và
ngôn ngữ học, thì sẽ có nhiều kiểu loại nét giống nhau. Bởi thế, nếu chỉ quan
tâm tới cái khác biệt, mà không đề cập đến những sự giống nhau, thì thực sự là
sai lầm trong thao tác làm việc. Chẳng hạn, giống nhau về ngữ hệ giữa các ngôn
ngữ vốn là cái quan tâm của ngôn ngữ học so sánh-lịch sử, giống nhau về cấu
trúc loại hình vốn là nhiệm vụ của loại hình học; giống nhau ngữ vực vốn là đối
tượng hướng tới của ngữ vựng học. Còn một loại giống nhau khác – giống nhau

về chức năng và hoạt động ngôn ngữ - là loại giống nhau mà ngôn ngữ học so
sánh-đối chiếu phải để tâm tới. Đại diện cho quan điểm này có thể kể đến:
E.Coseriu (1981), Lê Quang Thiêm (1983)…
4. Chủ trương bên cạnh những sự giống nhau và khác nhau, việc nghiên cứu đối
chiếu cần lưu ý đến cả những sự tương ứng và bất tương ứng giữa các ngôn ngữ;
đồng thời làm sáng tỏ những mối quan hệ nguyên nhân giữa các hiện tượng đó.
Tiêu biểu ý kiến này có B.M ABpamoB (1965).
II. XÁC ĐỊNH VÀ PHÂN ĐỊNH NHỮNG NÉT NGÔN NGỮ HỌC ĐẶC THÙ
ĐƯỢC QUY ĐỊNH BỞI MỤC ĐÍCH ĐỐI CHIẾU

1. Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, phạm vi phân giới cụ thể của việc
nghiên cứu đối chiếu phải được giải quyết trên căn bản ở mục đích ngành học.
Trong đó, cần xây dựng một hệ thống lý luận về những nét ngôn ngữ học đặc
thù do những mục đích đối chiếu khác nhau quy định. Đối với những gì gọi là
giống nhau, khác nhau, tương ứng, bất tương ứng… giữa các ngôn ngữ đối chiếu
cũng cần phân thành những kiểu loại nhất định dựa trên tính chất, tỷ lệ, múc độ
quan tâm đến chúng trong những mục đích đối chiếu khác nhau.
Sự giống nhau, khác nhau, sự tương ứng, bất tương ứng… là những khái
niệm có tính chất định danh chung, chưa cho ta hình ảnh cụ thể về cái mà phâ
tích đối chiếu thu được trong quá trình làm rõ nhiệm vụ của việc nghiên cứu đối
chiếu các ngôn ngữ. Thực ra, đằng sau những khái niệm trên, chính là các đơn vị
nhận thức cơ bản của phân tích đối chiếu các ngôn ngữ: các nét ngôn ngữ học
đặc thù.
2. Bức tranh toàn cảnh về những nhiệm vụ của ngôn ngữ học đối chiếu sẽ rõ nét
hơn nếu quan tâm chú ý đến sự phân biệt và hợp nhất hai phạm vi ứng dụng của
phân tích đối chiếu.

14



2.1 Trước hết là phạm vi ứng dụng lý thuyết ngôn ngữ học. Ở pham vi này cần
chú ý đến những nhiệm vụ cụ thể của nghiên cứu đối chiếu trong loại hình học,
đặc trưng học, loại hình học-đối chiếu, so sánh-lịch sử, phổ niệm ngôn ngữ học
và ngữ vựng học.
+ Đối với loại hình học phân loại, việc nghiên cứu đối chiếu về cơ bản tập trung
vào những sự giống nhau các đặc tính loại hình. Dựa vào những sự giống nhau
như vậy mới có thể tập hợp các ngôn ngữ thành những kiểu loại hình nhất định.
Song trong quá trình đi tìm những sự giống nhau, về phương pháp, người ta lại
bắt gặp những sự khác nhau có đặc tính loại hình. Bởi vì, giữa các loại hình
ngôn ngữ khác nhau, các ngôn ngữ ở những kiểu loại hình nhất định lại khu biệt
nhau theo những khác nhau vừa nói tới. Đây là thuộc tính hai mặt của sự phân
tích những hiện tượng giống nhau trong phương pháp đối chiếu loại hình học.
Các nhà loại hình học phân loại trong khi nghiên cứu, với mục đích của
mình, đã hướng đến cả sự giống nhau và khác nhau. Cái đơn vị nhận biết có tính
chất định hướng cho việc nghiên cứu phân loại ngôn ngữ chính là những nét loại
hình: những nét giống và khác nhau về loại hình giữa các ngôn ngữ.
+ Đối với đặc trung học, việc nghiên cứu đối chiếu về cơ bản tập trung vào
những sự khác nhau. Vì trong những sự khác nhau được tìm thấy sẽ xuất hiện
những gì gọi là đặc trưng của một ngôn ngữ. Cái đơn vị nhận biết có tính chất
định hướng cho việc nghiên cứu đặc trưng là những nét đặc trưng. Thông
thường, không phải tất cả những gì khác nhau giữa ngôn ngữ này với ngôn ngữ
kia đều là những nét đặc trưng.
+ Đối với phổ niệm học ngôn ngữ, việc nghiên cứu chỉ tập trung và những sự
giống nhau. Nhưng đây là những sự giống nhau chung nhất giữa các ngôn ngữsự giống nhau mang tính chất phổ biến. Cái đơn vị nhận biết có tính chất định
hướng cho việc nghiên cứu phổ niệm là những nét chung nhất của mọi ngôn
ngữ.
+ Đối với loại hình học đối chiếu, việc nghiên cứu thường tập trung vào:
+ Những nét nghĩa chung nhất cho mọi ngôn ngữ.
+ Những nét chiếm ưu thế trong nhiều ngôn ngữ.
+ Những nét phổ biến ở một số ngôn ngữ

+ Nét riêng của một ngôn ngữ.
Dựa vào phương tiện biểu hiện chung nhất của ngôn ngữ nhân loại, có thể
đi đến những đặc điểm riêng của ngôn ngữ so sánh. Ví dụ khi đối chiếu tiếng
Pháp với tiếng Nga, người ta có thể xác lập, về mặt logic, 6 kiểu trật tự từ đối

15


với các thành phần câu của cấu trúc cú pháp: Chủ ngữ-vị ngữ-bổ ngữ trong ngôn
ngữ nhân loại:
+ SVO
+ SOV
+ VOS
+ VSO
+ OSV
+ OVS
Từ đó chỉ ra được đặc điểm của tiếng Pháp trong sự khu biệt với tiếng
Nga: trong 6 kiểu loại trên tiếng Pháp chỉ thực hiện 2 trường hợp (1 và 6), còn
tiếng Nga thực hiện cả 6 kiểu loại.
a) Đối với ngôn ngữ học so sánh-lịch sử, nghiên cứu đối chiếu tập trung
cơ bản vào tìm những sự giống nhau trên những hiện tượng khác nhau. Đơn vị
nhận biết có tính chất định lượng cho việc so sánh-lịch sử ở đây là những nét
tương đồng lịch sử. Tìm hiểu và xác lập một hệ thống những nét tương đồng
kiểu này sẽ giúp nhà ngôn gữ học chỉ ra được những mối quan hệ lịch sử giữa
các ngôn ngữ trong một ngữ hệ, một nhóm ngôn ngữ… thuộc cùng một gia đình.
b) Đối với ngữ vực học, nghiên cứu đối chiếu cơ bản nhằm vào những sự
giống nhau giữa các ngôn ngữ cùng một khu vực. Những sự giống nhau này vốn
là kết quả của quá trình tiếp xúc lịch sử-văn hóa của các tộc người nói những
ngôn ngữ trong khu vực. Đơn vị nhận biết có tính chất định hướng cho việc
nghiên cứu ngữ vực ở đây là những nét giống nhau (gần nhau) ngữ vực. Chúng

sẽ quy định việc xác lập những liên minh ngôn ngữ nhất định vốn có trong thực
tiễn. Ví dụ giới đông phương học gần đây, đang cố gắng chứng minh sự tồn tại
của một liên minh ngôn ngữ Đông Nam Á gồm các ngôn ngữ quốc gia ở khu
vực Đông Nam Á.
2.2 Nghiên cứu đối chiếu được nhìn nhận ở phạm vi ứng dụng khác: ứng dụng
thực hành ngôn ngữ, đặc biệt hướng vào khu vực giảng dạy, học tập ngoại ngữ
thì nói đến những sự khác nhau, giống nhau cáo đặc tính không giống như trình
bày ở trên. Đây là những sự giống nhau, khác nhau giữa các ngôn ngữ đối chiếu
xét ở tổ chức cấu trúc, chức năng và hoạt động ngôn ngữ. Ở phạm vi này, ngôn
ngữ học đối chiếu trở thành một bộ môn có sự phân giới khá rõ rệt.
+ Lĩnh vực giảng dạy: xuất hiện mối quan hệ qua lại giữa người giảng, người
biên soạn sách… và người học. Về bản chất, đó là mối quan hệ giữa việc “lập
mã” và “tiếp nhận”, “giải mã”… các sự kiện ngoại ngữ. Về phía người giảng và
người biên soạn sách ngoại ngữ có nhiệm vụ bắt buộc: phải nắm vững các quy
16


tắc ngữ pháp của ngoại ngữ và trên đó, phải biết “lọc” ra những gì cần thiết nhất
trong số các quy tắc ngữ pháp để truyền đạt lại cho người học. Nếu thế, trên
nguyên tắc nào và vì lý do gì mà người dạy phải làm như vậy?
+ Lĩnh vực người học - đối tượng “truyền mã”: người học bị chi phối bởi những
khó khăn do tiếng mẹ đẻ mang lại. Sự khác nhau (hoặc sự giống nhau) giữa
tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ là nguyên nân trực tiếp gây ra hiện tuợng giao thoa
ngôn ngữ trong học tập ngoại ngữ. Theo đó, giao thoa ngoại ngữ là sự ảnh
huởng của việc sao phỏng mô hình ngữ pháp tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ thứ nhất) áp
đặt vào ngoại ngữ (ngôn ngữ thứ hai) khiến các sự kiện cấu trúc tính của ngoại
ngữ bị xuyên tạc, bóp méo và làm “lệch” khỏi chuẩn mực của nó. Giao thoa
ngôn ngư xuất hiện như một chướng ngại vật của người học ngoại ngữ. Do vậy,
xét trên nguyên tắc, người biên soạn sách ngoại ngữ, người giảng ngoại ngữ…
cần phải nắm được giao thoa tiêu cực; tìm cách khắc phục những lỗi sai có thể

và đã từng xảy ra trong thực tế. Qua đó, giúp người học-đối tượng cụ thể nhấtnắm bắt được hệ thống mã ngoại ngữ nhanh nhất, một cách tối ưu nhất.
Rõ ràng, nghiên cứu đối chiếu trong trương hợp này phải hướng tới những
sự giống nhau và khác nhau gây ra những giao thoa ngôn ngữ nhất định.
+ Đơn vị nhận biết để có thể định hướng cho mục đích nghiên cứu đối chiếu ở
đây là những nét giống nhau và khác nhau cần yếu giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại
ngữ trong việc lập mã, truyền mã và tiếp nhận mã ngoại ngữ. Có 8 trường hợp
sau:
• Những nét giống nhau cần yếu: Đây là những nét giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ
và ngoại ngữ có thể giúp người giảng những chỉ dẫn cụ thể trong quá trình
truyền đạt ngoại ngữ.
Ví dụ: Tiếng Việt và tiếng Khơ me có nét giống nhau cơ bản về trật tự những
yếu tố trong cụm danh từ (danh+tính) và những đơn vị thành phần câu trong kết
cấu câu đơn (chủ-vị-bổ). Đây là những nét giống nhau cần yếu trong đối chiếu
tiếng Việt-Khơ me. Vì ít ra, nó đưa lại cho chúng ta chỉ dẫn cụ thể: đối với
người Khơ me học tiếng Việt, vấn đề trật tự các yêu cầu trong cụm danh từ và
trong kết cấu câu dơn không phải là đối tượng giảng dạy chú ý.
• Những nét giống nhau không cần yếu: Đây là trường hợp phổ niệm ngôn ngữ.
Chẳng hạn ngôn ngữ nào cũng có nguyên âm, danh từ, động từ… Như vậy,
những nét giống nhau này không phải là đối tượng chú ý của việc nghiên cứu
đối chiếu với mục đích giảng dạy, học tập ngoại ngữ.
• Những nét khác nhau cần yếu: Đây là trường hợp lưu ý nhất. Vì sự khác nhau
cần yếu luôn là “cha đẻ” của hiện tượng giao thoa ngôn ngữ.
17


Ví dụ:
Ở bình diện ngữ âm - âm vị học, có sự khác nhau khá rõ giữa các ngôn
ngữ Slavơ biến hình (Nga, Sec, Bun..) và tiếng Việt: các từ của tiếng Việt được
khu biệt với nhau bằng các thanh điệu trong khi các ngôn ngữ Slavơ là đơn vị từ,
hoặc cùng lắm phân biệt bằng ngôn điệu-trọng âm. Chính điều này khiến cho

người Nga, Sec, Bun… khi học tiếng Việt thường mắc nhiều lỗi phát âm thanh
điệu.
Ở bình diện ngữ pháp, các danh từ tiếng Việt được phân loại và phạm trù
hóa theo những từ chỉ loại. Trong khi các danh từ tiếng Nga, Sec, Bun… không
có hiện tượng này. Hoặc trong hệ thống ngữ pháp tiếng Anh hiện đại không tồn
tại phạm trù cách và giống, không có khái niệm hai động từ đối lập nhau: chưa
hoàn thành thể/hoàn thành thể, ví dụ như trong tiếng Nga. Ở bình diện từ vựng –
ngữ nghĩa, từ loại tiếng Việt và tiếng Anh có sự không tương đồng về số lượng
và loại hình. Sự không tương đồng về nghĩa thể hiện cả ở khái niệm ngữ nghĩa
của từ, ví dụ, các sắc thái về mầu sắc là không như nhau trong cả hai ngôn ngữ
Anh và Việt: từ blue tiếng Anh được chuyển dịch sang tiếng Việt với hai nghĩa
xanh lơ và xanh nước biển. Mầu sắc trong tiếng Việt được thể hiện bằng các từ
theo mô hình hợp nghĩa, phụ nghĩa và láy lại để tạo ra hàng loạt đơn vị ngôn ngữ
với sắc thái chi tiết hơn so với từ chỉ mầu sắc trong tiếng Anh, ví dụ: xanh xanh xanh, xanh nhạt, xanh thắm, xanh da trời, xanh nõn chuối, xanh nước biển,
xanh biếc (biêng biếc), xanh lè, xanh lục, xanh thổ cẩm, xanh cẩm thạch, xanh
rêu..
• Những nét khác nhau không cần yếu: Đây là những sự khác nhau không dẫn
đến hiện tượng giao thoa ngôn ngữ bất lợi cho người học ngoại ngữ.
Ví dụ: giữa tiếng Nga và tiếng Việt có sự khác nhau ở cơ chế tương hợp ngữ
pháp của các đơn vị thuộc cấp độ hình thái: tính từ tiếng Nga có phạm trù ngữ
pháp giống, số, cách, trong khi tính từ ở tiếng Việt thì không. Nét khác biệt này
thực tế không cần yếu đối với người Nga khi học tiếng Việt. Họ có thể dễ dàng
lựa chọ những hình thái tính từ Việt ngữ tương ứng với các hình thái tính từ Nga
ngữ.
• Những nét tương ứng cần yếu: Được nhìn nhận dưới hai dạng:
+ Cùng một phương tiên biểu đạt, nhưng giữa hai ngôn ngữ lại có sự khác
nhau ở nội dung.
+ Phương tiện biểu đạt khác nhau lại thể hiện một nội dung đồng nhất ở
hai ngôn ngữ đối chiếu. Đây là dạng được coi là nét tương ứng cần yếu, nhất là


18


khi phiên dịch ngoại ngữ: dịch chuyển những ý nghĩa đồng nhất từ văn bản gốc
ra văn bản dịch.
Những nét tương ứng cần yếu còn là những nét tương ứng có giá trị gợi ý
các chỉ dẫn cho người giảng dạy và học tập ngoại ngữ.
• Những nét tương ứng không cần yếu: thường chỉ có giá trị đối với việc nghiên
cứu lý luận ngôn ngữ học chứ không thật cần thiết đối với việc giảng dạy và học
tập ngoại ngữ.
• Những nét phi tương cần yếu: Ở ngôn ngữ đối chiếu nào đó, tồn tại phạm trù
ngôn ngữ A nhưng ngôn ngữ khác thì không. Trường hợp này người ta nói đến
những “ô trống” ngôn ngữ. Đối với người học tiếng nước ngoài, những ô trống
của tiếng mẹ đẻ bao giờ cũng gây khó khăn trong việc lĩnh hội những phạm trù,
hiện tượng ngôn ngữ vốn có ở ngoại ngữ. Hiện tượng này gọi là phi tương ứng
cần yếu.
Ví dụ đối chiếu tục ngữ, thành ngữ… giữa các ngôn ngữ, chúng ta thường bắt
gặp các ô trống. Bởi thành ngữ, tục ngữ là những đơn vị ngôn ngữ có đặc tính
không thể sao phỏng được, khá rõ ràng và điển hình. Với đặc tính ấy, xuất hiện
không ít những thành ngữ và tục ngữ có nội dung và hình thức cấu tạo độc đáo,
mang tính dân tộc cao.
• Những nét phi tương ứng không cần yếu: Xuất hiện hiện tượng ở tiếng mẹ đẻ
tồn tại một phạm trù ngôn ngữ nào đó không có trong ngoại ngữ đang học. Điều
này không hề ảnh hưởng đến việc học tập ngoại ngữ.
III. THẢO LUẬN
1. Nêu các ý kiến khác nhau về nhiệm vụ cụ thể của ngôn ngữ học đối
chiếu.
2. Phân biệt các trường hợp trong nghiên cứu đối chiếu cần lưu ý. Vì sao?
3. Anh (chị) cho biết nhiệm vụ chính của ngôn ngữ học đối chiếu.


19


Chương 3.
NHỮNG MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ
I. Ở PHẠM VI NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT
1. Loại hình học ngôn ngữ
Khi hướng vào loại hình học ngôn ngữ, nghiên cứu đối chiếu đề cập đến
các mặt khái quát, phạm trù có ý nghĩa nguyên tắc đối với hệ thống ngôn ngữ.
Mục đích là nhằm phát hiện những đặc điểm loại hình ngôn ngữ, xác định các
kiểu ngôn ngữ theo quy luật nhất định, cụ thể:
+ Cung cấp và bổ sung cho loại hình học nhiều tư liệu và những phát hiện cụ thể
về cấu trúc và hoạt động của các ngôn ngữ cùng và khác loại hình.
+ Nhấn mạnh vào xem xét mối quan hệ giữa nội dung và hình thức biểu đạt của
ngôn ngữ
+ Chú ý đến các hiện tượng, quá trình xuyên cấp độ và đặc điểm chức năng,
hoạt động lời nói.
+ Góp phần phát hiện các phổ quát ngôn ngữ, xây dựng ngữ pháp phổ quát quy
nạp.
2. Triết học - ngôn ngữ học
E.Sapir (1931) và B.L.Whort (1960) cho rằng: các ngôn ngữ đã chia cắt
thế giới một cách khác nhau. Đây là kết quả của hiện tượng: những người nói
các thứ tiếng khác nhau đã nhận thức thế giới không giống nhau. Do vậy, ngôn
ngữ rõ ràng ảnh hưởng đến tư duy và hành vi con người. Từ đó, các tác giả đã
chủ trương thuyết “hành vi ngôn ngữ” trong khi xem xét đối chiếu các tài liệu
ngôn ngữ học châu Âu và châu Mỹ. Theo B.L.Weisgerber (1951)- nhà ngôn ngữ
học người Đức, mỗi dân tộc đều có tư duy riêng và cấu trúc ngôn ngữ ảnh
hưởng mạnh mẽ đến cách nhìn nhận thế giới của các cá nhân và xã hội.
Như vậy, nghiên cứu đối chiếu phải tự mình xác định:
+ Các ngôn ngữ khác nhau đã chia cắt hiện thực, thế giới khách quan như thế

nào? Chúng phân đoạn thế giới bên ngoài ra sao?
+ Soi sáng mối quan hệ qua lại giưa các ngôn ngữ và tư duy, giữa các phạm trù
ngôn ngữ và các phạm trù tư duy, giữa ngôn ngữ con người và hành vi con
người, giữa các sự kiện ngôn ngữ và các sự kiện văn hóa… Đây thực chất là
những vấn đề của triết học-ngôn ngữ học.
Sau này, lý thuyết của E.Sapir và B.L.Whort, B.L.Weisgerber đã bị các
nhà ngôn ngữ học Xô viết (cũ) phê phán:

20


+ Những sự khác nhau về ngôn ngữ không ngăn cấm các dân tộc khác nhau
nhận thức giống hệt nhau về tất cả những gì thuộc về thế giới khách quan.
+ Ngôn ngữ, thật ra, có ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy của con người, đến
nhận thức và văn hóa dân tộc, nhưng không đáng kể và không có ý nghĩa quyết
định.
+ Sự đa dạng dân tộc ở nội dung ngữ nghĩa của những đơn vị ngôn ngữ khôn
loại trừ các khả năng tạo nên những kết hợp phức (tổ hợp từ, câu, văn bản) bao
gồm trong chúng cả những nhóm nhỏ có nội dung giống nhau trong những ngôn
ngữ khác nhau. Do tính chính xác khách quan của hình thái khái niệm phản ánh
sự đa dạng dân tộc của các mặt ngữ nghĩa ngôn ngữ, mà chính ngôn ngữ không
thể được xem như là cội nguồn của yếu tố chủ quan của nhận thức.
Từ những lập luận trên đi đến kết luận: Nghiên cứu đối chiếu các ngôn
ngữ khi hướng vào những vấn đề triết học - ngôn ngữ, phải lưu ý:
+ Không tuyệt đối hóa quá mức vai trò của ngôn ngữ tự nhiên.
+ Những ảnh hưởng của ngôn ngữ đến tư duy con người, đến những hoạt động
nhận thức và văn hóa… đều được xem xét trong những chừng mực nhất định, có
giới hạn..
3. Lý thuyết phiên dịch
Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ nhằm xây dựng một lý thuyết phiên

dịch: chỉ ra được cái chung về mặt nội dung (ý nghĩa) mà những đơn vị ngôn
ngữ khác nhau trong những ngôn ngữ khác nhau biểu đạt nó. Đây là sự đồng
nhất về nghư nghĩa của các đơn vị, các phương tiện biểu hiện khác nhau.
Khi đối chiếu các ngôn ngữ theo mục đích phiên dịch cần phải chú ý đến
“tư cách” của các ngôn ngữ trong hoạt động đối chiếu cụ thể. Các ngôn ngữ
trong đối chiếu không thể có vai trò bình đẳng: một ngôn ngữ được mệnh danh
là ngôn ngữ gốc-điểm xuất phát của sự phân tích đối chiếu (ngôn ngữ khởi
phát); ngôn ngữ thứ hai là ngôn ngữ phiên dịch. Với các thủ tục đối chiếu, nhà
nghiên cứu làm sao đồng nhất hóa được các đoạn cắt ngôn ngữ trong văn bản
phiên dịch. Toàn bộ công việc đối chiếu theo mục đích này thực chất là miêu tả
hệ thống ngôn ngữ khởi phát theo những thuật ngữ của hệ thống ngôn ngữ phiên
dịch.
4. Phiên dịch máy
Với mục đích này, nghiên cứu đối chiếu cố gắng tìm ra những nét khác
nhau ở hai ngôn ngữ và chú trọng đến hai cấp độ: hình thái học và cú pháp học.
Có hai xu hướng đối chiếu phiên dịch:

21


+ Miêu tả chi tiết những ngôn ngữ cụ thể về phương diện nội dung với hệ thống
duy nhất. Đồng thời tập trung đối chiếu những tiêu chí hình thức và so sánh
tương phản các sự kiện, hiện tượng thuộc cấu trúc ngôn ngữ.
+ Mở rộng việc giải thích các khái niệm trong ngôn ngữ trung gian. Trên tinh
thần này, việc đối chiếu nhằm tới số lượng các từ có hóa trị tương đương trong
phiên dịch, kể cả những kết hợp thành ngữ của các ngôn ngữ đối chiếu. Bên
cạnh đó số lượng các tiêu chí tương đương về ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa từ
vựng, ý nghĩa cấu tạo từ phi ngữ pháp trong các ngôn ngữ đối chiếu cũng được
đề cập đến.
Xu hướng nghiên cứu đối chiếu thứ hai được nhiều nhà ngôn ngữ học ủng

hộ.
II. Ở PHẠM VI NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG THỰC HÀNH NGÔN NGỮ
1. Giảng dạy và học tập ngoại ngữ
Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong quá trình phát triển của ngôn
ngữ học so sánh. Tuy nhiên, theo cách hiểu hiện nay thì ngôn ngữ học đối chiếu
khác với ngôn ngữ học so sánh ở chỗ: nó bao quát nhiều ngôn ngữ, bất luận
ngôn ngữ đó có loại hình giống nhau hay khác nhau, có cùng nguồn gốc hay
khác nguồn gốc. Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong quá trình tìm kiếm
một cách học ngoại ngữ nhanh hơn và hiệu quả hơn. Như vậy, các yêu cầu của
việc học và dạy ngôn ngữ là nhân tố quan trọng dẫn đến sự hình thành của ngôn
ngữ học đối chiếu.
Ở phạm vi này, nghiên cứu đối chiếu phải làm rõ được cơ chế của hiện
tượng giao thoa ngôn ngữ; vạch ra nguồn gốc của những giao thoa giữa tiếng mẹ
đẻ và ngoại ngữ, các kiểu giao thoa nhất định… Đây chính là những gì người
học ngoại ngữ gặp khó khăn khi thâm nhập một hệ thống mã ngôn ngữ xa lạ.
Sau đây là một số quan niệm về giao thoa:
a) Quan điểm tâm lý học - ngôn ngữ: Giao thoa là tác động tiêu cực của thói
quen này đối với thói quen khác có thể xảy ra trong học tập ngoại ngữ. Đây là sự
“ô nhiễm” hành vi, thái độ… có tính chất tâm lý học.
b) Quan điểm ngôn ngữ học: Giao thoa là sự vận dụng các yếu tố của một thứ
tiếng khi nói hoặc viết một thứ tiếng khác. Đây là “tai nạn” của tính song ngữ do
sự tiếp xúc giữa hai thứ tiếng khác nhau. Có thể xảy ra hai trường hợp tiếp xúc
ngôn ngữ:
• Tiếp xúc ngôn ngữ giữa những người thuộc các dân tộc cùng cộng cư trên một
khu vực địa lý.

22


• Tiếp xúc ngôn ngữ trong quá trình học tập ngoại ngữ. Trường hợp này là đối

tượng được quan tâm nhiều hơn.
c) Quan điểm sư phạm học - sinh ngữ: Giao thoa là một loại lỗi đặc biệt mà
người học mắc phải do thói quen hoặc do chịu ảnh hưởng tự nhiên của những
mô hình cấu trúc tiếng mẹ đẻ. Đây là quá trình áp đặt “tự nhiên” của một yếu tố
nào đó của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ, làm cho những sự kiện ngoại ngữ đi lệch
khoải chuẩn ngôn ngữ của nó.
Ở phương diện này, giao thoa ngôn ngữ không xuất hiện tùy tiện. Chỗ dựa
của nó là yếu tố tương đương (yếu tố chung) nào đó đóng vai trò gợi ý tối nghĩa,
để dẫn đến hành vi áp đặt những yếu tố của tiếng mẹ đẻ vào ngoại ngữ.
Trong quá trình học ngoại ngữ, tiếng mẹ có thể có ảnh hưởng tích cực
hoặc tiêu cực đối với người học. Ảnh hưởng tích cực gọi là chuyển di tích cực.
Hiện tượng này xảy ra khi giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ có sự giống nhau hoàn
toàn. Còn ảnh hưởng tiêu cực gọi là chuyển di tiêu cực. Hiện tượng chuyển di
tiêu cực thường gây cản trở và làm chậm quá trình học tập. Chuyển di tiêu cực là
hiện tượng xảy ra khi có sự nhầm lẫn của người học cho rằng cấu trúc của ngoại
ngữ cũng giống như cấu trúc của tiếng mẹ đẻ, trong khi giữa các cấu trúc của hai
thứ tiếng có sự khác biệt. Sự áp đặt cấu trúc tiếng mẹ đẻ cho cấu trúc ngoại ngữ
dẫn đến việc phạm lỗi. Những lỗi này nếu không được sửa chữa kịp thời thì sẽ
được người học ghi nhớ trở thành thói quen của người học và rất khó sửa.
Để nâng cao hiệu quả giảng dạy ngoại ngữ, cần phải tìm cách khắc phục
hiện tượng chuyển di tiêu cực và lợi dụng những chuyển di tích cực, nghĩa là
phải tìm ra những điểm khác nhau và giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ.
Việc này có thể thực hiện được nhờ vào việc nghiên cứu đối chiếu hai ngôn ngữ.
Như vậy, ngôn ngữ học đối chiếu, theo nghĩa hẹp, là một lĩnh vực nghiên
cứu gắn bó chặt chẽ với khoa học giảng dạy ngoại ngữ, trong đó có ngôn ngữtâm lí học.
2. Ngôn ngữ học đối chiếu với mục đích phân tích lỗi và sửa lỗi
2.1 Khái niệm
Lỗi – nảy sinh ở người nói tiếng nước ngoài – được hiểu là những gì mà
người ấy làm sai lạc các sự kiện ngoại ngữ so với chuẩn của nó.
Lỗi ngoại ngữ là sự vi phạm các quy tắc của hệ thống ký mã ngoại ngữ.

Do vậy, thông tin khong được hiểu và chuyển đạt chính xác.
Lỗi như là một sản phẩm của mối quán hệ tương phản trong việc chuyển
đạt thông tin và cho thấy nguyên nhân cảu sự biến dạng đó.
2.2 Nguyên nhân gây ra lỗi
23


Nguyên nhân trực tiếp là sự ảnh hưởng tiêu cực của tiếng mẹ đẻ (N1) hay
của một ngoại ngữ nào đó đối với ngoại ngữ đang học (N2). Ngôn ngữ học đối
chiếu liên quan chặt chẽ với việc phân tích lỗi khi nó giúp chúng ta đi tìm
nguyên nhân của lỗi qua những ảnh hưởng của N1 đối với N2.
Có hai loại lỗi phổ biến: lỗi tiềm ẩn và lỗi hiển hiện. Lỗi tiềm ẩn (error) là
lỗi có thể xuất hiện do người nghiên cứu dự đoán khi đối chiếu tiếng mẹ đẻ (N1)
và ngoại ngữ (N2) nhằm phát hiện các giao thoa. Lỗi hiển hiện (fault) xảy ra
trong thực tế học tập và sử dụng ngoại ngữ ở những người đang học ngoại ngữ.
Như vậy, nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, một mặt phải tập trung vào sự dự
báo những lỗi sai có tính chất tiềm ẩn nhằm phòng ngừa chúng. Mặt khác cũng
hướng tới việc phân tích những lỗi sai hiển hiện để tìm ra nguyên nhân gây lỗi
do các giao thoa ngôn ngữ nào đưa lại.
Dựa vào đối tượng mắc lỗi N1 có thể phân biệt hai kiểu lỗi thường gặp:
lỗi thường mắc chỉ ở người học nói N1 nào đó; Lỗi thường mắc ở hầu hết người
học nói N1 bất kể là ngôn ngữ nào (cùng, gần hay khác loại hình với N2).
Kiểu lỗi thứ nhất thường do những ảnh hưởng tiêu cực của tiếng mẹ đẻ
(N1) đến ngoại ngữ gây ra. Ngôn ngữ N1 ở đây thuộc loại hình khác hẳn với
ngoại ngữ (N2).
Kiểu lỗi thứ 2 do những nét rất riêng, đặc thù của ngoại ngữ gây nên.
Nghiên cứu đối chiếu đặc trưng học – ngôn ngữ sẽ giúp ta phát hiện và dự đoán
các lỗi kiểu này.
Lỗi phát âm thanh điệu đối với người học tiếng Việt nói các ngôn ngữ phi
thanh điệu (ngôn ngữ Ấn Âu biến hình) thuộc kiểu lỗi thứ nhất. Còn lỗi về sử

dụng các kết hợp đọng từ + giới từ của tiếng Anh – đối với tất cả người học –
thuộc vào kiểu lỗi thứ hai.
III. THẢO LUẬN
1. Thế nào là chuyển di ngôn ngữ? Cho ví dụ.
2. Anh (chị) cho biết nhiệm vụ quan trọng của ngôn ngữ học đối chiếu
đối với dạy và học ngoại ngữ.
3. Giao thoa xuất hiện trong việc học ngoại ngữ còn do nhiều yếu tố tâm
lý học khác: tâm lý – ngôn ngữ học, tâm lý sư phạm học, tâm lý xã hội
học... Anh (chị) hãy nêu một vài trường hợp cụ thể.
4. Nêu các nguyên nhân gây ra lỗi trong học ngoại ngữ
5. Anh (chị) hãy cho vài ví dụ trong mắc lỗi của người học tiếng Anh.
Giải thích nguyên nhân vì sao.

24


Chương 4.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU CÁC NGÔN NGỮ
I. PHƯƠNG PHÁP ĐỐI CHIẾU

1. Vị trí của phương pháp đối chiếu trong hệ các phương pháp ngôn ngữ
học
Cũng như nhiều ngành khoa học khác, ngôn ngữ học có phương pháp
nhiên cứu riêng. Phương pháp nghiên cứu riêng tuy tồn tại với những nét đặc thù
của ngành học, song vẫn chịu tác động của những phương pháp nghiên cứu khoa
học khác, thuộc những ngành khoa học khác. Trong ngôn ngữ học hiện đại, xuất
hiện các phương pháp nghiên cứu thống kê, lôgic-toán, phương pháp điều tra xã
hội học-ngôn ngữ… Đây là sự vận dụng các phương pháp, thủ pháp của những
ngành khoa học khác vào ngôn ngữ học. Xét phương pháp ngôn ngữ học ở khía
cạnh này tức là đi từ cái bên ngoài ngành học vào cái bên trong.

Dựa vào đặc trưng của đối tượng nghiên cứu, các phương pháp nghiên
cứu được đề xuất. Ví dụ coi ngôn ngữ như là một hệ thống-cấu trúc, trường phái
ngôn ngữ học Praha đã đề xuất và tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ bằng phương
pháp cấu trúc-chức năng. Trên cơ sở phân tích những thuộc tính bên trong của
hệ thống ký hiệu ngôn ngữ (các cấp độ, bình diện..), người ta thấy xuất hiện các
phương pháp phân tích âm vị học, hình thái học, cú pháp học… Đây là cách xác
định phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ đi từ chính những thuộc tính bên trong
ngôn ngữ.
Nếu cùng xuất phát từ hai phía (bên trong và bên ngoài) trong việc xác
định phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học, cơ bản có 3 phương pháp ngôn
ngữ học: phương pháp miêu tả, phương pháp so sánh và phương pháp đối chiếu.
+ Phương pháp miêu tả: nhìn nhận ngôn ngữ như một hệ thống-cấu trúc. Nó có
nhiệm vụ quan sát, miêu tả cái hệ thống-cấu trúc ấy ở mọi bình diện, cấp độ,
thuộc tính… của các đơn vị ngôn ngữ, những mối liên hệ, quan hệ, cách thức tổ
chức và trật tự tôn ti… của chúng. Yêu cầu chính của phương pháp này là: phân
biệt đơn vị ngôn ngữ và đơn vị phân tích ngôn ngữ (phân biệt khách quan và chủ
quan); phân biệt giữa cái khái quát và cái cụ thể; phân biệt các thủ pháp cơ bản
(luận giải bên trong, luận giải bên ngoài).
+ Phương pháp so sánh: Nguyên tắc nghiên cứu là luận giải những đơn vị ngôn
ngữ trong hệ thống và sự biến đổi của chúng trên tuyến thời gian.

25


×