Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

sáng kiến rèn kĩ năng luyện từ và câu cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.14 KB, 13 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số: …………………………………………
1. Tên sáng kiến: Rèn kĩ năng Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2
2. Lĩnh vực áp dung: Dạy và học
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
Khi dạy phân môn này giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm ra
những biện pháp để giúp học sinh tiếp thu những kiến thức mới một cách năng động
và tích cực. Những khó khăn khi gặp phải là việc giải nghĩa từ, sử dụng từ và mở
rộng vốn từ. Qua thực tế giảng dạy trên lớp tôi nhận thấy lớp có những ưu điểm và
hạn chế như sau:
a) Ưu điểm
Lớp học nhẹ nhàng thoải mái học sinh tham gia tích cực các mặt hoạt
động học tập do giáo viên tổ chức;
Các em mạnh dạn, tích cực tham gia phát biểu, tiết học không khô khan
nhàm chán;
b) Hạn chế
Nhiều em nhút nhát, khả năng diễn đạt kém;
Học sinh hiện nay mắc lỗi lớn là nói, viết không thành câu;
Khi các em viết câu thì viết không đúng cấu trúc, sai ngữ pháp, dùng từ
không phù hợp;


Chính vì lẽ đó tôi mạnh dạn chọn sáng kiến kinh nghiệm “Rèn kĩ năng
Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2” để nghiên cứu thực nghiệm vào giảng
dạy.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến


3.2.1. Mục đích của giải pháp
Trang bị cho học sinh một hệ thống khái niệm, sự hiểu biết về cấu trúc
ngôn ngữ, về quy tắc cấu tạo từ, dùng từ đặt câu và tạo văn bản để sử dụng trong
giao tiếp. Đồng thời Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ rèn luyện tư duy và giáo
dục thẩm mỹ cho học sinh;
3.2.2. Nội dung của giải pháp
Tính mới của giải pháp
Rèn kĩ năng thực hành là yêu cầu cơ bản trong quá trình hướng dẫn học
sinh làm bài tập. Đây chính là nét mới, là vấn đề đặt ra đòi hỏi người giáo viên
phải có sự suy nghĩ, tìm tòi đầu tư nhiều thời gian và công sức mới thực hiện có
hiệu quả một tiết lên lớp.
Các bước thực hiện của giải pháp
a) Giáo viên chuẩn bị bài tốt trước khi lên lớp
Đối với dạng bài mở rộng vốn từ theo chủ đề, chủ điểm và từ loại:
- Giáo viên cần trang bị cho bản thân mình vốn kiến thức thật phong phú;
- Giáo viên cần định hướng trước sẽ cho đối tượng học sinh nào tìm từ ngữ nào;
Đối với dạng bài về đặt dấu câu và đặt câu theo mẫu:
- Giáo viên cần chủ động chuẩn bị các mẫu câu để sửa chữa, bổ sung cho
học sinh;

2


- Không yêu cầu các em phải nói thành câu văn hay, đúng cú pháp mà chỉ cần
các em có thể thể hiện được điều các em nghĩ, dần dần uốn nắn, bổ sung sửa chữa
tạo cho các em sự tự tin ở bản thân mình khi học.
b) Lựa chọn hình thức học tập thích hợp
Phân môn Luyện từ và câu được thiết kế thông qua hệ thống bài tập, do
vậy nếu giáo viên không chuẩn bị hình thức, biện pháp dạy học thích hợp thì
tiết học sẽ rập khuôn và trở nên nhàm chán, không kích thích hứng thú học tập

của học sinh. Căn cứ vào các loại bài tập, giáo viên có thể chọn lựa hình thức
trình bày từng bài tập cho phù hợp: làm miệng, viết, làm cá nhân, làm theo
nhóm hoặc tổ chức trò chơi học tập.
Ví dụ: Bài tập 1 trang 44 tập 1.
Cách viết các từ ở nhóm (1) và nhóm (2) khác nhau như thế nào? Vì sao?
sông

(sông) Cửu Long

núi

(núi) Ba Vì

thành phố

(thành phố) Huế

học sinh

(học sinh) Trần Phú Bình

Đối với bài tập này, vấn đề ở đây học sinh không phải chỉ so sánh 2 cột mà
nói lên sự khác nhau giữa 2 nhóm từ. Để tiết học sinh động, tôi chọn hình thức tổ
chức lớp bằng cách: Cho học sinh xem tranh vẽ về sông, núi hay về một thành
phố nào đó … học sinh quan sát và trả lời câu hỏi của giáo viên. Chính điều này
sẽ gây hứng thú cho học sinh ham học, học sinh hiểu biết thêm về phong cảnh
giàu đẹp của đất nước ta. Ngoài ra các em còn phân biệt được các từ chỉ sự vật
nói chung và tên riêng của từng sự vật.
Nói tóm lại, tôi luôn cố gắng chọn hình thức học tập thích hợp cho lớp tôi
nhất là dùng phương pháp trực quan sẽ giúp cho học sinh có khả năng trừu

3


tượng hóa dấu hiệu khái niệm, nhận diện từ một cách khái quát như: sông, núi,
thành phố, học sinh…
c) Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập
Xét theo mục đích của bài tập, sách giáo khoa có những bài tập Luyện từ và
câu sau:
- Bài tập nhận diện từ và câu;
- Bài tập tạo lập từ và vâu;
- Bài tập sử dụng dấu câu.
Thông thường mỗi tiết học, học sinh làm từ 3 - 4 bài tập, mỗi bài tập đều
nhằm mục đích rèn luyện một số kỹ năng nhất định. Do tính chất phong phú về
hình thức, kiểu loại bài tập nên tùy theo loại bài tập, tôi hướng dẫn cho học sinh
nắm yêu cầu một cách thích hợp.
Có loại bài tập học sinh có thể đọc và tự xác định yêu cầu, sau đó cùng
nhau trao đổi cả lớp, nhưng cũng có loại bài tập tôi cần dành thời gian để hướng
dẫn cho cả lớp nắm vững yêu cầu trước khi thực hành.
Loại bài tập học sinh đọc và tự xác định yêu cầu là những bài tập thuộc
dạng bài đã được làm ở các tiết trước hoặc những bài tập yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ một cách đơn giản.
Đối với loại bài tập này, tôi chỉ cần cho học sinh tự xác định yêu cầu bài
tập sau đó trao đổi với các bạn để tiến hành làm bài.
d) Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức qua các dạng bài tập cơ bản
- Sách Tiếng Việt 2 thường thiết kế 4 loại bài tập cơ bản: mở rộng vốn từ
theo chủ điểm; nắm nghĩa của từ; phân loại nhóm từ; luyện tập sử dụng từ. Do
vậy, để giải quyết tốt bài tập, giáo viên cần nắm vững yêu cầu về kiến thức, mục
đích và hình thức ra bài tập ở sách giáo khoa để có những biện pháp thích hợp
4



trong quá trình hướng dẫn cho học sinh thực hành. Sau đây là một số gợi ý trong
dạy học với các dạng bài tập cơ bản của phân môn Luyện từ và câu.
* Dạng bài tập mở rộng vốn từ theo chủ điểm
- Mở rộng vốn từ theo chủ điểm là dạng bài tập chiếm dung lượng tương
đối lớn trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2. Có thể nói với cả 15 chủ đề
được trình bày trong Tiếng Việt 2 đều có mặt dạng bài tập này;
- Qua tìm hiểu những từ ngữ cùng chủ đề, trên cơ sở một số từ đã được cung
cấp trong các giờ Tập đọc, Kể chuyện, cùng chủ đề, học sinh có thể tự kiểm tra,
đánh giá vốn từ của mình, ngoài ra các em còn có thể tìm các từ cùng chủ đề;
Ví dụ: Dạy bài Tập đọc: “Câu chuyện bó đũa” sách giáo khoa tập 1 trang 122.
Câu hỏi trong bài Tập đọc như sau: Người cha muốn khuyên các con điều gì?
Học sinh trả lời: Người cha muốn khuyên các con là anh em trong gia
đình phải biết thương yêu, đùm bọc nhau.
Giáo viên mở rộng vốn từ: thương yêu, đùm bọc còn có các từ: quý mến,
đoàn kết, giúp đỡ, gắn bó, hòa thuận, cưu mang….(nếu học sinh nêu không được
thì giáo viên cung cấp thêm vốn từ cho các em).
Bài tập 1 trang 116 sách tập 1.
Hãy tìm 3 từ nói về tình cảm thương yêu giữa anh chị em.
Đó là một ví dụ điển hình, còn rất nhiều chủ điểm ở phân môn Tập đọc có liên
quan chặt chẽ với môn Luyện từ và câu trong tuần. Sách giáo khoa đã đáp ứng
tốt điều này bằng cách bố trí nội dung bài Luyện từ và câu bám sát chủ điểm
học trong tuần giúp học sinh có điều kiện làm tốt các bài tập mở rộng từ.
* Dạng bài tập nhận diện từ và câu
Các sai phạm của học sinh trong quá trình nắm kiến thức ngữ pháp
đều do lỗi nhận diện, phân loại, phân tích các đơn vị ngữ pháp. Trong ngôn
5


ngữ học, đặc biệt trong tiếng việt, vấn đề ranh giới từ là một vấn đề gay cấn

đến mức khiến cho một số nhà Việt ngữ học chủ trương không dùng khái
niệm từ. Vì thế, ở tiểu học cũng không thể không bàn đến khái niệm từ.
Theo kinh nghiệm lâu năm tôi dạy các em từ bao giờ cũng có nghĩa và dùng
để đặt câu, có từ có hai tiếng, có từ có ba tiếng,... cũng có từ chỉ do một
tiếng có nghĩa tạo thành.
Các bài tập 1, 2 và 3 trang 8 tập 1 là những bài tập nhận diện từ, câu giúp
học sinh bước đầu làm quen với khái niệm từ và tìm các từ có liên quan đến hoạt
động học tập.
Ví dụ: bài tập 1, 2 trang 26 tập 1.
Tìm những từ chỉ sự vật (người, đồ vật, con vật, cây cối …) được vẽ dưới đây.
Đây là loại bài tập nhận diện từ đi từ dễ (quan sát tranh - Bài tập 1), đến
khó (tìm trên bảng kẻ - Bài tập 2).
Bước 1: cho học sinh quan sát tranh vẽ, học sinh nêu cụ thể (bộ đội, ô
tô…) giáo viên cần khái quát đâu là từ chỉ người, đồ vật, cây cối.
Bước 2: Áp dụng bài tập bổ sung: cho học sinh xem tranh mở rộng thêm
như cây lúa, cây chuối, con mèo, em bé, bàn, ghế… lần lượt học sinh nêu từ chỉ
người, chỉ đồ vật..
Bước 3: Áp dụng kiến thức đã học tìm trên bảng kẻ những từ chỉ sự vật
(giáo viên có thể cho 4 tổ thi đua tìm từ chỉ sự vật, sau đó đính lên bảng lớp).
bạn

thân yêu

thước kẻ

dài

quý mến

cô giáo


chào

thầy giáo

bảng

nhớ

dũng cảm

viết

đi

nai

học trò

ca dao

phượng vĩ

đỏ

sách

xanh

6



Bài tập 3 trang 9 tập 1 là bài tập nhận diện câu.
Hãy viết một câu nói về người hoặc cảnh vật trong mỗi tranh sau:
Bài tập này giúp học sinh bước đầu làm quen với khái niệm câu. Điểm tựa
về nội dung để đặt câu là 2 bức tranh. Vì thế tôi yêu cầu học sinh khi nói và viết
phải thành câu, nếu nói, viết không thành câu thì người khác không hiểu được.
Ví dụ: Cô nói: “Quyển vở này”
Vậy các em có hiểu ý cô nói gì không? (học sinh sẽ không hiểu).
Lúc đó tôi mới gọi 1 em nói tiếp ý của câu tôi vừa nói: “Quyển vở này rất đẹp”.
Khi đó các em mới hiểu. Vậy bản chất của câu là diễn đạt một ý trọn vẹn.
Đây là dấu hiệu quan trọng nhất của khái niệm câu. Về hình thức, câu được mở
đầu bằng một chữ viết hoa và kết thúc bằng một dấu chấm câu.
Từ sự hướng dẫn trên, học sinh sẽ đặt câu đúng và áp dụng đặt câu trong 2
bức tranh ở bài tập 3 trang 9 như sau:
Tranh 1: Các bạn dạo chơi trong vườn hoa. (Hà và các bạn đi dạo giữa
vườn hoa)
Tranh 2: Hà vui vẻ ngắm hoa. (Hà đang say sưa ngắm khóm hoa hồng)
Thông thường tôi hướng dẫn học sinh kiểm tra lại xem cấu trúc câu đã
đúng chưa có thiếu bộ phận nào không. Bằng cách đặt câu hỏi, dùng từ Ai (con
gì?, Cái gì?) để xác định bộ phận chính. Đặt câu hỏi là gì?, làm gì?, thế nào?
để xác định bộ phận còn lại.
Ví dụ: Xác định câu sau thành câu chưa?
Em quét nhà.
Đặt câu hỏi để tìm bộ phận chính: Ai quét nhà? - Trả lời: Em ( vậy “Em”
là bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?
7


Đặt câu hỏi để tìm bộ phận còn lại: Em làm gì? –Trả lời: quét nhà (vậy

“quét nhà” là bộ phận trả lời cho câu hỏi làm gì?
Suy ra câu trên đã thành câu.
Nhưng không phải việc đặt câu hỏi Ai - là gì?, Ai - làm gì?, Ai - thế
nào?... để kiểm tra lại là việc đơn giản với các em. Đôi khi các em còn lúng túng
không biết đặt câu hỏi như thế nào để tìm bộ phận trả lời cho câu hỏi trong câu
và không biết câu đó thuộc loại mẫu câu gì.
Ở chương trình lớp 2 môn Luyện từ và câu gồm có các mẫu câu phổ biến sau:
Ai (con gì, cái gì?) - là gì ?
Ai (con gì, cái gì?) - làm gì ?
Ai (con gì, cái gì?) - thế nào ?
Để nhận diện được các mẫu câu này và thực hiện một số bài tập dạng:
* Đặt câu hỏi cho bộ phận được in đậm
* Câu trên thuộc mẫu câu gì?...
Tôi hướng dẫn học sinh xác định như sau: Nếu mẫu câu Ai- là gì? thì
trong câu luôn luôn có từ “là”
Ví dụ:
Cá heo là bạn của người đi biển.
Mẹ em là công nhân.
Học sinh hay đặt câu như sau:
Mẹ em là hiền.
Bạn Nam là thân với em.
Mặc dầu trong câu có từ “là” nhưng đó là câu sai.
Chính vì thế cần lưu ý học sinh ở mẫu câu này như sau: Sau từ “là” phải
là từ chỉ sự vật.
8


Sửa lại câu sai như sau: Mẹ em là người mẹ hiền.
Bạn Nam là bạn thân của em.
(Từ “người mẹ”, “bạn thân” đều là từ chỉ sự vật)

* Dạng bài tập nhận diện các bộ phận phụ của câu trả lời cho câu hỏi
Khi nào?, Ở đâu?, Như thế nào?, Vì sao?, Để làm gì?
Thường thì tôi hướng dẫn như sau:
*Cần phải xác định nội dung câu, yêu cầu của đề bài.
Nếu muốn hỏi về thời gian, ta dùng câu hỏi “ Khi nào”.
Ví dụ: Đặt câu hỏi cho bộ phận được in đậm.
Mùa xuân trăm hoa đua nở, tiết trời ấm áp.
“Mùa xuân” là từ chỉ thời gian vì thế ta dùng cụm từ “Khi nào” thay cho
từ “ mùa xuân” để hỏi:
Khi nào trăm hoa đua nở, tiết trời ấm áp?
Muốn hỏi về địa điểm ta dùng cụm từ “Ở đâu” để hỏi và thường trong câu
có từ “ở”
Ví dụ:
Trong vườn trường, mấy tốp học sinh đang vun xới cây.
“Trong vườn trường” chỉ địa điểm. Tương tự ta thay “trong vườn trường”
thành cụm từ “Ở đâu” để hỏi:
Ở đâu mấy tốp học sinh đang vun xới cây?
Hoặc: Mấy tốp học sinh đang vun xới cây ở đâu?
Muốn hỏi nguyên nhân của sự việc ta dùng câu hỏi “ Vì sao?” và thường
trong câu có từ “vì”.
Ví dụ:
Không được bơi ở đoạn sông này vì có nước xoáy.
9


“ Vì có nước xoáy” chính là nguyên nhân của sự việc nên ta dùng câu hỏi
“Vì sao?”
Không được bơi ở đoạn sông này vì sao?
Nếu muốn hỏi về đặc điểm, tính chất ta dùng cụm từ “như thế nào” để hỏi
Ví dụ: Hoa phượng đỏ rực.(Hoa phượng như thế nào?)

Nếu muốn hỏi ý nghĩa của việc làm ta dùng cụm từ để làm gì? để hỏi và
thường thì trong câu có từ “để”.
Ví dụ: Bạn Thắng tưới cây để cho cây tươi tốt. (Bạn Thắng tưới cây để
làm gì?)
Sau khi nhận biết các bộ phận phụ của câu của lời cho các câu hỏi là gì?,
làm gì?, thế nào?, vì sao?.....tôi hệ thống lại toàn bộ cách nhận diện các dạng câu
trên cho học sinh nắm và để khắc sâu kiến thức hơn.
* Dạng bài tập sử dụng dấu câu:
- Để điền đúng dấu câu ta phải hiểu nghĩa của câu thì mới sử dụng dấu
câu phù hợp.
Ví dụ: Điền dấu câu thích hợp vào các câu sau.
Nam mới về đến cửa đã nghe thấy tiếng ông:
- Cháu đã về đấy ư…
- Thưa ông, vâng ạ…
- Rửa chân tay đi rồi vào ăn cơm cháu nhé…
(Nếu là câu hỏi thì phải trả lời được Cháu đã về đấy ư là câu hỏi của ông,
nên dùng dấu chấm hỏi.
Thưa ông, vâng ạ lời đáp của cháu là lời kể sự việc tóm tắt, kết thúc câu
dùng dấu chấm.

10


Rửa chân tay đi rồi vào ăn cơm cháu nhé là câu sai khiến, kết thúc câu
bằng dấu chấm than.
Nói tóm lại, để đạt được hiệu quả như mong muốn thì khi giáo viên tổ chức cho
học sinh làm việc cá nhân, theo nhóm, làm việc cả lớp, tổ chức trò chơi học tập… phải
chú ý, tùy vào điều kiện cụ thể mà có biện pháp thích hợp nhằm tạo điều kiện cho tất
cả các em đều làm việc, đều được hoạt động, đều được bộc lộ và phát triển.
Đối với bài tập cho học sinh làm cá nhân: yêu cầu về kiến thức không

khó, đa số các em có khả năng làm được vì thế tôi luôn tạo điều kiện cho nhiều
em được trình bày, nhất là những em tiếp thu bài chậm trình bày trước để các
bạn khác có cơ hội bổ sung, sửa chữa.
Thường thì những em học chậm không dám giơ tay, ngại nói, sợ nói sai..
nên còn e dè, rụt rè. Khi đó, tôi thường xuyên mời các em đó đứng lên bày tỏ ý
kiến của mình. Học sinh nói sai, giáo viên không nên trách mắng các em. Vì có
nói sai giáo viên mới biết được sự tiếp thu bài của các em. Từ đó, giáo viên mới
có thể điều chỉnh cách dạy của mình và dạy như thế nào để em dễ hiểu hơn.
Để động viên các em, cuối tuần tôi tuyên dương và thưởng cho các em về
sự cố gắng học tập của em, em sẽ thích học, tự tin và mạnh dạn hơn.
Đối với bài tập làm việc cả lớp: thường là các dạng bài tập cần phải suy nghĩ,
tôi luôn quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh. Tuyên dương những em Giỏi có
câu trả lời đúng, có ý tưởng hay, các em Khá, Trung bình nên học tập theo. Ngoài ra
tôi còn động viên các em Giỏi, Khá nên mở rộng kiến thức nhiều hơn nữa bằng cách
tìm đọc sách báo, thơ, truyện ngắn về thiếu nhi, …
đ) Xây dựng cho học sinh kĩ năng vận dụng kiến thức bài học khắc
sâu kiến thức, hình thành kĩ năng sống tích cực

11


Chương trình phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 được xây dựng rất gần
gũi với đời sống thường ngày của học sinh, đó cũng là một thuận lợi cho việc
học tập của các em, chính vì thế giáo viên phải biết tận dụng vốn kiến thức bản
thân học sinh để chuyển tải kiến thức một cách linh hoạt. Chẳng hạn: Khi dạy
bài “Từ ngữ về đồ dùng và công việc gia đình” học sinh sẽ rất dễ khi kể về công
việc những người thân đã làm: quét nhà, rửa chén, nấu cơm, làm cỏ vườn…
Nhưng đôi khi sẽ lúng túng khi kể về công việc mà bản thân làm được. Một
phần vì tuổi các em còn nhỏ chưa tham gia nhiều vào việc nhà, một phần vì có
em là con cưng trong gia đình nên không phải làm việc nhà… Khi gặp trường

hợp như thế giáo viên cần động viên nhắc nhở các em cố gắng tham gia vào việc
nhà, làm những gì mình có thể, ví dụ: cho gà ăn, phụ mẹ dọn cơm, gấp quần
áo… Đó cũng chính là liên hệ thực tiễn vào bài học và khắc sâu kiến thức bài
học hình thành cho học sinh kĩ năng sống tích cực hơn, biết chia sẻ công việc
với người thân, biết quan tâm giúp đỡ ông bà cha mẹ.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
- Những biện pháp này áp dụng trong phân môn Luyện từ và câu lớp 2;
3. 4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
giải pháp
Qua quá trình dạy học ở lớp 2, bản thân tôi đã vận dụng các biện pháp nêu
trên và đạt được những kết quả cụ thể:
- Bản thân người giáo viên lớp tự tin, nắm vững kiến thức, nội dung bài.
Hướng dẫn, chủ đạo các hoạt động cho học sinh được rõ ràng, năng động;
- Học sinh học tập tích cực, biết vận dụng kiến thức bài học vào thực tiễn
cuộc sống. Dưới sự kiểm tra, động viên thường xuyên của thầy và trò tạo được
thói quen sống tích cực hơn;
12


- Đa số các em thích học, lớp học sôi nổi hào hứng vì tôi luôn thay đổi hình
thức học tập. Tiết học không khô khan mà rất nhẹ nhàng, thoải mái. Đa số các em tiếp
thu bài rất tốt, nắm vững kiến thức qua các bài tập. Tôi không áp đặt học sinh, mà
ngược lại tôi luôn khuyến khích các em để các em mạnh dạn và tự tin hơn.
- Khi các em viết câu thì viết đúng cấu trúc, đúng ngữ pháp, dùng từ phù hợp./.
................, ngày ... tháng ... năm ....
NGƯỜI VIẾT

13




×