Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.73 KB, 64 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

----------------------

NGUYỄN THỊ LINH

THẾ GIỚI NGHỆ THẬT
TRONG TIỂU THUYẾT BỈ VỎ
CỦA NGUYÊN HỒNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN PHƢƠNG HÀ

HÀ NỘI – 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận này, tôi đã đƣợc sự giúp đỡ của các
thầy cô giáo trong tổ bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Ngữ Văn trƣờng Đại
học sƣ phạm Hà Nội 2. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các thầy cô
tổ văn học Việt Nam, đặc biệt là tới ThS. Nguyễn Phƣơng Hà ngƣời đã tạo
điều kiện tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Khóa luận đƣợc hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu
sót. Vì vậy tôi rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô giáo và
các bạn để khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên



Nguyễn Thị Linh


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của cô
giáo ThS. Nguyên Phƣơng Hà. Tôi xin cam đoan:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Đề tài không trùng với kết quả có sẵn của bất kì tác giả nào khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
4. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 5
7. Cấu trúc của bài khóa luận ......................................................................... 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 6
1.1. Khái niệm thế giới nghệ thuật ................................................................. 6
1.2. Tác giả Nguyên Hồng và tiểu thuyết Bỉ vỏ ............................................ 8
1.2.1. Tác giả Nguyên Hồng ....................................................................... 8
1.2.2. Tiểu thuyết Bỉ vỏ ............................................................................. 11

CHƢƠNG 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT VÀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT BỈ VỎ CỦA NGUYÊN HỒNG ....... 14
2.1. Thế giới nhân vật .................................................................................. 14
2.1.1. Khái niệm nhân vật ......................................................................... 14
2.1.2. Nhân vật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ ..................................................... 16
2.2. Nghệ thuật thể hiện nhân vật ................................................................ 28
2.2.1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình .................................................... 28
2.2.2. Miêu tả nhân vật qua hành động .................................................... 32
2.2.3. Ngôn ngữ ......................................................................................... 34
CHƢƠNG 3. THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT BỈ VỎ CỦA NGUYÊN HỒNG............................. 39


3.1. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 39
3.1.1. Không gian xã hội ........................................................................... 39
3.1.2 Không gian thiên nhiên .................................................................... 44
3.1.3. Không gian tâm tưởng .................................................................... 45
3.2. Thời gian nghệ thuật ............................................................................. 49
3.2.1. Thời gian trần thuật ........................................................................ 50
3.2.2. Thời gian hồi tưởng ........................................................................ 53
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguyên Hồng là nhà văn có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học nƣớc
nhà. Ông đƣợc đánh giá là một trong những đại diện xuất sắc nhất của nền
văn học hiện thực tiến bộ Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng Tám. Suốt cuộc
đời cầm bút gần nửa thế kỉ, Nguyên Hồng đã viết những sự thật đau đớn và

mãnh liệt của cuộc đời ông cũng nhƣ cuộc đời của những ngƣời lao động
nghèo khổ.
Bỉ Vỏ là cuốn tiểu thuyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp
sáng tác văn chƣơng của Nguyên Hồng. Đây là một trong những tác phẩm
tiêu biểu của trào lƣu văn học hiện thực phê phán trƣớc Cách mạng tháng
Tám. Tác phẩm đã khắc họa rõ nét cuộc sống lầm than của tầng lớp nhân dân
lao đông, những ngƣời dƣới đáy xã hội và từ đó cho thấy bản chất xấu xa, thối
nát của xã hội thực dân phong kiến.
Ngay sau khi ra đời, tiểu thuyết Bỉ vỏ đã gây đƣợc tiếng vang lớn, tạo
ấn tƣợng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc bởi thế giới nghệ thuật rất đặc sắc mà
cụ thể là thế giới nhân vật độc đáo và khác biệt. Nếu các nhà văn cùng thời
nhƣ: Nam Cao, Ngô Tất Tố… tìm đến ngƣời nông dân nghèo khổ để bênh
vực họ thì Nguyên Hồng lại hƣớng ngòi bút của mình đến một đối tƣợng
khác. Đó là lớp ngƣời lƣu manh, tha hóa sống dƣới đáy xã hội. Nguyên Hồng
không trực tiếp bênh vực hay ca ngợi họ mà ông đã chỉ rõ bản chất lƣu manh,
liều lĩnh…để từ đó lên án xã hội đƣơng thời ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy
xấu xa đồng thời thể hiện tƣ tƣởng nhân văn, nhân đạo của tác giả. Vì vậy,
việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Bỉ vỏ là điều rất cần thiết.
Đây là một trong những cách tiếp cận tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung
và tác phẩm của Nguyên Hồng nói riêng.

1


Hiện nay, nhà văn Nguyên Hồng là tác giả đƣợc giảng dạy ở nhiều cấp
bậc học trong nhà trƣờng nhƣ: THCS, CĐ, ĐH... Việc nắm bắt tác phẩm của
Nguyên Hồng nhƣ một chỉnh thể có quy luật vận động nội tại là rất cần thiết
để từ đó có thể học tập và giảng dạy tốt các tác phẩm của ông.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Thế giới nghệ
thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng với vọng để tài nghiên cứu

góp phần hữu ích trong việc tìm hiểu, khám phá tác phẩm của Nguyên Hồng.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về trào lƣu văn học hiện
thực 1930 – 1945 trên cả hai phƣơng diện về nội dung tƣ tƣởng và hình thức
nghệ thuật. Bên cạnh các tác giả nhƣ Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam
Cao… thì Nguyên Hồng và các tác phẩm của ông cũng là một trong những đối
tƣợng nghiên cứu hấp dẫn của văn học. Nguyên Hồng là một trong số ít những
nhà văn mà ngay ở những tác phẩm đầu tay đã có đƣợc vị trí vững chắc trên
diễn đàn văn nghệ và trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nhà nghiên cứu,
những ngƣời yêu thích thơ văn. Đặc biệt, với sự ra đời của tiểu thuyết Bỉ vỏ đã
tạo lên một tiếng vang lớn, đánh dấu sự trƣởng thành của ông và ngay sau khi
nó thu hút đƣợc sự quan tâm đông đảo của nhiều nhà nghiên cứu.
Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Thương tiếc nhà văn Nguyên
Hồng nhận định: Nguyên Hồng không chỉ là nhà văn của những ngƣời cùng
khổ, những ngƣời “dƣới đáy” của xã hội. Ông chính là ngƣời cùng khổ nhất ,
chính là hạng ngƣời dƣới đáy cùng của của xã hội thời Pháp thuộc. Ông không
chỉ viết về ngƣời dân lao động mà bản thân ông chính là một ngƣời dân lao
động với đầy đủ ý nghĩa của khái niệm ấy. Nhƣng văn Nguyên Hồng bao giờ
cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ đầy chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng.
Một thứ văn bám riết lấy cuộc đời, quấn quýt lấy con ngƣời.

2


Trong Hội thảo "Nhà văn Nguyên Hồng - cuộc đời và sự nghiệp văn
chƣơng" nhân kỷ niệm 95 năm ngày sinh của ông (1918-2013) TS. Lê Thị
Bích Hồng với bài viết: Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ,
tác giả nhấn mạnh: Từng trang văn của ông là từng trang đời thấm đẫm nƣớc
mắt số phận con ngƣời những năm tháng trƣớc Cách mạng - những ngƣời
sống dƣới đáy xã hội, những ngƣời nghèo, những thân phận bất hạnh, cô đơn,

những con ngƣời yếu thế nhƣng bao giờ cũng cố vƣơn lên đấu tranh để bảo vệ
nhân phẩm của mình.
Qua những lời định ngắn gọn của G.S Nguyễn Đăng Mạnh và T.S Lê
Thị Bích Hồng ta có thể thấy: Nguyên Hồng là nhà văn của những ngƣời cùng
khổ, ông sống và gắn bó rất chặt với họ. Chính vì thế, ông có vốn sống vô
cùng phong phú, mà điểu này đƣợc ông truyền tải tất thảy trong các tác phẩm
văn chƣơng của mình.
Nhận định về Nguyên Hồng, GS. Phan Cự Đệ trong lời giới thiệu Tuyển
tập Nguyên Hồng đã khái quát quá trình phát triển tƣ tƣởng của nhà văn qua
các chặng đƣờng sáng tác. Tác giả cho rằng: “Nguyên Hồng đã khám phá,
nâng niu từng tia sáng nhân đọa trong mỗi kẻ lƣu manh dƣới đáy”[1,1].
Ngoài ra, nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyên Hồng, có
thể kể đến các tác giả nhƣ: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vũ Ngọc Phan… Đặc
biệt trong cuốn Nguyên Hồng về tác giả và tác phẩm do Hà Minh Đức giới
thiệu, Hữu Nhuận tuyển chọn, NXB Giáo dục, tái bản lần thứ nhất năm 2003
có tập hợp nhiều bài viết của các nhà văn, các nhà nghiên cứu về Nguyên
Hồng và tác phẩm của ông.
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu đều ít
nhiều có bàn tới tiểu thuyết Bỉ vỏ nhƣng phạm trù thế giới nghệ thuật trong
tác phẩm này chƣa đƣợc đề cập tới một cách cụ thể, ngay cả một số nhà
nghiên cứu đƣợc coi là có nhiều công sức trong việc tìm hiểu về Nguyên

3


Hồng nhƣ Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ. Ngoài các công trình nghiên cứu
trên còn có những bài luận án, khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu về tiểu thuyết
Bỉ vỏ, bài nghiên cứu về tiểu thuyết Bỉ vỏ gần đây nhất đó là:
Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Hoàng Thị Thơ trƣờng ĐHSP Hà Nội
2 với đề tài: Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng.

Bài viết đã đi sâu nghiên cứu không gian nghệ thuật, từ đó đã làm nổi bật lên
số phận tăm tối của hệ thống nhân vật bi kịch, lƣu manh trong tiểu thuyết này.
Tuy nhiên, ở các bài viết này chỉ đi vào khai thác những khía cạnh nhỏ
nhƣ: thi pháp hoàn cảnh, không gian nghệ thuật của tiểu thuyết Bỉ vỏ mà chƣa
đi khai thác một cách toàn diện về tác phẩm.
Tiếp thu phần nào kết quả của các nhà nghiên cứu, khóa luận của chúng
tôi đi vào khai thác: Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên
Hồng, nhằm làm rõ hơn nữa giá trị nội dung, tƣ tƣởng của tác phẩm này.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của
Nguyên Hồng.
- Phạm vi nghiên cứu: Tiểu thuyết Bỉ vỏ - Nguyên Hồng, NXB Văn học
2003.
4. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ.
- Thấy đƣợc vị trí, tài năng của nhà văn Nguyên Hồng trong trào lƣu
Văn học hiện thực phê phán.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp thống kê, phân loại.
- Phƣơng pháp tổng hợp, khái quát.
- Phƣơng pháp phân tích tác phẩm.

4


6. Đóng góp của khóa luận
- Góp phần khẳng định vị trí và tài năng của Nguyên Hồng đối với nền
Văn học hiện thực phê phán.
- Đóng góp thiết thực cho công việc giảng dạy, học tập tác phẩm của
Nguyên Hồng sau này.

7. Cấu trúc của bài khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo nội dung chính của
khóa luận gồm ba phần:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Thế giới nhân vật và nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu
thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng.
Chƣơng 3: Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ
của Nguyên Hồng.

5


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm thế giới nghệ thuật
Nhà văn Sedrin đã nói rằng: Tác phẩm văn học là một vũ trụ thu nhỏ,
mỗi sản phẩm nghệ thuật là một thế giới khép kín trong bản thân nó. Nhƣ vậy,
một tác phẩm toàn vẹn phải xuất hiện nhƣ một thế giới nghệ thuật. Belinxki
cũng đã từng nhận xét: Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới riêng mà
khi vào đó thì ta buộc phải sống theo các quy luật của nó, hít thở không khí
của nó.
Nhƣ vậy, thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ. Nó là
kiểu tồn tại đặc thù vừa trong chất liệu, vừa trong cảm nhận của thƣởng thức,
vừa là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức trong chỉnh thể thẩm mĩ của
tác phẩm.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học của tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi cho rằng: “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính
chỉnh thể của các sáng tác nghệ thuật ( một tác phẩm, một loại hình tác phẩm,
sáng tác của tác giả, một trào lƣu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng

tác nghệ thuật là một thế giới riêng đƣợc sáng tạo ra theo nguyên tắc tƣ tƣởng,
khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con ngƣời, mặc dù nó
phản ánh các thế giới ấy” [3,302].
Có thể thấy, thế giới nghệ thuật đã khẳng định phƣơng thức phản ánh
vũ trụ-con ngƣời theo cách riêng của văn học, nghệ sĩ muốn khẳng định cá
tính riêng và đem lại cho ngƣời đọc nhận thức phong phú thì phải tạo đƣợc
cho mình thế giới nghệ thuật riêng, tức là mọi tƣ duy trong tác phẩm đƣợc

6


nhận biết theo cách của nhà văn. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng,
thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm
đạo đức, thang bậc giá trị riêng… chỉ xuất hiện một cách có ƣớc lệ trong sáng
tác nghệ thuật.
Nhƣ vậy, mỗi thế giới nghệ thuật ứng với quan niệm riêng. Ví dụ: thế
giới nghệ thuật của thần thoại gắn với quan niệm về các sự vật có thể biến hóa
lẫn nhau; thế giới nghệ thuật trong truyện cổ tích (đặc biệt là trong truyện cổ
tích thần kì), gắn với quan niệm về thế giới không có sức cản; còn thế giới
nghệ thuật của các sáng tác hiện thực chủ nghĩa gắn với quan niệm tác động
tƣơng hỗ giúp ta hình dung tính độc đáo về tƣ duy nghệ thuật và cá tính sáng
tạo của nghệ sĩ.
Chúng ta biết rằng, mỗi tác phẩm văn học đều đƣợc lấy chất liệu từ hiện
thực khách quan nhƣng đƣợc phản chiếu qua lăng kính tâm hồn của nghệ sĩ.
Mỗi nhà văn có một cách nhận thức về hiện thực riêng, chính vì vậy mỗi tác
phẩm sẽ là một thế giới nghệ thuật riêng, nhiệm vụ của ngƣời tiếp nhận là
phải tìm mã khóa để bƣớc vào thế giới nghệ thuật đó.
Nhƣ đã nêu trên, thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian
riêng… vì thế có thể nêu ra các yếu tố biểu hiện của thế giới nghệ thuật nhƣ:
nhân vật, thời gian – không gian nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu… Trong

bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào, việc đi tìm hiểu tác phẩm thông qua việc
tìm hiểu thế giới nghệ thuật là một điều rất cần thiết. Đặc biệt đối với những
tác phẩm tiểu thuyết, một thể loại có dung lƣợng khá lớn, số lƣợng nhân vật
cũng nhƣ tình tiết sự việc nhiều nên việc tìm hiểu tác phẩm từ góc độ thế giới
nghệ thuật là rất hợp lí, nó có thể thâu tóm đƣợc giá trị nội dung cũng nhƣ
nghệ thuật của tác phẩm.

7


1.2. Tác giả Nguyên Hồng và tiểu thuyết Bỉ vỏ
1.2.1. Tác giả Nguyên Hồng
Nhà văn Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày
5/11/1918 tại thành phố Nam Định. Ông xuất thân từ một gia đình viên chức
sa sút rồi rơi xuống tầng lớp ngƣời lao động nghèo. Nguyên Hồng sống cuộc
sống cơ cực, nghèo khổ và phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Cha mất sớm,
mẹ đi bƣớc nữa, ông phải sống nhờ một bà cô cay nghiệt. Tuy cuộc đời của
Nguyên Hồng gặp nhiều éo le, trắc trở từ nhỏ nhƣng ông vẫn thiết tha yêu
cuộc sống. Khi mẹ ông trở về, hai mẹ con rời quê hƣơng đến sinh sống ở một
xóm nghèo ở Hải Phòng. Từ đây, ông chính thức gia nhập vào cuộc sống của
những ngƣời dƣới đáy xã hội thành thị… Có thể thấy, chính hoàn cảnh sống
đã tạo ra “chất lao động, chất dân nghèo”, thấm sâu vào văn chƣơng, vào thế
giới nghệ thuật của ông.
Nguyên Hồng cũng sớm tiếp xúc với Cách mạng từ thời Mặt trận dân
chủ. Năm 1943, ông tham gia tổ chức Văn hóa cứu quốc. Sau Cách mạng,
ông vẫn tiếp tục hoạt động ở hội tích cực. Năm 1955, ông làm ở tờ Tin Hải
Phòng. Năm 1956, ông lên Hà Nội làm báo văn nghệ. Đến năm 1957, ông
tham gia Đại hội thành lập Hội nhà văn Việt Nam, phụ trách tuần báo Văn.
Tháng 1 năm 1964, Nguyên Hồng giữ chức vụ chủ tịch chi hội văn học nghệ
thuật ở Hải Phòng cho tới khi mất. Ông mất ngày 2 tháng 5 năm 1982 ở

huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Cho đến năm 2013, Hội nhà văn Việt Nam
tổ chức Lễ kỉ niệm 95 năm sinh nhà văn Nguyên Hồng, tại đây có sự tham gia
của nhiều nhà văn, nhà thơ và bạn đọc nhiều thế hệ yêu mến nhà văn vùng đất
Cảng. Trong buổi lễ nhà văn Nguyễn Tuân đã viết những vần thơ rất xúc
động để tƣởng nhớ Nguyên Hồng:
“Khi ông đến nơi đất khép nắng nghiêng trời
Nƣớc mắt thấm chiều thƣơng nhớ

8


Không còn bạn nhâm nhi rƣợu lúa
Từng ly đau giọt lên mộ thay lời”.
Nguyên Hồng bƣớc vào nghề văn là do sự thôi thúc nội tâm, muốn nói
lên nỗi thống khổ cùng con ngƣời; trƣớc hết là ngƣời lao động, để bênh vực
họ. Đó là ý thức nghệ thuật đã trở thành cảm hứng, cuốn hút sự say mê, sáng
tạo của ông trong suốt cuộc đời cầm bút. Đối với một ngƣời thanh niên thời
đó, địa vị không có, gia đình suy tàn, học thức tầm thƣờng nhỏ nhoi, Nguyên
Hồng chỉ nghĩ có một cách tồn tại trong cuộc sống bằng cái nghề cao quý,
trong sạch của văn chƣơng. Sáng tác là niềm đam mê lớn nhất của cuộc đời
ông. Nguyên Hồng đề ra quan điểm sáng tác rõ ràng mà nổi bật nhất đó là
quan niệm nghệ thuật vì con ngƣời. Cả cuộc đời cầm bút, ông gắn bó sâu sắc,
máu thịt với những con ngƣời nhỏ bé, những lớp ngƣời dƣới đáy của xã hội
thành thị. Sự nghiệp văn học của Nguyên Hồng có nét gần gũi với nhà văn
Nga Mácxim Gorki – trong mỗi trang viết của ông nồng nàn hơi thở của đời
sống cần lao. Ông chỉ viết và viết, viết từ trẻ cho đến lúc già, viết cả khi trong
nhà tù và viết trong cái đói thƣờng trực.Tựa nhƣ ông dốc cạn cuộc đời ra để
viết, vắt kiệt mình ra để viết. Hơn bốn mƣơi năm lao động nghệ thuật bền bỉ
và sáng tạo say sƣa, đầy ý thức trách nhiệm, những tác phẩm của Nguyên
Hồng chiếm một vị trí quan trọng, có bản sắc riêng trong nền văn học hiện đại

Việt Nam. Ông là nhà văn của những ngƣời cùng khổ, nhà văn của tầng lớp
dƣới, nhà văn của những ngƣời đói nghèo, rách hèn. Ông viết về họ. Viết vì
họ. Và ông viết cho họ. Suốt cuộc đời cầm bút, ông coi điều ấy là mục đích
sáng tác của mình. Trong “Bước đường viết văn của tôi” ông viết: “Trƣớc hết,
tôi không đƣợc viết những chuyện tình yêu bợm bãi, những truyện mơn trớn,
khiêu gợi, những tình cảm thấp kém, những chuyện để mua vui, để chiều ý,
để cầu lấy chút khen ngợi hay sự nhắc nhở của bọn vô công rồi nghề phè
phỡn, khô khan, trơ trẽn, cái bọn giàu sang trọng tự gọi là thƣợng lƣu xã hội”.

9


Đó là tuyên ngôn nghề nghiệp của ông. Và tuyên ngôn ấy, vẫn còn nguyên giá
trị thời sự, có tính cảnh báo với những ngƣời cầm bút thời nay.
Khác với những tác giả cùng thời, ngay từ những tác phẩm đầu tay,
Nguyên Hồng đã chọn cho mình dòng văn học hiện thực với cảm hứng nhân
đạo. Các tác phẩm của ông đi sâu vào khai thác hiện thực, phơi bày sự đen tối,
bịt bợm của xã hội lúc bấy giờ.
Nguyên Hồng là nhà văn đã có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn
học Việt Nam hiện đại. Mƣời tám tuổi ông bắt đầu viết văn, trình làng với
truyện ngắn Linh hồn (đăng trên Tiểu thuyết thứ 7). Nhƣng ông chỉ thực sự
gây tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết đầu tay Bỉ Vỏ khi mới mƣời
bảy tuổi. Bỉ Vỏ đƣợc đánh giá là “bức tranh xã hội sinh động về thân phận
những con ngƣời nhỏ bé dƣới đáy" nhƣ Tám Bính, Năm Sài Gòn... Bỉ Vỏ
không chỉ có ý nghĩa là một giải thƣởng văn chƣơng danh giá của Tự lực văn
đoàn, mà điều quan trọng kể từ đó, tác phẩm đã xác lập vị trí, uy tín, danh
tiếng của nhà văn Nguyên Hồng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Gần
lăm mƣơi năm miệt mài lao động sống và viết - viết đều, viết nhiều, viết
không ngừng nghỉ cho đến khi buộc phải “nhắm mắt xuôi tay” ở tuổi sáu
mƣơi tƣ, nhà văn Nguyên Hồng đã để lại một di sản văn học đồ sộ, vạm vỡ

với hơn bốn mƣơi tác phẩm văn học. Và nỗi day dứt về bộ tiểu thuyết “Núi
rừng Yên Thế” viết về cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám đang dang dở…
Năm 1981, tập một bộ tiểu thuyết vừa in xong, thì ngay sau năm ấy, bệnh tai
biến mạch máu não đã mang Nguyên Hồng ra đi quá đột ngột, không kịp
trăng trối. Đến 1993, tập 2 “Núi rừng Yên Thế” mới ra mắt độc giả.
Nguyên Hồng là nhà văn của thợ thuyền lao khổ, ông đã thể hiện những
phẩm chất tốt đẹp, sức sống, khát vọng của ngƣời lao động nƣớc ta trong cuộc
đời cũ, và sau Cách mạng tháng Tám ông lại đi tiếp cuộc đổi mới với nhiều

10


tác phẩm có giá trị về đề tài công nhân. Ông đƣợc truy tặng Giải thƣởng Hồ
Chí Minh lần một về văn học nghệ thuật năm 1996.
1.2.2. Tiểu thuyết Bỉ vỏ
Có ý kiến cho rằng: Nguyên Hồng là nhà văn của ngƣời cùng khổ. Thật
vậy, từng trang văn của ông là từng trang đời thấm đẫm nƣớc mắt số phận con
ngƣời những năm tháng trƣớc cách tháng Tám – những ngƣời sống dƣới đáy
xã hội, những ngƣời nghèo, cô đơn, những ngƣời sống dƣới đáy xã hội, những
con ngƣời yếu thế nhƣng bao giờ cũng cố gắng vƣơn lên đấu tranh để bảo vệ
nhân phẩm của mình. Đó là nƣớc mắt của nỗi đau khổ cùng cực đi cùng với
con ngƣời và ẩn chƣa nỗi lòng cảm thông sâu sắc của nhà văn. Phải chăng vì
thế mà Nguyên Hồng đã viết thành công Bỉ vỏ khi chỉ mới mƣời bảy tuổi. Cậu
thanh niên ấy phải sống trong cảnh nghèo khổ đến cùng cực nhƣng đã dám đề
cập đến những vấn đề về cuộc sống, xã hội của những kẻ lƣu manh, gái
điếm… một cách khá sâu sắc. Nguyên Hồng đã viết Bỉ vỏ bằng tất cả những
khát khao đƣợc viết đƣợc dâng hiến cho đời những cảm xúc của mình: “Bỉ vỏ
đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nƣớc đen ngầu
bọt của một bãi đất lấp dở dang và chuồng lợn ngập ngụa phân tro; Bỉ vỏ đã
viết xong trong một căn nhà cứ đến chập tối là ran lên tiếng muỗi và tiếng trẻ

khóc; Bỉ vỏ đã viết xong trong một đêm lạnh lẽo, âm thầm mà mọi vật nhƣ
đều rung lên cùng với lòng thƣơng yêu của một đứa trẻ con ham sống dạt dào
trong những bụi mƣa thấm thía” (Lời đề tựa trong cuốn Bỉ vỏ - 1938)[4,8].
Khi viết về những ngƣời lao động cùng khổ, Nguyên Hồng không nhìn
họ bằng sự thƣơng hại hoặc tô vẽ cho cuộc sống lao động cực khổ một vẻ dịu
dàng nên thơ, mà ông đã xoáy sâu đến tận cùng những tấn bi kịch của tầng
lớp ngƣời dƣới đáy xã hội. Nếu nhƣ các nhà văn khác hƣớng tới những ngƣời
nghèo khổ mà viết với tấm lòng thƣơng cảm thì Nguyên Hồng đã đứng trong
lao khổ để viết lên những sự thật thật khốc liệt. Ông viết về họ nhƣ chính viết

11


về cuộc sống của bản thân mình, bằng tất cả sự đồng cảm, chia sẻ, thấm thía
từ tấm lòng trƣớc mọi nỗi buồn lo, xót xa, quằn quại của lớp ngƣời dƣới đáy
xã hội.
Bỉ vỏ là cuốn tiểu thuyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp
sáng tác văn học của Nguyên Hồng. Tác phẩm ra đời năm 1938, khi ông đang
chập chững những bƣớc đi đầu tiên trên con đƣờng nghệ thuật. Ngay sau đó,
tác phẩm đƣợc in báo và nhận giải thƣởng của Tự lực văn đoàn. Điều đó
chứng tỏ giá trị không nhỏ mà tác phẩm đem lại cho bạn đọc thời ấy và ngày
nay càng đƣợc khẳng định rõ hơn.
Bỉ vỏ là cuốn tiểu thuyết về cuộc đời trụy lạc của bọn ăn cắp nửa tình
cảm, nửa xã hội, làm cho ngƣời đọc phải suy ngẫm và cảm động. Qua cuộc
đời chìm nổi, éo le của Tám Bính, một cô gái thôn quê thật thà, hƣớng thiện,
giàu tình yêu thƣơng và đức hi sinh, tác giả đã phơi bày bộ mặt xấu xa, bất
công của xã hội đƣơng thời. Bính là cô gái thôn quê xinh đẹp, chấp phác
nhƣng gặp nhiều bi kịch trong cuộc đời. Vì nhẹ dạ cả tin Bính trao thân cho
tên sở khanh và sinh ra đứa con trai. Bố mẹ Bính ruồng rẫy, bán đứa con của
cô đi. Sau đó, cô lên Hải Phòng kiếm sống và gặp những biến cố khác, cô bị

đẩy vào nhà thổ trở thành gái giang hồ. Trong lúc đau khổ, tuyệt vọng, Bính
đƣợc Năm Sài Gòn - trùm “chạy vỏ” đất Hải Phòng cƣớp giúp và hết mực yêu
thƣơng, chăm sóc. Sau đó ít lâu, Năm bị bắt, Bính sống buôn bán kiêm sống
qua ngày, hy vọng khi Năm trở về sẽ khuyên anh từ bỏ nghề bất lƣơng ấy.
Năm đƣợc tha nhƣng dứt khoát không nghe lời khuyên của Bính. Thế là, bất
đắc dĩ, Bính cũng bị lôi kéo vào con đƣờng lƣu manh, trở thành một “bỉ vỏ” –
ngƣời đàn bà ăn cắp. Do một sự hiểu lầm và ghen tuông, Năm Sài Gòn đuổi
Bính đi. Đúng lúc ấy Bính nhận đƣợc tin bố mẹ ở gặp tai họa có thể bị tù,
Bính không còn cách nào khác, đã phải nhận lời lấy một viên mật thám để có
tiền gửi về cứu bố mẹ. Đang sống yên ổn nhàn hạ bên ngƣời chồng mới này

12


thì một biến cố xoay chuyển cuộc đời Bính: Năm Sài Gòn bị bắt bởi chính tay
ngƣời chồng Bính. Không chút do dự, cô đã lẻn xuống trại giam, mở khoá
cứu Năm rồi cùng y đi trốn. Từ đó, Bính lại trở lại cuộc sống ngoài vòng pháp
luật với Năm Sài Gòn, nhƣng trong lòng vẫn day dứt khát khao cuộc đời
lƣơng thiện. Cuối cùng, Bính phải trả giá bằng kết cục bi thảm: Năm đã giết
chết đứa con của cô trong một lần “làm tiền” và cả hai ngƣời bị bắt bởi chính
ngƣời mật thám của cô trƣớc đây.
Qua cuộc đời chìm nổi éo le của Tám Bính, tác giả đã phơi bày bộ mặt
bất công của trật tự xã hội đƣơng thời. Từ bọn cƣờng hào thôn quê với những
hủ tục lạc hậu đến bọn giàu có ở thành thị bẩn thỉu, đê hèn; trùm chạy vỏ, bọn
cảnh sát, mật thám… tất cả đều đƣợc nhà văn phản ánh trong tác phẩm. Với
tiểu thuyết Bỉ vỏ, Nguyên Hồng không chỉ tái hiện hiện thực xã hội một cách
khách quan mà nhà văn còn khơi sâu vào thế giới bên trong của tâm hồn
những con ngƣời dƣới đáy xã hội để thấy đƣợc vẻ đẹp vốn có trong tâm hồn
họ.


13


CHƢƠNG 2
THẾ GIỚI NHÂN VẬT VÀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT BỈ VỎ CỦA NGUYÊN HỒNG
2.1. Thế giới nhân vật
2.1.1. Khái niệm nhân vật
Đối tƣợng chung của văn học là cuộc đời, trong đó con ngƣời luôn giữ vị
trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên
nhiên, những lời bình luận… đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho
tác phẩm vật nhƣng cái quyết định chất lƣợng tác phẩm văn học chính là việc
xây dựng nhân vật. Đọc một tác phẩm văn học, đọng lại sâu sắc nhất là số
phận, tình cảm, cảm xúc, suy tƣ của những con ngƣời đƣợc nhà văn thể hiện.
Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi nói rằng: Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết
thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác.
Nhân vật văn học là thuật ngữ chỉ hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời,
một trong những dấu hiệu về sự tồn tại của con ngƣời trong nghệ thuật ngôn
từ. Bên cạnh con ngƣời, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, loài cây,
các sinh hể hoan đƣờng đƣợc gắn cho những đặc điểm giống với con ngƣời.
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ƣớc lệ, không đồng
nhất với con ngƣời có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những
nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Ý nghĩa của nhân vật văn học chỉ có đƣợc
trong một hệ thống tác phẩm cụ thể. Tác phẩm văn học không thể thiếu nhân
vật bởi đó là hình thức cơ bản, qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình
tƣợng và là phƣơng tiện giúp nhà văn thể hiện thái độ, lập trƣờng tƣ tƣởng
trƣớc cuộc sống và con ngƣời đồng thời thể hiện tƣ duy nghệ thuật của mình.
Các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm: “Nhân vật văn
học là con ngƣời cụ thể đƣợc miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn


14


học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu,...) cũng có thể không có tên
riêng... Khái niệm nhân vật văn học có khi đƣợc sử dụng nhƣ một ẩn dụ,
không chỉ có một con ngƣời cụ thể nào cả mà chỉ một hiện tƣợng nổi bật nào
đó trong tác phẩm... Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ƣớc
lệ, không thể đồng nhất nó với con ngƣời trong cuộc sống” [3, 7].
Trong giáo trình Lí luận văn học do G.S Trần Đình Sử chủ biên đã
khẳng định: “Nhân vật văn học là nói đến con ngƣời đƣợc miêu tả thể hiện
trong tác phẩm bằng phƣơng tiện văn học. Nội dung của nhân vật nằm trong
sự thể hiện của nó. Chỉ đến khi tác phẩm kết thúc ngƣời đọc mới có ý niệm
đầy đủ về nhân vật”[12, 118].
G.S Hà Minh Đức trong giáo trình Lí luận văn học đƣa ra định nghĩa:
Nhân vật văn học là một hiện tƣợng nghệ thuật mang tính ƣớc lệ, đó không
phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con ngƣời qua những
đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách…và chú ý thêm rằng:
nhân vật thƣờng đƣợc quan niệm với phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là
con ngƣời, những con ngƣời có tên hoặc không tên đƣợc khắc họa đậm sâu
hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là những sự
việc, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách của con ngƣời đƣợc
dung nhƣ những phƣơng thức khác nhau để biểu hiện con ngƣời.
Nhân vật văn học là một hiện tƣợng có tính ƣớc lệ, có những dấu hiệu
để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm
riêng… Không giống với nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật khác, nhân
vật văn học đƣợc khắc họa bằng chất liệu riêng là ngôn từ vì vậy nó đòi hỏi
ngƣời đọc phải vận dụng trí tƣởng tƣợng, liên tƣởng để dựng lại một con
ngƣời hoàn chỉnh trong tất cả mối quan hệ của nó.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra một kết luận: nhân vật
văn học là yếu tố cơ bản nhất của tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ


15


đề, tƣ tƣởng và đến lƣợt mình nó lại đƣợc các yếu tố có tính chất hiện thực
của tác phẩm tập trung khắc họa. Đọc tác phẩm cần phải hiểu hết nội dung đời
sống và nội dung tƣ tƣởng của tác giả gửi gắm qua nhân vật. Vì vậy, việc tìm
hiểu nhân vật là chìa khóa để đi vào tác phẩm văn học.
Nhân vật văn học có vị trí không thể thiếu trong một tác phẩm, chính vì
thế mà nó có vai trò rất quan trọng. Nhân vật có chức năng khái quát những
tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc
đời. Với tƣ cách là cơ sở tạo nên thế giới nghệ thuật, nhân vật là yếu tố đầu
tiên đƣợc xem xét đầu tiên khi muốn tìm hiểu tác phẩm văn học.Tiểu thuyết
là tác phẩm tự sự điển hình nhất, nó có những ƣu thế nổi bật. Tiểu thuyết có
thể khắc họa tỉ mỉ các phƣơng diện, khi khắc họa nhân vật không bị giới hạn
về không gian, thời gian, ngôn ngữ lại rất phong phú, nhà văn có thể miêu tả
diễn biến tâm lí tình cảm, ý thức của từng nhân vật. Tiểu thuyết khi viết về
nhân vật có thể vận dụng ngôn ngữ của nhân vật, lại có thể vận dụng ngôn
ngữ trần thuật. Có thể thay đổi không gian một cách tự do, vận dụng đầy đủ
hoàn cảnh nhân vật, tâm lí, tính cách nhân vật khiến cho nhân vật hiện rõ
trong tâm tƣởng của bạn đọc.
2.1.2. Nhân vật trong tiểu thuyết Bỉ vỏ
2.1.2.1. Nhân vật bi kịch
Nhà văn Nguyên Hồng luôn đặc biệt chú ý đến tới số phận của ngƣời
phụ nữ lao động, họ phải chịu bao bất hạnh, đau đớn, và bị khinh rẻ. Nhân vật
nữ trong các tác phẩm của Nguyên Hồng nhƣ sinh ra để gánh lấy những đau
khổ, uất ức trên đời, họ là hiện thân của tinh thần chịu nạn. Khi viết về họ,
ông không ngợi ca, mà xây dựng hình tƣợng nhân vật với nỗi oan khổ hay gặp
những cảnh đời éo le qua đó khẳng định vẻ đẹp của họ. Nhân vật Tám Bính
trong tiểu thuyết Bỉ vỏ đƣợc Nguyên Hồng xây dựng là một nhân vật tiêu biểu

cho con ngƣời chịu nạn, gặp nhiều bi kịch trong cuộc đời.

16


Bỉ vỏ là cuốn tiểu thuyết viết về cuộc đời Tám Bính, một cô gái quê
hiền lành, xinh đẹp, chất phác lại chịu thƣơng chịu khó. Chính vì thế mà Bính
đƣợc rất nhiều ngƣời chú ý và tròng ghẹo. Bao nhiêu lời tán tỉnh của những
ngƣời con trai trong làng không đƣợc Bính để ý tới. Chỉ đến khi xuất hiện một
ngƣời “vận quần Tây, chải chuốt” có “thân hình thanh tú” cùng với cái tên
“quan Tham đạc điền” thì trái tim cô bắt đầu rung động, từ “thẹn” đến “băn
khoăn vẩn vơ” rồi cuối cùng cô đã yêu ngƣời con trai ấy. Sự ngây thơ, trong
trắng của cô con gái quê mới lớn với hi vọng là có thể gửi gắm cuộc đời cho
ngƣời yêu mình, Bính đã “buông phó cả thân thể mình cho y” để rồi kết quả
cuối cùng cô nhận đƣợc là sự ruồng bỏ của ngƣời tình và mang trong mình
giọt máu của hắn. Có thể nói, bi kịch của Tám Bính bắt đầu từ khi đứa con của
cô ra đời. Cô luôn sống trong tủi nhục, sự đay nghiến của bố mẹ. Và đau đớn
hơn nữa khi chứng kiến cảnh bố mẹ mình đã nhẫn tâm bán đứa cháu với giá
mƣời ba đồng bạc khi nó mới sinh ra đƣợc vài ngày chỉ vì sợ mất danh tiếng
của gia đình. Mất ngƣời tình, mất con, bố mẹ ruồng bỏ, không chỗ bấu víu
Bính quyết định bỏ làng ra đi với hi vọng tìm đƣợc tham Chung và kiếm tiền
để sau này về chuộc con. Chính hi vọng mong manh ấy là nguồn sức mạnh
giúp cô gái trẻ, yếu ớt, một thân một mình không tiền bạc vào Hải Phòng nơi
đầy nguy hiểm và cạm bẫy để kiếm sống. Thế nhƣng sự đời đâu đơn giản nhƣ
Bính nghĩ, cái ƣớc mơ nhỏ nhoi của Bính bị dập tắt ngay khi bƣớc chân lên
thành phố thì đã gặp những ngƣời đàn ông thành thị đê hèn chỉ chực vồ lấy
Bính khi có dịp và những bà vợ hay ghen và ghê gớm. Bính trong một sự hiểu
lầm cƣớp chồng ngƣời khác đã bị một mụ đàn bà đánh thừa sống thiếu chết rồi
bị giải về sở cẩm, kết quả là cô bị đẩy vào nhà “thổ”.
Lên thành phố đƣợc vài ngày nhƣng cuộc sống của Bính lật sang một

trang mới với những màu sắc tối tăm, ê chề, nhục nhã, sống một kiếp ngƣời
bất hạnh nơi nhà thổ nhơ bẩn. Tại nhà thổ của mụ Tài Xế Cấu, Bính gặp Hai

17


Liên, cô giúp đỡ Tám Bính nhiều lần. Sau đó, Bính đƣợc Hai Liên giới thiệu
cho Năm Sài Gòn - một tay “anh chị” trong giới giang hồ, Năm chuộc Tám
Bính ra ngoài và cƣới cô làm vợ. Bính tƣởng chừng sẽ đƣợc sống cuộc sống
của con ngƣời bình thƣờng nhƣng số phận lại một lần nữa đùa giỡn với cô.
Khi Bính biết chồng cô là một tay anh chị khét tiếng hung dữ và đáng sợ,
đứng đầu trong phe trộm cắp. Bính nhiều lần khuyên can chồng hoàn lƣơng
nhƣng không đƣợc. Năm không thể dứt bỏ cuộc sống hiện tại, cuộc sống mà
Năm đã quen từ nhỏ, đầy mạo hiểm nhƣng thú vị, uy quyền của một vị vua
không đánh đổi bằng cuộc sống tay làm nuôi miệng đƣợc. Cuối cùng Bính
phải theo Năm, bàn tay của Bính đã “nhúng chàm”, cô đã giúp Năm lấy trộm
đồ của một ngƣời dân lƣơng thiện và trở thành một “bỉ vỏ” có tay nghề. Tuy
sống bằng nghề bất lƣơng nhƣng trong lòng Bính luôn âu lo và Bính luôn hi
vọng về một cuộc sống tốt đẹp sẽ đến với mình. Nhƣng Năm “đứng đầu hẳn
những du côn anh chị nhất” là hạng ngƣời mà “hết thảy mọi ngƣời đều xa
lánh, ghê sợ”. Bính không thể bỏ Năm, tấm lòng chan chứa yêu thƣơng của
Năm đối với Bính không ai có đƣợc. Bính sợ hãi cho tƣơng lai của mình và
những đứa con sau này. Thật không gì chua xót bằng khi con ngƣời muốn
lƣơng thiện nhƣng cuộc đời cứ xô đẩy họ vào vũng đời đen tối mà họ không
tài nào tìm đƣợc đƣờng ra.
Một lần hiểu lầm và ghen tuông, Năm đã đuổi Bính đi. Cuộc đời thật
bất công khi cứ dành mọi sự đau khổ cho Tám Bính. Giờ đây Bính chỉ còn
một thân một mình không biết đi đâu về đâu, cô quyết định trở về với cảnh
đời “tay làm hàm nhai, dù vất vả lam lũ lại sáng rực rỡ lên một cảnh khác
thƣờng”. Tƣởng chừng bất hạnh của Bính sẽ qua đi ấy mà sóng gió lại ập đến.

Cha mẹ cô ở quê bị vu oan, không có tiền sẽ bị đi tù, là một ngƣời con có hiếu
làm sao cô có thể làm ngơ trƣớc tai họa mà cha mẹ gặp phải. Bính đã trả ơn
sinh thành bằng cách làm lẽ một tay mật thám để có tiền lo cho cha mẹ. Làm

18


vợ tay mật thám cuộc sống của Bính dễ dàng hơn một chút nhƣng ngƣời đàn
bà bất hạnh ấy lại phải lựa chọn giữa hai con đƣờng sẽ quyết định số phận tàn
nhẫn của cô. Chồng cô bắt đƣợc Năm Sài Gòn, hoàn cảnh ấy buộc Bính phải
lựa chọn: sống yên ổn bên ngƣời chồng mật thám hay mở cửa ngục cho Năm
và trở về cuộc sống lƣu manh cùng hắn. Một con ngƣời giàu lòng vị tha và
tình thủy chung ấy có thể sẵn sang tha thứ cho những ngƣời đã hắt hủi mình
một cách tàn nhẫn nhƣ cha mẹ cô, thì làm sao cô có thể dửng dƣng với số
phận của Năm Sài Gòn, ngƣời duy nhất trên đời đã yêu thƣơng cô thật sự.
Bính quyết định cứu Năm ra và trở về con đƣờng tội lỗi.
Bính phải chứng kiến cảnh Năm giết ngƣời mà không dám hé răng, rồi
chính Năm trong một lần “làm tiền” đã cƣớp một đứa bé ngƣời đeo đầy vàng
bạc lao xuống sông và vì ngạt nƣớc đứa bé đã chết. Cô có ngờ đâu đứa bé đó
chính là đứa con mà năm xƣa cô đứt ruột sinh ra, đứa con đầu lòng mà cô
không có cách nào giữ đƣợc, và giờ đây ôm con trong tay thì nó chỉ còn “là
xác chết lạnh nhƣ đồng”. Giữa cảnh éo le và đau đớn ấy thì ngƣời chỗng cũ
cùng những đội xếp, những tên mật thám vào bắt Bính và Năm Sài Gòn. Phải
chăng đây chính là cái giá mà cô phải trả cho chính hành động tội lỗi của
mình, “thoáng phút giây Bính thấy hết cả mọi sự tuyệt vọng, tối tăm từ nay
trở đi lúc nào cũng xâu xé tâm cam Bính. Bính sẽ sống một đời khốn nạn dài
vô cùng tận” [4, 219].
Câu chuyện về cuộc đời Tám Bính khép lại là một chuỗi dài bất hạnh,
tủi nhục, ê chề với tận cùng của sự tuyệt vọng. Một kết thúc đau đớn: con
chết, chồng bị bắt bởi chính ngƣời chồng khác của mình. Quả thật cuộc đời

thật tàn nhẫn với Bính chỉ vì chút nhẹ dạ của mình để rồi cuối cùng phải trả
cái giá quá đắt. Phải chăng viết về cuộc đời Tám Bính nhà văn Nguyên Hồng
muốn phơi bày tất cả hiện thực xã hội lúc bấy giờ?

19


Miêu tả cuộc đời nhân vật Tám Bính, Nguyên Hồng đã phơi bày tất cả
những mặt trái của xã hội từ nông thôn đến thành thị đâu đâu cũng đầy rẫy
những bất công ngang trái, sự lên ngôi của đồng tiền, danh vọng, sự thối nát
trong bộ máy cƣờng quyền. Chính xã hội đã đẩy một cô gái trong trắng, lƣơng
thiện xuống tận bùn đen không thể ngóc đầu lên đƣợc. Điều này đƣợc giáo sƣ
Nguyên Đăng Mạnh khẳng định: Tác giả đã phân tích cả một chuỗi nguyên
nhân xã hội từ nông thôn đến thành thị với cơ cấu xã hội duy trì những phong
tục vô cùng nhân đạo, với những tổ chức chính trị, những công cụ bạo lực
bênh vực cho bọn có tiền, đẩy Tám Bính vào cuộc sống nhơ bẩn và cực nhục
mà cô không sao vƣợt nổi. Có thể nói, nông thôn là những vùng quê bình
lặng, ở nơi đó chúng ta thấy sự chất phác của ngƣời dân lao động. Nhƣng
cũng chính nông thôn là nơi lễ giáo phong kiến và các hủ tục lạc hậu còn đang
ngự trị. Nó là nguyên nhân phá hoại biết bao con ngƣời, đặc biệt là những
ngƣời phụ nữ. Nguyên Hồng đã cho thấy hiện thực phũ phàng này khi Bính
rung mình nhớ lại hình ảnh của chị Minh chỉ vì nhẹ dạ cả tin nên phải đèo
bồng con bị làng phạt vạ “phải quỳ giữa sân đình, nón không có, bế đứa con
mới đƣợc mƣời ngày giữa trời nắng chang chang” còn bọn Hƣơng lý, chức
dịch thì ngồi trong đình “chè chén no nê” rồi khệnh khạng phạt vạ. Bọn này
chỉ nhân cơ hội này mà “nhấm nháp cho sƣớng miệng, sống chết mặc ai”. Đại
diện cho luân lí là thế cho nên những ngƣời dân lao động đặc biệt là ngƣời
phụ nữ yếu đuối họ không thể phản kháng đƣợc. Ngay cả đến cha mẹ cũng vì
sĩ diện mà họ nhẫn tâm “ cạo trọc đầu, bôi vôi trắng hếu, úp rế lên đầu đứa
con gái tội nghiệp của mình mà rong khắp làng”. Chính luật lệ hà khắc đó là

nguyên nhân dẫn đến con đƣờng lƣu manh hóa của biết bao nhiêu cô gái nhẹ
dạ mà chính Tám Bính là nhân vật điển hình.
Nông thôn đã vậy thành thị lại càng ô hợp hơn, bởi đó là nơi nhiều
ngƣời tứ xứ họp, bao nhiêu thành phần, tầng lớp, hạng ngƣời… tất cả tạo

20


×