Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

ngày xuân đọc lại bài thơ " Ông đồ"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.47 KB, 3 trang )

Ngày xuân đọc lại bài thơ “Ông đồ”
Ngày xuân đọc lại “Ông đồ” của Vũ Đình Liên

Mỗi năm, cứ đến ngày tết, dạo quanh phố xá Hà Nội, nhìn những ông đồ già viết câu đối, lại chạnh
lòng nhớ đến “Ông đồ” của Vũ Đình Liên – ông đồ của những năm 30 của thế kỉ trước:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài.
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ.
(Ông đồ - Vũ Đình Liên)
“Ông Đồ” mang ý vị hoài cổ, gợi lên những chuyện dâu bể, thăng trầm trong nhịp chảy trôi của thời
gian, của cuộc đời. Bài thơ như một câu chuyện nhỏ về cuộc đời với những bước thăng trầm của
một Ông Đồ nho, cũng là của cả một nền Hán học trên đường suy vi. Câu chuyện ấy được bắt
đầu từ những ngày Ông Đồ còn bán được chữ, còn đang gặp thời đến lúc ế khách và cuối cùng là
sự vắng bóng của ông. Nó được tái hiện bằng một lời kể mang tính biên niên, tái hiện và liên kết


sự kiện tạo nên tính cốt truyện. Chính điều đó tạo nên âm hưởng tự sự và tính triết lí thâm trầm,
sâu xa cho bài thơ. Một số nhà phê bình đã đọc hai khổ thơ đầu trong tương quan đối lập với ba
khổ thơ sau, để đưa ra nhận xét: “Hai đoạn đầu tươi vui, nhảy nhót, với cái nền văn hoá đào nở
của ngày Tết, của mùa xuân, với giấy đỏ, mực tàu đen, với người qua lại tấp nập, với những lời
bình luận ca ngợi nét chữ đẹp của Ông Đồ. ba đoạn thơ cuối miêu tả những biến động của thời
gian (...). Ngôn từ thoạt đầu đầy âm thanh ồn ào, màu sắc tươi, dần dần xa vắng, mênh mông.”
Theo tôi, nhận đinh đó chưa thật chính xác. Đúng là hai khổ đầu có những hình ảnh và màu sắc
tươi vui nhưng nó là cái vui ngậm ngùi, cái vui trong tiếc nuối, trong sự hoài niệm và nỗi buồn trong
những đoạn thơ sau thực chất chỉ là sự phát triển, lộ rõ cái tứ thơ đã phảng phất ở đây mà thôi:
“Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố động người qua”....
Thời gian làm cho thiên nhiên tái sinh khi xuân về, nhưng con người thì lại già nua thêm. Sự nghiệt
ngã của thời gian đối với con người và những giá trị văn hoá thể hiện trong hình ảnh đối lập giữa
“hoa đào nở” và “ông đồ già”. Tuy nhiên, ta vẫn nhận ra ở đây một sự hoà hợp – sự hoà hợp giữa
tạo vật và con người: khi đào nở hoa cũng là lúc ông đồ trổ tài hoa. Người và hoa đồng điệu, soi
chiếu nhau. Nhưng cũng ngay ở khổ thơ đầu này, nhà thơ đã mang đến dự cảm về một sự biến
suy, sự xâm nhập của cái hiện đại, được thể hiện qua hai hình ảnh: “phố” và “người thuê viết”. Dự
cảm ấy đã mang lại âm điệu buồn tiếc trong lời kể của tác giả. Đó là tâm trạng xuất phát từ sự yêu
mến, cảm phục tài năng của ông đồ:Bao nhiêu người thuê viêtTấm tắc ngợi khen tài:“Hoa tay thảo
những nétNhư phượng múa rồng bay”Ba chữ: đông, bao nhiêu, tấm tắc cộng hưởng với nhau vây
quanh ông đồ, tạo nên một không khí tấp nập, đồng thời cũng là sự khẳng định tài năng của ông
đồ. Nhưng cái hay nhất ở đây lại nằm ở hai câu thơ sau. Đó là lời tác giả trích nguyên văn từ đám
đông, một lời khen giản dị, hàm súc. Chỉ với hai câu thơ đã khắc hoạ chính xác nhất năng lực tài
hoa của ông đồ. Với thành ngữ: “phượng múa rồng bay”, ta có cảm giác như những con chữ trong
tay ông đồ đang cựa mình, cũng có hồn, có sức sống. Sức sống ấy chính là từ sự tài hoa của cây
bút truyền sang. Nhưng tài năng ấy không thể chống chọi lại với những biến thiên của thời cuộc,
trước sự xâm lấn của Tây học:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay...
”Từ “mỗi” lặp lại như gõ nhịp cho bước đi của thời gian (mỗi năm), của sự suy thoái (mỗi vắng).
Nếu ở hai khổ thơ đầu, thời gian còn thấp thoáng sau gương mặt biểu tượng cho mùa xuân (hoa
đào nở) thì ở đây đã có sự chuyển hoá sang những hình ảnh ngược lại – và vẫn có ý nghĩa biểu
tượng: “lá vàng” và “mưa bụi”. Sự thay đổi ngược hướng ấy không chỉ là sự thể bước chuyển
nghiệt ngã của thời gian, mà còn gợi lên một sự trớ trêu: Lá vàng rơi giữa mùa xuân. Sự oái oăm
ấy không chỉ ở tạo vật mà còn ở con người. Lá vàng đang thản nhiên xâm nhập vào thế giới con
người, muốn làm hư vô hoá thế giới của ông đồ.Cả khổ thơ là một sự vô định kéo dài. Nó được
thể hiện qua những từ ngữ không xác định: nay đâu, ai hay; qua một câu hỏi vô định “Người thuê
viết nay đâu?” và qua một câu phủ định: “Qua đường không ai hay?”. Sự vô định đó chính là cuộc
đời vô định, là số phận của ông đồ đang từng bước đi vào dĩ văng. Trong khi thiên nhiên, con
người đều ở trạng thái động: “qua đường”, “lá vàng rơi”, “mưa bụi bay”..thì mọi hình ảnh ông đồ
đều gắn với sự ngưng đọng: “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng”, nghiên sầu”, “ông đồ vẫn
ngồi đấy”. Năm tháng điểm nhịp bước, tạo vật đổi thay, biến thiên; những cái cũ kĩ sẽ ngưng đọng
lại và dần biến mất. Đó là quy luật muôn đời của kiếp nhân sinh. Và ông đồ không nằm ngoài vòng
xoay vần của con tạo:
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Ta cứ tưởng rằng nhà thơ đã đọng lại một thời điểm: “năm nay”, nhưng đó thực ra cũng chỉ là một
hiện tại giả thiết. Ý niệm về sự tuần hoàn của thời gian vẫn được gợi lên qua hình ảnh biểu tượng
hoa đào và đặc biệt là qua việc lặp lại gần như toàn bộ câu thơ đầu bài thơ: “Năm nay đào lại nở”.
Chữ “lại” ở đây, không chỉ nói lên sự lặp lại của thiên nhiên mà đặt trong hệ thống với chữ “lại” ở

khổ thơ đầu như diến tả một sự trớ trêu, ngang trái. Năm xưa mỗi khi đào nở là “lại thấy ông đồ
già”; còn “năm nay đào lại nở nhưng “không thấy ông đồ xưa”. Cảnh đó, người đâu. Cảnh là cái
bất biến, gợi con người hoài cổ, suy ngẫm về những cái đã qua. Hoa đào giờ đây không còn là sự
cộng hưởng như trong khổ thơ đầu mà đã trở thành tín hiệu của dâu bể: “Những người muôn năm
cũ Hồn ở đâu bây giờ?”.
Chỉ với một câu thơ: “Những người muôn năm cũ” Vũ Đình Liên đã tỏ rõ là một ngòi bút lớn. Cách
dùng “muôn năm cũ” là một sự sáng tạo của nhà thơ, gợi được bước đi từ hiện tại (muôn năm)
ngược về quá khứ (cũ), như chứa đựng cả một niềm tin bất diệt về những giá trị văn hoá trường
tồn. Từ “cũ” hay không chỉ ở sự tương quan với “bây giờ” mà hay ở sự xao động của tâm linh.
Càng xưa cũ càng làm đau lòng người, càng tiếc nuối sâu sắc. Vì vậy câu hỏi ở đây vừa là sự
chất vấn thời đại, vừa là chất vấn hiện thực và còn là chất vấn lương tâm. Câu hỏi ấy tạo nên một
âm vang sâu lắng trong lòng người đọc bao thế hệ, tạo một nỗi ám ảnh, day dứt khôn nguôi.Ông
đồ chính “là cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời tàn” và bài thơ là một sự tri ân, một sự
sám hối của Vũ Đình Liên, của cả một thế hệ thanh niên những năm 40 của thế kỉ trước đối với
những lớp người thuộc một nền Nho học lúc mạt vận, đang đi vào cõi chết. Sức lắng đọng sâu xa
của bài thơ chính là ở một tấm lòng thành kính, ở thái độ trân trọng và xót xa trước những nét đẹp
văn hoá một thời bị sự suy vi của thời cuộc làm cho tàn lụi.Ngày nay đọc lại “Ông đồ” của Vũ Đình
Liên, ta vẫn nhận ra tính thời sự của nó. Bài thơ dạy ta thái độ sống với những giá trị cũ; là một sự
nhắc nhở con người hãy biết lắng lòng mình lại, biết trân trọng những giá trị văn hoá của một thời
dẫu cho nó không còn phù hợp với thời đại./.
Lời bình: Sao Thụy

×