Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Về một chữ trong bài thơ: TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.4 KB, 5 trang )

Về một chữ trong bài thơ
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính"



"Bài thơ về Tiểu đội xe không kính" là một thi phẩm nổi tiếng của nhà thơ
Phạm Tiến Duật viết vào những năm chống Mỹ ác liệt nhất của bộ đội ta ở
tuyến đường Trường Sơn. Bài thơ này đã được đưa vào giảng dạy chính thức
trong chương trình Văn học THCS chỉnh lý(1995). Nhiều nhà soạn sách
tham khảo cho GV và HS đã viết những bài phân tích, bình giảng công phu
về nó. Năm 2001, báo GD-TĐ đã tổ chức một đợt bình thơ trong nhà trường
và có hàng chục người tham gia bình bài thơ này. Trong hàng chục bài phân
tích bình giảng từ trước tới nay về bài thơ, bài viết của GS Trần Đình Sử đã
gây cho chúng tôi những ấn tượng thú vị. GS đã có những phát hiện đáng kể
về nội dung và nghệ thuật bài thơ. Tuy nhiên, trong bài viết của mình, GS đã
có một ý kiến làm cho chúng tôi băn khoăn.

Khi phân tích khổ thơ cuối, ông tỏ ý chê Phạm Tiến Duật non tay trong việc
dùng chữ xước ở câu thơ "Không có mui xe thùng xe có xước". Cụ thể, ông
viết như sau: "Khổ thơ thứ bảy, kết bài, nêu lên hình ảnh về những thử
thách ngày càng nhiều, càng ác liệt. Chỉ tiếc chữ "xước" hơi nhẹ quá:..."
[1-tr. 400; 2-tr. 150]. Qua câu này, chúng ta thấy rằng: nhà phê bình có sự
ngập ngừng, lúng túng; tuy chê nhưng lại không dám thẳng thắn nên câu văn
mới bị vi phạm lỗi diễn đạt như vậy( trước hoặc sau tính từ "nhẹ" chỉ có thể
dùng một trong hai phó từ "hơi" hoặc "quá"). Chúng tôi băn khoăn vì hai
nhẽ:

một là, chẳng nhẽ một người viết có học vấn ngữ văn ở trình độ đại học, một
nhà thơ vốn được coi là "một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào
thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ " [3-Tiểu dẫn, tr. 42] như anh
Duật lại hớ hênh, cẩu thả đến thế sao?



Hai là, chẳng nhẽ bộ GD-ĐT lại chọn vào chương trình Văn học phổ thông
một sản phẩm văn chương có tỳ vết về câu chữ như vậy cho học sinh học
hay sao? Nói thế, chắc có người sẽ bắt bẻ: ôi dào, ông chỉ hay vẽ chuyện,
như con người là sản phẩm kỳ diệu của tạo hoá mà đến bậc vĩ nhân còn
"nhân vô thập toàn" huống hồ văn chương là thứ "tự cổ vô bằng cứ " ? Xin
thưa: nếu là vấn đề nội dung tư tưởng, vấn đề các lớp nghĩa sâu xa, ẩn tàng,
trừu tượng ở tầng siêu ngôn ngữ của văn bản thì có thể nói như vậy, nhưng
đây lại là vấn đề chữ nghĩa, vấn đề ở tầng biểu đạt nội dung sự vật, sự kiện
mà theo như cách nói ở trên của GS-TS Trần Đình Sử, chuyên gia hàng đầu
của ngành lý luận văn học nước nhà hiện nay, thì bài thơ này còn đâu là mẫu
mực về sự chính xác, trong sáng, hay ho, đẹp đẽ của tiếng Việt để mà dạy
cho học trò?

Bởi tuy là tỳ vết đó nằm ở một chữ, nhưng trong tính tương tác hệ thống của
toàn bộ câu chữ bài thơ, trên mọi cấp độ ngôn từ, thì hậu quả của nó là "con
sâu làm rầu nồi canh".Trong lịch sử văn học nhân loại đã có nhiều giai
thoại cho hay: có khi chỉ vì thay đổi một chữ mà quyết định cả vận mệnh
một bài thơ. Hẳn người đọc yêu văn học Trung Hoa, không mấy người là
không biết câu chuyện nhà thơ Trịnh Cốc đời Đường đã sửa cho nhà sư Tề
Kỷ chữ sổ thành chữ nhất, khiến bài thơ "Tảo mai" của Tề Kỷ trở nên nổi
tiếng và Tề Kỷ đã cúi đầu bái tạ mà gọi Trịnh Cốc là "nhất tự sư" (thấy một
chữ)

Kỳ thực, ban đầu, chúng tôi đã chia sẻ với ý kiến trên của GS Trần trong
một tâm trạng bức xúc như thế. Nhưng sau đọc kỹ bài thơ nhiều lần, lắng
nghe thật rõ âm hao của nó, thì lại ngờ ngợ. Chúng tôi bèn đọc lại tập "Vầng
trăng và những quầng lửa" ( Nxb Văn học-1983), tuyển những bài thơ anh
Duật viết chủ yếu trong giai đoạn ở Trường Sơn thì biết chắc rằng mình
nhầm. Phong cách thơ Phạm Tiến Duật, như nhiều nhà nghiên cứu đã xác

nhận, là tinh nghịch, tếu táo mà lại rất có duyên. Trong cấu tứ, anh chú ý
nhiều đến các nghịch lý được phát hiện trong cuộc sống. Cách nói tưng tửng
cứ như không trước mọi sự kiện, vấn đề trọng đại kết hợp với tứ thơ được
xây dựng bằng nghịch lý có sức ám người đọc ghê gớm. Hẳn người đọc một
thời chưa quên được những câu thơ thú vị này của anh:
..."Thế đấy, giữa chiến trường
nghe tiếng bom rất nhỏ"
(Tiếng bom ở Seng Phan)

... "Bao nhiêu người làm thơ Đèo Ngang
mà không biết con dèo chạy dọc"
( Đèo Ngang)
V.v và v.v

Như vậy, cần phải hiểu câu chữ của Phạm Tiến Duật trong cái trường phong
cách nói trên của anh. Phong cách là một yếu tố siêu ngôn ngữ, chi phối một
cách có ý thức và cả vô thức đối với mọi sự lựa chọn phương tiện và phương
thức nghệ thuật của người viết. Trong lịch sử văn học, có một thực tế sau
đây: có những phương tiện ngôn từ, khi xét trong tổ chức ngôn ngữ bình
thường của văn bản thì tầm thường, phi lý nhưng nó lại phi thường, lại rất có
lý khi xét trong trường phong cách, trong cấp độ siêu ngôn ngữ. Với cái chữ
xước "phiền hà" của anh Duật cũng vậy.Trước hết, xét về ngữ cảnh câu thơ
thì việc dùng chữ xước quả là khó chấp nhận. Chiếc xe không kính, không
đèn, không mui vì bom đạn kẻ thù đã bao lần băm xé thì chắc chắn cái thùng
xe khó bề nguyên vẹn đến mức chỉ có xước, tức là bị sây sát nhẹ, không
đáng kể. Và cũng trong ngữ cảnh này, nghĩa của chữ xước chỉ có thể hiểu
như vậy cả về tiền giả định và nghĩa tường minh.

Vị chuyên gia thi pháp học đã dựa trên những căn cứ ấy để "tiếc" cho nhà
thơ của bộ đội Trường Sơn. Với cách hiểu theo lô-gích cuộc sống như thế,

thì cái chữ "xước" đó hoàn toàn phi lý. Tuy nhiên, có ba lý do khiến chúng
tôi tin rằng đây không phải là sự lỡ tay của một người thợ lành nghề.

Thứ nhất, Phạm Tiến Duật sáng tác bài thơ này khi anh đã thực sự trưởng
thành về mọi mặt trong nghề thơ.
Thứ hai, bài thơ này đã được in đi in lại nhiều lần trong nhiều tuyển tập và
cũng đã hơn một lần được nhiều người phân tích bình giảng.
Thứ ba, nó lại không có khả năng rơi vào trường hợp bị nhầm lẫn tai hại về
chính tả nhiều năm như một chữ trong thơ của Tố Hữu " Người đi quần
(quấn) áo chen chân"("Tiếng hát đi đày"). Vậy có phải do tác giả bí vần mà
dùng chữ xước hay không? Trong quá trình sáng tác, đúng là có nhiều
trường hợp do bí vần, nhất là thơ luật, và tác giả lại là người quá câu nệ, nên
dùng chữ rất ép. Song Phạm Tiến Duật và bài thơ này thì lại không nằm
trong tiền lệ trên. Thơ anh chủ yếu viết theo thể tự do, nặng về điệu nói
nhưng rất giàu nhạc điệu. Có điều nhạc điệu đó không phải chủ yếu là do
vần mà là do anh triệt để vận dụng nguyên lý song hành trong việc tổ chức
dòng thơ, câu thơ, khổ thơ kết hợp với việc ngắt nhịp theo lối điệp cấu trúc
đặng tạo nên. Vả chăng đây lại là khổ thơ kết nên việc tăng cường nhạc tính(
trong đó có việc bắt vần) là rất cần thiết.

Mặt khác, việc dùng chữ trước để kết thúc dòng thơ tiếp sau "Xe vẫn chạy vì
miền Nam phía trước" là tất yếu, là yếu tố cố định hoá trước cho sự hình
thành một bộ phận của một cấu trúc . Đó chính là tiêu vận mà dòng thơ
trước phải theo. Cứ theo ý kiến của GS Trần Đình Sử mà giả định rằng việc
dùng chữ xước là non tay thì Phạm Tiến Duật còn những khả năng lựa chọn
nào nữa không? Còn! Còn một khả năng: đó là từ rách tướp, khả dĩ đáp ứng
về yêu cầu âm vận và xét về khả năng biểu đạt theo hướng cấu trúc hoá thực
tại khách quan thì cao hơn từ xước nhiều. Đây là những từ dùng thường
xuyên đầu cửa miệng của cánh lính lúc bấy giờ, nhà thơ lại là người trong
cuộc nên chẳng cần phải vò đầu, bứt râu tìm kiếm. Một con người thông

minh, giàu vốn sống chiến trường, mẫn cảm và sắc nhọn ngôn từ như Phạm
Tiến Duật thì khi lựa chọn câu chữ ắt phải nghĩ đến từ này( rách tướp ). Vậy
mà Phạm lang vẫn dùng chữ xước. Chắc là phải có cơn cớ chi đây?

Thực ra, bài thơ có tính hiện thực cao, nhưng không phải câu chữ nào cũng
mang tính hướng ngoại. Với chữ xước cũng vậy, Phạm Tiến Duật không
nhằm mô tả tình trạng khách quan của cái thùng xe mà cái đích của chữ này
là bày tỏ một thái độ. Đó chính là thái độ bất chấp, ngang tàng của anh bộ
đội cụ Hồ thời chống Mỹ. Về chức năng nghệ thuật, với chữ này tác giả đã
bổ sung thêm một nét phục bút do chính anh đã kỳ công đặt vào dòng cuối ở
khổ thơ thứ nhất:..."Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng". Người lái xe nhìn
thẳng, "con đường chạy thẳng vào tim". Chính cái nhìn ấy đã tạo nên không
khí lạc quan, hội hè trong bài thơ này cũng như trong các bài thơ thời chống
Mỹ khác của Phạm Tiến Duật. Cái "nhìn thẳng" đó đồng thời cũng là cái
nhìn bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy. Bởi thế, chiếc xe trần trụi đến mức
trông rất tiếu lâm đó "Lại đi, lại đi trời xanh thêm". Thiển nghĩ, nếu tác giả
dừng lại ở dòng thơ này thì cũng có thể dứt lời, đạt ý để tạo thành một bài
thơ hay. Nhưng cuộc chiến vĩ đại chống Mỹ đã nâng dân tộc ta lên vị trí cao
nhất trên tầm thời đại, cho nên bên cạnh cái phong cách ung dung, thích
thảng như đi trảy hội của người ra trận, trong thơ kháng chiến đương thời,
còn đậm một nét phong cách nữa là thích triết lý, hay khái quát hoá.

Và "Bài thơ về..." có lẽ là sự thể hiện xuất sắc của quy luật trên. Lẽ thường,
khái quát hoá dễ dẫn đến khô khan, nặng nề. Trong khi đó, qua sáu khổ thơ,
ngòi bút của tác giả đã tung tẩy đưa tiểu đội xe không kính đi qua Trường
Sơn gian khổ, ác liệt một cách hồn nhiên, nhẹ nhàng. Nếu khổ kết lại chính
luận, lại hô hào thì bài thơ hỏng mất! Và Phạm quân đã chọn được cách nói
quá hay, rất hợp lý, hợp khí, khiến cho huyết mạch bài thơ lưu thông mạnh
mẽ, nội lực thẩm mỹ-tư tưởng bài thơ càng phát sinh dồi dào. Đó là lối nói
bồi thấn: nhắc lại, có thể bằng hình thức diễn đạt khác, để nhấn mạnh những

ý cơ bản đã được triển khai trong phần trước của văn bản. Tuy nhiên, nếu
không có nét phục bút bổ sung nói trên, thì sẽ không thực hiện được lối kết
bồi thấn này.

Bởi sau chổ phục bút ở khổ thơ đầu thì năm khổ tiếp theo tác giả đã tung
hoành khởi bút triển khai tứ thơ một cách toàn diện, đầy đủ. Bây giờ nếu chỉ
là sự tóm tắt ý tứ (dẫu rất hình ảnh) một cách đơn thuần thì thực là vô
duyên. Tác giả tiến hành giải quyết mâu thuẫn này trước hết bằng thao tác
đối lập hoá, tương phản hoá giữa cái không và cái có. Để nhấn mạnh cái ác
liệt của cuộc chiến, tác giả trương ra hình ảnh chiếc xe với ba cái không. Dù
tàn tạ đến đâu nhưng những chiếc xe ấy còn thực hiện được chức năng tải
hàng của chúng thì dứt khoát chúng phải có thùng. Thực tế, những chiếc xe
tải thời chiến này không mấy chiếc thùng không bị rách nát. Tác giả buộc
phải nói giảm là có xước cho phù hợp với lối nói tưng tửng, tếu táo trong
toàn bài. Ngoài ra, cách nói khinh từ từ đó còn nhằm gây hiệu ứng thẩm mỹ
trong sự tương tác với chính những cái không nói trên. ấy chính là hiệu ứng
lạ hoá do sự phi lý, xét theo cách hiểu thông thường, tạo nên. Cái làm nên
hình ảnh trọn vẹn về chiếc xe ô tô quan trọng nhất là kính, đèn, mui nhưng
nay nó chỉ còn mỗi cái ca-bin trống huếch, trống hoác trông như chiếc xe thổ
mộ thì rõ ràng cái thùng có xước hay rách tướp, dập nát nào có đáng để ý gì.
Chính từ cái ẩn ý này, nhà thơ đã khởi bút để nêu bật mục đích và động lực
của chiếc xe:


..."Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim."

Như vậy, cái nhìn thẳng ở khổ thơ đầu đến đây đã lộ hình tích: con đường
chạy thẳng vào tim là bởi chiếc xe độc đáo này do trái tim cầm lái. Kết cấu
chung của bài thơ là đầu cuối tương ứng, suốt dọc từng câu thơ, khổ thơ luôn

có sự hô ứng, phục khởi, luyến láy, hồi hoàn. Riêng nét phục bút bổ sung và
lối kết bồi thấn ở khổ thơ cuối vừa phát huy hiệu năng của kiểu kết cấu trên
lại vừa có giá trị độc lập của nó. Với sự khái quát đó, với cái chữ xước dung
dị và pha chút uy-mua đó, bài thơ thực sự đã được nâng lên một tầm cao
mới./.


Can Lộc 30-4-2003

Chú thích:

1-Trần Đình Sử (chủ biên)-Phân tích-bình giảng tác phẩm văn học 9 -
Nxb
GD-HN-1999
2-Trần Đình Sử-Đọc văn học văn-Nxb GD-HN-2001
3-Văn học 9-Nxb GD-HN-1999

×