Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG: DÂN tộc CHĂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 64 trang )

DÂN TỘC CHĂM
I_DÂN SỐ
Dân số chăm hiên nay là 132873 người
II_Địa bàn cư trú
Cư dân chăm cư trú trên địa bàn từ phía bắc tinh Qủang Trị đến Nam Bình
Thuận và một phần Tây Nguyên .ngày nay số dân của dân tộc chăm chủ yếu
ở Phan Rang,Phan Thiết ,Bình Thuận .Ngoài ra một bộ phận khác cư trú tại
tỉnh An Giang, Đòng Nai ,Tây Ninh,TP Hồ Chí Minh
BẢNG THỐNG KÊ SỐ NGƯỜI CHĂM Ở CẤC TỈNH CỦA VIỆT NAM
STT

ĐỊA PHƯƠNG

SỐ NGƯỜI

1

Ninh Thuận

57137

2

Bình Thuận

29536

3

Phú Yên


16294

4

An Giang

12435

5

TP Hồ Chí Minh

5192

6

Bình Định

4393

7

Tây Ninh

2663

8

Đồng Nai


2307

9

Bình Phước

366

10

Kiên Giang

362

11

Bình Dưong

362

12

Đắc Lắc

233

13

Lâm Đồng


231

14

Cần Thơ

225


15

Khánh Hoà

200

16

TRÀ Vinh

163

17

Bà Rịa Vũng Tàu

133

18

Đồng Tháp


122

19

Sóc Trăng

95

20

Gia Lai

87

21

Vĩnh Long

86

22

Bạc Liêu

85

23

Cà Mau


62

24

Long An

58

25

Bến Tre

38

26

Tiền Giang

35

27

Thái Nguyên

12

28

Quảng Trị


07

29

Quảng Nam

05

30

Đà Nẵng

32

31

Huế

31

32

Nghệ An

26

33

Quảng Ngãi


22

--35Người Chăm ở Quảng Ngãi –Bình Định-Phú Yển số lượng hơn 20000
người gọi là ngư36ời Chăm Hroi hoặc Bana Chăm vãn giữ nhiều nét văn hoá
bản địa và chịu ảnh hưởng37 của văn hoá dân tộc thiểu số Tây Nguyên


--Người 38Chăm ở Ninh Thuận-Phan Rang-Bình Thuận với số lượng hơn
40000 mgười gọi là Chă39m Bàni theo Âns giáo chụi ảnh hưởng của
Bàlamôn giáo gọi là Chăm Bàlamôn
--Người Chăm ở Nam Bộ như An Giang-Châu Đốc-tp Hồ Chí Minh với số
lượng hơn 50000 người là Chăm theo Hồi giáo gọi là Chăm Islam
Khu vực sinh sống xa xưa của người Chăm trên địa bàn cư trú hiên nay là
Thuận Hải nơi có tỷ lệ dân số cao nhất so với các khu vực khác có người
Chăm . Đồng bào ở đó hiên nay con duy trì nhiều mặt sinh hoạt kinh tế cổ
truyền ,bảo lưu phần lớn các phong tục tín ngưỡng và hai tôn giáp xa xưa
phản ánh đặc trưng tôc người rõ nét
Thuận Hải là một vùng địa lý có biển , đồng bằng và rừng núi .Có nơi núi
lan ra biển tao nên các đpồng bằng hẹp .Sự gián đoạn của những đồng bằng
cũng là giới hạn của các vùng cư trú.Trên đồng băng Phan Rang,dân tộc
Chăm tập trung trong hai huyện An Sơn và Ninh Hải .Trong quá trình tụ cư
trên đất Thuân Hải ,nhất là tại đồng bằng Phan Rang,dân tộc Chăm dã có
những thành tựư đáng kể trong viêc chinh phục thiên nhiên ở vung khô hạn
này để làm nông nghiệp .từ thế kỷ XII, đập Nha Trinh đã được xây dựng .
Đến thế kỷ XVII,một công trình khác đập Marên cũng hoàn thành
Bên cạnh một số công trìng thuỷ lợi là những công trình văn hoá thể hiện
nghệ thuật kiên trúc độc đáo.Trên đồng bằng Phan Rí ,tại bốn xã Lạc Trị
,Pyhan Hoà ,Phan Hiệp ,Phan Thanh thuộc huyện Bắc Bình ,các làng Chăm
phân bố song song với bờ biển và năm về phái Tây quốc lộ 1,ngoại trừ thôn

Vinh Hạnh (xã Lạc Trị 0ở về phía đông.Tại đây có đến 25%dân số Chăm
trong toàn tỉnh Thuận Hải
Ở An Giang đồng bào Chăm cư trú hai bên bờ sông Hậuổtên nững cù lao
song gần với trục lộ giao thong nên thuận lợi cho trao đổi và buôn bán
Tại thành phố Hồ Chí Minh đông bào Chăm tập trung pần lớn tại các khu
vực Nancy (quân 1),Nam Kỳ khởi nghĩa (quận Phú Nhuận), đường Trương
Minh Giảng(quận 3)…Hầu hết đồng bào ở đây là từ Châu Đốc về nhập cư
do phải lánh nạn năm 1946 khi thưc dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam …
Năm 1966 trân lụt ở miền Nam làm thiệt hại tài sản cuỷa nhiều gia đình
người Chăm buộc họ phải chạy vào Sài Gòn tìm đường sinh sống .Hiện nay
người Chăm ở thành phố Hồ Chí Minh đeeuf theo Hồi Giáo và đã xây


dựng một số thánh đường trong đó lớn nhất là thánh đường ở Nam Kỳ Khởi
Nghĩa và thánh đuường Nancy
Tại Tây Ninh ,hiện nay có hai khu cư trú của đồng baod Chăm với dân số
3601 người .Ngoài ra còn có 1331 người ở tỉnh Đông Nai
Nhìn chung địa bàn cư trú của đồng bào Chăm hiện nay phân bố ở kha xa
nhau.Sinh hoạt kinh tế mỗi nơi có một nét đắc trưng riêng tuỳ thuộc vào điều
kiện địa lý của từng vùng.Ngoại trừ vùng Thuận Hăi òn theo những tín
ngưỡng ,tôn gaío cổ truyền đông bào Chăm các nơiư khác đều theo Hồi giáo
Islam
III_KINH TẾ
Những hoạt động kinh tế người Chăm khá phong phú đa dạng và phát triển
Có thể thấyrõ hai hoạt động sản xuất chính của người Chăm là nông nghệp
và thủ công nghiệp.Ngoài ra còn có hoạt động trao đổi , đánhcá.có nơ thủ
công nghiệp gắnvới nông nghiệp vàl à nghề phụ của gia đình như ở
ThuậnHải.Nơi khác hoạt động thủcông nghiệp phát triển trơ thành ngành sản
xuất chính như nghề dệt ở Châu Đốc-An Giang
Hoạt động trao đổi buôn bán của họ ngắn với đời sống cư dân các đô thị

như phần lớn đồng bào chăm tại Châu Đốc và thành phố Hồ Chí Minh đều
dẽ nhận thấy là các điểm tụ cư của đồng bào tại Châu Đốc có điều kiện
thường xuyên tiếp xúc với thương trường thị xã Châu Đóc và trục lộ từ thị
xã này đến biên giới Việt Nam và Campuchia, hai bên bờ csông Hậu. Hoạt
động thủ công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nhịp điệu buôn bán
Người Chăm là một cư dân có truyền thống nông nghiệp. Những di tích
lịch sử chứng tỏ họ đã làm thuỷ lợi từ rất sớm ,hiện nay hoạt động nông
nghiệp của đồng bào chủ yếu là trên các đồng bằng Phan Rang Phan Rí Phan
Thiết( tỉnh thuận hải). Trước ngày giải phóng đồng bào ở Châu Đốc chỉ sống
bằng ngư nghiệp, dệt thủ công và buôn bán. Sau ngày giải phóng một số gia
đình đi xây dựng vùng kinh tế Vinh Hanh(An Giang) mới chuyển sang làm
nông nghiệp.
Thuận Hải với vị trí bị che khuất bởi các rặng núi lên nhận đ\ược một
lượng mưa rất thấp. Yêu cầu của canh tác nông nghiệp ở đây là phải có một
hệ thống tưới nước. Đồng bào Chăm không chỉ kế tục được những kinh
nghiệm của dân tộc trong sản xuất mà còn thừa hưởng được những công
trình thuỷ lợi cổ truyền đó là hệ thống đập Nha Trinh và Marên. Cùng với


dòng sông Dinh, hai hệ thống thuỷ lợi này đã cung cấp nước cho đồng bằng
Phan Rang. Đập Nha Trinh gồm một đập ngăn nước trên nguồn sông Cái
(huyện an Sơn), bốn đập nhỏ và hai con mưong ( mương Cái và mương
Đực ) dẫn nước vào các cánh đồng. Mương cái dài khoảng 60 km và mương
Đực dài khoảng 50 km. Hệ thống đó có thể cung cấp cho một vạn ha diện
tích gieo trồng. Đập Marên do Pô Rômê cho xây dựng trên sông Biêu. Ngoài
đập chính còn có 7 đập nhỏ và một hệ thống gồm các mương con. Mỗi cánh
đồng đều có một hay hai đập lấy nước từ các mương của đập Marên hoặc
Nha Trinh.
Mỗi thôn có một người chuyên trách về thuỷ lợi gọi là cai đập (On Pinữ)
với nhiệm vụ trông coi tu sửa đập và mương nước, đề xuất những ý kiến về

vần đề thuỷ lợi hàng năn. Các mương con đi qua phần ruộng của ai thì người
đó có trách nhiệm bảo quản tu sưa, đảm bảo sự lưu thông và công bằng
trong việc phân phối nước canh tac.
Tuỳ theo thế đất và chất đất đông bào Chăm chia ruộng ra làm nhiều loại:
- Thuỷ điền là ruộng ở đồng sâu được coi là loại tốt nhất.
- Ruộng trầm thuỷ: ruộng ngập nước quanh năm.
- Sơn điền: ruộng khô ven núi.
Ngoài ra đồng bào Chăm còn khai thác các vùng đất cao ở chân núi, sườn
đồi ,mỗi năm một vụ vào mùa mưa. Trên loại đất này, bên cạnh lúa họ còn
trồng bắp, đậu mè, và các loại bầu bí. Đay là nguồn thu hoạch khá lớn sau
ruông.
Phương pháp canh tác hiện nay của đồng bào Chăm không khác gì so với
phương pháp canh tác của đồng bào việt ở miền trung. Họ cũng dùng trâu
hoặc bò để cày kéo, bừa và trục. Trên loại thuỷ điền người ta có thể gieo khô
sau khi đã cày và trục cho tơi đất hạt giống gặp mưa sẽ nảy mầm và được
chăm sóc làm cỏ bón phân, giữ nước cho đến khi thu hoạch. Chỗ lúa mọc
dày được nhổ bớt để trồng vào chỗ thưa. Loại thuỷ điền được giữ làm ruộng
mạ.
Đồng bào Chăm ở thuận Hải vẫn còn giữ một số lễ nghi nông nghiệp cổ
truyền. Người chủ lễ là ông cai lệ (Riya hamu) không thuộc tầng lớp tu sĩ bà
la môn hay bà ni.
Mặc dù Thuận Hải là nơi có bờ biển dài trên 300km lại có nhiều vùng cá
tập trung có khả năng tạo nên một thế mạnh về biển song đồng bào Chăm
sống trên các đồng bằng hẹp không xa biển lắm nhưng hiện chỉ có hoạt động
kinh tế chính là nông nghiệp, không có hoạt động đánh bắt cá trên biển.
Những tài liệu lịch sử để lại chứng tỏ xưa kia họ từng là người thiện nghệ
trên biển cả. Những truyền thống đó ngày nay không còn được kế tục. Việc
đánh bắt cá trên sông trên đồng ruộng chỉ là nghề phụ của gia đình.



Ngược lại nghề đánh bắt cá nước ngọt trên dòng Hậu Giang lại là một
sinh hoạt kinh tế quan trọng của đồng bào Chăm ở Châu Đóc tụ cư trên hai
bờ sông Hậu, hai bên kênh đào và trên các cánh đồng lúa bị ngập nước vào
tháng 7 tháng 8 âm lịch đều là những nơi nhiều cá có thể tổ chức đánh bắt
quanh năm, phát triển ngư nghiệp. Cũng như người Khơ Me và người
Việt.Mỗi năm ngư dân Chăm thường chia làm ba vụ. Việc sử dụng ngư cụ
tuỳ thuộc vào con nước và đói tượng chính của thời vụ. Cá trong mỗi mùa có
lúc thưa lúc rộ.
a. Vụ mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 5 âm lịch. Lúch này mựcnước sông
đã xuóng. Người ta dùng chài Rà, lưới bao để đánh bắt các loại cá
chảy, cá cóc, cá he, cá lăng, cá bông lau và tom.
b. vụ nước đồ từ tháng 6 đến tháng 8 là lúc mưa đều , mực nước sông
dâng cao dần và thánh 7,8 thì ngập đồng. Cá vào sâu trong các cánh
đồng lúa để tìm chỗ đẻ. mùa này ngư dân Chăm cũng dùng chài để
đánh bắt nhiều loại cá.
c. vụ màu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Đây là lúc nước đồng bắt đầu
rút. Các loại cá Trắng và cá có ngạnh theo con nước xuống sôn. Một số
loai cá đen như cá lóc cá trê cá rô thương ở lại chỗ trũng và các địa. vụ
này có thể theo các dòng nước đánh bắt ở nhiều nơi.
Bên cạnh các ngư cụ đơn gian như: nơm, câu, chĩa (mũi nhọn hoặc có
ngạnh). Còn có các loại chài, lưới giăng, lưới bao được dùng rất phổ biến.
các công cụ này đều có loại to, loại nhỏ, phù hợp với ngư trường và số
người tham gia đánh bắt. Với chiếc chài nhỏ dùng cho một người mang
trên vai rất cơ động để đi đến bắt cứ nơi nào cá. Loại chài Rà, khi di
chuyển và sử dụng phải dùng thuyền. Lưới bao được cấu tạo kết hợp giữa
lưới giăng và chài ít nhất phải có hai người tuy nhiên cũng có loại nhỏ
dùng cho một người. Lưới bao dung để vây kín một khoảng sông một
người nắm hai đầu lưới khép nhỏ dần chu vi, một người khuấy động cho
cá sợ chui vào các túi lưới. Loại lưới giăng thì ít tốn công hơn. Nhờ loại
chỉ lưới mịn dễ vướng lên cá bơi ngang đề bị mắc. Người giăng thỉnh

thoảng thăm lưới và gỡ cá.
Nhờ có nghề cá trên ngư trường sông Hậu mà đời sống của người
Chăm ở đây có phần sung túc. Bên cạnh những ngưòi sống bằng ngư
nghiệp một bộ phận chỉ tham gia đánh bắt trong những mùa cá rộ. Cá
đánh được phần lớn để bán phần còn lại để ăn hoặc dùng các loại mắm
dùng lâu dai. Quy mô đánh bắt cá của đồng bào Chăm ở Châu Đốc không
lớn lắm thường chỉ một con thuyền và một số công cụ như chài, lưới
giăng, lưới bao hoạt động trong pham vi trên dòng sông Hậu hay các cánh
đồng.


Một trong những nghề phụ của đồng bào Chăm là làm nghề ngốm, khá
phổ biến ở Thuận Hải. sản phẩm gồm những đồ đựng, đò dùng nhà bếp và
dùng để xây tường. Hoạt động này chỉ thấy phụ nữ làm trên những bản cố
định.
Các loại đất sét lấy ở quanh nơi cư trú rồi ngâm, lọc bớt cát sỏi. Tuỳ
theo loại sản phẩm mà đất được lọc kĩ đến mức nào. Các loại hũ, ghè, vò ,
hoả lò là những loại cần có bề dày không cần lọc kĩ.
Hai khu vực sản xuất gốm của đông bào Chăm tại Thuận Hải là Cầu
Trúc thuộc Phan Rang và Trị Đức thuộc Phan Rí . Hầu như không có thôn
người Chăm Bani nào làm nghề thủ công nà. Với tính chất là nghề phụ
gia đình nên gốm chỉ được sản xuất trong những lúc nông nhàn. Lao dộng
chính của các lò gốm là phụ nữ, đàn ông chỉ phụ giúp trong việc lấy đất
hoặc trong lúc nung. Việc toạ hình và trang trí hoa văn đều do phụ nữ. Vì
sử dụng bàn cố địnhnên người nặn gốm phải đi xoay quanh. Hiện nay
gốm của đồng bào Chăm ít được trang trí. Đồng bào còn dùng nước ngâm
cây Ô Đước hoặc chưn bầu vẩy lên gốm sau khi đã nung, tạo thành những
vệt dài hay đốm đem, xám trên nền gạch. Cách làm này cốt để tăng cường
độ bền của gốm song cũng tạo nên một lối trang trí phóng khoáng. Gốm
nặn song được phơi nắng để có một đọ cứng tương đối, không bị nứt khi

gặp nhiệt đọ cao đột ngột trươc khi nung. Hiện nay tại Thuận Hải không
thấy những lò nung cố định ( lò này mới giữ được nhiệt đọ cao). Người
Chăm nung gốm trên các bãi trống quanh làng. Gốm sau khi phơi được
trồng lên nhau cái lớn ở dưới cái nhỏ ở trên. Nguyên liệu để nung là rơm
rạ, trấu, và phân trâu bò đã phơi khô. Người ta phủ phân trâu bò nên gốm
rồi đến lớp rơm rạ. Thới gian nung chỉ trong vài giờ là song thành sản
phẩm có màu đỏ. Nhiệt độ cũng như thới gian chưa đủ làm chín hoàn toàn
được gốm.
Gốm của đồng bào chăm hiện nay về hình dạng tương đói phong phú.
Về kĩ thuật phụ thuộc vào bàn tay của người thợ trong cách tạo hìng
nghưng hãy cồn thô sơ. Độ nung thấp không bền sản phẩm tuy để bán
nhưng chưa có cải tiến nhằm tăng năng suất và giảm bớt nặng nhọc cho
người lao động.
Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Chăm là dệt nhưng cũng chỉ
phát triển ở Châu Đốc tại Thuận Hải từ sau năm 1945 hoạt động này bị
suy giảm dần và đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thì hầu như bị
bóp chết. Nguyên nhân chủ yếu là sự xâm nhập ồ ạt của vải vóc từ bên
ngoài , thứ đến là nguyên liệu ngày càng khan hiếm và khung dệt cổ
truyền không được cải tiến.
Thôn duy nhất ở Phan Rang còn nhiều gia đình làm nghề dệt là Mỹ
Nghiệp. Họ sản xuất các loại thổ cẩm để đính trên khăn hoặc quần áo của


các tu sĩ. Lao động chính của các khung dệt là phụ nữ trong lúc nông
nhàn.
Tại Châu Đốc, nghề dệt của đồng bao Chăm rất phát triển. Sản phẩm
đã trở thành hàng hoá để trao đổi, buôn bán rộng rãi. Trước 1975, có gia
đình đã trang bị nhiều khung cửi và bắt đầu thuê mướn công nhân. Tiếp
xúc với nghề dệt của người Khơ Me và người Hoa, đồng bào Chăm đã
tiếp thu được những kinh nghiệm cải tiến khung cửi cổ truyền. Hiện nay

đông bào Chăm sử dụng loại khung giật. Điểm thuận lợi cho đồng bào là
cư trú gần các trục lộ giao thông (đường sông, đường bộ ) nên dễ dàng
tiếp xúc với thương trường, làm gia tăng hoạt động, trao đổi, buôn bán.
Hoạt động này đã góp phần phát triển nghề dệt. Về lao động là một thuận
lợi khác. theo hồi giáo phụ nữ bị hạn chế ra khỏi nhà và được khuyến
khích làm các công việc gia đình nên họ rất thành thạo và khéoléo trong
nghề dệt.
Trước khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, vải dệt của họ được
bán khắp nơi (do hoạt động buôn bán, trao đổi của đồng bào Chăm ).
Nguyên liẹu mua từ các thị trường ở Việt Nam va Campuchia, nhiều nơi
khác. Riêng thuốc nhuộm mua của người Khơ Me ở Tri Tôn (An Giang).
Từ khi nguyên liệu gặp khó khăn đã ảnh hưởng đến nghề dệt của đồng
bào. Trướ c kia nhiều gia đình người Chăm nguồn sống chính là dựa vào
nghề dệt. Ngày nay, dệt chỉ còn là một nghề phụ bên cạnh các ngành sản
xuất khác. Việc nâng cao đời sống đồng bào Chăm tại Châu Đốc bằng
cách khoi phục và phát huy nghề dệt cổ truyền là một thuận lợi.
Nguyễn Thị Kim Thoa
Lớp VHDL 16A

IV.VĂN HOÁ VẬT THỂ
1. LÀNG BẢN
LÀNG XÓM
“Làng” người Chăm gọi là pley ( không gọi là buôn hay bon như người
Êđê hay Gia rai..). Nếu đi từ Bắc vào Nam dọc theo quốc lộ I thì pley Bláp
Birau ( làng phức nhơn) là địa đâu về phía Bắc và kết thúc ở pley Châpl
( làng vụ Bổn) về phía Nam.
Vào thăm các làng Chăm bạn sẽ thấy những ngôi nhà được xây dựng theo
kiểu nhà sàn, mái lợp ngói đỏ, trước nhà có một cầu thang rắn chắc bằng gỗ
và bên trong hầu như không có bàn ghế. Mỗi khi có khách đến nhà, gia chủ
thường trải một chiếc chiếu hoặc tấm thảm để chủ và khách cùng ngồi xếp

bằng trên sàn gỗ. Đặc biệt, bạn có thể nhìn thấy


Pley được thiết lập tren những triền đất cao thoai thoải. Nơi dựng l; àng
được coi là tốt nhất, phải là:” Núi phía Nam, sông phía Bắc, thấp phíaĐông,
cao phía Tây, nước chảy về Đông Bắc”. Pley là đơn vị cư trú nhưng cũng là
đơn vị xã họi cơ sở cổ truyền của người Chăm. Pley tương ứng với làng
t5rước đây và nay là thôn của người Việt.
Trước kia các pley đều được bao bọc bằng hang rào với những than gỗ
khá to và cao quá đầu người hoặc các cây rồng. Trước cổng pley thương
được trồng một vài cây điệp hoặc cây bang. Đó là những cây tán không rậm
rạp, than cành khẳng khiu. Còn trong các khuôn viên hầu như không có cây
to vì đồng bào cho rằng những cây đó sẽ là nơi trú ngụ của ma quỷ.
Đền chùa, trụ sở, cơ quan hành chính, trường học thường nằm ở giữa hoặc
đầu làng, còn nhà thờ thần ( thang pôyang) thì ở cuối làng. Nghĩa địa nằm ở
phía Bắc của làng. Mỗi làng trung bìng có khoảng từ 80-100 nóc nhà. Phần
đông các pley chỉ có thuần người Chăm. Nếu có sống xen kẽ với người Việt
và người Ra glai thì cũng tác thành các xóm riêng.
Một pley có nhiều dòng họ, mỗi dòng họ ở thành từng khu vực, đó là
những gia đình có quan hệ than thuộc về phía mẹ. NHững người cùng dòng
họ mẹ, khi chết được chon trong cùng một nghĩa địa.

Khu nhà người Chăm
KHUÔN VIÊN
Trong làng Chăm có những khung rào bao bọc xung quanh các ngôi nhà ở
bên trong. Phần khpông gian bên trong các khung rào ấy đồng bào gọi là
pala lika, đó chính là phần khuôn viên.
Khuôn viên của người Chăm là không gian sinh hoạt của các gia đình có
quan hệ chị em trong cùng dòng mẹ và con cái của họ. Có thể coi đây là một
tàn dư của gia đình mẫu hệ. Vì trong đó bao gồm những gia đình nhỏ đã tách



ra khi gia ỡnh ln m ch cũn li biu hin duy nht l nhng gia ỡnh
ny sng gn nhau trong mt khung t c.
Cỏc khuụn viờn trong pley c xp xp npi nhau theo hng Nam Bc.
Hai khuụn viờn cnh nhau cú chung mt hang ro. C cỏch khong hai dn 5
khuụn viờn li cú mt ngừ nh lam ng i.
Nu nhỡn theo hng ụng- Tõy thỡ cỏc dóy khuụn viờn cỏchh u nhau
bi nhng con ng ln ch dc theo hng Nam-Bc, rng t 3-5m.
Cỏc khuụn viờn k nhau theo th t t Bc xung Nam.
Li vo ca cỏc khuụn viờn thng m v hng Tõy Nam. Mi khuụn
viờn ch cú mt cng chớnh. Do vy m cỏc khuụn viờn khỏc dóy mun qua
li vi nhau phi thong qua nhng hm nh. qua li c tin li hn,
ngi ta mp mt li nh sau khuụn viờn bng cỏch tr mt l vwaf ngi
chui lt gi l kilon ( l chú chui). Khụng bao gi lm thnh mt li i ng
hong.
Cng ngừ thng lm tht vo trong khuụn viờn, rng chng 1-1,8m, tht
vo cng khong 1,2-2m.
2. NH CA
Nh ca ngi Chm l mt qun th nh trong mt khuụn viờn (bõy gi
do vic quy hach phõn lụ t theo kiu nh liờn k hp nờn vic phỏt trin
nh theo qun th trong mt khuụn viờn dn khụng cũn na). Mi quan h
ca cỏc nh trong qun th ny ó th hin quỏ trỡnh tan v ca hỡnh thỏi gia
ỡnh ln mu h tr thnh cỏc gia ỡnh nh.
A. Nh ngi Chm Ninh Thun- Bình Thun.
Trong mỗi khuôn viên thờng có từ năm đến tám nóc nhà.
Những nhà này có vị trí xác định và chức năng riêng nên
có tên gọi khác nhau:
- Thang yơ: nhà tục
- Thang kăn : nhà ngang

- Thang hlam: nhà lẫm
- Thang king: nhà bếp
- Thang tong: nhà sàn
- Thang pathungsai: nhà giã gạo
- Thang ráp: nhà rạp
- Tmuyău: nhà song
Ngoài những tên gọi trên, còn có mtj số nhà tên khác:
- Thang yơ: Thang munai ( nhà nữ)
- Thang king: thang anu ( nhà con).
Không phảI khuôn viên nào cũng có đủ các nhà nói trên


Tuỳ theo chủ nhà giàu hay nghèo, nhiều hay ít ngời mà cất
các nhà khác nhau. Trớc kia trong khuôn viên ít nhất cũng
phảI có một nhà bếp hoặc một nhà tục. Gần đây, nhà tục
bị loại dần, có pley chỉ còn lại vài nhà. Khi bớc vào khuôn
viên, phảI qua một cáI sân mới đến các nhà chính. Trớc hết
là thang yơ.
Nếu ta lấy thang yơ làm điểm xuất phát và đi một vòng
ngợc chiều kim đồng hồ thì sẽ thấy thang kăn nằm chắn
ngang truớc mặt thang yơ. Kế đến là thang hlam nằm cách
hàng rào về phía Bắc khuôn viên khoảng vài mét. Tiếp
theo thang hlam là thang king nằm về phía Tây đối diện
với thang kăn. Phía Nam thang king là thang tong. ở góc
khuôn viên phía Tây Nam là thang pathungsai. Sát hàng rào
phía Nam gần cổng thang ráp dùng để khung cửi hoặc lam
nơI nghỉ mát. Bỏ một phần đất, vòng lên phía tay phảI là
thang muyău nằm kề với thang yơ. Các nhà trên đều quay
mặt nhìn vào sân ở giữa.
Phía sau thang yơ, sát vách nhà là nơI để công cụ. Cạnh

hàng rào ngời ta chất những đống củi. ĐI lên phía Bắc ở
góc khuôn viên là cây điệp. Đằng sau là thang lăm là
chuồng gà. Phía Bắc thang king là lu uống nớc. Cổng ngõ
mở hớng Tây- Nam, cổng phụ ở phía Đông.
Các dạng nhà ở
Chức năng của các nhà trong khuôn viên.
- Thang yơ ( nhà tục): là nhà cổ truyền của ngòi Chăm.
Cới xin, ma chay, cúng ,bái.. đều diễn ra ở đây.
- Thang kăn (nhà ngang): nơI ở của cha mẹ và những cô
con gáI cha lập gia đình rieng.
- Thang muyău( nhà song): nơI ở của ngời con gáI lớn khi
em gáI lấy chồng.
- Thamng king (mhà bếp): bếp nấu nớng bị chiếm làm
nhà ở, bếp rời ra ngoài.
- Thang hlam (nhà lẫm): nhà của các vị chức sắc (tôn
giáo và chính quyền trong pley) để tiếp khách quý.
- Thang tong( nhà sàn): nhà chứa ngũ cốc
- Thang ráp ( nhà rạp): nhà phụ để tổ chức các đám lễ,
ngoài ra còn để làm nhà bếp, làm nơI để khung cửi,
làm nhà để nghỉ m,át hoặc làm nhà để xe bò.


- Kâcng asít ( nhà lễ nhỏ): dùng trong các đám múa nhỏ
(rica asist), đám cới ( đam pakhăn), đám ma ( đam
pathi).
- Kâcng pronng (nhà lễ lớn): dunngf trong cácđám lễ lớn
( rica prong), đám hoả táđam chuh).

Nh ca ngi Chm, huyn Ninh







B khung nh ca ngi Chm Bỡnh Thun khỏ n gin. Vỡ ct c
bn l vỡ ba ct (kốo c liờn kt vi ct hoc khụng cú vỡ kốo thỡ
dựng tng thay th kốo). Nu l vỡ nm ct thỡ cú thờm x ngang u
gỏc lờn cõy ũn tay cỏi ni hai u ct con. T cỏc kiu vỡ ny dn
xut hin cõy kốo v tr thnh vỡ kốo.
Mt trc nh quay v hng Nam hoc hng Tõy. Gian gi l trung
tõm (ngi Chm gi l sang-y), phớa phi l phũng ng ca b m,
bờn trỏi l kho, sau l phũng ng ca con cỏi. Mt trc cú mt hiờn
gia nh.
Nh bp c xõy dng riờng bit vi nh chớnh v phớa Tõy nh
chớnh, trong nh bp cú khu bp, khu cha nc ung v kho cht t
(ci, than, v.v.).


B. Nhà người Chăm ở Ch©u Đốc
Đồng bào Chăm ở Ch©u Đốc chủ yếu là làm nương rẫy và đånh cá. Mỗi
làng chỉ cã khoảng 50-60 nãc nhà. Nhà thường kh«ng cao, cột ch«n, từ mặt
đất đến mặt sàn khoảng 1,5m. Nhà thường lớn hơn ở Ninh Thuận, phần
nhiếu là nhà năm gian hai ch¸i. Đố bằng v¸n, d¸t sàn bằng tre. Đầu hồi khắc
cảnh trăng sao

.
Một ngôi nhà của người Chăm tại Châu Đốc
• Nhà người Chăm ở Châu Đốc: khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc
không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình

thước thợ. Chuồng trâu bò và lợn được làm xa nhà ở.
Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng
sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang.


Cng ng ngi chm Chõu c khỏ ụng ,cú tt c 7 lng Chm Chõu
c l Koh Taboong, Mat Chruk, Koh Kaboak, Plõy Kờnh, Plao Ba, Koh
Kaghia, Sabõu, tng ng vi cỏc a danh ting Vit l Chõu Giang, a
Phc, Chõu Phong, Lama, Vnh Tng, Bỳn Ln, Bỳn Bỡnh Thiờn, ng
Cụ K. Hin nay, cú khong 13.700 ngi Chm Islam ti õy vi khong
2.100 h dõn.Ngụn ng h s dng l ting Chm cỏch tõn, cú nh hng ớt
nhiu vi ting Khmer v ting Mó Lai. Bờn cnh ú h cng cú tp tc n
bc. Nhng trc khi n phi ra tay v ch s dng ba ngún gia v ngún
cỏi ca bn tay phi a cm vo ming.
C. Nh ngi Chm An Giang
Nh ngi Chm min Nam li rt khỏc.
Nh ngi Chm An Giang: cỏch t chc mt bng sinh hot cũn phng
pht cỏi hỡnh s ca nh sang y Bỡnh Thun.
Nh ngi Chm An Giang khác vi nh ngi Chm
Ninh Thun. Đó là kiến trúc nhà sàn làm bằng các loại gỗ tốt
mua từ Campuchia nh: Lim, ccẵme, giáng hơng,dầu Gỗ
này đợc khai thác từ các dãy núi phía Tây- Nam Campuchia
đợc đóng bè chuyển theo sông Mê kông.
Nhà sàn của ngời Chăm An Giang khá cao, sàn cách mặt
đất khoảng 3m để đề phòng mùa nớc ngập dâng cao. Trớc
đây phần lớn là nhà cột chôn, nay nhiều nhà đã kê cột trên
đá tảng hay trụ bê tông.
Mái lợp bằng lá dừa hoặc ngói. Tờng vách phổ biến là ván
xẻ, có nhà cũng che bằng lá dừa.



Vì kèo thờng năm cột, cột cái ở chính giữa đầu chống
vào cái nóc. Có nhà bỏ cột giữa thay bằng một trụ ngắn
đứng trên lng quá giang.
Về cách tổ chức trên mặt bằng sinh hoạt: Nhà cửa của
ngời Chăm ở An Giang phổ biến là một tổ hợp: Nhà chính
(nhà trên) và nhà phụ ( nhà bếp) đều là nhà sàn.
- Nhà bếp: thờng nhỏ hơn nhà chính và đợc làm song
song với nhà chính hoặc chếch về phía sau một chút. Nhà
bếp có cầu thang riêng để nữ qua lại không phải qua nhà
trên.
- Nhà chính: Từ cầu thang chính qua hàng hiên ( hoặc
sàn lộ thiên) bớc vào cửa chính là phòng khách và còn là nơi
nghỉ của đàn ông. Phòng khách chiếm 1/3 gian nhà. Khách
ngồi ngay trên sàn hoặc trên chiếu trải gần cửa ra vào. ở
gian này có một chỗ ở góc trong đợc lát bằng phên tha dùng
làm nơi rửa thi hài ngời chết ( theo phong tục tang lễ ngời
Hồi giáo). Phòng khách đợc ngăn với phần nhà trong bằng
vách ván và luôn che rèm. Khi có khách, phụ nữ ở trong nhà
chỉ dừng lại ssau vách ngăn này không đợc ra ngoài. Khách
cũng không đợc qua cửa để vào bên trong.
Phần nhà trong có chỗ dành cho vợ chồng chủ nhà, con
gài và nơi tiếp khách nữ. Các khung dệt cũng đợc đặt ở
đây.
Trong nhà, nếu tổ chức lễ cới cho con gái thì đợc dành
một phòng riêng để làm phòng cới, phòng này đợc trang
hoàng rất lộng lẫy.


Về mùa khô, gầm sàn thoáng mát nên các cô gái mang

khung cửi xuống đây và tụ tập bạn bè cùng làm việc.

D.Nh ngi Chm Hroi
Nhà ngời Chăm Hroi là nhà sàn khá giống nhà ngời Ba Na
cùng địa phơng. Bộ khung nhà dựa trên cơ sở các vì cột.
Có hai kiểu vì cột tuy vẫn những cấu kiện đó nhng cách
sắp xếp chúng có khác nhau ở nơi đầu cột.
- Kiểu vì cột thứ nhất: cây đòn tay cái đặt trên đầu
cột nhng dới cây quá giang. Cây kèo gác trên cây đòn
tay cái.
- Kiểu vì cột thứ hai: quá giang đặt trên đầu cột, đòn
tay cái gác trên quá giang còn kèo vẫn gác lên đòn tay
cái.
Vì ở đầu các nóc dốc còn nhô lên hai đoạn nẹp mái tạo
thành hình chữ V gọi là chơke (sừng) giống nh kiểu khau
cút đơn giản nhất của ngời Thái Đen. Sàn nhà thờng chỉ
cách mặt đất chừng 1m nên thang lên nhà cũng chỉ có hai,
ba bậc là đủ. Vách đan bằng lồ ô hay bằng những phên
tranh thng thẳng đứng song song với cột nhà. Nhiều nhà
còn cơi thêm chái ở một đầu hồi. Cửa ra vào mở ở đầu hồi.
Trớc cửa nhà sàn hoặc không. Bếp đặt trong nhà, khung
bếp cao hơn mặt sàn nhà một chút. Cối giã gạo, nớc sinh
hoạt, chỗ ngủ, đồ đạc.. đều ở trong nhà. Trong nhà còn
thêm một số dàn treo để cất ngô, đỗ giống, thuốc lá và


nh÷ng gi¸ b¸m vµo v¸ch. C¸ch bè trÝ trªn mÆt b»ng sinh
ho¹t.

Nhà sàn của người Chăm H'Roi


Mặt trước ngôi nhà chính trong khối nhà ở và
sinh hoạt của một gia đình người Chăm - Phục
dựng tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)


nhà người Chăm


3. TRANG PHỤC
Có những nhóm địa phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó
lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
Trang phục nam

Nhóm nhạc công người Chăm với trang phục nam truyền thống
Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là
loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng hoặc bạc), ở hai đầu
khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tôn
giáo), hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai
mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt
lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần soọc, ngoài quấn váy xếp.
Trang phục nữ
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên
mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại
khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có
loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm


Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai
ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua vai chéo

xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của
các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp
(khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng
buộc về màu sắc.

Phụ nữ Chăm ở Châu Đốc dệt vải theo phương pháp truyền thống
Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, phụ nữ mặc quần bên trong áo dài. Nhóm
Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy.
Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt
cườm.
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ
phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo
(khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp
(hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo
dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở
nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.


Trang phục nam của dân tộc Chăm vùng Thuận Hải, đàn ông lớn tuổi
thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa
văn ở các mép và hai đầu khăn cũng như các tua vải. Khăn đội theo lối chữ
nhân, hai đầu thả ra hai mang tai. Nhóm Chăm Hroi đội khăn trắng quấn
gọn trên đầu. Nam mặc áo cánh xẻ ngực màu sáng hoặc tối. Đó là loại áo cổ
tròn cài cúc. Có người mặc áo ngắn, xẻ ngực, cộc tay. Các đường viền ở cổ
sườn, hai thân trước và gấu được trang trí và đính các miếng kim loại hình
tròn, có nhóm mặc lễ phục là loại áo dài xẻ nách trắng hoặc đỏ. Trang phục
cổ truyền là chiếc váy và quần.
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên
mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại

khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng,
có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm
Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai
ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23m vắt qua vai chéo
xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng
của các mô tip trong bố cục của dải băng. Nhóm Khánh Hòa và một số nơi,
chị em mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có
miếng đáp sau váy. Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng
và các chuỗi hạt cườm. Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo
Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm
trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và
nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm
trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất
là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và
phong cách thẩm mỹ riêng.Ngày nay, cộng đồng Chăm lớn nhất thế giới là


vào khoảng giữa nửa triệu đến một triệu tại Campuchia, sau đó là cộng

đồng tại Việt Nam với gần 80.000 người.

A. TRANG PHỤC NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN, BÌNH THẬN.
Y PHỤC NỮ
Ở Ninh Thuận, Bình Thuận có hai nhóm Chăm, đó là Chăm Bàlamôn
giáo và Bàni Hồi giáo theo đó cách ăn mặc cũng có phân biệt. Phụ nữ
Chăm Bàlamôn mặc váy gấu phủ ngang bắp chân, áo dài bít tà, đầu chit
khăn siêu màu vàng, đỏ hay xanh, còn phụ nữ Chăm Bà ni thì mặc váy dài
chấm gót, áo dài bít tà, đội khăn djăm màu trắng có thêu hoa.
Váy (khăn) của phụ nữ Chăm may từ loại vải họ tự dệt, thường ngày
mặc váy đen hay sẫm. Trên thân váy tuyền một màu gọi là băn, còn loại vải

có cải hoa gọi là băn koh, loại có pha them những sợi kim tuyến long lánh
gọi là băn talay mưh. Ngay nay, phụ nữ Chăm mặc cả hai loại váy, váy
mảnh, là tấm vải lớn, hai mép thân vải không khâu lại, khi mặc quấn quanh
thân eo giống như các loại váy của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên. Loại váy
khâu lại hình ống, khi mặc, phần cạp váy được xếp nếp ở phía hông.


Chiếc áo cổ truyền của phụ nữ Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận là áo dài
bít tà với nhiều màu sắc khác nhau, như xanh, chàm lục, màu hồng. Áo may
theo kiểu chui đầu, không xẻ ngực. Áo ghép lại từ 4 mảnh vải, hai mảnh
thân trước nối ra thân sau, đường chỉ chắp vải chạy dọc trước ngực và lưng
áo, hai mảnh nhỏ hơn ghép hai bên sườn hông áo.
Có nhiều loại áo dài tuỳ theo môi tường sử dụng hay theo lứa tuổi. Áo
mặc trong sinh hoạt hang ngày giản dị, gọi là ao koh, áo mặc trong ngày lễ
hội đẹp và sang trọng hơn, gọi là ao sâưn, áo dài của bà bong gọi là ao
chăm. Cách may cắt áo dài cũng có đôi chút khác biệt.
Loại áo được lớp trẻ ưa thích là áo tăh, gấu chỉ chấm quá gối một chút,
cổ hơi rộng hình tròn hay quả tim hợp với đeo các đồ trang sức, tay áo may
hẹp, bó sát vào cánh tay. Loại áo ao doa bong, may dài hơn, gấu gần chấm
gót, được người Chăm Bàni ưa mặc. Loại áo nay may ôm sát lấy thân, hai
bên hông có đường mở ở eo, đính bằng hang cúc bấm, làm nổi rõ đường nét
cơ thể theo bước đi uyển chuyển.
Mặc trong áo dài còn có áo lót, gọi là ao klăm, giống như yếm của người
Kinh, gồm mảnh vải nhỏ che ngực, có dải vải nhỏ buộc qua vai và lưng.
Ngày nay, các cô gái Chăm ưa mặc váy dài với áo sơ mi, vừa gọn vừa đẹp,
tôn thêm dáng thon thả của cơ thể, màu sắc và chất liệu vải mặc cũng đa
dạng hơn.
Khi ở trong nhà, nhất là ra ngoài đường phụ nữ Chăm thường đội khăn.
Đó là loại khăn dài, từ 1,5-1,8m, trang trí hoa văn và tua chỉ màu. Khăn đội
bằng cách quấn từ phía su ra trước trán rồi trùm qua đỉnh đầu, hai mối khăn

bỏ chấm vai phía sau lưng. Vào những dịp hội hè, thiếu nữ Chăm đội khăn
với nhiều hình thức và màu sắc khác nhau. Họ có cách đội khăn “kép”,
trước khi đội khăn năh thành chop, sau mới phủ khăn siêu haun lên phía
trên. Với loại khăn này, phụ nữ đội lễ trên đầu đi cúng thần linh ở đền tháp,
Tay buông vẫn khong sợ bị đổ.


TRANG PHỤC ĐÀN ÔNG
Cách đây chưa lâu, người đàn ông Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận
thường mặc bộ y phục cổ truyền với xà rông và áo ngắn. Xà rông là một
mảnh vải rộng chừng trên dưới 1m, mặc kiểu quấn quanh từ eo lưng chở
xuống. Khi quấn, gấp hai mép váy quanh người phía hông bên phải, sau đó
dùng thắt lưng dệt bằng chỉ màu gọi là talay kanh đai giữ chặt xà rông cho
khỏi tụt, hai đầu thắt lưng thả mối xuồng phía dưới. Người ta ưa mặc những
xà rông may bằng vải kẻ ô vuông to, màu đậm hay vải kể sọc.
Áo của đàn ông có hai loại chính là ao kalay và ao tăh. Ao kalay là loại
áo ngắn, gấu phủ tới mông, áo xẻ ngực, cổ tròn, xẻ tà hai bên hông. Ao tăh
là loại áo dài, gấu phủ tới gần mắt cá chân, may kiểu khoét cổ, mặc chui
đầu, hai bên nách áo xẻ đoạn từ sừon trở xuống tới gấu.
Kiểu mặc xà rông với các loại áo cổ truyền kể trên chỉ còn thấy ở lớp
người già hay khi cúng lễ hội hè.Bình thường thanh niên ít mặc kiểu này,
họ mặc quần âu và sơ mi giống như thanh niên Kinh.
Ở vùng này còn có nhóm Chăm Bàni theo Hồi giáo. Các thầy Char khi
tiếp khách hay hành lễ thường phải mặc áo Pô Char hay còn gọi là ao plưt.
Đó là loại áo dài, may thụng, không xẻ tà, may theo kiểu chắp 4 mảnh vải
lại với nhau. Lưng và ngực áo đều thêu đường nét hoa văn hình vòm mái,
khiến người ta lien tưởng tơi kiểu vòm mái của nhà thờ Đạo Hồi.
Khăn là bộ phận trang phục mà người Chăm ưa sử dụng. Bình thường,
đàn ông Chăm đội loại khăn hkuh lưh, màu trắng, không có hoa văn hay tua
trang trí. Các chức sắc trong tôn giáo khi ra đường hay khi hành lễ đều đội

khăn màu trắng dài từ 1,2-1,5 m, có đường viền hoa văn và tua chỉ màu ở
hai đầu khăn, gọi là khăn khlăng.
CÁC BỘ PHẬN KHÁC CỦA TRANG PHỤC
Cũng như nhiều dân tộc khác, người nông dân Chăm ít sử dụng dầy dép,
mà khi ở nhà cũng như lúc đi làm đều đi chân đất. Nay đã dung tương đối
phổ biến các loại giầy dép sản phẩm của công nghiệp. Theo hồi ức của các
cụ già, xưa kia người Chăm cũng tự chế và dung các loại guốc dép của
mình. Đó là loại guốc gỗ, quai bằng da trâu, khi đi núi, người ta chế ra loại
dép bằng da trâu, quai vải, gần giống như quai dép Thai Lan sau này.
Trang trí hoa văn trên váy và áo là nét nổi bật của y phục Chăm. Vào
những dịp hội hè, cả nam và nữ đèu làm đẹp thêm bộ y phục của mình
bằng những chiếc thắt lưng nhiều màu sắc. Người ta còn thắt hai thắt lưng
một lúc, kết hợp với dải vải màu quàng qua vai. Trên ngón tay của người


Chăm thường đeo nhẫn làm bằng kim loại, có ghép mặt đá đen, vùa là vật
trang sức, vừa là dấu hiệu khi gặp nhau nhận ra người đồng tộc
B. TRANG PHỤC CỦA NGƯỜI CHĂM NAM BỘ.
NỮ PHỤC
Hình ảnh thường xuyên bắt gặp những bộ nữ phục Chăm Hồi giáo là
chiếc váy lụa dệt nhiều hoa văn trên thân, áo cánh ngắn bỏ ngoài váy, đầu
choàng tấm khăn pum mỏng màu trắng, thêu những hoa văn hay đường chỉ
kim tuyến lóng lánh. Phụ nữ Chăm không theo tục che mặt khi ra đường
như phụ nữ theo đạo Hồi ở nhiều nước, nhưng họ luôn luôn choàng tấm
khăn khi ra đường, thành một tập quán biểu thị tư cách đúng đắn của phụ
nữ. Trong các nhà thờ Hồi giáo, theo quy định phụ nữ không được đặt chân
vào trong, phụ nữ phải mặc chiếc áo mặc thua may kiểu chui đầu, vải màu
trắng, phủ kín toàn thân, chỉ để chùa phần khuôn mặt người cầu nguyện mà
thôi.
Váy là bộ phận y phục độc đáo của phụ nử Chăm theo đạo Hồi. Phần lớn

chị em mặc váy lụa, gấu váy trang trí bằng vải hoa ăn papu với đường nét
sống động, với màu săc tươi tắn.Thông thưòng, máy lụa màu tím đỏ làm
màu nền,trên đó trang trí hoa văn dệt bằng những sợi tơ màu xanh, vàng,
trắng ngà, tạo nên một hợp màu hài hoà, vùa trang nhã vùa lộng lẫy, tôn
them vẻ duyên dáng, thanh lịch của thiếu nữ Chăm. Tuỳ theo chất liệu vải,
cách thức trang trí và môi trường sử dụng, người ta phân biệt ba loại váy:
Khăn káh là váy lụa nguyên màu trắng ngà hay nhuộm sẫm hoặc đen,
dành cho phụ nữ đã lớn tuổi.
Khăn kếh là váy sang trọng dệt bằng chỉ kim tuyến, chỉ dát bạc óng ánh,
ảnh hưởng kiểu váy của phụ nữ Hồi giáo ở Malaysia.
Khăn pa thuôn là loại váy lụa tơ tằm, giữ lại nhiều nét của chiếc váy cổ
truyền, được những người giàu có ưa mặc, đặc biệt là các cô dâu trong ngày
cưới, các cô gai mặc trong các dịp hội hè.
Nếu trên những tấm váy của phụ nữ Chăm miền trung ta còn tìm thấy các
mô tip các hoa văn khá “ cổ sơ “ hình rồng, hình chim thần Garuda, chân
chó, hình thoi…, thì hoa văn trên váy Chăm Nam Bộ phần nhiều là các dải
hoa văn hình học, dây leo, hoa, lá, hoa văn hình tháp… các hoa văn trên
được bố trí thành từng băng, dải xen kẽ nhau, mà những cụ già người Chăm
vẫn còn nhớ được lần lượt tên gọi từng dải hoa văn trang trí trên thân váy.
Từ trên xuống là dải hoa văn có tên là guốc, tiếp đến là dải hoa văn kỷ hà
gọi là jo-o, gần gấu váy là dải hoa văn lớn gọi chung là papu, kết hợp hình
kỷ hà với những quả trám lớn, hình chop tam giác… giữa các dải hoa văn là
những đường chạy song song, phân ranh giới giữa các dải và các lớp.


×