Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

sáng kiến một số biện pháp giúp học sinh học tốt về đại lượng và đo đại lượng môn toán lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.56 KB, 15 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập -Tự do - Hạnh phúc

MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số: ..........................................................................................
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt về đại lượng và
đo đại lượng môn Toán lớp 3.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Toán tiểu học.
3. Mô tả bản chất sáng kiến
3.1. Tình trạng giải pháp đã cho biết
Môn Toán có một vị trí quan trọng trong các môn học ở tiểu học, kiến thức
và kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống của con
người và là cơ sở để học tiếp môn Toán ở các bậc học trên. Mặt khác, môn Toán ở
tiểu học góp phần giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện; nó
giúp con người phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt và hình
thành trong học sinh cách nhìn đúng đắn về sự vật, hiện tượng trong thực tiễn.
Đồng thời môn Toán ở tiểu học còn bồi dưỡng cho các em tính trung thực, cẩn
thận, tính khoa học trong lao động, học tập, góp phần vào sự hình thành các phẩm
chất cần thiết và quan trọng của con người lao động mới. Chính vì vậy mà môn
Toán ở tiểu học là môn học cực kì quan trọng không thể thiếu được đối với học
sinh.
Nội dung chương trình môn Toán ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng
bao gồm 5 mạch kiến thức: Số học, đại lượng và đo đại lượng, hình học, thống
kê, giải toán.
Các nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nội dung dạy
học đại lượng và phép đo đại lượng giữ vai trò quan trọng nhằm giúp học sinh
vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Đồng thời, dạy học đại lượng và phép đo đại
lượng nhằm giúp củng cố các kiến thức có liên quan trong môn Toán, phát triển
1



năng lực thực hành, năng lực tư duy của học sinh. Cụ thể: việc dạy học các đại
lượng và đo đại lượng, lập bảng đơn vị đo, thực hành cân đo, làm các bài tập giúp
các em biết so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, biết thao tác tư duy cơ bản.
Ưu điểm của giải pháp
- Lớp học luôn nhận được nhận được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường;
giáo viên nhiệt tình trong công tác; học sinh chăm ngoan, ham thích học môn
toán;
- Nội dung, phương pháp dạy học có tính khả thi, phát huy được tính tích
cực chủ động, sáng tạo của học sinh;
- Kiến thức, kỹ năng cơ bản, thiết thực phù hợp với trình độ và điều kiện
học tập cho học sinh;
- Thiết bị dạy học tương đối đầy đủ.
Khuyết điểm của giải pháp
- Việc nắm bắt phương pháp dạy học mới của giáo viên còn khó khăn, còn
phụ thuộc vào tài liệu hướng dẫn;
- Phần này giáo viên chưa suy luận đầy đủ, cụ thể khiến học sinh khó hình
dung ra biểu tượng;
- Thực hiện chuyển đổi đơn vị đo đại lượng, giáo viên chưa hướng dẫn các
em nắm các kĩ năng khi thực hiện chuyển đổi đơn vị đo;
- Trong dạy học một số giáo viên chưa chú ý, tập trung vào rèn kỹ năng cho
học sinh;
- Còn nhầm lẫn giữa đơn vị đo;
- Giáo viên không có hứng thú dạy mảng kiến thức này;
- Học sinh tiếp thu bài còn chậm hiệu quả chưa cao;
- Đa số học sinh là con em nông dân nên việc nhắc nhở các em tự học còn nhiều
hạn chế.
2



Nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh lớp 3 khi học về đại
lượng và đo đại lượng:
Từ phía giáo viên
Trong thực tế giảng dạy, còn một số giáo viên vẫn sử dụng phương pháp
dạy học cũ: Giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn
trong sách giáo khoa, sách giáo viên. Vì vậy, giáo viên thường làm việc một cách
máy móc và ít quan tâm đến việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh. Học
sinh học tập một cách thụ động, chủ yếu chỉ nghe giảng, ghi nhớ rồi làm theo bài
mẫu. Do đó, học sinh ít hứng thú học tập, nội dung các hoạt động học tập thường
nghèo nàn, đơn điệu, năng lực vốn có của cá nhân học sinh ít có cơ hội phát triển,
nên việc học sinh mắc phải những sai lầm khi học về đại lượng và đo đại lượng là
điều khó tránh khỏi.
Mặt khác, khi thấy học sinh mắc những sai lầm trong học toán, giáo viên
chưa tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục nên những sai lầm đó vẫn còn
tồn tại.
Từ phía học sinh
Nhận thức của học sinh tiểu học, nhất là ở các lớp đầu cấp thường là cảm
tính, tư duy của các em dựa vào trực quan và quan sát. Khả năng tưởng tượng của
học sinh tiểu học còn bị hạn chế. Suy luận của các em không phải là suy diễn mà
là một dãy các phán đoán gián đoạn, mò mẫm, chưa phải là phán đoán có ý thức.
Vì khái niệm đại lượng là một khái niệm trừu tượng, nằm tìm ẩn trong các
đối tượng vật chất cụ thể nên nhận thức được các khái niệm về đại lượng và đo
đại lượng đặc biệt khó khăn đối với học sinh tiểu học. Chính vì vậy, khi học về
đại lượng và đo đại lượng học sinh thường mắc một số sai lầm.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến
a) Mục đích của giải pháp
Giúp học sinh khắc phục dần những tồn tại của việc giải quyết các
bài toán có nội dung liên quan đến các đơn vị đo đại lượng.
3



Nhằm giúp học sinh nắm được phương pháp làm bài toán nội dung liên quan đến
các đơn vị đo đại lượng một cách chính xác, khoa học.
b) Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Tập cho học sinh có thói quen tính nhanh, tính đúng và làm thành thạo các
phép tính, sử dụng các hệ thống đơn vị đo.
Học tập ở đồng nghiệp nhất là các giáo viên lâu năm có nhiều kinh nghiệm
trong giảng dạy, các giáo viên được nhà trường giao cho nhiệm vụ hướng dẫn học
sinh giải toán olympic.
c) Mô tả chi tiết giải pháp
Giải pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt về đại lượng và đo đại lượng.
Qua tìm hiểu và phân tích nguyên nhân dẫn đến sai lầm của học sinh lớp 3
khi học về đại lượng và đo đại lượng, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp
giúp học sinh lớp 3 học tốt về đại lượng và đo đại lượng ở lớp 3 như sau:
Giải pháp 1: Giúp học sinh hạn chế nhầm lẫn khi chuyển đổi các đơn vị đo.
Nguyên nhân dẫn đến sai lầm này là do học sinh chưa nắm vững mối quan
hệ giữa các đơn vị đo. Khi dạy học về các đơn vị đo của một đại lượng cần giúp
học sinh nắm vững hệ thống các đơn vị đo thường dùng và mối liên hệ giữa các
đơn vị đo của đại lượng đó. Bảng các đơn vị đo đại lượng là một hệ thống hoá
các đơn vị đo đã học. Bảng còn là một công cụ giúp học sinh biết cách chuyển
đổi số đo từ đơn vị này sang đơn vị khác. Để giúp học sinh nắm vững mối quan
hệ giữa các đơn vị đo độ dài ở lớp 2, tôi đã tiến hành dạy học bài: “Bảng đơn vị
đo độ dài” như sau:
Bước 1: Thành lập bảng
Học sinh nhắc lại (có thể không theo thứ tự) tất cả các đơn vị đo độ dài đã
học. Giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp lại theo thứ tự (từ trái qua phải) các
đơn vị lớn hơn mét rồi đến các đơn vị nhỏ hơn mét để cuối cùng lập thành một
bảng hoàn thiện như sau:
4



Lớn hơn mét
km

hm

Mét

dam

m

Nhỏ hơn mét
dm

cm

mm

Bước 2: Phân tích bảng
Học sinh so sánh giá trị hai đơn vị liền nhau để rút ra nhận xét “Hai đơn vị
đo độ dài liên tiếp hơn, kém nhau 10 lần”. Về sự liên quan giữa các đơn vị đo khác
nhau trong bảng chỉ yêu cầu học sinh nhận biết những mối quan hệ thường gặp
như:
1km = 1000m; 1m = 100cm = 1000mm.
Chưa yêu cầu học sinh suy luận gián tiếp (ví dụ: 1dm = 10cm, 1cm =
10mm, thế thì 1dm = 10 x 10mm = 100mm vì lúc này học sinh mới học đến bảng
nhân 7).
Bước 3: Vận dụng bảng
Học sinh tính luyện tập đọc bảng, đổi đơn vị đo, làm bài tập về các phép

tính với số đo độ dài.
Ví dụ: 8dm + 3dm

96cm : 3

Giải pháp 2: Giúp học sinh hạn chế sai lầm khi suy luận.
Ví dụ: Học sinh cho rằng: Sắt nặng hơn bông nên 1kg sắt phải nặng hơn
1kg bông. Cách suy luận như vậy không phải là cá biệt. Nguyên nhân dẫn đến sai
lầm này là do học sinh chưa hiểu bản chất khái niệm đại lượng và phép đo đại
lượng. Nhận thức còn mang nặng cảm tính.
Để khắc phục những sai lầm như trên tôi đã đưa ra nhũng ví dụ và yêu cầu
học sinh thực hành đo trực tiếp. Chẳng hạn: tôi cho học sinh trực tiếp cân bằng
cân đĩa để thấy rằng 1kg sắt không nặng hơn 1kg bông,…
Giải pháp 3: Giúp học sinh hạn chế sai lầm khi so sánh số đo đại lượng.
Ví dụ: 5m < 50cm. Nguyên nhân dẫn đến sai lầm này là do học sinh chỉ
quan sát số đo mà không quan sát đơn vị đo. Học sinh chưa hiểu bản chất phép đo
5


nên không phân biệt được giá trị đại lượng và số đo đại lượng. Số lớn hay số nhỏ
của cùng một giá trị đại lượng phụ thuộc vào giá trị của đại lượng đó lớn hay nhỏ.
Để khắc phục sai lầm này, bên cạnh việc giúp học sinh nắm vững hệ thống
các đơn vị đo thường dùng và mối liên hệ giữa các đơn vị đo của đại lượng đó, tôi
đã cho học sinh làm nhiều bài tập dạng so sánh số đo đại lượng và lưu ý học sinh
khi so sánh 2 giá trị của một đại lượng phải quy về cùng một đơn vị đo.
Ví dụ
>

6m3cm … 7m


5m6cm …. 5m

<

6m3cm…. 6m

5m6cm … 6cm

=

6m3cm… 630cm

5m6cm……506cm

Giải pháp 4: Giúp học sinh khắc phục nhầm lẫn giữa các đơn vị đo
như km và kg, hm và hg…
Để khắc phục sai lầm này, khi giới thiệu đơn vị đo đại lượng mới, tôi lưu ý
cho học sinh quy ước viết tắt và có sự so sánh về kí hiệu giữa đơn vị đo độ dài và
đơn vị đo khối lượng, giúp học sinh nắm chắc hơn các kí hiệu này.
VD: Ki –lô- mét (viết tắt là km)
Ki- lô-gam (viết tắt là kg)
Giải pháp 5: Giúp học sinh phân biệt được sự khác nhau giữa đại
lượng độ dài và đại lượng diện tích.
Để khắc phục sai lầm này, ngay từ đầu, giáo viên cần cho học sinh nắm
chắc biểu tượng đơn vị đo diện tích đầu tiên được học ở lớp 3- đó là xăng-ti-mét
vuông. Chính vì vậy, khi dạy học về hình thành biểu tượng đơn vị đo diện tích là
xăng-ti-mét vuông tôi đã tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Giới thiệu đại lượng mới.
Cho học sinh so sánh trực tiếp 2 sự vật theo một thuộc tính đặc trưng cho
các đại lượng cần học. Chẳng hạn:

6


Yêu cầu học sinh phủ kín mặt bàn bằng những tờ giấy vở học sinh và cho
biết: Cần bao nhiêu tờ giấy đó để phủ kín được mặt bàn.
Bước 2: Nêu sự cần thiết phải có đơn vị đo.
Giáo viên nêu vấn đề: Không phải lúc nào cũng có sự so sánh trực tiếp như
vậy. Chẳng hạn không thể đặt một mảnh ruộng lên trên cánh rừng được hoặc
không thể đặt cái sân nọ lên cái sân kia để so sánh.
Do đó cần có cách so sánh gián tiếp qua một vật trung gian thứ ba. Chẳng
hạn: Muốn so sánh diện tích hai cái sân, ta dùng vật trung gian là viên gạch.
Cái sân thứ nhất lát hết 200 viên gạch.
Cái sân thứ hai lát hết 250 viên gạch.
Vậy diện tích cái sân thứ nhất bé hơn cái sân thứ hai (vì 200 bé hơn 250).
Có nhiều cách chọn vật trung gian nói trên. Chẳng hạn: Tờ giấy, viên
gạch… Tuy nhiên, nếu mỗi người lại chọn một loại vật trung gian to nhỏ khác
nhau như vật thì rất khó so sánh các kết quả đo. Do đó cần có đơn vị “chuẩn” để
đo diện tích. Một trong các đơn vị đo diện tích đó là xăng-ti-mét vuông.
Bước 3: Giới thiệu đơn vị đo.
- Giáo viên cho học sinh quan sát hình vuông cạnh 1cm và giới thiệu: Để
thuận lợi, người ta chọn diện tích của hình vuông có cạnh bằng một đơn vị đo độ
dài là xăng-ti-mét làm đơn vị đo diện tích. Hình vuông đó gọi là “Hình vuông đơn
vị diện tích”. Sau đó giáo viên cho học sinh vẽ trên vở ôli hình vuông có cạnh
1cm rồi tô màu hình vuông đó và nêu “một xăng-ti-mét vuông”;
- Tiếp theo giáo viên giới thiệu kí hiệu của đơn vị đo. Chẳng hạn: “Viết đầy
đủ là xăng-ti-mét vuông thì quá dài, do đó ta viết tắt theo quy ước quốc tế là cm 2
và khi viết số đo diện tích cần viết số kèm theo đơn vị đo”. Giáo viên ghi rõ lên
bảng kí hiệu 1cm2 rồi gọi học sinh đọc cá nhân, đồng thanh vài lần;
- Mặt khác, khi phân tích sai lầm này, tôi đã chỉ rõ: chu vi là đại lượng độ
dài, đơn vị đo là mét, đề-xi-mét,….còn diện tích là đại lượng diện tích, được đo

7


bằng xăng-ti-mét vuông…. hai đại lượng này không thể so sánh được với nhau.
Chẳng hạn: Để đo chu vi hình vuông cạnh 4cm, ta lấy đơn vị đo độ dài 1cm (đoạn
thẳng cạnh 1cm) và đặt dọc theo một cạnh, được 4 đơn vị đo độ dài, vì hình
vuông có 4 cạnh bằng nhau nên tổng độ dài của 4 cạnh được xác định bằng phép
tính: 4 x 4 = 16 và chu vi của hình vuông là 16cm. Để đo diện tích hình vuông
cạnh 4cm, ta lấy đơn vị đo diện tích 1cm 2 (hình vuông có cạnh 1cm) và đặt dọc
theo một cạnh được 4 đơn vị đo diện tích. Vì hình vuông có 4 cạnh bằng nhau
nên đặt được 4 hàng như thế, tổng diện tích của hình vuông được xác định bằng
phép tính: 4 x 4 = 16 và diện tích của hình vuông là 16cm 2. Vì vậy không thể nói
hình vuông cạnh 4cm có chu vi bằng diện tích.
Giải pháp 6: Hướng dẫn học sinh thực hiện một số dạng bài tập khó về
đại lượng và đo đại lượng.
Bài 1b (trang 46)
Viết số thích hợp vào chỗ chấm (theo mẫu).
Mẫu

3m2dm = 32dm

3m2cm = ………. cm

9m3cm = ………… cm

4m7dm = ………. dm

9m3dm = ………… dm

4m7cm = ………. cm

Với bài tập này, các em học sinh rất lúng túng và hay nhầm lẫn. Vậy giáo
viên cần hướng dẫn các em sử dụng mối liên hệ giữa các đơn vị đo độ dài để có:
3m2cm = 3m + 2cm = 300cm + 2cm = 302cm.
Vậy 3m2cm = 302cm.
4m7dm = 4m + 7dm = 400cm + 70cm = 470cm.
Vậy: 4m7dm = 470cm.
Hoặc có thể sử dụng bảng:

8


m

dm

cm

3

0

2

4

7

0

Hoặc giáo viên hướng dẫn học sinh viết và nhẩm: 3(m) 0 (dm) 2 (cm) để

được 3m2cm = 302cm. Và 4(m) 7(dm) 0 (cm) để được 470cm. Các câu khác học
sinh có thể làm tương tự.
Bài 3 (trang 46)
6m3cm ………….. 7m

5m6cm …………. 5m

>

6m3cm ………….. 6m

5m6cm …………. 6m

<

6m3cm ………….. 630cm

5m6cm…………. 506cm

=

6m3cm ………….. 630cm

5m6cm…………. 506cm

6m3cm ………….. 603cm

5m6cm…………. 560cm

Với dạng bài tập này có thể hướng dẫn học sinh tìm cách giải bằng nhiều

cách khác nhau. Chẳng hạn với câu thứ nhất 6m3cm ……… 7m thì 6m3cm gồm
6m và thêm 3cm nữa chứ không đủ để thành 7m.
Vậy 6m3cm < 7m
Học sinh cũng có nêu cách làm như sau:
Đổi 6m3cm = 603cm
7m = 700cm
Từ đó suy ra ta được 6m3cm < 7m
Các câu khác học sinh làm tương tự
Bài 3 (trang 67)
Cô Lan có 1kg đường, cô đã bán hết 400g. Sau đó cô chia đều số đường
còn lại vào 3 túi nhỏ. Hỏi mỗi túi có bao nhiêu gam đường?
9


Với bài tập này giáo viên cần hệ thống câu hỏi gợi mở để các em tự tìm ra
cách giải.
Bài toán cho biết gì? (Cô có 1kg đường, làm bánh hết 400g. Số còn lại chia
đều vào 3 túi nhỏ).
Bài toán yêu cầu tính gì? (Mỗi túi có bao nhiêu gam đường).
Muốn biết mỗi túi có bao nhiêu gam đường ta cần biết gì? (Số đường còn
lại nặng bao nhiêu gam?).
Muốn tìm số đường còn lại ta phải làm gì? (Lấy 1kg – 400g).
Khi thực hiện phép tính 1kg – 400g thì ta phải làm thế nào? (phải đổi 1kg =
1000g rồi mới làm phép tính trừ).
Sau đó học sinh giải:
1kg = 1000g
Số đường còn lại cân nặng là:
1000 – 400 = 600 (g)
Mỗi túi đường nhỏ cân nặng là:
600 : 3 = 200 (g)

Đáp số: 200 gam đường.
Bài 4 (trang 104)
Vẽ đoạn thẳng AB có độ dài 8cm rồi xác định trung điểm O của đoạn thẳng đó?
Với bài này giáo viên cần giúp các em hiểu trung điểm cũng chính là điểm
ở chính giữa và hướng dẫn các em nêu cách làm bài:
Vẽ đoạn thẳng AB có độ dài 8cm.
Chia nhẩm 8cm : 2 = 4cm.
Đặt vạch 0cm của thước trùng với điểm A, mép thước trùng với đoạn thẳng
AB, chấm điểm O trên đoạn thẳng AB sao cho ứng với vạch 4cm của thước.
A

O

B
10


Bài 4 (trang 109)
Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng:
Ngày 30 tháng 8 là chủ nhật thì ngày 2 tháng 9 cùng năm đó là:
A. Thứ hai

B. Thứ ba

C. Thứ tư

D. Thứ năm

Giáo viên cần hướng dẫn học sinh như sau:
Xác định tháng 8 có bao nhiêu ngày? (31 ngày).

Tính dần từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 2 tháng 9:
Ngày 30 tháng 8 là chủ nhật.
Ngày 31 tháng 8 là thứ hai.
Ngày 1 tháng 9 là thứ ba.
Ngày 2 tháng 9 là thứ tư.
Vậy phải khoanh vào chữ C.
Bài 7 (trang 166)
Ngày 8 tháng 3 là ngày chủ nhật. Hỏi những ngày chủ nhật trong tháng đó là
những ngày nào?
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh như sau:
Mỗi tuần có bao nhiêu ngày?
Ngày 8 tháng 3 là chủ nhật.
Vậy ngày chủ nhật liền trước là ngày mấy? Ngày liền sau là ngày bao
nhiêu?
Hướng dẫn học sinh minh họa bằng sơ đồ:

Chủ nhật

Chủ nhật

Chủ nhật

Chủ nhật

Chủ nhật

11


1


8

15

22

29

Hướng dẫn học sinh trình bày bài giải:
Chủ nhật đầu tiên của tháng 3 là ngày 01 (vì 8 – 7 = 1).
Chủ nhật thứ hai của tháng 3 là ngày 08.
Chủ nhật thứ ba của tháng 3 là ngày 15 (vì 8 + 7 = 15).
Chủ nhật thứ tư của tháng 3 là ngày 22 (vì 15 + 7 = 22).
Chủ nhật cuối cùng của tháng 3 là ngày 29 (vì 22 + 7 = 29).
Bài 7 (trang 155)
Đoạn đường AB dài 2350m và đoạn đường CD dài 3km. Hai đoạn đường này có
chung nhau một chiếc cầu từ C đến B dài 350m. Tính độ dài đoạn đường từ A đến D?
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu đề bài:
Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?
Mối liên quan các số đo độ dài của bài.
Hướng dẫn học sinh cách giải:
Muốn tính độ dài đoạn đường AD thì ta phải biết độ dài đoạn đường AD
bằng tổng độ dài những đoạn nào?
Muốn tính độ dài đoạn đường AC ta làm như thế nào?
Hoặc muốn tính độ dài đoạn đường BD ta làm như thế nào?
Vậy bài toán có thể giải bằng mấy cách?
Cho học sinh trình bày bài giải:
Cách 1:


Cách 2:
Độ dài đoạn đường AC là:
2350 – 350 = 2000 (m)
2000m = 2km

3km = 3000m
Độ dài đoạn đường BD là:
3000 – 350 = 2650 (m)
12


Độ dài đoạn đường AD là:

Độ dài đoạn đường AD là:

2 + 3 = 5 (km)

2350 + 2650 = 5000 (m)

Đáp số: 5 km

5000m= 5km
Đáp số: 5 km

Bài 4 (trang 159)
Viết số thích hợp vào ô trống (theo mẫu)

Tổng số tiền

Số các tờ giấy bạc

10 000 đồng

80 000 đồng

20 000 đồng

1

1

50 000 đồng
1

90 000 đồng
100 000 đồng
70 000 đồng
Hướng dẫn học sinh lựa chọn các tờ giấy bạc sao cho đúng bằng số tiền cần
lấy. Ví dụ: 80 000 = 10 000 + 20 000 + 50 000
Vậy ta phải lấy mỗi loại 1 tờ.
Bài 4 (trang 173)
Bình có 2 tờ giấy bạc loại 2000 đồng. Bình mua bút chì hết 2700 đồng. Hỏi
Bình còn lại bao nhiêu tiền?
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu đề bài:
Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?
Mối liên quan các số liệu của bài.
Hướng dẫn học sinh cách giải:
Muốn biết còn lại bao nhiêu tiền ta phải biết gì?
Muốn biết số tiền Bình có ta làm như thế nào?
13



Cho học sinh trình bày bài giải:
Bài giải
Số tiền Bình có là:
2000 x 2 = 4000 (đồng)
Số tiền Bình còn lại là:
4000 – 2700 = 1300 (đồng)
Đáp số: 1300 đồng.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Nắm chắc (thuộc) bảng hệ thống đơn vị đo, hiểu được mối quan hệ giữa các
đơn vị đo cho học sinh lớp 3 hiện tại, có thể triển khai sâu rộng trong GV dạy lớp 3
và cả sau này.
Giải pháp mang lại hiệu quả trong việc giảng dạy học sinh góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp
Qua nghiên cứu đề tài này, tôi thấy: Nếu giáo viên tiểu học nắm vững được
bản chất toán học của các mạch kiến thức nói chung, của đo đại lượng nói riêng.
Nắm được sự thể hiện các nội dung cơ bản trong kiến thức đó trong SGK thì chắc
chắn rằng việc dạy và học sẽ tốt hơn. Lựa chọn phương pháp giảng dạy thích hợp
để khắc sâu kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm. Khi lựa chọn phương pháp
giảng dạy Toán giáo viên cần lưu ý: Phải phù hợp với đặc điểm nhận thức của học
sinh tiểu học phù hợp với đối tượng lớp mình phụ trách.
Vì vậy có hiểu đúng, xác định đúng trọng tâm kiến thức của từng loại bài
thì chúng ta mới truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách chắc chắn nhất.
KẾT QUẢ KHẢO SÁT
SỐ

Điểm
14



HS
26

10

9

8

7

6

5

Điểm<5

S
L

TL
%

S
L

TL
%


S
L

TL
%

S
L

TL
%

S
L

TL
%

S
L

TL%

S
L

TL%

7


26.9

5

19.2

3

11.5

4

15.5

2

7.7

2

7.7

3

11.5

Qua quá trình áp dụng giải pháp, bản thân tôi nhận thấy chất lượng đại trà
cũng như mũi nhọn từng bước được cải thiện và nâng cao, góp phần kích thích ý
thức học tập của học sinh. Về việc hình thành các biểu tượng về đại lượng và xây

dựng các bảng đơn vị đo đại lượng theo cách trình bày trên đã giúp học sinh chủ
động sáng tạo trong việc nắm bắt kiến thức, đồng thời giúp học sinh phát triển
khả năng tư duy, khả năng suy luận và óc sáng tạo, hình thành ở các em phương
pháp học tập và làm việc tích cực, sáng tạo, các em áp dụng kiến thức đã học vào
thực tế cuộc sống. Từ đó kích thích lòng say mê môn toán nói riêng và ý thức học
tập nói chung cho học sinh.
3.5. Tài liệu kèm theo: (không có)./.
, ngày 12 tháng 3 năm 2016

15



×